Nỗi thao thức trong mỗi chúng ta là làm sao giải quyết được sinh tử bởi vì còn sinh tử thì chúng ta cứ mãi trôi lăn trong vòng luân hồi của lục đạo hết sức khổ sở. Vì sinh tử, chúng ta cứ mãi vô ra trong bào thai đầy hôi tanh máu mủ, nhơ nhớp của người mẹ, có khi nằm trong bào thai của con chó, con heo, con cá v.v… cứ mãi quay đi lộn lại trong vô lượng kiếp như vậy, thật là ghê rợn.
Vì sinh tử mà làm đảo lộn luân thường đạo lý, ví dụ như cha lấy con, con lấy cha, mẹ lấy con, con lấy mẹ, chị lấy em, cầm dao giết con vật để ăn, không ngờ ta giết cha mẹ, anh, chị, em, thân bằng quyến thuộc của ta nhiều đời nhiều kiếp mà không hay không biết.
Vì sinh tử, chúng ta không chỉ làm khổ cho mình mà còn làm khổ đến cho tất cả mọi người như là làm khổ vợ, khổ chồng, khổ con, khổ cha mẹ v.v… trong vô lượng kiếp như vậy.
Ôi! Nghĩ đến sinh tử thật là kinh hoàng, mà chúng ta không giác ngộ tu hành hay sao, chúng ta không gấp rút hay sao, đợi đến chừng nào đây?
Thật là may mắn thay, chúng ta được làm thân người, sớm lại được gặp Phật pháp. Đặc biệt, chúng ta lại gặp được Pháp môn Tịnh độ, nhờ tha lực bản nguyện của Phật A Di Đà mà chúng ta được liễu sinh thoát tử vãng sinh về thế giới Cực lạc.
Để cho chúng ta luôn thức tỉnh, tu hành một cách nghiêm mật, thì chúng ta phải luôn nghĩ đến sự vô thường, sự trống vắng, ngắn ngủi của kiếp người.
Khi đề cập đến việc được làm thân người, được gặp Phật pháp là khó hay dễ, thật là khó vô cùng. Như chúng ta thường nghe: “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn”, nghĩa là: thân người khó được, Phật pháp khó nghe.
Thật là khó được gặp mà hôm nay chúng ta đều gặp được cả.
Chúng tôi thầm nghĩ, chắc có lẽ chúng ta từ vô lượng kiếp đã từng tu tạo phước đức cho nên hôm nay mới gặp được quả tốt như thế này, bằng ngược lại thì chúng ta không dễ gì mà gặp được đâu.
Vì vậy, chúng ta phải luôn thường xuyên nghĩ đến sự vô thường, trống vắng, mỏng manh của cuộc đời mà tinh tấn tu hành, chứ trong thời gian ngắn ngủi này, chúng ta không chịu tu sửa thì thật uổng phí cả một kiếp người.
Đức Phật đã dạy: “Mỗi khi chúng ta đánh mất thân này, thì trăm nghìn muôn kiếp khó mà kiếm lại được”. Cũng giống như đức Phật ví con rùa mù hai mắt, sống tận dưới đáy biển, cứ một nghìn năm khúc gỗ trôi qua biển thì con rùa mù hai mắt nổi lên liền chui vào đúng bọng cây. Phật mới bảo các vị Tỳ Kheo, các thầy thấy con rùa mù hai mắt chui được vào bọng cây khó hay là dễ? Các thầy Tỳ kheo trả lời: “Kính bạch Thế Tôn, thật là khó vô cùng”. “Cũng vậy, được làm thân người lại là khó gấp mấy lần con rùa mù hai mắt chui vào bọng cây”.
Có vị Tổ dạy rất độc đáo: “Thiên niên thiết thọ khai hoa dị, nhất thất nhân thân vạn kiếp nan”, nghĩa là: nghìn năm cây sắt nở hoa còn dễ hơn, mỗi khi chúng ta đánh mất thân người thì trăm nghìn muôn kiếp khó mà kiếm lại được.
Như chúng ta đã biết, có khi nào cây sắt nở hoa không? Không bao giờ có chuyện đó, khó như vậy đó, được làm thân người còn khó hơn cây sắt nở hoa nữa.
Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, có đoạn ghi: “Đức Phật lấy ít đất để lên móng tay, rồi bảo Ca Diếp Bồ Tát rằng:
- Đất ở mười phương thế giới nhiều hay đất ở móng tay ta nhiều?
- Bạch Thế Tôn, đất ở móng tay không thể nào sánh bằng đất ở mười phương thế giới.
- Đúng thế, này thiện nam tử! Có người đã chết trở lại được thân người, bỏ thân trong ba đường ác mà được thân người, căn thân đầy đủ, được sinh nơi trung quốc, có đủ chánh tín, có thể tu tập đạo hạnh, có thể tu tập chánh đạo, có thể được giải thoát, có thể nhập Niết bàn, được như trên đây thật là hy hữu, như số lượng đất trên móng tay”.
Qua những dẫn chứng trên, chư Phật, chư Tổ thường nhắc nhở chúng ta có được thân người thật là khó vô cùng. Khi đã có rồi thì chúng ta phải biết quý trọng, bảo vệ nó, mượn nó để tu hành, chớ không nên buông lung, để rồi chúng ta đánh mất nó, trăm nghìn muôn kiếp khó mà kiếm lại được.
