THÍCH PHƯỚC THÁI
Mông sơn thí thực
Giảng yếu
phật lịch 2552 - dương lịch 2008
Nghi Thức Mông Sơn Thí Thực Yếu Giải
Lời nói đầu
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập
trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba
loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và
Tiểu Mông Sơn. Đại Mông Sơn thuộc về loại chẩn tế cô hồn trọng
đại. Đây là một hình thức tổ chức nghi thức lập đàn tràng chẩn tế
cô hồn rất lớn. Như đại lễ trai đàn chẩn tế bình đẳng giải oan năm
vừa qua, (2007) do Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh cùng chư Tăng
Ni Làng Mai, đã hợp tác cùng Giáo Hội Phật GiáoViệt Nam trong
nước tổ chức ở ba nơi: chùa Vĩnh Nghiêm (Sài Gòn), chùa Diệu
Đế (Huế), chùa Sóc Sơn (Hà Nội). Cả ba nơi lập trai đàn chẩn tế
này mọi người đều đến dự lễ rất đông, không phân biệt tôn giáo,
sắc tộc, hay đảng phái chánh trị. Tất cả đều nhắm vào một mục
đích chung là giải kết nỗi chết oan ức mà đồng bào cả nước đã phải
gánh chịu trong thời kỳ chiến tranh. Phải nói từ trước tới nay, chưa
có lễ chẩn tế cô hồn nào rất trang nghiêm trọng thể lớn lao như thế.
Đây là một trường hợp chẩn tế rất đặc biệt. Ngoài những buổi lễ tổ
chức chẩn tế mang tính đặc biệt ra, còn lại, thường các chùa tổ
chức chẩn tế vào những ngày đại lễ lớn như Đại Lễ Vu Lan rằm
tháng bảy chẳng hạn. Ngoài ra, Tiểu Mông Sơn, thì thường được
các chùa cúng thí thực vào mỗi buổi chiều. Có chùa, thì chư Tăng
Ni cúng Mông Sơn Thí Thực sau thời tụng Kinh Di Đà. Có nơi, thì
chỉ cúng theo nghi thức Tiểu Mông Sơn mà thôi. Điều này, tùy
theo sự sinh hoạt của mỗi chùa mà linh động cúng thí cho thích
nghi với hoàn cảnh sở tại.
Pháp cúng thí này, đối tượng thọ nhận đồ cúng thí là loài ngạ quỷ.
Ngạ quỷ là những loài quỷ đói khát đi lang thang không nơi nương
tựa. Và cũng không có ai cúng thí cho ăn. Kinh diễn tả các loài
này, bụng to như cái trống, cổ họng nhỏ như cây kim. Đó là hậu
quả của lòng tham lam bỏn xẻn keo kiết. Cúng thí, với mục đích là
để cầu siêu độ cho chúng mau được siêu thoát và cũng để tưởng
niệm đến người đã chết. Việc cúng thí này, đã có từ thời đức Phậtcòn tại thế.
Duyên do có ra là, do Ngài A Nan trong khi nhập định
trong rừng, Ngài thấy một con ngạ quỷ ( tên là Diệm Khẩu ) hình
dáng của nó thật đáng ghê sợ. Ngài hỏi nguyên do vì sao ngươi có
thân hình xấu xí thật đáng ghê sợ khủng khiếp như thế, quỷ liền
cho biết là do đời trước có tâm tham lam keo kiết bỏn xẻn, nên
phải bị đọa vào loài quỷ đói khát như thế này. Đồng thời, ngạ quỷ
đó còn cho Ngài An Nan biết là trong vòng ba ngày nữa là Ngài sẽ
chết. Vì quá sợ hãi, Ngài A Nan liền đến bạch Phật cầu xin cứu độ.
Nhân đó, Đức Phật mới nói Kinh Diệm Khẩu và pháp thí thực cho
Ngài A Nan nghe. Phật dạy, nếu như ông có thể bố thí thực phẩm
ăn uống cho các loài ngạ quỷ, thì ông chẳng những không đọa vào
đường ấy mà còn tăng thêm tuổi thọ và được các loài quỷ thần
thường ủng hộ gặp được nhiều sự an lành.
