Khi hành giả trong khi tu tập Đại Thủ Ấn mà bất ngờ bị các hiện tượng như : xuất tinh , cơ thể rung động không ngừng , khí kết , ý niệm tán loạn , nghịch khí v..v...
Phương pháp điều trị các hiện tượng tẩu hỏa nhập ma trên như sau :
I.- ĐỐI TRỊ HIỆN TƯỢNG XUẤT TINH :
Khi tu tập Đại Thủ Ấn , Khí từ chân chạy xuống bộ phận truyền sinh , một số hành giả không thể kiểm soát , đưa khí đi trở về đúng đường kinh mạch của nó , nên bị xung kích và xuất tinh không dứt .
Cách đề phòng và đối trị :
Mổi đêm trước khi đi ngủ , nên nằm để đầu lên gối hơi cao một chút , tâm chú ý đến huyệt đan điền cách rún ba ngón tay , xong lấy bàn tay mặt chấp vào , để trên sau lưng của bàn tay trái , xong đặt hai tay như thế lên trên bên trái của phía vùng trên bụng , sau đó di động hai bàn tay đè nhẹ xuống để chà vuốt sang bên phải của vùng trên bụng , sau đó vuốt xuống bên phải , kế tiếp vuốt sang bên trái vùng dưới bụng , sau đó vuốt đi trở lên vùng trái bên trên bụng , tính là một vòng ; cứ thế mà vận chuyển xoa vuốt 36 vòng ; sau đó đổi tay , tức tay trái chấp lên lưng tay mặt , cũng khởi điểm từ bên trái , bên vùng trên của bụng mà xoa vuốt xuống vùng bên trái của bụng và xoay vòng ngược chiều 36 vòng nửa , ngược chiều với 36 vòng trước ; một lúc sau sẻ khiến đan điền nóng lên , từ đó làm bồi bố và thu hồi khí lực cho sự thất thoát dương khí ;hảy thường xuyên chà xát theo phương pháp trên , hiện tưượng xuất tinh sẻ dần dần giảm bớt và tiêu trừ khỏi hẳn .
II.- ĐỐI TRỊ HIỆN TƯỢNG CƠ THỂ RUNG ĐỘNG KHÔNG NGỪNG :
Trong lúc hành giả tập Đại Thủ Ấn , tự nhiên cơ thể tự rung động không ngừng , không thể tự ý ngừng được , vượt khỏi sự kiểm soát của ý thức .
Cách đề phòng và đối trị :
Đầu tiên cần tìm huyệt đạo của đường khí chạy sai ; dùng tay điểm huyệt , bấm huyệt hay phóng phát ngoại khí vào các huyệt : Khúc Trì – Hợp Cốc – Bối Tỉnh .....để khí loạn chạy trở về đúng đường kinh mạch của nó ; hành giả có thể dùng tự kỷ ám thị , luôn lập lại trong tâm mình : cơ thể chân tay của tôi từ từ rung động chậm lại và ngừng lại , sẻ giúp cho cơ thể được dịu lại , người đứng ở ngoài có thể dùng thau đựng nước lạnh tưới xối vào mặt và lưng của hành giả , cũng có thể làm ngưng sự rung động nầy .
III.- ĐỐI TRỊ KHÍ KẾT :
Trong quá trình tu luyện , tự dưng hành giả cảm thấy toàn thân như bị tụ và tràn ngập khí , không tiêu tan đi được , làm cho cơ thể nóng như bị lửa đốt , tai nghe như nổ lách tách , miệng khô , môi nứt , sau đó hai mắt sưng đỏ ; một số hành giả khác vì thường tập quán tưởng ở thượng đan điền ở mi tâm , nên vô tình dẩn khí tụ ở trên trán , mà không biết cách tán khí và dẩn khí đi xuống , nên phần trên trán giửa mi tâm bị nặng , giống như có miếng thuốc dán , dán tại đây , rất khó chịu , nó làm cho hành giả có cảm giác đầu nặng chân nhẹ , và bần thần chóng mặt .