Chúng ta phải luôn thức tỉnh cái chết đến cận kề bên ta. Thân này thật là mỏng manh, giả hợp, chỉ cần chúng ta hít vào mà không thở ra thì ta đã qua đời khác rồi, như bông hoa sớm nở tối tàn, có gì mà vui đâu. Cho nên, vào một hôm, đức Phật hỏi các vị Tỳ kheo rằng: “Mạng người sống trong bao lâu?”.
- Có vị trả lời là mạng sống con người trong khoảng vài ngày, bị đức Phật chê trách, ông chưa hiểu đạo, ông chỉ hiểu cái da của Phật pháp.
- Có vị trả lời: Mạng sống con người trong khoảng bữa ăn, bị đức Phật chê trách, ông mới hiểu được cái xương của Phật pháp.
- Có vị trả lời: Mạng sống con người trong một hơi thở. Vị này được đức Phật ca ngợi và tán thán là ông đã hiểu tận xương tủy của Phật pháp.
Vì thế đức Phật thường dạy: “Tất cả vạn vật hiện hữu trên vũ trụ này đều là giả tạm vô thường, không có gì là bền chắc đâu, chỉ có tu nhân tích đức mới là cái thật để cho chúng ta mang theo”.
Khổng Tử cũng nói: “Thế thượng vạn ban đô thị giả, nhân sinh đạo đức quả duy chân”, nghĩa là: tất cả vạn vật hiện hữu trên thế gian này đều là vô thường, duy chỉ có đạo đức mới trường tồn vĩnh cửu.
Chúng ta thường biết được thân này là vô thường, là giả tạm, không có cái gì là ta cả, nghĩ như thế chúng ta mới quên mình tu được, còn ngược lại chúng ta không hay không biết, cứ cho cái thân này là thường còn, cuộc đời này là đẹp đẽ, chấp cái ta này là thật có thì quý vị cứ mãi tham đắm bả ngũ dục giả tạm ở thế gian, suốt cả cuộc đời làm nô lệ cho cái giả, suốt cả cuộc đời làm nô lệ cho ăn, uống, ngủ nghỉ, mà không hay không biết, thật là khổ đau vô cùng.
Để đối trị lại những dục vọng tham muốn ở đời, đức Phật đã chỉ dạy chúng ta trong “Tứ niệm xứ” là phải luôn quán thân này là bất tịnh, là hôi thối.
Kinh Trung Bộ I có đoạn ghi: “Này các vị Tỳ kheo, hãy quán thân này từ gót chân cho đến đỉnh đầu là một bọc da chứa đựng toàn là những đồ bất tịnh hôi thối như là: tóc, lông, móng, máu, mủ, đờm, nước miếng, nước tiểu, phân v.v…”.
Đức Phật muốn cho chúng ta thấy được thật tướng của thân thể này, để chúng ta khỏi phải mê lầm về nó. Như quý vị thường thấy, hằng ngày trong thân thể của chúng ta có chín cái lỗ thường chảy ra những đồ bất tịnh hôi tanh. Vì thế, các vị Tổ ví chín cái lỗ này chảy ra những đồ bất tịnh hôi thối gấp mấy lần mùi hôi ở những cống rãnh của thành phố chảy ra. Chín lỗ đó là gì? Hai tai chảy ra ráy, hai mũi chảy ra nước mũi, miệng chảy ra nước miếng, hai mắt chảy ra ghèn, đường tiểu tiện chảy ra nước tiểu, đường đại tiện thải phân.
Khi chúng ta đi ngang qua những cống rãnh ở thành phố, thì chúng ta cảm thấy thế nào? Thối hay thơm? Thật là thối vô cùng, các cống rãnh đã thối như thế, chư Tổ ví thường ngày thân thể chúng ta chảy ra những đồ bất tịnh hôi thối gấp mấy lần mùi hôi ở cống rãnh.
Chúng ta tu hành thì phải thấy được thật tướng của thân thể này là vô thường, là giả tạm, là bất tịnh. Khi chúng ta nhận chân được thực tướng rồi, chúng ta không dại gì làm nô lệ cho nó nữa, mà chúng ta chỉ biết mượn nó làm phương tiện để tu tập.
Cho nên chúng ta không khổ vì nó. Còn ngược lại, đối với những người không nhận chân được thực tướng của thân thể này là bất tịnh, là vô thường, là giả có, thì người ta cứ mải mê làm nô lệ cho cái thân này hoài. Cứ cho thân này là có thật, là trong sạch, người ta cứ vỗ béo, ăn cho ngon, mặc cho đẹp, đánh phấn son cho cái thân này, chải chuốt cho cái thân này, không ngờ họ đã đánh phấn son, vỗ béo, chải chuốt cho bọc da hôi thối mà họ không hay không biết, thật là đáng thương tâm cho họ.
Trong cuốn Sa Di Luật Giải, đức Phật dạy: “Cái khổ của con lừa, con lạc đà chở nặng, cái khổ của những kẻ trôi lăn trong sinh tử luân hồi chưa gọi là khổ. Ngu si không nhận chân được thực tướng, không biết được hướng đi ấy mới gọi là khổ”.
Tại sao đức Phật nói cái chở nặng của con lừa, con lạc đà và những kẻ trôi lăn trong sinh tử chưa gọi là khổ? Là bởi vì con lừa, con lạc đà và những kẻ trôi lăn trong sinh tử chỉ khổ một đời thôi, còn đối với những người ngu si không nhận chân được thực tướng, không biết được hướng đi thì họ sẽ bị trôi lăn mãi mãi trong vòng sinh tử luân hồi mà không khi nào ra khỏi.