Do cớ đó, nên mới có “Kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà la
ni. Những kinh điển liên quan đến Diệm Khẩu được truyền vào
Trung Quốc sớm nhất là Kinh Cứu Diện Nhiên Ngạ Quỷ Đà la ni
Thần chú và Chú Cam lồ Đà la ni do ngài Thật xoa nan đà dịch vào
đời Đường, mỗi bản đều có chép chân ngôn tên là: Biến thực chân
ngôn, Cam lồ chân ngôn, nghĩa là cầm một chung nước, trì chú 10
biến, rồi tung lên không, nước này liền biến thành cam lồ”. (Theo
Từ Điển Phật Học Huệ Quang tập 2, tr 622 ).
Pháp nghi này về sau trở thành một nghi thức của Mật giáo được
ứng dụng thật hành hằng ngày. Song vì gặp loạn Ngũ Đại vào cuối
đời nhà Đường, nên pháp nghi này cũng từ đó bị thất truyền.
Mãi đến đời Tống có ngài Kim Cang Bất Động pháp sư ( tác giả
Hồng Danh Bửu Sám ) hay còn gọi là Cam lộ pháp sư soạn ra nghi
thức cúng thí này với danh đề là: “Mông Sơn Thí Thực”. Mông
sơn là tên núi, thuộc địa phận của tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, còn
thí thực là phép bố thí thức ăn cho các loài cô hồn quỷ đói. Nay
chúng tôi y cứ vào quyển nghi thức “Mông Sơn Thí Thực” ( hiện
chùa đang tụng cúng thí mỗi buổi chiều ) để giải thích khái lược
cho học chúng tiện bề tìm hiểu học hỏi.
Căn cứ vào bản văn chính của quyển nghi thức này, chúng ta thấy
đã có sự phối hợp hòa quyện của nhị giáo: “Mật giáo và Hiển
giáo”. Mật giáo là những câu chân ngôn thần chú. Còn Hiển giáo
là những bài kệ và những danh hiệu Phật. Thần chú có công năng
gia trì thêm sức mạnh cho việc cúng thí. Đó là một oai lực rất lớn
mà các loại quỷ thần phải nể sợ. Còn hiển giáo, như là những lời
kêu gọi an ủi xoa dịu những đau khổ mà các loại quỷ thần phải
hứng chịu. Nói rõ ra, hiển giáo đóng vai tình cảm, như bà mẹ hiền
thương xót vổ về an ủi các con. Còn Mật giáo đóng vai lý trí, như
người cha nghiêm nghị dạy bảo các con phải nghe theo không
được chống trái.
Vì là một trong những nghi thức thiết yếu trong thiền môn, thiết
nghĩ, đối với người xuất gia chúng ta, cũng cần phải học hỏi để
biết qua ý nghĩa tinh hoa thâm thúy của nó. Nhân mùa an cư kiết
đông tại Tổ Đình Phước Huệ năm nay ( 2008 ), quý học chúng có
nhã ý yêu cầu chúng tôi chỉ dẫn giúp cho quý vị đó biết qua về
pháp nghi này. Xét thấy, lời yêu cầu của đại chúng rất thích đáng,
nên chúng tôi cố gắng sưu tầm một ít tài liệu căn bản để biên soạn
đem ra hướng dẫn đại chúng. Thú thật, chúng tôi không phải là
người chuyên môn về khoa nghi này. Do đó, sự hiểu biết của
chúng tôi đối với khoa nghi này rất là cạn cợt, nhứt là phần sự
tướng. Khi biên soạn, phần lớn là chúng tôi căn cứ vào quyển Nhị
Khóa Hiệp Giải của dịch giả cố Hòa Thượng Pháp Chủ thượng
Khánh hạ Anh. Ngoài ra, chúng tôi cũng còn y cứ vào một số tài
liệu linh tinh khác, cũng như qua chút ít kinh nghiệm học hỏi của
chúng tôi. Nói rõ ra, tập tài liệu biên soạn này là hoàn toàn không
phải ý riêng của chúng tôi. ( Nếu có, cũng chỉ muốn làm cho rõ
nghĩa thêm mà thôi ). Chẳng qua, chúng tôi dựa vào các tài liệu đã
có sẵn, nhứt là quyển Nhị Khóa Hiệp Giải, mà chúng tôi biên soạn
trình bày giải thích tóm lược lại đó thôi. Nói thế, để cho quý học
chúng và quý độc giả có đủ niềm tin trong khi học hỏi và hành trì
vậy.