Cách đề phòng và đối trị :
Đối với bệnh trạng toàn thân cảm như bị lửa thiêu đốt , hành giả cần ngưng ngay mọi sự luyện tập , không nên dùng ý , hảy nhanh xử dụng phương pháp Đại Thán Thi , buông thả thân thể mềm mại , như thế khí sẻ tan và nhiệt sẻ hạ , ngoài ra có thể dùng ngón trỏ và ngón giửa ấn huyệt Đại Chùy , dùng ngoại khí thuận theo xương sống mà kéo xuống để hạ hỏa , sức nóng sẻ hạ từ từ và tiêu mất ; đối trị với bệnh vùng trên trán bị cảm giác nặng và chóng mặt bần thần , thì hảy theo phương pháp Đại Thán Thi , buông xả ý niệm , khí nặng sẻ tự nhiên tan ; ngoài ra hành giả có thể tự mình dùng hai ngón tay cái của hai bàn tay đặt lên đầu chân mày bên trong gần mi tâm , tám ngón còn lại của hai tay , bấu vịn lên đầu để làm điểm tựa cho hai ngón tay cái , sau đó , dùng hai ngón tay cái đè vuốt lần , từ trong ra ngoài đi theo hai chân mày mà đi ra đến huyệt thái dương hai bên trán ở phía trên gần cuối hai chân mày , song tiếp tục dùng hai ngón cái nầy xoa xây vòng vòng mười mấy vòng , là xong một bộ , cứ thế lập lại các động tác nầy từ đầu như thế chừng mười mấy lần , thì hiện tượng khí kết ở mi tâm trên trán sẻ tiêu tan ngay .
Có hành giả bị khí kết dưới đan điền ở dưới bụng , thì thường cảm thấy phần dưới bụng no hơi , nặng và xình chướng , bị nặng hơn thì bụng đầy hơi , nặng , đau , tiêu hóa không tốt , đó cũng là trường hợp của khí kết ; thì hành giả hảy dùng ngón tay giửa của tay mặt , đè nhẹ lên huyệt đan điền , xong dùng ý dẩn khí hạ hành phối hợp với ngón tay giửa , đè kéo xuống bên dưới bụng , cứ thế mà làm khoảng vài phút , thì sẻ cảm thấy khí sẻ chạy xuống , trong người sẻ đánh trung tiện , đánh giấm , bụng sẻ từ từ xẹp xuống , khí kết tại đan điền sẻ bị tiêu trừ ; nếu một mình hành giả không làm được , thì nhờ Kim Cang Thượng Sư của mình , dùng ngón cái và ngón trỏ của hai bàn tay , kẹp lấy hai bắp thịt gân ở hai bên eo ếch của hành giả , dùng sức mà kéo ra hai bên , nếu khí thoát được ra ngoài thì sẻ nghe tiếng , và sẻ hết bệnh .
Nếu khí kết tại cổ thì điểm huyệt : Phong Phủ , Phong Trì , Đại Chùy , Đàn Trung...Khí kết tại mặt thì điểm huyệt : Đàn Trung , Thiên Đột , Thừa Tương Ấn Đường ...Khí kết tại lưng thì điểm huyệt : Đại Chùy , Mệnh Môn , Giáp Tích , Vỉ Lư ....
Điểm tâm yếu của việc đối trị khí kết là vận dụng ý niệm và thủ pháp , cơ thể hành giả buông thả mềm mại , phóng khí để trị liệu .
III.- ĐỐI TRỊ TÂM TÁN LOẠN :
Trong quá trình tu tập , vì hành giả dùng ý quá mạnh , để thủ ý nhập định , kết quả ý niệm không chánh , nên khí khôngđược thuận , liền bị sinh ra tâm hoang mang và ý tưởng động loạn ; cũng có trường hợp hành giả đang ngồi thiền nhập định , bất ngờ có người lại quấy rối hay bị tiếng động lớn , vì công lực và định lực còn yếu , nên tâm ý bị kinh động , và sau đó mổi khi ngồi thiền thường phát sinh hiện tượng tâm ý loạn động như trên .
Cách đề phòng và đối trị :
Hành giả cần phải thay đổi cách ngồi thiền , thí dụ lúc trước ngồi tập , htì bây giờ đứng tập và ngược lại , ý niệm đừng trụ và thủ ý tại huyệt vị củ , mà ý niệm hảy tưởng tượng đến những sự việc vui vẻ , yêu đời , như trời , mây bay , biển ,nước , dòng suối chảy , cây cối chim chóc , hoa lá v..v...từ đó để bồi dưởng tính tình trở nên vui vẻ , nhờ thế tâm loạn động sẻ dần dần bị tiêu trừ ; sau đó mới tiếp tục tu tập lại ....
IV.- ĐỐI TRỊ HIỆN TƯỢNG NGHỊCH KHÍ :
Bệnh nghịch khí phát sanh do sự sai lầm khi đạo dẩn khí mạch trong kinh đi sai đường , dùng ý niệm quá mạnh mà vô tình dẩn khí đi ngược đường ; hoặc khi công lực còn yếu , hỏa hầu non kém , mà mong cầu thần thông , đi ngược lại nguyên tắc tu tập , từ đó sanh ra hiện tượng khí nghịch vậy .