Đạo Phật chúng ta cho thân này là vô thường, là giả hợp, là bất tịnh, hiểu như vậy có phải một cách yếm thế hay không? Thưa là không phải. Nhờ chúng ta biết được thân này là vô thường, là bất tịnh, là giả có cho nên ngày nào còn sống thì ngày đó ta nên sống đẹp và sống tốt, làm lợi ích cho mọi người.
Chúng ta không nên hiểu một cách yếm thế, cho thân này là vô thường, là bất tịnh, là giả có rồi chúng ta chán đời, ưng làm gì thì làm, bỏ bê thân này, chích xì ke, ma túy, quấy phá xã hội. Những ai mà hiểu như vậy hoàn toàn sai lệch với ý của chư Phật dạy. Chúng ta là những Phật tử đã hiểu đạo, thì phải luôn tỉnh thức sự sống chết đến với chúng ta rất mau, cái chết nó không hẹn một ai hết, nó đến với chúng ta một cách bất đắc kỳ tử.
Có khi nào cái chết đến với chúng ta mà ta hẹn là cho tôi sống thêm khoảng 5, 6 ngày nữa rồi tôi chết, không bao giờ có hẹn như vậy được.
Bình nhật thường ngày chúng ta cũng đã từng chứng kiến biết bao nhiêu là sự chết chóc của mọi người, có người thì chết trẻ, có người thì chết già v.v…, đã từng chứng kiến như vậy mà tại sao chúng ta không chịu giác ngộ để sớm tu hành, còn đợi đến chừng nào nữa đây. Chúng ta nên biết rằng: mỗi khi đánh mất thân người thì trăm nghìn muôn kiếp khó mà kiếm lại được. Cho nên chúng ta phải thương mình lo tu hành đi, đừng có ham gì bả danh lợi giả tạm của thế gian.
Kinh Tạp A Hàm, đức Phật đưa ra bốn hình ảnh con ngựa để ví dụ bốn hạng người như sau:
- Con ngựa thứ nhất chỉ thấy bóng roi đã chạy.
- Con ngựa thứ hai, nhịp roi lên lưng mới chạy.
- Con ngựa thứ ba, đánh cho thật đau mới chạy.
- Con ngựa thứ tư, đánh chết bỏ, lúc lắc chớ không chịu chạy.
Qua hình ảnh bốn con ngựa, đức Phật chỉ rõ cho chúng ta thấy được bốn hạng người:
- Hạng người thứ nhất, chỉ nghe tiếng đồn có người chết là giác ngộ tu ngay.
- Hạng người thứ hai, chỉ chứng kiến một người chết thôi là giác ngộ tu liền.
- Hạng người thứ ba, đã chứng kiến khoảng 1, 2, 3 người chết, lúc đó mới chịu tu.
- Hạng người thứ tư, tuy đã chứng kiến vô số người chết mà không hề nhúc nhích, họ cứ cho là cái chết của người ta chớ đâu phải cái chết của mình.
Qua bốn con ngựa trên, đa số chúng ta rơi vào con ngựa thứ tư, ít có ai mà rơi vào con ngựa thứ nhất, hai, ba.
Vậy, chúng ta sớm tỉnh giác, thân mạng của chúng ta vô thường, ngắn ngủi, thật chi là trống vắng không có gì là chắc đâu.
Cho dù làm vua, làm quan đi nữa, khi chết cũng để lại đống tro nhơ mà thôi. Như chúng ta đã biết, sống lâu như ông Bành Tổ là 800 năm, nay đâu còn, giàu sang như Vương Khải, Thạch Sùng rồi cũng xuôi tay mà thôi.
“Bao bì cốt nhục nung huân huyết
Cưỡng tác kiều yêu cuống hoặc nhân,
Thiên cổ anh hùng giai nhân tận
Bách niên đồng tác nhất khanh trần”.
Nghĩa là:
“Máu mủ thịt xương một túi nhơ
Tô điểm chi mong gạt tình hờ
Vạn thuở anh hùng giai nhân tận
Trăm năm để lại đống tro nhơ”.
Chúng ta đã hiểu rõ được thật tướng của thân thể mình rồi. Ngày nào còn sống thì chúng ta phải tinh tấn tu hành ngày đó, chớ đừng hẹn lần hẹn lữa. Chớ để cơn vô thường đến cướp ta đi thì trăm nghìn muôn kiếp không có cơ hội để tu.
Ngày xưa các vị Tổ trong lúc tu hành các Ngài thường luôn để ý đến sự vô thường và luôn xem sinh tử là sự đại. Khi một ngày trôi qua, các vị Tổ thường than rằng: “Ôi! Một ngày đã trôi qua rồi mà ta chưa làm được gì cả!”. Quý Ngài rất quý thời gian tu vô cùng. Để cho sự tu tập một cách nghiêm mật, các vị Tổ làm một cái hòm nhỏ để bên gối nằm. Khi nào các Ngài cũng liếc mắt nhìn cái hòm, ám chỉ là cái chết kề cạnh bên ta, chỉ cần sơ suất một chút thôi là ta nhảy vào đó liền. Chính cái hòm nhỏ này có một tác dụng lớn lao, nhờ nó mà giúp cho các vị Tổ tinh tấn tu hành một cách nghiêm mật, không bao giờ xao lãng.