Vì thời gian biên soạn quá cấp bách, chúng tôi biên soạn tới đâu
đem ra trình bày cho đại chúng tới đó. Do vậy, nên chắc chắn
chúng tôi không làm sao tránh khỏi những sai sót lỗi lầm. Mặc dù
chúng tôi đã tận tâm cố gắng trong khi biên soạn. Nếu có những
sai sót lỗi lầm, thì đó là ngoài ý muốn của chúng tôi. Chúng tôi
kính mong đại chúng và quý độc giả hoan hỷ thông cảm mà thứ lỗi
cho.Việc làm này, chúng tôi chỉ có một mục đích duy nhất, là
muốn giúp phần nào cho quý học chúng của khóa an cư học hỏi,
ngoài ra, chúng tôi không có một dụng ý gì khác. Xin chân thành
cám ơn tất cả quý vị.
Tổ Đình Phước Huệ
Mùa an cư năm Mậu Tý – 2008.
Soạn giả kính ghi
Thích Phước Thái
Nghi Thức Mông Sơn Thí Thực
I. Giải thích danh đề.
1. Thế nào là nghi thức ?
Nghi là một hình thức đuợc biểu lộ ra bên ngoài. Thức là một quy
tắc hay cách thức đã được quy định sẵn, mà chúng ta cần phải noi
theo cho đúng pháp trong khi hành lễ. Đây thuộc về phần sự tướng,
ai cũng thấy biết. Một buổi lễ muốn được trang trọng, tất cả phải
theo đúng quy tắc đã định mà hành trì cho đúng pháp. Bằng ngược
lại, thì sẽ mất trang nghiêm và không được lợi lạc nhiều. Muốn thế,
thì mỗi người khi hành lễ, cần phải tôn trọng những quy tắc, cách
thức đã được quy định đề ra. Có thế, thì buổi hành lễ mới được
nhịp nhàng và mới thật sự xứng đáng có đầy đủ phong cách của
một người hành lễ.
2. Mông Sơn nghĩa là gì?
Mông Sơn là tên của một ngọn núi nằm về phía tây huyện Danh
sơn, châu Nhã an, thuộc tỉnh Tứ xuyên, Trung Quốc. Trong những
ngọn núi, có một ngọn núi cao hơn hết tên là Thượng thanh. Trên
ngọn núi này, đặc biệt sản sanh vị Cam lộ. Đời Tống, có ngài Bất
Động pháp sư ở trên ngọn núi này để tu hành. Nhân đó, người ta
gọi ngài là Cam lộ pháp sư.
Cam lộ pháp sư nhân trước kia, đã từng trì tụng kinh Di Đà và sám
hối Hồng danh, do ngài biên soạn, nay ngài nghĩ đến việc bố thí
cho các loại cô hồn, như thế thì mới phổ lợi cho hết thảy chúng
sanh. Vì ngài nghĩ, đạo Phật là đạo từ bi cứu khổ ban vui, không
những cứu khổ cho người còn sống, mà cần phải cứu khổ cho
những người đã chết không nơi nương tựa. Do vì vô minh tạo
nghiệp, nên họ không được siêu thoát về cảnh giới an lành, mà
phải đọa lạc vào những loài quỷ đói. Vì noi theo công hạnh từ bi
của Phật, nên ngài căn cứ trong bộ Bí mật, thủy thí thực pháp và
các kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ mà biên soạn ra khoa nghi
Mông Sơn Thí Thực này.
3. Thí nghĩa là gì ?
Thí nói đủ là bố thí, là pháp đứng đầu trong lục độ của Bồ tát. Bố
thí có ba nghĩa :
a. Tư sanh thí hay còn gọi là tài thí. Tài thí có hai : nội tài và
ngoại tài. Nội tài là cho những gì thuộc nội tạng trong con người.
