Hồng Vân
Trước khi đi vào đề tài này, Hồng Vân xin được cảm ơn các độc giả đã có những ý kiến đóng góp chân thành cho bài viết trước đây. Thực tế, Người cõi âm là chúng sinh thuộc cõi nào đang là đề tài tranh luận không phải chỉ ở giới cư sĩ mà ngay giới tu sĩ xuất gia cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Hầu hết những nhận định về vấn đề này đều dựa trên các Kinh Luận Phật học chứ chưa phải qua sư chứng đắc của các bậc thiền sư nên rất khó cho việc xác định chính xác về thế giới Người cõi âm.
Để chứng minh giải thích những vấn đề nêu trên tôi xin dựa chủ yếu vào các Kinh, Luận : Kinh Trung ấm, Luận Vãng sinh (Tử thư Tây tạng )…
Tôi chọn Luận vãng sinh (Bardo Thodol) vì nếu dựa theo vào cuốn Tử thư này phân tích chúng ta sẽ có một cơ sở rất khoa học, rất logic và hết sức thuyết phục giải thích được các hiện tượng người cõi âm đang tiếp xúc với các nhà ngoại cảm.
Thêm nữa, Luận vãng sinh từ lâu đã được coi là báu vật bí truyền do Tổ sư Liên Hoa Sinh – Người được cho là sự tái thế của Phật Thích Ca Mầu Ni để lại và được đại đức Siddha Karma-Lingpa tìm thấy trong núi Gampo-Darr .
Dù không phải từ kim khẩu của Phật nhưng nó vẫn được coi là nằm trong tam tạng Kinh điển của Phật giáo.
Hiện nay, nó đang được phổ biến vì các Lạt ma sợ vào thời kỳ mạt pháp cuốn Tử thư này sẽ bị thất truyền. Thật sự được tiếp cận với nó, hiểu được hết ý nghĩa của cuốn Luận Vãng sinh phải tạo nhiều thiện nghiệp, nhiều công đức trong quá khứ cho nên Luận văn này còn gọi là Pháp môn “Lắng nghe và giải thoát”.
Qua Luận Vãng sinh, chúng ta thấy có rất nhiều chi tiết phù hợp với Kinh Trung ấm. Kinh được cho là do Phật Thích Ca rời khỏi thân xá lợi vào thế giới trung âm hoá độ chúng sinh thân trung ấm.
Thân trung ấm tồn tại trong bao lâu?
Theo Luận Tỳ Bà Sa – Luận sư Thế Hữu cho rằng, tuổi thọ của thân trung ấm tối đa là bảy ngày, sau một tuần thất nếu không tìm được chỗ đầu thai thì chết và tuỳ theo nghiệp thọ thân trung ấm kế tiếp nhưng trong vòng bốn mươi chín ngày (bảy thất) thì thân trung ấm phải tìm được chỗ thọ sinh.
Theo luận sư Pháp Cứu thì thân trung ấm tồn tại không hạn chế thời gian nếu nhân duyên chưa đủ để đầu thai.
Vấn đề thân trung ấm, hiện tồn tại nhiều quan điểm khác nhau trong các bộ phái Phật giáo. Phật giáoNamtruyền ngày nay không chấp nhận có thân trung ấm, người chết xong thì tái sinh ngay như ngọn đèn khác thì cháy ngay (Thanh tịnh đạo luận).
Phật giáo Bắc tông, hầu hết các tông phải chủ trương có thân trung ấm. Riêng phật giáo Tây Tạng nghiên cứu rất chi tiết về thân trung ấm và những phương thức để khai thị, chuyển hoá thần thức (Tử thư Tây Tạng).
Tổ Liên Hoa Sinh là vị thầy đầu tiên giảng dậy giáo lý về thân trung ấm. Đối với những nghiệp cực ác hay cực thiện thì lập tức đoạ địa ngục hoặc sinh thiên, không có thân trung ấm. Còn đối với các loại nghiệp khác thì có thân trung ấm.
Như vậy, ngoại trừ những người tạo nghiệp cực thiện hoặc cực ác, còn lại hầu hết chúng ta sau khi chết đều thọ thân trung ấm trước khi tái sinh.
Việc cho rằng thân trung ấm chỉ tồn tại trong 49 ngày là tái sinh qua kiếp sống mới đang là quan điểm chính thống cho nhiều các lễ nghi Phật giáo hiện nay.
Cũng vì đó mà các tăng sĩ xuất gia cho rằng, sau 49 ngày không tái sinh được thì thân trung âm không còn được gọi là thân trung ấm nữa mà là các oan hồn hay ma quỷ không siêu thoát được.
Trong Kinh Trung ấm – Quyển thượng ( thuộc tạng kinh) từ thân khẩu của Phật Thích Ca thuyết, có đoạn “Chúng sinh Trung ấm nương làn gió để ăn uống . Thọ mạng của chúng sinh ở cõi Diêm Phù Đề là một trăm tuổi. Cõi Đông Phất Vu Đãi là năm trăm tuổi. Cõi Tây Câu Da Ni hai trăm năm mươi tuổi cõi Uất Đan Viết là một nghìn tuổi. Thọ mạng của thân Trung Ấm chỉ có bảy ngày.”
Điều đó có nghĩa là thân trung âm chỉ tồn tại có bẩy ngày là chết nhưng cũng không có nghĩa là sau bẩy ngày chúng sinh mang thân trung ấm sẽ tái sinh vào kiếp sống mới. Bài Kệ của Đức Thế Tôn nói rằng:
Hàng chúng sinh ba phẩm
Trung Ấm khi thọ hình
Đổi thay không lường nổi
Có thể hiểu là sau khi hình thành, thân trung ấm liên tục thay đổi theo thời gian, mất đi lại hình thành, rồi lại mất đi lại hình thành…. Cứ như thế cho đến khi tái sinh qua kiếp sống mới.
Xem toàn bộ cuốn kinh này tôi không thấy đoạn kinh nào nói là sau 49 ngày thân trung ấm sẽ thọ thai. Vì sao thân trung ấm có sự thay đổi như vậy tôi sẽ nói rõ ở phần sau.
Trong Luận Vãng sinh nói về thời gian tồn tại của thân trung ấm như sau: “Đối với người cõi trung ấm lúc nào cũng mờ mờ với ánh sáng xám nhạt như một ngày mùa thu, không phân biệt ngày và đêm. Giai đoạn mang thân trung ấm này kéo dài một, hai cho đến sáu bẩy tuần thậm chí có thể kéo dài đến 49 tuần…điều đó tuỳ thuộc nơi nghiệp lực quyết định.”
Theo một vị Lạt ma hoá thân thì “Khi xác thể và dục thể có tan rã hết (tức là bỏ hết tất cả nhũng tham luyến của kiếp sống cũ ) thì con người mới siêu thoát và có thể đầu thai vào kiếp sống mới. Dục thể là cái quyết định thời gian con người phải sống cõi âm lâu hay nhanh chóng. Những con người có tâm hồn thanh khiết dễ siêu thoát hơn người có nhiều dục vọng.”
Theo sư phụ các vong linh không siêu thoát được đều rất đau khổ, họ không ý thức rằng mình đã sang một cõi khác mà cứ bám lấy cõi trần thần trí mê mờ điên đảo.
Trong Luận vãng sinh, người ta phân con người từ khi sinh cho đến khi tái sinh trở lại kiếp sống mới gồm 6 giai đoạn về tâm thức (6 bardo), bao gồm:
- Khi mới sinh ra.
-Trong giấc mộng.
- Khi nhập định.
- Bắt đầu chết.
- Thân trung ấm.
-Trước khi tái sinh.
Nếu đối chiếu với những quan niệm về cõi giới âm hiện nay thì chúng ta sẽ thấy nó bao gồm 3 giai đoạn : Bắt đầu chết – Thân trung ấm – Trước khi tái sinh.
Thực tế, giai đoạn 4 và giai đoạn 6 không thể gọi người cõi âm được vì thần thức còn mê man bất tỉnh chưa hình thành thân (4) và thân trung ấm đã chuyền sang thân của cõi giới chuẩn bị tái sinh (6). Nếu có gọi hồn cũng không lên được.
Nếu đối chiếu vào 6 giai đoạn tâm thức trên ta thấy, thế giới của các chúng sinh mà ta gọi là các oan hồn hay ma quỷ là không có.
Thật là oan ức cho các thần thức phải mang tên gọi như vậy. Chỉ cần chúng ta bỏ đi quy ước về tuổi thọ 49 ngày của thân trung ấm thì chúng ta sẽ giúp cho bao nhiêu các hương linh, người thân, các chiến sĩ, các vị anh hùng dân tộc không còn bị gọi là các oan hồn hay là ma quỷ.
Vì vậy, tất cả các chúng sinh sau khi chết, nếu chưa bước vài giai đoạn tái sinh đều có thể gọi là thân trung ấm hay Người cõi âm (theo quan niệm dân gian) hiện nay.
Thêm nữa, nếu tuổi thọ của tất cả thân trung âm chỉ tồn tại có 49 ngày là tái sinh thì cứ đến hẹn lại lên, tất cả chúng sinh trung ấm đều đi đầu thai, chúng ta cần gì phải lập Trai đàn,chẩn tế bạt độ cầu siêu cho các vong linh được siêu thoát.
Như vậy, nếu nhìn vào các hiện tượng tiếp xúc với người cõi âm của các nhà ngoại cảm trong suốt thời gian qua chúng ta thấy, 49 ngày của thân trung ấm có thể chỉ là một biểu tượng hay một khái niệm về thời gian của cuộc sống thân trung ấm.
Nó tượng trưng cho sự thay đổi 7 giai đoạn phát triển của thân trung âm từ khi hình thành cho đến khi đầu thai tái sanh. Trong 7 giai đoạn này đối với từng chúng sinh có sự dài ngắn khác nhau phụ thuộc vào sự tham luyến cuộc sống vừa mới rời khỏi hay chấp ngã về một thân xác trong quá khứ.
Sự hình thành thân trung ấm. Vì sao thân trung ấm lại có hình dáng giống người trước khi chết, Vì sao thân trung ấm thay đổi liên tục và có thần thông.
1. Sự hình thành thân trung ấm
Thực tế khi viết đến phần này tôi rất phân vân, không hiểu những điều viết ra bạn đọc có cảm nhận được hết những điều tôi muốn nói. Vì để hiểu được một số vấn đề như: Vì sao thân trung ấm hình thành. Vì sao thân trung ấm có hình dáng giống người mới chết, vì sao thân trung ấm thay đổi không ngừng và có thần thông… thì phải có một công phu thiền định nhất định. Nếu chưa trải qua thiền thì khó có thể hiểu một cách thấu đáo, nhiều người sẽ cho là hoang đường. Tôi sẽ cố gắng diễn giải một cách đơn giản và dễ hiểu nhất.