Như chúng ta đã biết, trong kinh công phu chiều có đoạn:
“Thị nhật dĩ quá,
Mạng diệc tùy giảm
Như thiểu thủy ngư
Tư hữu hà lạc
Đại chúng đương cần tinh tấn
Như cứu đầu nhiên
Đản niệm vô thường
Thận vật phóng dật”.
Nghĩa:
“Ôi! Một ngày đã trôi qua rồi,
Mạng sống theo đó mà giảm dần
Như cá ở ao cạn nước
Có gì vui đâu
Đại chúng nên cần tinh tấn
Như cứu lửa cháy trên đầu
Luôn nhớ nghĩ vô thường
Chớ nên phóng dật”.
Chúng ta sống cao nhất là khoảng 50 tuổi đến 100 tuổi, đây là số tượng trưng thôi, cũng có người 1 tuổi chết, có người sống đến 10 tuổi chết, có người sống 20, 30 tuổi… là chết.
Ví dụ tuổi thọ của chúng ta là 50 tuổi, cứ một ngày trôi qua thì tuổi thọ giảm còn lại 49 tuổi, cứ như thế mà giảm dần, cho đến khi ta mất mạng. Tục ngữ có câu: “Nước chảy đá mòn”, cũng giống như cá ở ao mà cạn nước, như chúng ta đã từng thấy trong các ao hồ, cứ mỗi ngày mặt trời lên, thì nước trong ao hồ đều bốc hơi, nước cứ mỗi lần bốc hơi như vậy làm cho nước ở ao hồ cạn dần, thì mạng sống của những con cá ở trong đó cũng theo đó mà giảm dần.
Qua bài thơ trên đây, cho chúng ta thấy được mạng sống của kiếp người thật là ngắn ngủi, thật là trống vắng vô cùng. Vì vậy, chúng ta nên sớm tỉnh ngộ đến sự vô thường, xem sinh tử là việc lớn mà một lòng siêng năng, tinh tấn, gấp rút tu hành, chớ nên buông lung giải đãi mà bỏ phí qua một kiếp người thật là oan uổng vô cùng.
Chúng ta phải luôn tỉnh giác, gấp rút tu hành như hình ảnh cứu lửa cháy trên đầu. Có khi nào lửa đang cháy trên đầu mà chúng ta hẹn là hãy đợi tôi một hai phút rồi tôi dập tắt sau. Không bao giờ hẹn được, lửa vừa cháy là chúng ta nhanh chóng dập tắt liền, còn nếu chậm trễ một chút thôi thì nó thiêu đốt chúng ta ngay.
Cũng vậy, qua hình ảnh này ngụ ý cho ta thấy được: nếu chúng ta không chịu gấp rút tu hành thì quỷ vô thường đến cướp ta ngay. Lúc này, cho dù chúng ta than van, kêu trời kêu đất, cầu khẩn một cách tha thiết đi nữa thì cũng đã muộn màng lắm rồi.
Cổ đức dạy rằng: “Khuyên niệm Phật than rằng chưa rảnh, quỷ sứ đòi khóc một khóc hai”, hay là: “Mạc đãi lão lai phương niệm Phật, cô phần đa thị thiếu niên nhân”, nghĩa là: chớ để tuổi già mới niệm Phật, mồ hoang lắm kẻ tuổi còn xanh.
Vì vậy, chúng ta nên sớm giác ngộ vô thường mà gấp rút tu hành, chớ đừng để luống qua một kiếp người thì trăm nghìn muôn kiếp khó mà kiếm lại được. Chúng ta đã hiểu như thế nào là vô thường, cũng đã thấy rõ được thật tướng của thân thể mình, thì chúng ta phải sống như thế nào đây, để chuẩn bị cho ngày ra đi của mình một cách êm đẹp. Phải hiểu rằng, chúng ta sống hôm nay là để chuẩn bị cho ngày ra đi, chớ ta không nên ham sống mà bỏ quên đi ngày nhắm mắt xuôi tay, đây là điều tối quan trọng, chúng ta nên nhớ mãi.
Sống như thế nào để trở thành một người lương thiện có đạo đức, có tu tập. Trước hết, chúng ta phải nên quy y Tam bảo.
Theo tư tưởng của kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Muốn sinh về Cực lạc, phải tu ba phước:
- Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, tâm từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành.
- Thọ trì Tam quy, giữ kỹ các giới, không phạm oai nghi.
- Phát lòng Bồ-đề, tin lý nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyến tấn người tu hành”.
Ba thứ phước này là chánh nhân Tịnh nghiệp của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai. Đây là nói về dùng phước lực để vãng sinh.
Các mối nghi về Tịnh độ
Có người hỏi rằng: Kinh thường nói người niệm Phật đới nghiệp vãng sinh, liền dự vào hàng Thánh chúng, đạt được bất thối chuyển tâm. Còn mang thân phàm phu, còn nghiệp lực làm sao đạt được bất thối tâm nơi đạo Bồ-đề?
Đáp: Kinh A Di Đà, Phật Thích Ca có dạy: “Cõi Cực lạc kia sau khi chúng sinh đã sinh về đều là bậc A-la-hán và Bồ tát bất thối chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề. Có năm nhân duyên khiến cho chúng sinh ở cõi kia được tâm bất thối chuyển nơi đạo quả Bồ-đề.
– Do nguyện lực từ bi rộng lớn độ chúng sinh của Phật A Di Đà.