Như hiến máu v.v…cũng thuộc về nội tài. Ngoại tài là những vật
sở hữu bên ngoài thân. Như tiền tài, của cải, thuốc men, cơm cháo
v.v… Mục đích là để cứu giúp cho người và vật thậm chí đến các
loại quỷ thần trong khi họ đói khát.
b. Pháp thí là đem những lời Phật Tổ chỉ dạy mà ban bố cho mọi
người hiểu biết để tu hành làm lành lánh dữ. Nói rộng ra là tụng
kinh, niệm Phật, trì chú v.v… như vận tâm tưởng trong khi trì tụng
khoa nghi này để cho người và các loại cô hồn nghe hưởng pháp
lạc, cũng gọi là pháp thí.
c. Vô úy thí, là đem cái không sợ giúp cho người khác hay loài
khác không có sợ hãi. Như có người nghe thầy tướng số nói họ sẽ
bị chết yểu, từ đó họ cứ mãi phập phồng lo âu sợ hãi, tâm trí bất
an, mình dùng lời Phật dạy về đạo lý nhân quả để trấn an họ, cho
họ được an tâm. Một khi họ đã nhận hiểu lý nhân quả rồi, thì họ sẽ
không còn lo sợ nữa. Đó là ta thật hành pháp thí vô úy. Lại như
nay vì những loài âm hồn sống trong chốn u minh, chịu khổ dai
dẳng, chúng ta tụng kinh, trì chú, niệm Phật cầu nguyện cho chúng
chóng siêu sanh thoát hóa khỏi kiếp đọa đày. Đó cũng là thể hiện
pháp thí vô úy vậy.
4. Sao gọi là thực ?
Thực nghĩa đen là ăn, nó có công năng giúp ích cho các loài sinh
vật được sinh tồn. Câu nói : « ăn để mà sống chớ không phải sống
để mà ăn » là ý này vậy. Tất cả các loài động vật và thực vật,
không loài nào không ăn mà có thể tồn tại được. Kinh nói : « Tất
cả chúng sanh do nơi ăn uống mới sống ở đặng, nếu không ăn
uống thì thân thể ốm gầy, dẫu có thí tài, thí pháp, nào đủ cho sanh
mạng. » Nay nhân cực khổ của chúng sanh, mà khởi cái bi tâm,
nên dùng thần chú, vật thực, mà cúng thí cho các loại quỷ, khiến
cho chúng nó dứt khổ được vui. Nhưng, thực có 4 cách. Trong Nhị
Khóa Hiệp Giải ( tr 443 ) giải thích về 4 cách ăn này như sau :
a. Đoàn thực, cũng kêu là đoạn thực, nghĩa là ăn bằng cách : từ
miếng hay từ phần, từ đoạn dùng 3 trần là hương : hơi hám ; vị :
mùi vị ; xúc : tiếp xúc, để làm thể. Biến đổi, tiêu hoại làm tướng.
Thế là cách ăn của Trời, người và súc sanh … ở dục giới.
b. Xúc thực : lấy cái tâm sở tương ứng của 6 thức, tiếp xúc với cái
cảnh vừa thích của ý, 5 căn hòa thuận, vui sướng làm cách ăn, tức
là cách ăn của quỷ thần
c. Tư thực : lấy cái tư tâm sở hữu lậu của ý thức, để chuyên tinh
nghĩ nhớ ( tư ) chuyển thành cái cảnh thắng diệu thiền, giúp ích
thân mạng của trời sắc giới, liên miên tư tưởng mãi chẳng dứt, tức
là chúng ở sắc giới lấy thiền duyệt làm thức ăn. Lại, như ngửa
trông lên cây me chua để dứt được cơn khát nước, treo bánh lên,
chung thấy mà đở cơn đói bụng v.v… đó cũng là ăn bằng cách
nghĩ nhớ ( tư thực ).
d. Thức thực : Lấy cái thức thứ 8 nó nối nhau giữ gìn căn thân
khiến chẳng rã hoại, đấy thì 4 thánh 6 phàm chung đủ, chỉ có khác
với nhau là mê và ngộ. Thánh nhân thì thức tánh đã giác ngộ viên
mãn, vốn vẫn trong sáng, gọi là « Như lai tạng thức », vì nó duy trì
tất cả công đức có tánh vô lậu : phi có phi không, phi trụ, phi
chẳng trụ, đấy là cái ăn bằng cách vốn có công đức chẳng khá nghĩ
bàn, mà làm sanh trụ.