Theo Luận vãng Sinh Tây Tạng thì sau khi chết trong thời gian từ 3 – 4 ngày, thần thức con người bình thường ở một trạng thái giống như ngủ say, không biết mình đã ra khỏi thân người.
Theo đức Lạt ma Trungpa Rinpoche thì cảm nhận trong giai đoạn đầu của thần thức sau khi chết là ánh sáng và hình ảnh, chưa thấy vật chất và sắc thể. “Người đã mê man nhiều ngày, đến lúc tỉnh dậy, tâm thức người sáng suốt và có một thân giống như thân ngày trước của người đứng dậy…Vì ngươi nhớ lại thân quá khứ nên ngươi có một thân có vẻ như bằng xương bằng thịt …Vì thân này là do tâm thức biến hiện nên thân này giống như thân người. Thân xác này của người thật ra là đã được tạo bằng tư tưởng…”
Con người sống với thân xác vài chục năm hay trăm năm sau khi chết thần thức của họ vẫn chưa quen được với cuộc sống không thân xác. Chính vì mong muốn có một thân xác nên người mới chết luôn đi tìm một thân xác mới “Dù ngươi có chui chín lần vào lại trong thân xác cũ thì nó cũng đã tan hoại đi vì thời gian hoặc đã bị người thân đem đi thiêu đốt, chôn cất…”
Như vậy, do mong muốn của tâm thức nên thần trung ấm đã được hình thành. Vì sự níu kéo của thân ngã mà hình dáng của thân trung ấm không khác gì thân xác của người trước khi chết. Trong Kinh Trung ấm Đức thế Tôn đã kệ rằng:
Trăm tám ái một niệm.
Một ức hành trung gian.
Tưởng tưởng không thể hết
Có kia mới có thân.
Không kia không ngã tưởng.
Chúng sanh nơi Trung Ấm
Như thân ta nào khác
Thân năm ấm khổ đau
Tựa bánh xe quay mãi
Theo luận Câu xá – quyển 10 thì thân trung ấm chữ Phạn có năm nghĩa : ý sinh thân, cầu sinh, ăn hương liệu, trung hữu, sinh khởi. Nghĩa đầu của nó là do ý cầu mong mới sinh thân trung ấm.
Cũng vì vậy mà theo Kinh Trung ấm thì thân trung ấm trong suốt và cực kỳ vi tế không dễ ai có thể nhìn thấy được.
Hàng chúng sinh Trung Ấm
Có khác gì đó đâu
Dâm-nộ-si vi tế
2. Vì sao thân trung ấm lại thay đổi liên tục, sáng suốt và có thần thông diệu dụng
Do vì thân trung ấm được hình thành do tư tưởng mong cầu của thần thức sinh ra nên nó luôn luôn biến đổi do tâm thức dao động biến đổi không ngừng. Cũng như tâm thức của người sống, vọng niệm liên tục khởi lên, mỗi một suy nghĩ thay đổi thì thân trung ấm lại thay đổi theo.
Cứ như vậy theo nghiệp lực, khi thần thức tháo bỏ dần những tham chấp của cuộc sống cũ thì thân trung ấm cũng bắt đầu thay đổi cho đến khi nó hoàn toàn có hình dáng giống như chúng sinh ở kiếp sống mới. Bài kệ trong quyển thượng – Kinh Trung ấm :
Mê lầm của Trung Ấm
Mù tối chẳng Tam Tôn
Chuyển thân theo năm đường
Tùy chỗ làm dẫn đến
Hoặc sa hai nẻo thiên
Hoặc vào chốn ba đường
Vì không còn bị ràng buộc bởi xác thân bằng xương thịt và trở ngại của 5 uẩn, tâm thức thân trung ấm sáng suốt gấp 9 lần thông thường nên trong giai đoạn này chỉ cần nghe là hiểu rất linh hoạt Thần thức có đủ thần thông, có thể lắng nghe hoặc nhìn thấy từ xa và có mặt tức khắc khi một ai gọi đến.
Khi mang thân trung ấm thần thức có thần thông kỳ diệu không khác gì các bậc thiền sư đắc đạo. “Loại thần thông không phải do thiền định hay do trì giới mà đạt được. Đó là loại thần thông do nghiệp lực sinh ra”.
Vì sao thân trung ấm có khả năng này? Như chúng ta đã biết khả năng của con người là vô tận. Cũng vì nương theo 6 cảnh trần mà chúng sinh mang thân người mất đi năng lực thần thông này.
Nếu chúng ta hướng vào bên trong hay thiền định đạt đến cảnh giới chân không thì năng lực thần thông sẽ xuất hiện.
Việc tu hành đạt đến những cảnh giới thiền hay đi vào Cửa không là quá trình phá sắc, thọ, tưởng, hành, thức… Qúa trình chết của con người cũng diễn ra theo tuần tự gần giống như vậy. Nghĩa là : đất hoà vào nước, nước hoà vào lửa, lửa hoà vào gió, gió hoà vào thức… khi khí bát nhã bắt đầu rời bỏ khí lực của người chết thì ánh sáng của “Pháp thân thường trụ – chân tâm” hiện ra.
Nếu thần thức không nhập vào được ánh sáng của chân tâm sẽ mang thân trung ấm tiến và về 6 nẻo luân hồi. Vì vậy mà thân trung ấm cũng có được những diệu dụng thần thông không khác gì những bậc thiền sư chứng thiền.
Thân thể quá khứ và vị lai
Trong giai đoạn tái sanh
Có đầy đủ các căn
Đi lại không ngăn ngại.
Với nghiệp lực thần thông diệu dụng.
Nhìn bằng đôi mắt của bậc thánh
Với khả năng thần thông kỳ diệu đó, thân trung ấm sẽ biết hết cuộc sống của người dương thế và có thể đến bất cứ nơi nào mà chúng sinh muốn “Hãy lắng nghe, ngươi có đầy đủ các căn, nghĩa là trong giai đoạn chuyển tiếp ngày ngươi có đầy đủ mọi giác quan. Dù lúc còn sống có bị mù hoặc điếc hay tê bại thì giờ đây mắt vẫn thấy sắc tai vẫn nghe tiếng, mọi giác quan đều hòan hảo.
Đây là dấu hiệu người chết đã và mang thân trung ấm” Không ngăn ngại, là vì giờ đây ngươi chỉ có tâm thức, đã lìa bỏ xác thân. Không còn sắc thân nên có thể đi lại khắp nơi …có khả năng nhìn rõ tất cả các chúng sanh cùng nghiệp lực như mình …
Với tâm thức này ngươi sẽ nhìn thấy nhà cửa, gia đình quyến thuộc…như cảnh trong giấc mộng . Ngươi lên tiếng hỏi nhưng không được ai trả lời Ngươi nhìn thấy người thân khóc lóc và ngươi tự hỏi Ta đã chết biết làm sao bây giờ… ”
Thông thường nghiệp lực mạnh hơn sự tham luyến và ngã chấp của thân trung ấm. Dù có cỗ gẵng bám víu đến đâu thì thân trung ấm cũng bị đẩy về các nẻo luân hồi do quy luật nhân quả chi phối “Từ bấy giờ cảm giác về thân thể của đời sống trước đang phai nhạt dần và xác thân của đời sống tiếp sau bắt đầu rõ rệt. Ngươi sẽ tự nhủ : Vì ta đau khổ, thèm khát một xác thân, nên giờ đây xác thân đang xuất hiện…
Nếu ngươi không có nghiệp lành, ngươi sẽ có cảm giác lạc vào một nơi khổ đau. Ngược lại ngươi sẽ đạt tới một cảnh giới an lành… Nếu ngươi sẽ tái sanh ở cõi trời, chính lúc này ngươi sẽ nhận được dấu hiệu của cõi trời. Nếu là các cõi khác….người sẽ thấy dấu hiệu của các cõi đó”.
Vào giai đoạn thân trung ấm chuẩn bị tái sinh, những tham luyến về cuộc sống cũ dần dần phai nhạt, hình dáng của kiếp sống mới hình thành. Đây cũng là thời kỳ mà các nhà ngoại cảm và người thân khó giao tiếp được với họ. Khi họ đã bước vào cõi giới mới có lẽ họ cũng chẳng còn nhớ gì kiếp sống cũ, theo dân gian gọi là “ăn cháo lú” trước khi tái sinh.
Kết luận
Từ những điều khai thị trong Luận vãng sinh, chúng ta đã có một minh chứng khá thuyết phục về thế giới Người cõi âm đang giao tiếp với các nhà ngoại cảm trong thời gian qua không ai khác chính là các chúng sinh mang thân Trung ấm.
Vì còn bám chấp cuộc sống cũ vào cái thân ngã mà chúng sinh thân trung ấm luôn luôn muốn được trở lại và giao tiếp với người thân của mình.
Vị Lạt ma hoá thân đã nói sự mong cầu trở lại của các thần thức sau khi đã từ bỏ cuộc sống thế gian “Cõi âm thật ra không phải là một nơi kẻ đi thì có người về thì không. Theo thần nhãn của tôi và các sách vở bí truyền thì vẫn có người về qua các hiện tượng như sự hiện hình, người chết vẫn trở về cõi trần”.
Một thân nhân đi gọi hồn người thân kể rằng, các nhà ngoại cảm đã nhìn thấy các hương linh đến chật nhà vì họ rất mong muốn được nói chuyện với người thân nơi dương thế. Cũng vì vậy hầu hết những cuộc gọi hồn của những người mới mất đều có xác suất rất cao.
Như vậy, những chúng sinh của các cõi giới khác như ngạ quỷ, Atula, trời…khó có thể hiện về trong các cuộc gọi hồn mà họ chỉ có thể nhập hồn trong các trường hợp khác.
Theo tôi, hiện tượng nhập hồn của các chúng sinh cõi giới khác thì không gọi là người cõi âm. Vấn đề này khi có nhân duyên đầy đủ tôi sẽ trình bầy cho các độc giả sau.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mầu Ni Phật! Nam mô Tổ sư Liên Hoa Sinh!
Chết, Thân trung ấm và Tái sinh
1. Chết: Qua sự huân tập và ảnh hưởng của tam độc tham, sân, si ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
Khi con người chết, nếu có những khuynh hướng như thế sẽ tiếp tục đầu thai trong vòng sanh tử luân hồi với thân và tâm được thừa hưởng từ sự tích lũy nghiệp thiện và ác ở kiếp sống vừa qua. Một số người chết vì kiệt sức hoàn toàn, một số khác chết do hao mòn phước đức, chết không đúng thời điểm hay còn gọi là bất đắc kỳ tử. Một người chết thường ở một trong ba trạng thái tâm: Thiện, Bất thiện và Vô ký.