– Chúng sinh ở nơi cõi kia thường gặp ánh sáng của chư Phật và Bồ tát chiếu đến, làm cho tâm Bồ-đề tăng trưởng.
– Cảnh giới Cực lạc trang nghiêm, ngày ngày có tiếng chim kêu, nhạc trỗi, gió thổi, những âm thanh này phát ra, nếu có chúng sinh nghe được liền phát tâm nghĩ nhớ tới Phật, Pháp, Tăng. Cho nên tâm Bồ-đề không bị thối lui.
– Cõi Cực lạc toàn là thiện hữu tri thức đồng tu, luôn giúp đỡ nhau trên bước đường tu học, không có ác hữu tri thức ngăn cản, ngoài cảnh không có quỷ thần tà ma, ngoại đạo quấy nhiễu, nội tâm không tham sân si, tình ái phiền não rối loạn, nên tâm Bồ-đề không bị thối lui.
– Chúng sinh cõi kia thọ mạng lâu dài đồng với chư Phật, Bồ tát nên đủ thì giờ tu tập cho đến ngày chứng đạo, không phải sống chết nhiều phen như chúng sinh nơi Ta bà, mê mờ trong lúc thọ thai chuyển thân, quên đi bản nguyện ban đầu, do đó tâm Bồ-đề dễ bị thối lui. Trái lại chúng sinh ở Cực lạc luôn tăng trưởng theo thọ mạng”.
Vì những nhân duyên thù thắng như thế, nên chúng sinh ở mười phương thế giới sau khi vãng sinh về cõi kia, bao gồm những vị đới nghiệp vãng sinh nơi hạ phẩm hạ sinh cũng được liệt vào hàng Thánh chúng và đạt được tam vị bất thối.
Chỉ cần quay đầu lại quy y với Phật A Di Đà mà chuyên tâm niệm Phật cầu vãng sinh Cực lạc để đạt được ba quả vị bất thối chờ ngày thành Phật, trong khi nếu ở thế giới Ta bà, muốn đạt được thì phải trải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp tu tập trong sinh tử. Trái lại, bây giờ chỉ một lòng nhất tâm niệm Phật trong đời này, thì ta sẽ được vãng sinh, đạt được tam bất thối và Phật quả nhất định sẽ viên thành.
Không còn thối chuyển, không còn bị đọa lạc thì chúng ta đã giải quyết được bọn giặc sinh tử rồi đấy. Chúng ta thấy pháp niệm Phật dễ tu, dễ chứng, dễ giải quyết sinh tử trong một đời mà tại sao chúng ta không gấp rút niệm Phật ư!
Ấn Quang đại sư dạy rằng: “Thời mạt pháp, chúng sinh nghiệp nặng, tâm tạp, nếu ngoài pháp môn niệm Phật mà tu các pháp môn khác, chỉ gieo được phần trí tuệ, phước đức căn lành thì có, nhưng phần liễu thoát sinh tử luân hồi trong hiện thế thì không. Tuy có một vài vị cao đức phi thường, song đó chỉ là những bậc Bồ tát hiện thế làm mô phạm cho chúng sinh như kinh Lăng Nghiêm đã nói, nhưng các vị ấy cũng chỉ là nương theo trình độ chúng sinh mà thị hiện ngộ đạo chứ không phải chứng đạo. Pháp môn Tịnh độ thời nay tuy ít người được Tam muội như xưa, nhưng cũng có thể nương theo nguyện lực của mình và bản nguyện của Phật A Di Đà mà đới nghiệp vãng sinh về cõi Cực lạc, từ đây không còn sinh tử luân hồi, mà lần tu tập cho đến lúc chứng quả Vô sinh”.
Sự thù thắng và phổ cập của Pháp môn Tịnh độ cho quảng đại quần chúng ngoài sự giới thiệu của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, còn có các vị Bồ tát khuyên bảo mọi người nên nguyện vãng sinh về Tây phương như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, các vị Tổ sư cả Thiền lẫn Tịnh như Vĩnh Minh, Trí Giả, Triệt Ngộ, Liên Trì, Thiện Đạo, Ngẫu Ích, đều là những vị Thiền sư nổi tiếng bên Thiền tông, sau khi tham thiền đạt ngộ, chuyển hướng niệm Phật cầu vãng sinh. Thật phải nói pháp môn niệm Phật là vua trong tất cả các pháp. Trong kinh Niệm Phật Ba La Mật phẩm thứ 6, đức Quán Thế Âm nói rằng: “Trọn đời đức Phật Thích Ca giáo hóa điều phục chúng sinh, Ngài đã ban ra tám vạn bốn nghìn pháp môn để cho chúng sinh tu tập, nhưng trong đó pháp môn niệm Phật là thù thắng đệ nhất”.
Tại sao trong mười phương thế giới đều có cõi Tịnh độ, mà sao chư Phật, chư Bồ tát, chư Tổ chỉ khuyên chúng sinh niệm Phật để nguyện về cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà mà không khuyên chúng sinh phát nguyện về cõi Tịnh độ khác?
Đúng vậy, không chỉ có một cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà đâu mà trong mười phương đều có cõi Tịnh độ như là: cõi Tịnh độ của Phật Di Lặc ở trời Đâu Suất; ở Đông phương có cõi Tịnh độ của Phật Dược Sư v.v… Tuy có nhiều cõi Tịnh độ nhưng cũng tùy theo cơ cảm nhân duyên của một chúng sinh có duyên với đức Phật nào thì nguyện về với đức Phật ấy. Chúng ta phải biết rằng một Phật là tất cả Phật, tất cả Phật là một Phật.