Trong 4 cách ăn nói trên, thì 3 cách trước thuộc về sự, cách ăn sau
thuộc về lý. Sự thì thiên về phàm phu, còn lý thì trùm khắp cả
thánh phàm.
Điều quan trọng ta cần lưu ý là khi cúng thí phải hội đủ « Tam luân
không tịch ». Nghĩa là người năng thí, chúng nhận thí và vật sở thí,
cả ba thể tánh đều vắng lặng. Nếu pháp thí được như thế, thì mới
thật sự mang tính siêu thoát, vì vượt ngoài đối đãi vậy.
II. Giải thích Kinh văn.
Nam Mô Diện Nhiên Vương Bồ Tát ( 3 lần )
Hết lòng quy kính hướng về vị Bồ tát Diện Nhiên Vương.
Diện Nhiên : là do Đức Bồ Tát Quán Thế Âm biến hóa ra. Thường
gọi là Tiêu Diện Đại Sĩ, hay nói nôm na là ông Tiêu. Hình ảnh tạc
tượng giống như một vị thần hung dữ.Với gương mặt dữ dằn, đôi
mắt to lồi ra, có hai cái sừng nhọn ở trên đầu. Miệng thì le lưỡi nhe
răng dài ra. Hình thù trông thấy thật dữ tợn. Thường, người ta thờ
ngài phía trước chánh điện bên trái của chùa, còn bên phải, thì thờ
tượng Hộ Pháp.Vì có những loại cô hồn ương ngạnh cứng đầu dữ
tợn, nên Bồ tát hóa thân hiện ra hung tướng để chiết phục hóa độ
chúng. Nhờ đó mà chúng mới chịu quy phục.
Bài kệ :
Mãnh hỏa diệm diệm chiếu thiết thành,
Thiết thành lý diệm nhiệt cô hồn,
Cô hồn nhược yếu sanh tịnh độ,
Thính tụng Hoa nghiêm bán kệ kinh :
Nhược nhơn dục liễu tri,
Tam thế nhứt thiết Phật,
Ưng quán pháp giới tánh,
Nhứt thiết duy tâm tạo.
Tạm dịch
Lửa dữ cháy sáng soi thành sắt
Cô hồn đau lửa đói rên la
Nguyện sanh Tịnh độ thiết tha
Lắng nghe kinh kệ thoát ra khổ nàn.
Nửa kệ tụng rõ ràng chứng thấy
Hoa Nghiêm Kinh ai nấy tín thành
Nếu ai muốn hiểu ngọn ngành
Ba đời chư Phật chứng thành đạo cao
Dùng trí huệ quán sâu Pháp giới
Muôn vật đều tạng tánh mà ra
Sơn hà vũ trụ bao la
Đều do tâm tạo ấy mà gây nên.
( Thích Phước Thái )
Yếu giải:
Thế nào là tánh pháp giới? Tánh pháp giới là tên khác của Nhứt
tâm. Vì mười pháp giới: Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, trời,
người, A tu la, địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, nói chung, tất cả đều
do tâm ta tạo ra cả. Nói tâm tạo, tất nhiên, phải hiểu là tâm vọng.
Còn tâm chơn vốn là bất sanh, bất diệt, không động, không tịnh,
lấy đâu mà tạo tác. Thể của nó thường vắng lặng. Đó là bài kệ khai
thị rõ về cái lý duy tâm sở hiện.
Nếu chúng ta khởi tâm tạo tội ngũ nghịch: giết cha, giết mẹ, giết A
la hán, phá hòa hợp tăng, làm thân Phật ra máu, hoặc tạo tội thập
ác: Thân tạo ba tội: sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Khẩu: tạo bốn tội:
vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu. Ý tạo ba tội: tham, sân, si.
Đó là thập ác, thuộc nghiệp nhân địa ngục.