Khí nghịch là khí chạy nghịch chiều kinh mạch , có lúc khí chạy mạch trương , hình thành trong mạch như những trái banh ping pong nhỏ , hoặc khí kết ở gân làm cho cơ thể tê dại , đầu choáng mắt hoa , ngực đau , nghẹt thở ; bệnh nặng thì cơ tim bị cứng nghẹt , tứ chi run rẩy , hai mắt trợn ngược , lưởi cứng , cấm khẩu nói chuyện không ra , toàn thân cứng đờ . nếu bị nghịch khí tối nghiêm trọng có thể trở thành khờ dại ....
Cách đề phòng và đối trị :
Đầu tiên , hành giả ngưng ngay mọi sự luyện tập , thỉnh giáo với Kim Cang Thượng Sư ; đối với những trường hợp khí nghịch nhẹ , thì hành giả có thể giử hô hấp tự nhiên và dùng tay để xoa bóp tại nơi khí nghịch , cũng có thể khôi phục bình thường ; nếu nhờ Kim Cang Thượng Sư , thì Thượng Sư có thể dùng phương pháp rút khí , để hút những khí nghịch tại nơi bị bệnh , như đầu bị khí nghịch thì hút khí ở huyệt Thái Dương , Thừa Khấp , Địa Hội , Giáp Xa , Tâm Du ....
Trường hợp toàn thân bị lạnh thì có thể dùng các cách sau đây :
- Dùng ý niệm để sanh hỏa để sưởi ấm : tưởng tượng ở đan điền có cục lửa than tròn lớn , phát ra sức nóng lan tỏa ra toàn thân .
- Dùng Ý niệm và quán tưởng , để dẩn âm thanh gây sự cộng hưởng với cơ thể để sinh nhiệt đuổi hàn lạnh ; Hành giả tự mặc niệm chú ngử HUM kéo dài , đủ vang dội bên trong nội tâm , miệng hít một hơi dài , ý tưởng tượng có một cục lửa than đỏ rực nóng cháy ở đan điền , xong dùng miệng phát ra âm thanh HUM rung động , dùng ý dẩn sự rung động của âm thanh HUM xuất phát từ cục lửa đang cháy , sự rung động nầy như một sực nóng mang bức xạ từ cục lửa nầy lan rung động từ trong ra ngoài toàn thân để làm nóng ấm cơ thể .
- Kim Cang Thượng Sư có thể thông qua huyệt Lao Cung để ngay nơi đan điền bệnh nhân mà phát khí , để đan điền phát nhiệt ; sau đó phát khí đi vòng theo Đốc Mạch và hai bên Bàng Quang Kinh , lên xuống khoảng 6 đến 9 lần , thì sự hàn lạnh của bệnh nhân sẻ tiêu mất đi ; vì Đốc Mạch tổng quản dương khí của toàn thân , còn Bàng Quang là Thái Dương Kinh Mạch , chân khí của hai kinh nầy hợp lại , đủ để ôn dưởng dương khí sung túc cho toàn thân , nên sự hàn lạnh được tiêu trừ vậy .
Trường hợp toàn thân bị nóng thì có thể dùng các cách sau đây :
- Dùng ý niệm để tưởng tượng khi thở ra thì thở ra khí nóng , khi hít vào thì hít khí lạnh của băng tuyết vào .
- Dùng Ý niệm và quán tưởng , để dẩn âm thanh gây sự cộng hưởng với cơ thể để sự mát mẻ để làm nguội sự nóng của cơ thể ; Hành giả tự mặc niệm chú ngử A kéo dài , đủ vang dội bên trong nội tâm , miệng hít một hơi dài , dùng ý dẩn chân khí xuyên sự rung động của âm thanh A từ cổ họng dần dần , trầm xuống tận đan điền và toàn thân cảm giác mát mẻ dể chịu .
- Kim Cang Thượng Sư có thể thông qua huyệt Lao Cung đđối chuẩn huyệt Đại Chùy mà phát khí , sau đó phát khí đi vòng theo Đốc Mạch đi xuống đến huyệt Vỉ Lư , cứ thế làm khoảng 6 lần , thì sự nóng của bệnh nhân sẻ tiêu mất đi .
Bên trên là một số hiện tượng thông thường xảy ra , vì hành giả không có kinh nghiệm hay không được Thầy chỉ dẩn mà sinh ra các hiện tượng trên , nhưng không phải vì thế mà kinh sợ , bỏ bê sự tu tập ; hành giả chỉ cần tu trì thuận ứng với tự nhiên , hợp với pháp độ và theo đúng sự chỉ dẩn của Minh Sư , thì các hiện tượng trên sẻ không thể nào xảy ra được .