Tại sao lại nói như vậy? Các đức Phật đồng chung một thể tánh thanh tịnh, thể tánh thanh tịnh này là bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, không cao, không thấp, không dài, không ngắn, bình đẳng vắng lặng cho nên mới nói là một Phật là tất cả Phật, tất cả Phật là một Phật là vậy đó. Cũng giống như một mặt trăng in hình bóng vô số mặt trăng trong các ao hồ, tuy vô số hình bóng mặt trăng trong các ao hồ nhưng duy nhất chỉ có một mặt trăng mà thôi. Chính vì vậy, chúng ta chỉ cần niệm một đức Phật là chúng ta đã niệm tất cả chư Phật rồi. Chúng ta không cần niệm nhiều Phật, qua sự lập luận trên cho ta thấy được, chư Phật, chư Bồ tát, chư Tổ rất khéo léo phương tiện để độ chúng sinh trở về với Phật tánh chân tâm của mình. Cái việc chư Phật, chư Bồ tát, chư Tổ khuyên chúng sinh nguyện về cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà là quá đúng, quá hay. Tại sao đúng? Là khi chúng ta tập trung vào một đề tài hay chuyên nhất niệm một đức Phật, thì chúng ta dễ đạt đến nhất tâm. Còn nếu chúng ta chọn nhiều đề tài hay là ham niệm nhiều Phật thì chỉ đưa đến cho chúng ta loạn tưởng tạp niệm, không bao giờ nhất tâm được. Người ta thường nói rằng: “Một nghề không chín, chín nghề không nên”. Xin đơn cử một ví dụ: một cậu học trò luôn nuôi dưỡng cho mình một ý nguyện trong tâm là sau này cố gắng học để làm bác sĩ, với ý nguyện trung thực trong sáng như thế này, thì trước sau gì cậu học trò cũng làm bác sĩ. Và ngược lại, nếu cậu học trò này không chọn cho mình một nghề duy nhất, khi thì chọn bác sĩ, khi thì mơ tưởng đến kiến trúc v.v… với ý loạn tưởng này, mà cậu học trò không chọn cho mình một nghề duy nhất, thì chỉ đưa đến nhọc công tốn sức mất thời gian mà thôi. Chẳng khác gì người bộ hành đứng giữa ngã ba đường, không biết đường nào để đi. Có nhiều người hiểu như thế này: niệm một Phật không đủ, phải niệm nhiều Phật, khi lâm chung Phật này không rước thì có Phật khác rước, niệm như vậy là tạp niệm không phải là chánh niệm. Vì thế, mà đức Phật khuyên chúng ta hãy đặt trọn niềm tin vào đức Phật A Di Đà, nhất tâm niệm Ngài, một lòng phát nguyện vãng sinh.
Trong kinh Tùy Nguyện Vãng Sinh nói rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Mười phương đều có Tịnh độ, tại sao Thế Tôn lại riêng khen ngợi cõi Tây phương Cực lạc và khuyên chúng sinh nên chuyên niệm Phật A Di Đà để cầu về cõi ấy?”.
Phật bảo ngài Phổ Quảng: “Chúng sinh ở cõi Nam Diêm-phù-đề (là cõi nước chúng ta đang ở) phần nhiều tâm trược loạn, vì thế Ta chỉ tán thán một Tịnh độ ở Tây phương, khiến các hữu tình chuyên tâm vào một cảnh, để cho sự vãng sinh được dễ thành tựu, nếu nhớ niệm tất cả chư Phật, vì niệm cảnh quá rộng, nên tâm mênh mang tán loạn, Tam muội khó thành, không được vãng sinh”.
Có người đặt câu hỏi như thế này: đức Phật dạy tất cả các pháp hữu tướng đều là như huyễn, Ta bà cũng huyễn, Cực lạc cũng huyễn vậy ta cần chi phải niệm Phật để cầu sinh Cực lạc có ích lợi gì?
Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi xin lấy một ví dụ về “giấc mộng” để làm đáp số.
Giấc mộng thì có mộng ác và mộng lành, trong giấc mộng ác chúng ta thường mơ thấy ma quỷ đủ loại rất ghê sợ hãi hùng, đôi khi cũng thấy có người lấy dao rượt chém mình, có khi thấy mình bị rơi từ núi cao xuống v.v… Những hình ảnh trong giấc mộng ác này luôn làm cho chúng ta thất kinh, thất hồn, hoang mang, sợ sệt không khi nào mà an tâm được trong giấc ngủ.
Trong giấc mộng lành, chúng ta thường thấy những điều tốt đẹp, như là thấy Phật, thấy chư Bồ tát, chư Tổ, khi thì chúng ta thấy mình trúng số độc đắc, thấy những người bạn tốt đến dùng những lời hay ý đẹp khuyên mình tu hành, mơ thấy mình làm vua, làm quan, mơ thấy mình thi đỗ Đại học v.v… những hình ảnh đẹp trong giấc mộng lành luôn luôn đem lại cho chúng ta một đời sống tinh thần an lạc hơn, vui tươi hơn, tâm được an tịnh hơn.
Như vậy qua hai giấc mộng trên, chúng ta chọn giấc mộng nào? Tức nhiên chúng ta phải chọn giấc mộng lành, mộng đẹp chứ không ai dại khờ gì chọn giấc mộng ác.