Nếu chúng ta khởi tâm tham lam keo kiết, bỏn xẻn, đó là nghiệp
nhân của ngạ quỷ. Nếu chúng ta khởi tâm si mê làm những việc
loạn dâm, trái với luân thường đạo lý, thì đó là nghiệp nhân của
súc sanh. Nếu chúng ta khởi tâm hơn thua tranh chấp chém giết
nhau, đó là nghiệp nhân của A tu la. Nếu chúng ta giữ gìn ngũ giới
cấm đúng theo đạo nhơn luân, có phẩm cách làm người, thì đó là
nghiệp nhân của làm người. Nếu chúng ta giữ đúng theo mười điều
lành, thì đó là nghiệp nhân của thiên đạo. Nếu chúng ta khởi tâm
nhàm chán khổ sanh tử, ưa thích vui tịch diệt, đó là chánh nhân
thành thánh quả Thanh văn. Nếu chúng ta khởi tâm thấu rõ lý nhân
duyên tánh các pháp là không, đó là chánh nhân tạo thành quả vị
Duyên giác. Nếu chúng ta phát khởi đại tâm tu theo lục độ vạn
hạnh, đó là chánh nhân trở thành quả vị Bồ tát. Nếu chúng ta có
tâm bình đẳng viên dung vô ngại, đó chính là cái chánh nhân Phật
giới thanh tịnh công đức không thể nghĩ bàn. Bài kệ trên nêu lên
một Phật giới là bao gồm 9 cảnh giới kia vậy.
Ta nên lưu ý về chữ Tánh và Tâm của bài kệ nói trên. Chữ Tánh là
chỉ cho cái thể bất biến của muôn pháp. Còn nói Tâm là chỉ cho cái
dụng tùy duyên. Từ cái thể bất biến, nhưng nó lại tùy nhiễm duyên
(duyên của 7 thức trước) mà tạo ra chúng sanh nơi 9 pháp giới kia.
Ngược lại, cũng từ nơi cái thể bất biến mà nó tùy nơi tịnh duyên (
duyên thanh tịnh của Như lai tạng ) mà tạo ra cảnh giới Phật. Khi
tùy nhiễm duyên mà tánh nó cũng không nhiễm. Như vàng không
phải vì còn ở trong quặng nhơ mà mất đi tánh chất vàng ròng. Khi
tùy tịnh duyên, tánh nó cũng không tịnh. Thí như gương chiếu vật
tượng, vật tượng có tốt, có xấu, còn cái thể gương trong sáng kia
không hề có biến đổi tốt xấu. Tánh thể Như lai tạng tâm cũng lại
như thế.
Nay muốn phá tan những nghiệp đạo xấu ác kia ( ngạ quỷ ) trước
phải nêu bày rõ về bản tâm. Nếu biết tất cả đều từ tâm lưu xuất, thì
bao nhiêu nghiệp chướng, đương thể đều tiêu tan hết.
Nguyên do có nửa bài kệ tụng trên, là do Bồ tát Giác Lâm nói
mười bài kệ để tán dương Phật. Mà nửa bài trên đây thuộc về bài
thứ mười. Theo Kinh Hoa Nghiêm, hồi thứ tư nói rằng, bấy giờ
Phật ngự ở cung trời Dạ Ma ( cõi trời thứ 3 của dục giới ) các vị
Bồ tát đồng đến dự hội, mỗi vị Bồ tát đều nói kệ tán Phật.
Trên đây, là chúng ta đã tìm hiểu sơ qua về nội dung ý nghĩa của
bài kệ, tiếp theo là lời chân ngôn phá địa ngục: Phá địa ngục chân
ngôn. Như trên đã nói, địa ngục có ra từ tâm, nếu muốn chấm dứt
khổ đau ở nơi địa ngục, thì cũng phải từ tâm mà phá. Nói phá là
một cách nói, kỳ thật do vô minh vọng thức mà chúng sanh tạo ác
nghiệp chiêu khổ báo địa ngục. Nay, chỉ cần hồi tâm chuyển ý vận
dụng ánh sáng của trí huệ soi chiếu phá tan bóng tối si mê. Vì vô
minh vốn không có tự tánh. Như bóng tối làm gì có tự tánh chân
thật. Dù bóng tối ấy, có ra muôn triệu năm, nay chỉ cần có ánh
sáng của ngọn đèn chiếu vào, thì bóng tối kia sẽ không còn. Địa
ngục là cảnh giới tối tăm, từ tâm sở tạo, nay tâm giác tỉnh, vắng
lặng sáng suốt, thì cảnh giới tối tăm địa ngục tất không còn.