Trong trường hợp thứ nhất, người hấp hối có thể quán tưởng về Tam Bảo hay một vị thầy đức hạnh của mình, bằng cách đó tâm của vị ấy mới phát sinh tín tâm. Hoặc người hấp hối có thể nuôi dưỡng niềm hỷ lạc vô biên để thoát khỏi sự ràng buộc của những phiền não, tham dục, luyến ái, thay vào đó bằng cách quán niệm Tánh không và Tâm từ bi. Điều này có thể tự người hấp hối làm hoặc qua sự trợ niệm của người khác. Nếu những yếu tố trên được nuôi dưỡng trong thời điểm hấp hối, một người chết với tâm thanh tịnh như thế thì việc tái sinh của họ sẽ được cải thiện. Đây là cách tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết. Mặt khác, ta nên tránh đánh thức, quấy nhiễu người đang hấp hối, điều đó chỉ khiến cho họ nổi giận thôi. Đôi khi người thân và bạn bè tập trung quanh tử sàng bày tỏ niềm tiếc thương và khóc lóc bi thảm, sẽ làm cho người hấp hối khởi tâm tham ái và quyến luyến. Nếu người chết với tâm niệm bất thiện như thế, sẽ đẩy họ đầu thai vào cõi xấu, điều này rất nguy hiểm. Trong bất cứ trường hợp nào, trạng thái tâm của người hấp hối bao giờ cũng quan trọng trước khi chết. Bởi vì ngay cả một người tu luyện tâm linh mà bị quấy rầy vào thời điểm ấy cũng làm cho phiền não phát khởi, chính trạng thái tâm này sẽ tạo ra ác nghiệp và đó là động cơ chính dẫn dắt người ấy tái sinh vào một cái bất lợi như ba đường ác: Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sanh.
Vì thế, điều tối quan trọng cho cả người hấp hối lẫn người sống là tránh tạo ra những tình huống gây bất lợi cho tâm thức của người chết. Chúng ta cần biết điếu này. Những người chết trong trạng thái tâm thiện đều có cảm giác mình từ trong bóng tối thoát ra ánh sáng, loại bỏ sự khổ đau và đạt được hạnh phúc. Có nhiều trường hợp người bịnh rất nặng, đến lúc gần chết đã nói ra những điều tốt đẹp thoải mái thay vì nói đến căn bịnh của họ. Còn đối với người bịnh tuy nhẹ nhưng nỗi sợ hãi quá lớn, giai đoạn cuối cùng này tâm họ luôn hoảng hốt, nên có cảm giác mình từ nơi ánh sáng đi vào trong bóng tối và từ nơi hạnh phúc bị rơi vào cảnh khổ đau. Một số người, thân thể ấm áp của họ đã bị suy yếu qua cơn bịnh nên họ trở nên khao khát muốn được hơi nóng, bằng cách này củng cố thêm cho khuynh hướng tái sinh của họ vào nơi như địa ngục nóng hoặc một nơi có khí hậu nóng. Những người khác thích cái mát lạnh, thích uống nước lạnh và khiến cho khuynh hướng tái sinh của họ hướng vào nơi như địa ngục hàn băng hay một nơi có khí hậu lạnh. Vì thế điều rất quan trọng là tránh khởi những niềm tham ái trong lúc chết và trực tiếp hướng tâm đến những điều thiện.
2. Thân trung ấm:
Thân trung ấm (bardo/intermediate state) được hiểu nôm na là sự sống sau khi chết trước khi thần thức người ấy đi tái sinh vào một trong sáu cõi nào đó (Trời, Người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh). Thân trung ấm là thân không có xác thịt mà chỉ lấy tư tưởng làm thân. Sau khi người ấy chết, thần thức thoát ra khỏi xác thì trụ lại ở thế giới trung gian này từ một đến bảy tuần lễ, rồi sau đó tìm kiếm một nơi thích hợp với nghiệp lực của mình mà đi tái sinh. Nếu trong thời gian này, thân trung ấm chưa tìm thấy một nơi tương ứng với mình để tái sinh thì nó lại chết đi sau mỗi bảy ngày, sau đó thần thức lại chuyển qua một thân trung ấm khác, chu kỳ sinh diệt này cứ lập lại cho đến khi thần thức đi tái sinh.
Trong thời gian ở lại với cõi trung ấm này, vào những ngày đầu, vong linh không nhận ra mình đã chết, họ quay lại gia đình để gặp những người thân nhưng không ai hay biết, họ hỏi thăm từng người nhưng không ai trả lời, họ cố gắng sinh hoạt trở lại bình thường như lúc còn sống nhưng không thể được, cho đến khi họ tự phát hiện ra họ không có bóng hình trên đất, không có ảnh trên gương, họ mới biết là mình đã chết.
Giờ đây, họ lần lượt nhớ lại những thiện và ác nghiệp mà họ đã tạo ra trong đời sống vừa qua. Tất cả những cảnh tượng hạnh phúc hay khổ đau trong suốt đời họ hiện ra trước mắt như một cuộn phim. Nếu là vong linh của người vốn từng tạo phước, tu tập tâm linh, thì luôn có những cảm giác yên bình, thanh thản và dễ dàng để tìm đường tái sinh vào cõi lành. Còn nếu những người từng tạo ra ác nghiệp, sống cuộc đời tiêu cực thì luôn đối mặt với những cảnh tượng khổ đau, kinh hoàng, sợ hãi, thất vọng và chán chường. Họ lang thang một cách tuyệt vọng trong cõi trung ấm và muốn tìm một thân xác để tái sinh tương xứng với nghiệp lực của họ. Nếu thân trung ấm có tu tập và làm chủ được thần thức của mình, thì người ấy chọn lựa cho mình một cảnh giới tốt để tái sinh, ngõ hầu tiếp tục tu luyện hoặc vì hạnh nguyện cứu độ chúng sinh. Bằng như trái lại, thì không có sự lựa chọn nào, dù muốn hay không thì thần thức của người ấy cũng buộc phải thọ sinh vào một cảnh giới nào đó khế hợp với nghiệp lực của mình.
3. Tái sinh: Nếu được tái sinh trở lại cõi người, thần thức của người ấy thấy cha mẹ tương lai của mình đang nằm với nhau. Nếu người ấy tái sinh thành người nam thì phát khởi tâm muốn chiếm hữu người mẹ mà rất ghét người cha. Nếu tái sinh trở thành người nữ thì ngược lại, thần thức người ấy khởi tâm muốn giao hợp với người kia, nhưng lúc ấy họ chỉ thấy bộ phận sinh dục của người kia (nam hay nữ) mà không thể thực hiện được, do đó họ nổi giận, chính cơn giận này đã làm chấm dứt thân trung ấm của họ và thần thức của họ được chuyển qua đời sống kế tiếp, bằng cách nhập vào bào thai của người mẹ và bắt đầu với hình dáng của một con người. Khi ấy tinh cha và huyết mẹ được kết hợp với thần thức của người ấy, họ tự nhiên và dần dần phát triển thành một con người. Như đã nói ở trên, khi gần đến ngày tái sinh, thần thức của người ấy bị lôi kéo về nơi tái sinh tương lai, thậm chí nơi ấy là địa ngục.
Ví dụ, một đồ tể nhìn thấy một con cừu, anh ta muốn đuổi bắt và giết chết nó, nhưng lập tức anh ta thấy bóng mờ xuất hiện, nên anh ta giận dữ, cơn giận đã làm kết liễu thân trung ấm và thần thức của anh ta rơi vào Địa ngục hay Súc sinh. Sự chuyển tiếp sự sống từ đời này sang đời khác là nghiệp lực. Nghiệp (karma) có một năng lực cá biệt và đóng một vai trò rất quan trọng trong việc cấu tạo tâm tánh của con người. Nghiệp được hình thành dưới sự tập hợp của tam độc tham, sân, si hay vô minh và ái dục. Chính vô minh (ignorance) và ái dục (desire) là cội rễ của mọi ác nghiệp. Do ác nghiệp này mà khiến cho con người trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi. Để thoát khỏi vòng tuần hoàn khổ đau này con người phải nỗ lực tu tập đoạn diệt cho bằng được cội rễ của vô minh. Khi vô minh bị tận diệt thì ái dục cũng bị tận diệt, ái dục diệt thì sinh, lão, bịnh, tử, sầu bi khổ ưu não cũng không còn, khi ấy con người mới thật sự thoát khỏi vòng vây của sinh tử luân hồi.
4. Cuộc hành trình đi đến kiếp sau: Thượng tọa Pende
Hawter, sáng lập Viện Dưỡng Đường Tiếp Dẫn Karuna (Từ Bi) để chăm sóc người sắp lâm chung ở thành phố Brisbane, tiểu bang Queensland, Úc Đại Lợi, đã thực hiện cuộc phỏng vấn các bậc Đại sư Tây Tạng như Dalai Lama, Dilgo Khyents Rinpoche, Kirti Tsen-shab Rinpoche, Garje Khamtul Rinpoche, và Geshe Lamrimpa, về tiến trình hấp hối, chết và tái sinh của con ngườị Cuộc phỏng vấn được thực hiện vào tháng 5 năm 1995 tại tỉnh Dharamsala, miền Bắc nước Ấn Độ.
5. Giúp đỡ cho người hấp hối
-Hỏi: Xin cho biết cách nào tốt nhất để chúng ta có thể giúp đỡ cho người đang hấp hối và người vừa qua đời?
-Đức Dalai Lama: Khi gặp người đang hấp hối tuyệt đối tránh quấy rầy họ. Đặc biệt là không làm cho họ nổi giận hoặc khóc lóc để họ sanh tâm quyến luyến. Ngược lại, phải nhắc nhở để họ hành trì, tu tập vào giờ phút cuối, ví dụ như quán tưởng hình ảnh của chư Phật. Nếu người ấy không theo một tôn giáo nào, nên giúp đỡ cho họ chết trong thanh thản và yên bình. Khi người ấy trở nên hôn mê, nếu là hành giả, thì nhắc nhở pháp môn mà họ công phu thường ngày, đặc biệt là lúc họ sắp ra đi. Kế đó tụng một số bài cầu nguyện. Nếu thân nhân muốn tốt cho người đang hấp hối thì tự tụng niệm hoặc cung thỉnh chư tăng về nhà để cầu nguyện cho họ.
Trường hợp không có chư Tăng tiếp dẫn, người thân trong gia đình có thể tụng thần chú Om mani padme hum, hoặc những thần chú khác mà họ biết, để tiếp dẫn cho người chết. Sau tang lễ, gia đình tiếp tục thọ trì, tụng niệm đến ngày thứ 49 cho hương linh dễ dàng tìm lối tái sinh vào cõi lành. Công việc mai táng thi hài còn tùy nghi theo mỗi nền văn hóa hay tập tục của người chết, điều này không mấy quan trọng, bởi vì một khi thần thức (consciousness) đã thoát thân thì xác chết ấy cũng giống như một đống đất. Tại một làng không theo Phật giáo thuộc miền Nam Ấn Độ, tập quán của họ là chôn cất thi hài rồi trồng cây lên mộ. Đây là một cách để chấm dứt việc ô nhiễm không khí (air pollution) từ hỏa táng bằng củi đuốc, một tập tục thường thấy ở Ấn Độ, điều này còn tránh đi việc hủy diệt cây rừng, một tài nguyên quý giá của quốc gia. Đây là một phương pháp tốt mặc dù nó không bằng như ở phương Tây nơi dùng điện để hỏa táng.
-Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Khi bạn chắc chắn người ấy đã chết, bạn vẫn duy trì lòng bi mẫn vô bờ của bạn và cùng với mọi người ở bên cạnh tử sàng mà tụng lớn danh hiệu chư Phật như Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà hoặc danh hiệu 35 vị Phật v.v... Nếu bạn niệm Phật với lòng bi mẫn vô biên của bạn sẽ giúp cho người lâm chung một bước đường tái sinh tốt đẹp
-Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Có hai hạng người cần xem xét ở đây. Thứ nhất là người có tín ngưỡng. Thứ hai là người không theo một tôn giáo đặc biệt nào. Nếu người hấp hối là một Phật tử thì chúng ta tụng kinh và niệm Phật tiếp dẫn siêu độ cho họ. Nếu người ấy không theo tín ngưỡng nào thì điều tốt nhất để giúp đỡ họ là khuyên họ nghĩ đến những người tốt và những điều tốt đẹp nhất trên đời.
Khi một người đang hấp hối và trong giờ phút bối rối ấy, không gì tốt hơn là đem lại cho họ cái cảm giác bình an và ấm áp của lòng người, cảm giác này rất có ích cho tâm thức của họ. Tôi sẽ giải thích chi tiết về những gì để giúp đỡ hai hạng người này. Đối với người theo đạo Phật, chúng ta có thể gợi cho họ hồi tưởng về những gì mà họ từng quy y và tu tập. Chúng ta có thể nhắc cho họ nhớ về Bồ đề tâm, tỉnh thức tâm, thanh tịnh tâm và sự tập trung thiền định... điều này rất có lợi cho một Phật tử. Đối với người không có đạo, chúng ta có thể khuyên họ suy nghĩ rằng: "Cầu mong cho mọi người được hạnh phúc, cầu mong cho mọi sinh linh được an vui, cầu nguyện cho mọi chúng sanh thoát khỏi những khổ sầu của họ". Những ý tưởng muốn sự tốt đẹp đến với người khác, rất có ích cho người hấp hối.
Đối với Phật tử lúc sắp chết, nên nhắc cho họ nhớ về công hạnh của chư Phật, nhớ về hình ảnh của một vị Phật nào đó, có thể đặt một ảnh Phật trong phòng của họ. Điều này rất có ích và là điều kiện giúp cho vong linh tái sinh vào đất tịnh. Ngay sau khi người ấy chết, điều rất quan trọng cần lưu ý là không được đụng chạm đến thi hài của họ để cho tiến trình chết không bị gián đoạn, tiến trình này chỉ chấm dứt khi thân trung ấm (Bardo/Intermediate state) hoàn toàn thoát ra khỏi thân xác. Ở Tây Tạng, người thân phải đợi 48 tiếng đồng hồ sau mới tiến hành tang lễ.
-Đại sư Geshe Lamrimpa: Nói chung, khi đã xác định người ấy sẽ chết, điều quan trọng là phải hoàn thành mọi ước nguyện của họ. Nếu họ tỏ ra luôn luôn giận dữ thì chúng ta nên làm cách nào để ngăn chặn cơn giận của họ, giữ cho họ luôn ở trạng thái thanh thản và yên bình. Nên tránh gây ồn ào và di chuyển đi lại thường xuyên bên người ấy. Nếu người hấp hối quá quyến luyến người thân, vợ (hoặc chồng), cha mẹ con cái, thì tốt nhất không cho những người thân này đến gần tử sàng. Hãy cố gắng làm điều này để chấm dứt lòng luyến ái của người hấp hối. Nếu xác định chắc chắn rằng họ sẽ chết, thì chúng ta nên cho họ những đồ ăn thức uống và các thứ mà họ đòi hỏi để họ vui lòng và thỏa mãn, ngay cả thức ăn kiêng cữ trong thời gian điều trị. Tuy nhiên, không được cung cấp độc dược và thức ăn có thể đe dọa đến mạng sống.
Nếu chúng ta cố gắng nói Pháp cho người hấp hối nhưng họ không thích nghe, thì tốt nhất là đừng nói, vì điều này tạo cho họ có ác cảm đối với Chánh pháp. Với ý nghĩ như vậy thì đời sau họ sẽ không thích gần gũi với Phật pháp. Tương tự, nếu họ thích ăn uống mà mình không làm thỏa mãn ước muốn của họ, sẽ làm họ giận dữ và là nguyên nhân khiến họ đọa vào loài ngạ quỷ (hungry ghost).
Nếu một người tin tưởng vào sự giúp đỡ của người khác và cũng là người từng giúp đỡ kẻ khác trong đời này, chúng ta nên nhắc cho họ nhớ về công hạnh tốt của họ và khen tụng về việc tốt mà họ đã làm. Việc này làm tâm họ vui và họ sẽ tái sinh ở một nơi đầy hạnh phúc. Nếu chúng ta giúp cho ước nguyện của người hấp hối hoàn thành, thì họ sẽ rất mãn nguyện. Điều này ngăn ngừa sự trỗi dậy lòng tham ái, giận dữ, quyến luyến và những tâm tà kiến khác của người hấp hối, nhờ đó giúp họ tái sinh vào cõi lành mà không đọa vào cõi xấu. Đối với Phật tử và người từng thọ trì một pháp môn nào đó thì thật là thuận lợi nếu họ được chúng ta nhắc lại mười điều Phật dạy trước khi chết như sau:
5.1. Không nên khởi niệm tham đắm chấp thủ mọi dục vọng ở đời này. Nên cố gắng và tránh hướng tâm ái luyến đến người thân của mình, vì dẫu đời sau có gặp lại thì cũng phải chia lìa. Trong thời điểm hấp hối, ta phải bỏ tất cả mọi thứ lại phía sau. Ta cũng không nên chấp đắm tấm thân của mình, vì lúc chết ta phải rời bỏ nó. Ta không luyến tiếc các thứ như thức ăn, áo quần, nhà cửa, vì những thứ ấy cuối cùng cũng từ bỏ ta
5.2. Ta nên phát khởi lòng bi mẫn và thương yêu đối với mọi chúng sanh.
5.3. Ta nên đoạn tận mọi phẫn uất và thù hằn, nếu không thì nó sẽ làm hại ta trong kiếp sau.
5.4. Tất cả các giới pháp mà mình thọ trì nếu đã vi phạm thì phải cố gắng sám hối cho thanh tịnh trước khi chết.
5.5. Ta phải phát tâm dũng mãnh trong đời vị lai sẽ thọ trì và giữ giới pháp thanh tịnh.
5.6. Ta phải cảm thấy đau xót về những ác nghiệp mà mình đã gây tạo cho người khác trong đời này và phải sám hối để dễ dàng tái sanh.
5.7. Ta phải nhớ đến những công đức mà mình đã làm trong đời này, những công đức của người khác đã làm và phát tâm sẽ tiếp tục làm trong vị lai.
5.8. Ta nên nghĩ đã đến lúc mình phải ra đi để đến đời sau không có gì sợ hãi cả, vì đó là quy luật tự nhiên có sinh ắt có tử.
5.9. Phải quán thấy mọi sự vật hiện tượng đều do nhân duyên sinh và cũng do nhân duyên mà hoại diệt.
5.10. Ta phải quán thấy rằng mọi sự vật hiện tượng đều vô ngã để ta vượt thoát khỏi sầu và đạt được sự an lạc.
-Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Cách tốt nhất để giúp cho người hấp hối là lời nói và hành động của mình phải được thúc đẩy bởi lòng từ bi. Nếu có thể thì cung thỉnh các bậc thầy đức hạnh đến để làm pháp chuyển di tâm thức (transference of consciousness) cho người hấp hối. Pháp này Tạng ngữ gọi là Phowa, được xem là một pháp tu đặc biệt có giá trị và hiệu quả nhất để giúp cho người hấp hối. Bạn quán tưởng hình ảnh đức Phật ở trên đầu người hấp hối. Quán tưởng những tia sáng chiếu rọi vào người sắp lâm chung làm sạch bản thể của họ, và quán thấy họ tan thành ánh sáng, hòa nhập vào ánh sáng của chư Phật. Việc chuyển di tâm thức có thành công hay không là còn tùy thuộc vào sức thiền định của người đang thực hiện pháp tu này. Pháp tu đặc biệt này không những dành cho người sắp chết mà còn có thể giúp tịnh hóa và chữa lành bịnh cho người còn sống. Các vị Lạt ma vẫn thường dùng pháp này để cầu an thọ mạng cho người già yếu. Một số vị thầy cho rằng nên thực hiện pháp chuyển di tâm thức vào khoảng ngừng lại giữa hơi thở vào và hơi thở ra. Nhiều người khác thì nói rằng nên thọ trì pháp này càng nhiều càng tốt sau khi người đó chết để hộ trì cho thân trung ấm của họ dễ dàng tái sinh. Theo giáo nghĩa của Luật Tông thì nên hỏa táng thi thể càng sớm càng tốt sau khi chết. Nhưng theo Mật Tông thì tốt nhất là đừng di dời thân thể sau khi chết trong vòng ba ngày.
Hỏi: Người sắp lâm chung rất đau đớn về thể xác và hãi hùng với nỗi sợ chết. Phương pháp nào tốt nhất để giúp họ vượt qua nỗi sợ hãi đó?
-Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: ở phương Tây người ta thường dùng thuốc phiện hoặc thuốc an thần để giảm cơn đau thể xác của người hấp hối và giúp cho họ chết trong bình an. Tuy nhiên theo Phật giáo thì con người cần phải chết một cách đầy đủ ý thức, có sự tự chủ và tỉnh táo càng nhiều càng tốt. Vì thế cần phải kiểm soát sự đau đớn để nó không thể che mờ ý thức của người sắp lâm chung, đó là điều kiện cốt yếu của việc làm giảm sự đau đớn về thể xác.
Thứ hai, làm gì để giúp người sắp chết vượt qua nỗi sợ chết?? Trước hết, bạn phải thật bình tĩnh vì chính bạn cũng phải vượt qua nỗi sợ hãi ấy. Khi giúp đỡ người hấp hối, bạn cần phải lưu ý từng phản ứng của chính bạn, vì phản ứng của bạn sẽ phản chiếu trên phản ứng của người sắp chết và nó sẽ góp phần rất lớn vào sự an ủi của họ hay tàn phá họ.