Cũng vậy, giấc mộng ác ví như cõi Ta bà ngũ trược ác thế, còn giấc mộng đẹp ví như cõi Cực lạc. Vậy thì Ta bà và Cực lạc cũng đều huyễn mộng, nhưng hai cái huyễn mộng này hoàn toàn là khác nhau.
Ở trong cảnh mộng khổ của Ta bà chúng sinh luân chuyển sinh tử không ngừng để chịu khổ trong cảnh mộng, từ mộng cảnh này sang mộng cảnh kia không bao giờ dứt. Càng đi sâu trong mộng thì càng mê càng khổ. Chi bằng ta nguyện sinh Cực lạc, tuy là cũng cảnh mộng, nhưng ra khỏi mộng thì liền thành bậc Đại giác. Uế và tịnh tuy đồng cảnh mộng nhưng bậc Bồ tát từ Thất địa trở xuống vẫn còn cảm thọ khác nhau; còn nóng, còn lạnh, còn xúc, còn cảm, nên thà rằng ta cảm nhận cảnh giới an lạc để bước vào Phật quả, hơn là chấp sự thọ cảm khổ bức để cho tâm Bồ-đề bị thối chuyển.
Kinh dạy: “Từ bậc Nhị thừa, sơ phát tâm Bồ tát, cho đến Bồ tát đệ thất địa Viễn Hành, đều ở trong huyễn mộng mà tu, chỉ trừ bậc Bồ tát đệ bát địa trở lên bậc Đẳng giác và Phật quả mới an tịnh trong Phật quốc Tịnh độ”.
Như vậy, chư Phật đã dạy, chư Bồ tát, chư Tổ đã hành pháp môn này thì quý vị nên an tâm niệm Phật chớ đừng có mối hoài nghi gì cả.
Thật là thiện căn phước đức nhân duyên cho chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp đã có đủ nên chúng ta mới gặp được pháp môn niệm Phật này. Nhờ đầy đủ phước đức nên chúng ta dễ tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên đối với pháp môn này. Vì thế, trong kinh A Di Đà nói rất rõ: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sinh bỉ quốc”, nghĩa là: không thể đem một ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sinh về nước đó đâu.
Chúng ta đã có đủ thiện căn phước đức nhân duyên cho nên chúng ta y giáo phụng hành Pháp môn Tịnh độ một cách nghiêm mật như thế này. Còn ngược lại chúng ta không có đủ thiện căn phước đức thì khó mà gặp được pháp môn này, khó mà sinh về thế giới Cực lạc.
Chúng ta thử nghĩ, ngài Văn Thù, Phổ Hiền tu vô lượng kiếp mới đến thế giới Hoa Tạng, mới gặp được Pháp môn Tịnh độ. Còn chúng ta ngày nay, vừa mới học Phật mà đã tìm được pháp môn này. Hoa Tạng hải hội có 41 vị Pháp thân đại sĩ Bồ tát gặp quý vị, không một vị nào mà không bội phục. Tại sao các Ngài lại bội phục? Là vì các Ngài tu vô lượng kiếp mới tìm được pháp môn này, còn chúng ta không hao một chút sức nào cũng gặp được. Các Ngài đầy đủ “tín, nguyện, hạnh” cầu vãng sinh về thế giới Cực lạc thấy Phật thành Phật. Ngày nay, chúng ta cũng áp dụng phương pháp như thế, lý luận như thế, vãng sinh Tây phương, thấy Phật thành Phật cùng với các Ngài không hai không khác.
Đa số người phàm phu chúng ta không tin Phật A Di Đà là có thật mà cứ nhận cái giả làm cái thật? Cái gì là giả? Tiền tài, danh vọng, đối với người trí là người ta vứt bỏ nó ngay, không cần ngó ngàng gì đến nó, tại sao người trí vứt bỏ cái giả ngay? Là vì người ta hiểu rõ khi chúng ta chết, chúng ta đâu mang cái giả, của cải vật chất đi theo đâu, mà chúng ta chỉ mang đi theo được sự công phu tu tập của chúng ta mà thôi.
Có ai đó hỏi chúng ta: “Tu theo Pháp môn Tịnh độ là tu cái gì?”.
Ta trả lời: Tu “Thanh tịnh, bình đẳng giác”.
Tại sao phải tu thanh tịnh, bình đẳng giác?
Trả lời: Vì có đầy đủ Tam bảo và tam vô lậu học, đây là cốt lõi của đạo Phật.
Thanh tịnh: Tăng bảo – Giới
Bình đẳng: Pháp bảo – Định
Giác: Phật bảo – Tuệ
Vậy tu phương pháp nào để đạt được tam học và Tam bảo?
Trả lời: Chỉ cần dùng tín nguyện trì danh hiệu Phật A Di Đà là đủ. Sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật mà chứa đủ tam học và Tam bảo. Thật phải nói pháp môn niệm Phật thù thắng vi diệu, bất khả tư nghì vô cùng.
Trong kinh Niệm Phật Ba La Mật, đức Phật dạy: “Đây là môn tu thích đáng khế hợp mọi căn cơ mà chư Phật dùng để đưa hết thảy muôn loài xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết-bàn tại thế, thành Phật trong một đời”.
Niệm Phật cứu độ khắp hết thảy chúng sinh muôn loài.
Niệm Phật có ba điều lợi ở địa ngục.