Khi niệm Phật tiếp dẫn, bạn cần chú ý trấn an người hấp hối rằng trong giờ phút cuối cùng này họ sẽ đối mặt với vô số những cảnh tượng hãi hùng khác nhau mà lâu nay họ chưa từng biết, và điều đó khiến cho họ vô cùng sợ hãi. Tuy nhiên, bạn phải trấn an họ rằng đó chỉ là ảo ảnh hoàn toàn không có thật mà chỉ là sản phẩm từ ảo giác của người hấp hối. Nếu có thể hãy trao cho họ chuỗi ngọc Mani, hoặc một xâu chuỗi hạt của các thầy đức hạnh sẽ giúp đỡ cho họ vượt qua nỗi sợ hãi. (Chuỗi hạt ở đây là biểu tượng năng lực của bậc đạo sư).
Hỏi: Đối với người không phải là Phật tử, họ không theo một tín ngưỡng nào, thì làm gì để giúp họ?
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Đối với một người không tin hoặc không biết gì về đạo Phật, chỉ cho họ viên ngọc Mani cũng như an ủi và giải thích cho họ biết những cảnh tượng rùng rợn mà họ sắp thấy trong chốc lát chỉ là những ảo ảnh trong giấc mộng chứ không có thật. Nhờ sự dặn dò trước này, họ sẽ vượt qua nỗi sợ hãi khi hấp hối.
6. Khi nào thần thức của người mới ra khỏi thể xác?
Hỏi: Ở Phương Tây, dấu hiệu thông thường của cái chết là chấm dứt hơi thở và tim ngừng đập. Còn theo Phật giáo thì phải mất bao lâu sau khi việc này xảy đến thần thức mới thoát ra khỏi thể xác?
Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Có lẽ có hai hạng người cần xem xét ở đây. Thứ nhất, những người trẻ tuổi hoặc những người đã nằm chờ chết trong một thời gian dài. Hạng người này tâm thức rất tinh tế và thần thức của họ sẽ không lưu lại trong thể xác lâu, có thể chỉ một ngày thôi. Thứ hai là những người mạnh khỏe và cái chết đến nhanh, thần thức của họ lưu lại trong thể xác đến ba ngày. Những cái chết khác như bất đắc kỳ tử (chưa đến thời điểm chết mà phải chết), chết vì tai nạn hay vì bạo lực. Chẳng hạn hai người đánh chém nhau, một người trong số đó chết đột ngột, thì thần thức của họ không lưu lại trong thể xác lâu. Nói chung, thời gian bao lâu tùy thuộc vào tâm thức nặng hay nhẹ của mình mà thoát ra khỏi thân xác sau khi chết.
Đại sư Geshe Lamrimpa: Khi hơi thở dứt và tim ngừng đập, nó chỉ ra rằng phần thô của thần thức đã tan mất. Tuy nhiên có nhiều trường hợp, phần tinh tế của tâm thức còn lưu lại trong xác thân người ấy hàng tuần lễ, thậm chí có lúc cả tháng. Nhưng hầu hết là phần tinh tế của tâm thức rời khỏi thể xác trong ba hoặc bốn ngày, trong thời gian này thi hài không bốc mùi hoặc thối rữa.
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Chưa thể khẳng định rằng một người bình thường, sau khi chết thần thức của họ rời khỏi xác trong ba ngày sau đó. Nhiều người lưu lại lâu hơn, nhưng một số người khác thì trụ lại thời gian ngắn hơn. Có nhiều ví dụ điển hình trong số các vị Lama Tây Tạng. Như đức Lama Ling Rinpoche, thầy dạy học của đức Dalai Lama, thần thức của ngài đã trụ lại trong xác thân cả tuần lễ sau khi viên tịch. Ở trong cộng đồng người Tây Tạng, những trường hợp tương tự vẫn thường xảy ra. Tóm lại, việc hỏa táng hoặc tiến hành tang lễ hay di chuyển thể xác tốt nhất phải đợi ba ngày sau. Tuy nhiên, ngày nay điều này khó thực hiện vì người ta sợ ô nhiễm, do vậy, nên làm pháp chuyển di tâm thức trước khi động đến thể xác của người quá cố.
Hỏi: Trường hợp của những người chết vì bịnh quá nặng như ung thư và Aids (Sida) thì thần thức của họ có thoát xác nhanh hơn không?
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Điều này không chắc chắn lắm. Việc thoát xác sớm hay muộn không thực sự tùy thuộc vào người chết bị tai nạn hay bị bịnh nặng, mà tôi nghĩ rằng việc ấy có liên hệ mật thiết đến thiện và ác nghiệp của người mất.
Ví dụ, đối với một người tu tập theo pháp Dzogchen hay một pháp nào khác thì sau khi chết họ tiếp tục quán tưởng Tánh không và thần thức của họ duy trì lại trong thể xác rất lâu, cho dù họ không hề luyến ái tấm thân ngũ uẩn này.
Hỏi: Các ngài có thể cho biết khi nào thì thần thức rời khỏi thể xác? Những dấu hiệu nào cho chúng ta biết ra điều này?
Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Một lần nữa chúng ta lại thảo luận về hai hạng người thoát xác sau khi chết. Bây giờ tôi sẽ không đề cập đến hạng người có thần thức lập tức thoát xác sau khi chết mà chỉ nói đến hạng người có phần tinh tế thần thức lưu lại trong thi thể nhiều ngày. Người ta nói rằng trước khi thần thức người ấy thoát ra khỏi xác thì trên thi thể họ sẽ có một điểm nóng được tụ lại duy nhất có màu đỏ hoặc màu trắng, điểm nóng tụ lại ở đâu thì thần thức sẽ thoát ra ở chỗ đó. Ví dụ, nếu điểm nóng hội tụ ở đỉnh đầu thì chúng ta tin rằng người ấy sẽ tái sinh vào cõi lành, điểm nóng tụ lại ở bàn chân thì chắc chắn người ấy sẽ đọa vào hạ giới. Dấu hiệu cho biết khi thần thức thoát xác sẽ có một ít máu chảy ra ở lỗ mũi hoặc tinh dịch thoát ra từ bộ phận sinh dục. Tuy nhiên, có một số người không thấy dấu hiệu này, đó là những người chết đột ngột vì tai nạn hay bị bịnh tim. Dấu hiệu này chỉ tìm thấy ở những người có tiến trình chết chậm và lâu.
Đại sư Geshe Lamrimpa: Hầu hết người nào bị chết vì bịnh nặng thì khi thần thức rời khỏi thể xác đều có dấu hiệu máu hoặc chất nước vàng chảy ra từ lỗ mũi hoặc bộ phận sinh dục. Khi thần thức thoát ra thì thể xác mới có mùi hôi.
Đức Dalai Lama thứ 14 từng nói chuyện với các bác sĩ nổi tiếng ở phương Tây về vấn đề thần thức rời khỏi thể xác khi bịnh nhân tắt thở. Các bác sĩ đã trắc nghiệm và nói rằng họ đã thấy một làn khói trắng nhỏ thoát ra từ một điểm nào đó trên thân của người chết. Kết quả này được kiểm tra bằng máy móc và phân tích thể xác một cách cẩn thận. Những dấu hiệu như giọt máu hoặc nước vàng đều xảy ra đối với những người chết vì bịnh nặng. Tuy nhiên, thi thể người ấy thường được di chuyển quá nhiều trước khi thấy những dấu hiệu này, vì vậy những trường hợp như thế tuyệt đối không bao giờ xảy ra ở Tây Tạng, theo tập quán truyền thống phải giữ thi thể trong ba, bốn hoặc bảy ngày ngõ hầu giúp cho thần thức có đủ thời gian để thoát xác. Trong thời gian chờ đợi này, các lễ cầu siêu cho người quá cố được tiến hành một cách nghiêm mật.
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Bạn có thể biết khi thần thức thoát xác dựa vào sự biến đổi của thi thể. Khi thần thức còn lưu lại trong thể xác thì bạn cảm thấy người ấy chưa chết thật sự, nước da của họ còn tươi và sáng lạ thường, giống như họ đang nằm ngủ. Nhưng một khi thần thức đã thoát xác thì lập tức ta thấy thi thể thay đổi khác liền, nước da khô, tái xanh đi và bắt đầu có mùi hôi. Lúc ấy, bạn mới có cảm giác đó là một xác chết chứ không phải là một người nữa.
Những kinh nghiệm về làn khói hoặc giọt máu xuất ra khi thần thức thoát xác không phải lúc nào cũng nhìn thấy được, chúng ta chỉ gặp ở một số ít người. Trong số những người này, khi thần thức thoát xác, chất nước vàng chảy ra từ lỗ mũi và ở hạ bộ. Có một vị cao tăng Tây Tạng viên tịch, khi thần thức thoát xác, lỗ mũi của ngài liền chảy ra hai dòng chất dịch lỏng, một bên thì màu đỏ còn bên kia màu trắng
- Ngón chân cái (1 bên: a tỳ); (cả 2 bên: Bồ tát dùng bi nguyện vào cõi đó để độ chúng sanh).
- Đầu gối (một bên: Địa ngục) Như vậy từ đầu gối xuống ngón chân cái là Địa Ngục.
- Ngay mép đùi: (một bên: Rồng): cả hai bên: Bồ Tát dùng bi nguyện vào đó để độ sanh). Như vậy, từ xương đùi trở lên vùng bẹn là súc sanh.
- Ngay bờ xương mu: (ngay giữa: yêu tinh, loại quỷ dùng tinh khí của Con Người làm thức ăn); (hai bên: Bồ tát dùng bi nguyện vào cõi đó để độ chúng sanh)
- Ngay vùng rún: (ngay giữa: A Tu La); (hai bên: Bồ Tát dùng bi nguyện vào đó để độ sanh).
- Trên vùng rún cho tới giao điểm của xương sườn: Ngay giữa: các loại Thần (thần cây, thần đá, thổ thần, thần sông, thần hồ, thần núi, thần biển, chơn bà la môn…); nếu là hai bên: Bồ tát phát bi nguyện vào đó để độ sanh).
- Từ giao điểm của xương sườn lên đến vùng giữa ngực: Ngay giữa (Con Người ít phước báu đến Con Người trung bình). Hai bên (Bồ Tát phát bi nguyện vào đó để độ sanh).
- Từ giữa ngực đến yết hầu: Ngay giữa (Con Người trung bình đến Con Người nhiều phước báu); hai bên (Bồ Tát phát bi nguyện vào đó để độ sanh).
- Từ miệng đến mi tâm: Ngay giữa (Dục giới tiên); hai bên (Bồ Tát phát bi nguyện vào đó để độ sanh)
- Vùng trán: ngay giữa (Chư Thiên Sắc Giới); hai bên (Bồ Tát phát bi nguyện vào đó để độ sanh)
- Vùng thóp: ngay giữa (Các cõi Tịnh Độ
Hỏi: Có đúng là cho đến khi thần thức thoát xác, thi thể mới bắt đầu có mùi hôi và có dấu hiệu thối rữa?
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Sự thật đúng như thế.
Hỏi: Khi một người chết nhưng thần thức vẫn còn lưu lại trong thể xác. Vậy người ấy có cảm giác gì không nếu bị người khác đụng chạm đến?