1. Hồi hướng công đức cho ông bà cha mẹ từ tiền kiếp.
2. Các tội nhân nghe tiếng niệm Phật đều được giải thoát.
3. Được vãng sinh Tây phương Tịnh độ.
Chúng tôi lấy ví dụ để chứng minh một trong ba điều lợi trên.
Có hai vợ chồng, người vợ rất hiền lành, mỗi ngày chị ta rất siêng năng niệm Phật, chồng thì không thích niệm Phật, nghe niệm Phật là anh ta khó chịu. Để cho chồng mình có sự lợi lạc sau khi chết, cho nên mỗi ngày chị ta bắt chồng đánh trống cho chị niệm Phật. Người chồng này rất khờ khạo cho nên vợ sai gì làm nấy. Vì vậy, cứ mỗi ngày anh ta đánh trống cho vợ niệm Phật. Sau khi lấy nhau ba năm, anh ta chết, liền rơi vào địa ngục rất chi là kinh ngạc. Đến giờ hành hình tội nhân, có một con quỷ cầm một cây sắt đánh vào tội nhân, con quỷ đánh trật, cây sắt va chạm vào một vạc dầu kêu lên một tiếng giống tiếng trống. Lúc này anh ta nhớ lại sao tiếng kêu này giống mình đánh tiếng trống cho vợ mình niệm Phật quá vậy. Lúc này duyên niệm Phật đã khởi dậy, anh liền niệm A Di Đà Phật. Nhờ niệm Phật, anh ta thoát khỏi cảnh địa ngục trở về nhân gian, các tội nhân ở trong đó nghe tiếng niệm Phật đều được vãng sinh hết thảy.
Chúng ta chỉ cần gieo nhân niệm Phật thì đời đời kiếp kiếp chúng ta không bao giờ gặp quả khổ. Vì thế, trong kinh Pháp Hoa nói rằng: “Nếu có người nào đi vào tháp miếu có thờ tượng Phật, miệng chỉ cần xưng lên Nam mô Phật, hay đưa tay lên tỏ lòng cung kính thì cũng được thành Phật”.
Như chúng ta thấy, ông Tu Bạt Đà La là vị đệ tử cuối cùng của đức Phật. Tại sao ông Tu Bạt Đà La được đức Phật xuất gia và chứng quả A-la-hán? Là vì thế này, trong nhiều kiếp quá khứ ông ta là một người đi đốn củi ở rừng. Một hôm, bị cọp rượt, ông ta hoảng hốt leo lên một cây lớn, con cọp cứ hung dữ, cắn xé dưới gốc cây hết sức ghê gớm, ông ta rất sợ, liền lớn tiếng niệm “Mô Phật” thì con cọp liền bỏ đi xa.
Chúng ta thấy chỉ cần niệm một tiếng Mô Phật thôi mà được gặp Phật xuất gia chứng quả vị A-la-hán. Huống hồ chúng ta niệm Phật ròng rã suốt ngày đêm, chắc chắn chúng ta sẽ được thành Phật sớm.
Chính vì sự lợi lạc số đông cho chúng sinh, hiện nay trên khắp thế giới biết bao nhiêu vị cao tăng xiển dương Pháp môn Tịnh độ.
Chúng tôi xin đưa ra một vị cao tăng đang xiển dương Pháp môn Tịnh độ là Pháp sư Tịnh Không, là người Trung Hoa, hiện đang sống tại Úc Châu, tài đức và công năng tu tập của Ngài về Pháp môn Tịnh độ cũng đã vang vọng khắp toàn thế giới mà ai ai cũng biết cả.
Pháp sư Tịnh Không đã thuyết giảng rất rõ ràng trong kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác: “Tôi tin Tịnh độ là vì giảng kinh Hoa Nghiêm 17 năm, tôi từ kinh Hoa Nghiêm khai ngộ đại triệt đại ngộ. Ngộ cái gì? Ngộ vì thấy mười phương chư Phật niệm Phật mà thành Phật, vì thế tôi quyết tâm học pháp môn này mà không cần đến kinh Hoa Nghiêm nữa. Tôi xem kinh Hoa Nghiêm là công cụ đưa tôi vào Tịnh độ cũng giống như qua sông rồi không cần đến thuyền nữa”.
Lời cuối cùng, chúng tôi thiết tha kêu gọi toàn thể mọi người hãy sớm bừng tỉnh tin ngay lời đức Phật dạy mà một lòng thiết tha niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh về thế giới của Ngài. Tóm lại, pháp môn niệm Phật A Di Đà đã hợp thời cơ, khế lý, lại còn nhiếp cả Thiền, Giáo, Luật và Mật, thật là viên mãn. Mỗi câu “A Di Đà Phật” là tâm yếu của chư Phật, dọc thì quán suốt năm thời, ngang lại gồm thâu tám giáo và điểm son của Pháp môn Tịnh độ là từ phàm phu nặng nghiệp quả mà liền thẳng đến ngôi bất thoái, không như các pháp môn khác dù phá được phiền não, nhưng khi lâm chung, tinh thần hôn mê, lại quên mất sở tu, sở chứng, làm cho tâm thoái chuyển, lại phải đọa vào bát nạn tam đồ. Do đó, Pháp môn Tịnh độ được đại đa số Phật tử tu trì. Thế mà đến nay vẫn còn nhiều điều nghi vấn thì thực cần phải lưu tâm nghiên cứu để làm sáng tỏ những điểm còn mờ ám, mới mong thoát khỏi mê đồ đáng tiếc.