Đại sư Geshe Lamrimpa: Họ sẽ không có cảm giác gì cả? Khi phần khí của thần thức tan mất thì người ấy không còn cảm giác nữa. Đối với các vị Tăng chứng đắc và người Phật tử có tu tập, khi chết, phần tinh tế của thần thức còn lưu lại trong thể xác, thì họ có thể chết ở trong tư thế ngồi thiền, đến khi thần thức thoát xác, thi thể của vị ấy mới ngã xuống.
Mấy mươi năm trước, khi những người Tây Tạng đầu tiên đến tị nạn tại tỉnh Buxa của Ấn Độ, một Phật học viện của Phật giáo Tây Tạng nọ, có hai vị tăng đánh nhau và một người chết. Sau đó, vì vụ này mà chính quyền Ấn và người dân địa phương chỉ trích rất gắt gao đối với người dân Tây Tạng, họ nói rằng các tu sĩ Tây Tạng chỉ biết chém giết nhau mà thôi. Về sau có một Lama đức hạnh tên là Gyari Rinpoche, đến từ tu viện Gender ở Tây Tạng, vị này đã viên tịch tại Ấn với tư thế ngồi kiết già trong bảy ngày; Người Ấn được mời đến chứng kiến cái chết lạ thường của vị Lama này và họ cố gắng giật mạnh khăn trải giường để làm cho thi thể của ngài ngã xuống, nhưng ngài vẫn ngồi thẳng như pho tượng, dù trải qua bảy ngày nhưng thể xác của ngài vẫn không có mùi hôi. Sau sự kiện này, quan điểm của họ về các Tăng sĩ Tây Tạng đã thay đổi hẳn họ không còn phê bình, chê bai nữa.
Hỏi: Nếu đụng chạm và di chuyển thi thể trước khi thần thức thoát xác có ảnh hưởng gì đến tâm thức của người chết không? Vì ở trong bệnh viện, sau khi người hấp hối ngừng thở và tim hết đập, còn nhiều thủ tục khác chi phối đến tử thi. Sự can thiệp này có hại cho thần thức người chết không?
Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Trước hết, nếu đó là một người tinh thông, có năng lực thiền định, họ cố gắng luyện tập thiền định sau khi trút hơi thở, nếu ta lắc mạnh thi thể của họ vào lúc họ ở trong trạng thái thiền định thì sẽ khuấy rối tiến trình tập trung thần thức của họ. Do đó, tốt nhất là không đụng chạm đến thể xác họ trong thời điểm ấy. Ngay cả một người thường (người không có tu tập) cũng không nên đụng đến thi thể của họ cho đến ba ngày sau. Nếu một người đang ngủ say, nhưng ta lay mạnh thì họ sẽ thức giấc ngay, người chết ở đây cũng vậy, khi chạm đến họ, không có tác hại gì cho thể xác, nhưng có hại rất lớn đến thần thức của họ. Thêm vào đó, nếu chúng ta buộc phải thay tấm khăn trải giường và nệm từ giường của người vừa chết cho sạch sẽ thì cũng nên thao tác nhẹ nhàng. Tương tự, nếu người chết còn mở mắt và hả miệng, nên yêu cầu một người thân trong gia đình đến trước tử thi bày tỏ lòng kính trọng cuối cùng rồi giúp họ khép mắt và miệng lại để trông dễ nhìn hơn. Đối với những người bị dị tật, tay chân cong quẹo, lúc tẩm liệm phải kéo thẳng ra để dễ dàng đưa vào quan tài. Nhưng mọi cử chỉ đối với người chết đều phải nhẹ nhàng và thực hiện ba ngày sau khi người ấy trút hơi thở cuối cùng.
Hỏi: Có lợi ích gì khi chúng ta chạm hoặc kích thích trên đỉnh đầu của người hấp hối và người chết, đặc biệt là người vừa chết?
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Khi một người vừa chết, chúng ta có thể sờ chạm vào đỉnh đầu của họ, đó là vùng huyệt đạo tốt nhất để thần thức thoát ra mà ngài Lama Je Tsong Khapa gọi là "chiếc cổng vàng". Do đó, bạn nên kích thích vào vùng đỉnh đầu, nếu thần thức của người chết thoát ra ngoài bằng đường này thì chắc chắn họ sẽ thác sinh vào cảnh giới an lành. Nhưng nếu thần thức thoát ra bằng các đường ở hạ bộ, từ lỗ rốn trở xuống, người ấy sẽ thác sinh vào ác đạo, như cõi ngạ quỷ hay loài cầm thú. Vì thế, người Tây Tạng không bao giờ tiếp xúc phần hạ bộ của thi thể người chết, nếu ta chạm vào chỗ nào của họ thì thần thức sẽ tụ lại chỗ ấy mà thoát ra ngoài.
Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Tiếp xúc vào đỉnh đầu của người hấp hối được xem như là đang làm phép "chuyển di tâm thức" cho họ. Thực hiện pháp này không phải là một vấn đề đơn giản, phải làm cẩn thận để giúp cho thần thức của người hấp hối tập trung ở đỉnh đầu, chỗ mái tóc giáp nhau, gọi là cửa Brahama. Nếu đầu của người ấy không bị sói thì chúng ta phải nhổ năm ba sợi tóc bên trên cửa ấy và dùng ngón tay trỏ cạo nhiều lần vào chỗ ấy, việc làm này nhằm giúp cho thần thức của người chết biết chỗ mà thoát ra ngoài. Kỹ thuật này cũng thường giúp cho chất nước vàng chảy ra từ cửa ấy, dấu hiệu đó chứng minh cho pháp chuyển di tâm thức đã thành công.
7. Thần thức phải ở trong trạng thái trung ấm bao lâu.
Hỏi: Sau khi thần thức rời khỏi thể xác và bước vào giai đoạn thân trung ấm giữa đời này và cuộc sống kế tiếp, phải mất bao lâu trước khi thần thức này gá vào một bào thai mới?
Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Thời gian kéo dài trung bình để một người đi tái sinh vào một cơ thể mới là bảy tuần lễ. Cứ sau bảy ngày thì thân trung ấm chết đi và rồi tái sinh lại trong một thân trung ấm khác cho đến khi nó bắt được liên lạc với cha mẹ tương lai mới đi tái sinh. Tuy nhiên có nhiều người sau khi chết chỉ mất hai giây họ đã đi tái sinh vào cảnh giới khác. Lý do tại sao thần thức phải chịu đựng trong tiến trình trung gian sinh và tử giống như ma quỷ này. Vì do nghiệp thiện và ác của người ấy gây tạo đời trước sẽ quyết định dẫn dắt họ đến nơi thích hợp, do đó phải cần có thời gian nhất định để tìm kiếm cho một đời sống tương lai.
Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Bốn mươi chín ngày là thời gian dành chung cho tất cả mọi người, nhưng có một số người khác cứ vất vưởng trong thế giới trung ấm này một thời gian rất lâu, có lúc đến bảy năm mới đi tái sinh. Nếu trường hợp họ bị kẹt lại trong thế giới trung gian này, họ sẽ trở thành ma quỷ. Thông thường khi một người đang hấp hối, chúng ta đọc kinh cầu nguyện hoặc nhắc nhở, họ đều nghe thấy, thậm chí người bất tỉnh cũng thế. Đối với vong linh trong cõi trung ấm cũng có khả năng nghe, cảm nhận và hiểu được khi chúng ta đọc sách "Tử thư Tây Tạng" (Tibetan Book of the Death) để cảnh tỉnh họ. Vì thế, trong bảy tuần lễ đầu sau khi chết là thời gian rất quan trọng để cho người sống làm mọi việc có thể giúp sức tái sinh cho người chết. Còn thần thức của những người bị chết trước khi sinh (bị sẩy thai), trong lúc sinh hoặc tuổi còn nhỏ, sẽ đi qua các trạng thái trung ấm một lần nữa và nhận thấy một hiện hữu khác. Cha mẹ của họ cũng có thể tạo phước (meri-forious acts) để hồi hướng công đức cho vong linh hoặc thực hiện các pháp dành cho người chết như thọ trì thần chú Kim cương Tát đoả một trăm âm
(Hundred - syllable mantra of Vajrasattva), đủ tác số 100 biến, cúng dường đèn, bố thí, phóng sinh các loài vật... để giúp cho thần thức của hài nhi đó được nhẹ nhàng và dễ dàng tìm lối tái sinh.
Đại sư Geshe Lamrimpa: Không thể xác định thời gian chính xác là bao lâu. Nếu một người không phải tái sinh vào cõi người thì họ liền thác sinh đến cõi khác chứ không qua giai đoạn thân trung ấm. Nhưng nói chung một người có thể ở trong cõi trung ấm trung bình là 49 ngày, có người ở một ngày, bốn ngày và có khi bảy ngày. Trong thời gian trụ lại trong trung ấm thân, vong linh tìm kiếm một đời sống tương lai khế hợp với nghiệp của mình để tái sinh.
Đại sư Gerje Khamtul Rinpoche: Đối với một số người thời gian dài nhất là bảy tuần lễ, nhưng có một số khác chỉ ở trong thân trung ấm ba ngày. Phần lớn mọi người đều phải đầu thai sau hai mươi mốt ngày. Không phải ai chết cũng qua giai đoạn thân trung ấm. Có một số người tu tập chứng ngộ, có một đời sống phạm hạnh và lợi lạc, khi chết họ trực tiếp tái sinh vào cảnh giới tốt lành chứ không qua giai đoạn trung gian này. Một người phạm tội ngũ nghịch (giết cha mẹ, phá hoại chánh pháp...), hoặc có một đời sống tiêu cực, ác độc... thì sẽ đọ liền vào địa ngục, hoặc một cái xấu nào đó chứ không qua giai đoạn thân trung ấm
Hỏi: Xin cho biết quan điểm của Phật giáo như thế nào về vấn đề tự sát?
Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Đối với người Phật tử, tự giết mình là một tội rất lớn. Vì sao? Bởi vì có được thân người là một trong những điều khó và làm bị thương hoặc hủy diệt thân ấy là một điều sai lầm rất lớn. Tự tử thường bắt nguồn từ kết quả của những cơn nóng giận. Chỉ có giận dữ người khác mà không làm gì được nên trở lại giết chết mình. Đối với một người không theo đạo Phật cũng thế, tự tử là một hành vi đáng trách và tội lỗi. Sau khi chết, thần thức của họ không có một nơi nào khác là phải lao theo nghiệp ác của mình. Vì thế chúng ta phải nghĩ cách làm thế nào để giúp họ vượt qua những cơn khủng hoảng tinh thần và nỗi khổ đau của họ. Ở trong tình trạng rối loạn, bế tắc và tuyệt vọng, cơn khủng hoảng trầm trọng này có thể đẩy con người đến chỗ tự sát.
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Nhà Phật cho rằng tự tử là một điều tồi tệ nhất mà con người có thể làm. Đây là một hành động tiêu cực khiến cho thần thức của kẻ ấy gặp khó khăn trong việc tái sinh. Theo truyền thống của Phật giáo Tây Tạng thì có hàng trăm vị nam và nữ thần ở trong thân của chúng ta, nếu phạm vào tội tự sát, đồng thời ta cũng giết cả họ. Còn theo Phật giáo Đại Thừa thì dưới chân của mỗi sợi tóc thì có hàng ngàn tế bào sống khác..., khi ta giết ta thì đồng thời ta cũng hủy diệt chúng.
Đại sư Geshe Lamrimpa: Theo Phật giáo thì tự tử là một hành vi tiêu cực và là nguyên nhân khiến cho thần thức của người ấy rơi rớt vào cái xấu.
Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Khi một người tự tử, thần thức của họ thường phải đi theo nghiệp xấu của mình, rất có thể họ sẽ bị một ác ma bắt lấy và chiếm đoạt sinh lực. Để giúp cho những người này, các vị thầy có năng lực phải làm nhiều lễ cầu siêu đặc biệt như năm cuộc lễ và những nghi thức khác để siêu độ thần thức cho người chết.
Hỏi: Trong thời gian chiến tranh tại Việt Nam, có nhiều Tăng sĩ đã tự thiêu, với động cơ là làm cho thế giới chú ý đến nỗi khổ đau chiến tranh ở VN. Việc tự thiêu của họ phải chăng là hành vi tiêu cực?
Đại sư Geshe Lamrimpa: Các vị Bồ Tát được phép thực thi một số hành vi mà người thường cho đó là tiêu cực. Tuy nhiên, Phật giáo Nguyên thủy phản đối hành động này, vì thế tự tử luôn được xem là hành vi tiêu cực trong truyền thống này. Nếu bạn phân tích kỹ hơn, xem động cơ khiến các vị Tăng này tự thiêu là gì thì chúng ta mới phán xét là tiêu cực hay tích cực. Trong một bộ kinh của Phật giáo có ghi lại câu chuyện về một vị Tỳ kheo trẻ bị một phụ nữ ép buộc phải lấy bà ta. Vị này biết rõ rằng nếu mình chịu lấy thì sẽ phá bỏ giới luật; mặt khác, nếu không chịu lấy, bà ta sẽ vu khống rằng mình đã có những hành vi tồi bại. Vì thế, để giải quyết tình cảnh bế tắc này mà không phạm giới, vị ấy quyết định tự kết liễu đời mình. Suy nghĩ như thế rồi, vị ấy giả vờ đồng ý và nói với bà ấy đợi một chút. Vị ấy vào phòng trong, đóng cửa và tự đâm vào cổ họng mà chết. Trước khi tắt thở, vị ấy kính lễ mười phương Tam Bảo và nói rằng: "Vì tin kính Tam Bảo và gìn giữ giới hạnh mà con quyết định từ bỏ thân này". Trong Kinh nói đây là hành vi tích cực và có công đức. Nếu trường hợp các Tăng sĩ Việt Nam và động cơ muốn cứu vãn Chánh pháp của đất nước họ không lún sâu vào chiến tranh, và một động cơ cao cả như thế thì hành vi tự thiêu của họ không thể cho là tiêu cực mà phải được xem là hành vi của các vị Bồ Tát.
Hỏi: Quan điểm của Phật giáo như thế nào về việc chấm dứt mạng sống trước khi người ấy chết? Bệnh nhân yêu cầu để cho họ chết tự nhiên bằng cách không dùng thuốc hay những phương pháp y học nào đó vì họ quá đau đớn về thể xác và tinh thần trong khi việc điều trị không mang lại kết quả.
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Trong trường hợp này rõ ràng bạn muốn đem lại lợi ích cho người khác, chấm dứt sự đau đớn của họ. Tuy nhiên, cần phải xem xét cẩn thận chứ đừng nên hành động thiếu suy nghĩ, bởi vì giết một mạng người là một tội ác, vì vậy, dù đau đớn dữ dội, thay vì để cho họ chết thì cố gắng dùng hết khả năng để điều trị cho họ, có thể cho họ uống thuốc giảm đau hoặc thuốc an thần chẳng hạn. Mặt khác, nên nhớ rằng thân người rất khó khăn mới có được. Do vậy, các nhà điều trị phải suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định việc này.
Đại sư Geshe Lamrimpa: Người ta nên tiếp tục chữa trị để giữ mạng sống cho họ. Nếu người ấy chết với trạng thái tâm giận dữ, bất an, tiêu cực hay hôn mê thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc đầu thai và sẽ gặp bất lợi cho đời sống tương lai của họ. Tuy nhiên, nếu cho họ uống thuốc để rút ngắn mạng sống thì cũng không thích hợp.
Hỏi: Đôi khi họ muốn được chết thì sao?
Đại sư Geshe Lamrimpa: Họ muốn chết trước thời trước hạn, bởi vì họ không chịu đựng nổi sự đau đớn ngay trong đời này. Nhưng họ đâu biết rằng nỗi khổ đau ấy họ vẫn phải đối mặt trong đời sau, vì thế, tốt hơn hết nên giúp họ điều trị.
Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Sử dụng máy móc để kéo dài mạng sống của một người không còn cơ may lành bệnh là điều vô lý và hãi hùng. Tốt hơn cứ để cho chết một cách tự nhiên trong bầu không khí yên bình. Khi sử dụng máy móc mà không có hy vọng hồi phục cho người bệnh thì việc chấm dứt điều trị bằng máy không phải là tội ác. Rõ ràng không cần thiết để kéo dài sự sống nhân tạo cho họ. Theo cách nhìn của nhà Phật, thì chúng ta nên làm bất cứ điều gì có thể để trợ giúp cho người ấy đối phó với sự xuống tinh thần trong giờ phút đau đớn và sợ hãi, đem lại cho họ niềm bình an vào phút cuối của cuộc đời.
9. Hiến tặng thể xác có tốt không?
Hỏi: Ở phương Tây, hiến tặng những bộ phận trong cơ thể người vừa chết là việc bình thường, như hiến tặng cặp mắt, quả thận để cho người khác, việc làm này có ảnh hưởng hay làm trở ngại gì cho thần thức của người chết không?
Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Việc hiến tặng thi thể là một điều tốt, bởi vì nó phát khởi từ động cơ làm lợi lạc cho người khác với lòng bi mẫn chân thật. Và một khi nó là ước nguyện cuối cùng của người chết thì tuyệt nhiên không có ảnh hưởng hoặc có hại gì cho thần thức của họ khi họ rời bỏ thể xác. Trái lại, việc làm tích cực này sẽ góp phần tạo thiện nghiệp cho người ấy trong đời sống vị lai.
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Nếu một người muốn hiến tặng thi thể của họ thì nên lấy những bộ phận cần thiết ấy sau khi người đó chết. Điều này không có gì ảnh hưởng đến tiến trình thần thức thoát xác và tái sinh của họ.
Hỏi: có nhiều trường hợp nếu các bộ phận của thi thể được lấy đi mà thần thức của họ chưa rời khỏi thể xác thì sao?
Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Điều này tùy thuộc vào lòng bi mẫn và ước nguyện của người chết. Nếu người ấy đã từng bày tỏ nguyện vọng bố thí lớn lao đó một cách chân thành, thì có thể lấy đi những bộ phận cần thiết ngay cả trước khi tim ngừng đập, cũng không có hại gì cho thần thức.
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Như tôi đã nói trên, thần thức sẽ rời khỏi thể xác khi ta đụng chạm đến thi hài của họ, chẳng hạn như ta kích thích vào vùng đỉnh đầu để chỉ dẫn cho thần thức thoát ra. Một khi thần thức đã ra rồi thì bạn có thể lấy đi những thân phần cần thiết. Do đó, nên lưu ý giúp người chết làm pháp chuyển di thần thức trước khi lấy những thân phần của họ.
Hỏi: Còn phương pháp đông lạnh (Cryonics) thi hài sau khi chết thì sao?
Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: việc ấy hoàn toàn vô nghĩa, không đem lại một lợi ích nào. Thần thức người ấy không thể quay lại thi thể một khi người ấy đã chết thật sự.
10. Làm gì để chuẩn bị cho cái chết?
Hỏi: Có phương pháp nào tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết của mình không?
Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Phương pháp tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết của mọi người là nên tu tập tâm linh trong suốt cuộc đời mình.
Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Một lần nữa tôi phải đề cập đến hai hạng người, thứ nhất là tín đồ theo đạo Phật, thứ hai là những người không có đạo. Đối với hạng người thứ nhất đã từng quy và tu học theo chánh pháp, khi họ biết rằng cái chết đang đến với họ thì đó là thời gian giúp họ tinh tấn hơn trong việc tu tập của mình. Đối với hạng người thứ hai, chưa hề nghĩ gì về con đường đạo trong cuộc đời họ, nên khuyên họ cố gắng phát khởi tâm đạo, tâm đạo ở đây nghĩa là suy nghĩ về điều tốt, nghĩ và cầu mong điều tốt đến với người khác. Đây là cách tốt nhất dành cho những người không có đạo chuẩn bị cái chết.
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Giống như ta đi đến một nha sĩ, đó là điều không ai tránh khỏi, việc cuối cùng cũng phải xảy ra, chết cũng thế, vì vậy có gì tốt đẹp bằng nếu ta bắt đầu suy nghĩ về nó ngay bây giờ. Để biết rõ về cái chết ta nên hỏi các bậc thầy của mình, những người có kiến thức về cái chết, các ngài sẽ cho chúng ta biết con người sẽ chết như thế nào. Nếu ta có những hiểu biết như thế, ta thật sự không sợ chết và nó sẽ giúp đỡ ta rất nhiều.
Đại sư Geshe Lamrimpa: Nếu một người đang chuẩn bị một nơi tái sinh hạnh phúc thì sẽ loại bỏ tham sân si và tịnh hóa mười ác nghiệp nếu đã phạm phải trong quá khứ, bày tỏ sự hối tiếc và lập nguyện không vi phạm giới pháp trong tương lai.
Đây là lời dạy chung cho tất cả mọi chúng sinh. Đối với một người đã thọ giới để tu hay một hành giả Mật giáo, họ phải sám hối và tịnh hóa tất cả giới luật và lời phát nguyện mà họ đã phế bỏ. Mặt khác, nếu muốn đời sau giàu sang thì phải thực hành pháp bố thí, muốn được hạnh phúc thì phải giữ giới hạnh, muốn được trường thọ nên tránh sát sinh, muốn được ngưỡng mộ và tôn kính phải tu pháp nhẫn nhục. Muốn giải thoát thì tu tập sáu hạnh của Bồ Tát, v.v... Nói chung, nếu chúng ta loại bỏ hết ác nghiệp, tịnh hóa hết tất cả nghiệp chướng và hướng đến hành vi công đức, tạo cho ta có một sức mạnh hỷ lạc về nội tâm. Khi cái chết đến với ta, chính năng lực công đức và giới hạnh ấy sẽ tiếp sức cho ta đi tới một đời sống khác an toàn và hạnh phúc. Đó là cách tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết của mọi người.
Hỏi: Ở trong Phật giáo có một vài phương pháp thiền quán niệm về cái chết và kể lại tiến trình chết. Loại thiền này có ích lợi gì không?
Theo triết học của Phật giáo, phương pháp thiền quán tưởng về cái chết là nhắm vào mục đích để ta ý thức được cuộc đời là vô thường và ta sẽ trở nên quen thuộc với những diễn biến khác nhau về cái chết mà con người sẽ phải đi qua. Điều đó rất có ích. Trong pháp tu này, hành giả biết rõ những dấu hiệu xảy ra trong tiến trình đưa đến cái chết như sự suy yếu của sáu giác quan, và sự tan rã dần của thân tứ đại. Rồi tiếp đó, ta cũng nhận ra rằng khi ta tái sinh và sự hỗn hợp giữa tinh cha, huyết mẹ và thần thức của ta; một lần nữa, ta lại thấy cái chết đến với ba thứ này, tiến trình sinh tử này không dứt cho đến khi ta giác ngộ. Theo triết học Phật giáo Tây Tạng thì luyện tập quán tưởng về cái chết là một pháp tu rất quan trọng.
11. Chủ nghĩa vị tha là trái tim của Phật giáo.
Hỏi: Ở phương Tây, nhờ Phật giáo mà trong những năm gần đây có sự phát triển rất nhanh về phong trào thiết lập những Tiếp Dẫn Đường để chăm sóc cho những người sắp lâm chung. Các ngài có nghĩ rằng chúng ta có thể đem lại lợi lạc cho người chết không?
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Tôi cho rằng phong trào này rất tốt bởi vì người phục vụ và người được chăm sóc đều biết rõ mình cuối cùng cũng đi đến cái chết, do đó khi còn sống trên đời này họ cố gắng làm mọi điều tốt đẹp và nhất là giúp đỡ những người sắp lâm chung. Giống như khi bạn đi máy bay, biết rằng bạn đang ở trên không trung và có cảm giác sợ hãi. Nhưng khi bạn thấy xung quanh có đủ tất cả những tiện nghi để giúp đỡ bạn thì bạn cảm thấy như mình đang ở nhà, bạn cảm thấy hạnh phúc về điều đó. Tóm lại, tôi thấy rằng các Tiếp Dẫn Đường ở phương Tây rất tốt, vì nó giúp cho người sắp lâm chung cảm thấy an toàn, tự tin và không sợ hãi nữa.
Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: ý tưởng thành lập các dưỡng Đường Tiếp Dẫn cho người sắp lâm chung là biểu trưng cho lòng bi mẫn vô biên của chúng ta đối với người sắp chết. Đây là một phong trào rất tốt mà tôi cho rằng phát triển nhiều Trung tâm thêm chừng nào tốt chừng ấy. Ở phương Tây xưa nay không quan tâm đến vấn đề tu tập tâm linh, nên người sắp chết rất cần sự nâng đỡ về tinh thần ở cuối đời, điều này giúp cho họ có một sức mạnh nội tâm để vượt qua nỗi hãi hùng của cái chết. Cuối cùng, trái tim của Phật giáo là lòng vị tha, nghĩ đến người khác và giúp đỡ cho họ. Chúng ta phải nỗ lực nhiều hơn nữa để có thể đem lại sự an ủi, nâng đỡ tinh thần cho họ mà xã hội đã một thời bỏ rơi và thiếu quan tâm.
Từ đáy lòng mình, tôi muốn nói lời cảm ơn Thầy (người thực hiện cuộc phỏng vấn này) rất nhiều và tôi phải nói rằng Thầy đừng nghĩ rằng mình đang đơn độc với trong công việc này. Và tất cả những gì mà Thầy đang làm hiện nay là đại diện cho một đường hướng hoạt động của Phật giáo trong thời hiện đại. Chư Phật, Bồ tát và các vị Thiên thần Hộ pháp luôn ủng hộ và luôn ở phía Thầy.
12. Chết, một pháp môn tu:
Nhiều người sẽ ngạc nhiên hỏi tại sao chết cũng là pháp tu. Theo giáo lý đạo Phật, đó là pháp tu rất quan trọng. Chết xuất phát từ tính vô thường, sự thay đổi và biến chuyển, vạn vật có sinh có tử, có hợp có tan, là trung tâm điểm của việc tu tập Tuệ giác.
Quan niệm về cái chết không phải là một bài luyện tập về sự bi ai, cũng không phải sự bất hạnh của cuộc sống. Thật ra khi quán niệm về cái chết được thực hành đúng, nó sẽ mang lại sự bình yên biết bao. Có lẽ không có gì phải ngạc nhiên và hầu hết mỗi chúng ta đều bối rối khi nói đến cái chết. Chúng ta đã không thoả hiệp với bản chất của cơ thể và không thấy cái chết là quá trình tự nhiên. Vì vậy chúng ta có những phản ứng buồn cười, đùa cợt quá mức, lẩn tránh hay bi lụy. Quan niệm về cái chết có thể mang lại cho chúng ta sự cân bằng.
Trong Kinh Sattipatana đức Phật có dạy nhiều phương pháp quán niệm, trong đó có pháp quán niệm về nghĩa địa (cemetery contemplation). Vào thời đức Phật còn tại thế, các hành giả đi đến các nghĩa địa và đôi khi họ sống ở đó trong một thời gian dài. Các tử thi không được chôn cất hay hỏa táng mà vứt bỏ tại nghĩa trang làm thức ăn cho những con kên kên và những con thú ăn thịt khác. Vì thế, các hành giả phải quan sát thi thể con người qua những giai đoạn hôi hám, sình ươn, mục rữa. Vấn đề chính mà hành giả phải thấy là dù thân thể này của ai đi nữa thì cũng phải chịu cùng một quy luật sinh diệt.
Hiện nay, pháp tu quán niệm về nghĩa trang này vẫn còn áp dụng ở các tự viện trong rừng sâu tại châu Á. Đạo Phật cho rằng, nay ta còn trẻ áp dụng pháp tu này sẽ giúp ta vượt qua nỗi sợ hãi về cái chết. Quán niệm về cái chết là tu tập về Tuệ giác. Trí tuệ này có thể nhận thấy rõ bản chất như thật của sự vật. Bạn có thể thấy rằng quán niệm về cái chết sẽ khiến cho bạn mạnh mẽ, giúp bạn vượt qua những khó khăn trong tu tập, chẳng hạn như cảm giác bồn chồn, buồn ngủ hay đau đớn. Như chính trường hợp của người viết, khi tôi thấy mình buồn ngủ trong lúc toạ thiền thì tôi nghĩ ngay đến cái chết của chính mình, nó lập tức đánh thức tôi. Hay lúc tôi cau có hoặc thả hồn đâu đâu, thì tôi cũng nghĩ về cái chết của chính tôi. Rất ít điều cản trở khi bạn chiếu ánh sáng của cái chết lên nó. Hãy xem cái chết như một người cố vấn của bạn.
Trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada), chứa đựng nhiều lời dạy độc đáo của Phật, rằng con người sẽ không đánh nhau hay tranh cãi khi họ biết rõ rằng tất cả đều sẽ chết. Khi quán về cái chết chúng ta cũng đang bày tỏ lòng từ bi với kẻ thù. Chúng ta thấy rằng chúng ta cùng là đồng sự với nhau. Tâm chúng ta sẽ mềm đi khi ta nhận ra tất cả mọi người đều có chung một số phận: chết.
Có nhiều lợi ích khác khi chúng ta thực hành pháp quán niệm về cái chết. Hiện tại bạn đang bận rộn làm mọi việc, dành nhiều thời giờ để ăn và ngủ. Chỉ một lời thỉnh cầu ở đây là bạn hãy suy gẫm về cái chết, điều đó có thể giúp bạn đánh giá năng lượng các bạn đã tiêu phí. Một khi bạn biết rằng không có sự vĩnh cửu (forever) thì có lẽ bạn sẽ thay đổi tích cực và dành nhiều thời gian để tu tập.
13. Thực hành pháp quán về cái chết.
13.1. Nội dung của pháp quán, cái chết không thể tránh khỏi.
13.1/1. Mọi người đều phải chết.
13.1/2. Tuổi thọ của ta đang giảm xuống theo thời gian.
13.1/3. Thời gian dùng để tu tập trong đời ta rất ngắn ngủi. Không thể biết khi nào ta chết.
13.1/4. Tuổi thọ con người không chắc chắn.
13.1/5. Có nhiều nguyên nhân đưa đến cái chết.
13.1/6. Cơ thể con người quá mong manh. Thực tế chỉ có tu tập mới có thể giúp chúng ta lúc chết.
13.1/7. Tài sản và thú vui không thể giúp ta.
13.1/8. Người thân của ta cũng không thể giúp ta.
13.1/9. Chính cơ thể của ta cũng không thể giúp ta.
13.2. Quán niệm như thế nào?
Nhiều hành giả đang tu pháp thiền quán niệm (Vipassana) có thể chưa bao giờ niệm về cái chết, vì pháp thiền này nhấn mạnh trực tiếp đến những gì đang xảy ra ở thời điểm hiện tại Khi hành thiền quán niệm bạn không được khuyến khích tư duy. Tuy nhiên trong thiền quán niệm về cái chết phải sử dụng tiến trình tư duy một cách sáng tạo để tạo ra một trợ thủ cho việc phát triển tuệ giác.
Thật hữu ích khi bắt đầu pháp quán này bằng cách chú tâm vào hơi thở hay tận dụng những kỹ thuật khác để làm tâm bạn an tịnh. Mỗi ngày bạn có thể luyện tập 20 phút. Trước hết là tìm cách tĩnh tâm. Chọn một trong những đối tượng niệm để quán tưởng và đi sâu vào đó. Khi chấm dứt quán niệm ở phần này bạn lướt qua phần khác (xem lại trong bản nội dung ở trên).
Cụ thể bạn quán tưởng như sau: Bạn chọn ý tưởng và nói: "Mọi người đều phải chết". Rồi bạn đem ý tưởng đó vào trong suy tưởng và quán niệm nó. Đây là lúc việc thực hành trở nên rất sáng tạo. Mọi người đều có thể thực tập theo cách riêng của mình. Bạn có thể quán tưởng chính bản thân mình hay một người bạn của mình đang hấp hối, hay quán tưởng những nấm mồ của người thân trong nghĩa địa, hoặc bộ xương của chính bạn. Mức độ định tĩnh và tập trung mà bạn có được từ quán niệm có liên quan rất lớn đến chất lượng và kết quả tu tập của bạn. Nếu bạn đã có định lực rồi, bạn sẽ trở nên rất linh hoạt, bạn có thể chất vấn, suy niệm và ngay cả chơi đùa với nó: cái chết.
Đại Đức Thích Nguyên Tạng soạn dịch