Câu thần chú: Án già ra đế dạ ta bà ha, là nói lên ý nghĩa gì?
Nghĩa là nói lên cái năng lực vĩnh ly ác đạo. Chân ngôn là lời chân
thật xuất phát từ tánh thể thật tướng. Nói cách khác chân ngôn là
dụng, là phương tiện trí, hay hậu đắc trí, xuất phát từ căn bản trí.
Từ tâm hậu đắc nó phát sanh lưu lộ tâm đại bi, từ đó, mới có ra
thần chú bí mật. Nghĩa là từ thể chân như mà hiện ra chân ngôn đại
bi cứu độ chúng sanh, mà cụ thể là các loài ngạ quỷ đói khát đây
vậy.
Kế tiếp, đọc lời chân ngôn phổ triệu thỉnh, khi tụng thần chú này,
người tụng phải thành tâm quán tưởng triệu thỉnh tất cả cô hồn,
chúng sanh, khắp cả Tam đồ, Lục đạo đồng nương nhờ oai quang
của Phật mà đồng tụ tập nơi đạo tràng để thọ thực.
Phổ triệu thỉnh chân ngôn
Nam Mô bộ bộ đế rị, đà rị đa rị đát đa nga đa da ( 3 lần )
Yếu Giải
Câu thần chú này mang ý nghĩa là phổ thỉnh. Mặc dù đã phá các
địa ngục, nhưng sợ rằng người cúng thí do tâm quán tưởng không
tinh thành, không thể khiến cho các loại cô hồn, chúng sanh nương
theo lời mà đến, nên phải tuyên đọc thần chú này khắp thỉnh hết
thảy chúng sanh trong pháp giới nương ánh hào quang chư Phật
mà cùng nhau hội tụ lại đạo tràng, để thính pháp và thọ thực.
Giống như trong một buổi lễ, người chủ lễ thành tâm trịnh trọng
mời tất cả quý khách thập phương về dự lễ, tất cả đồng vân tập một
nơi ( như giảng đường ) để nghe thuyết pháp và sau đó thọ thực
vậy.
Tiếp theo là tụng lời chân ngôn giải oan kiết. Khi tụng thần chú
này, người tụng cần phải nhứt tâm quán tưởng chúng sanh trong
lục đạo đều nương nơi chú lực và Phật lực, khiến cho những nỗi
niềm oan kiết trói buộc chằng chịt từ vô thỉ kiếp, nay tất cả đều
được giải kết và thanh tịnh.
Giải oan kiết chân ngôn
Án tam đà ra dà đà ta bà ha ( 3 lần )
Yếu giải
Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay, vì tham si chấp ngã, pháp
nặng nề, nên tạo ra không biết bao nhiêu nghiệp ác, gây nên bao
nỗi oán thù, oan gia tương báo nhiều đời. Nay vì muốn cho tất cả
chúng sanh cởi mở tháo gỡ những nội kết oán thù đó, để cho trong
tâm của mỗi chúng sanh được an vui giải thoát. Nghĩa là phải dứt
đi những oan gia ràng buộc và cần nên mở rộng cõi lòng bao dung
độ lượng thương yêu nhau trong tình huynh đệ, không nên tiếp tục
gây ra đau khổ cho nhau. Câu thần chú đó có công năng như lời
hiệu triệu hay thông điệp của sự kêu gọi đồng loại nên xóa bỏ, hóa
giải những hận thù tranh chấp, đồng tâm hiệp lực xây dựng tình
yêu thương tương kính đồng loại, cùng nhau hướng về pháp hội
bình đẳng giải oan mà thọ dụng thức ăn trong tinh thần hòa ái hỷ
xả bao dung.
Tiếp đến là phụng thỉnh Tam bảo chứng minh.
Tại sao phải phụng thỉnh Tam bảo ?
Theo bổn kinh Diệm khẩu, thì nửa phần trước, nói về sự tướng, tức
việc thiết lập đàn tràng, phụng thỉnh Phật thánh và bày ra các món
cúng dường. Nửa phần sau, là vào Quan Âm định rồi, sau mới phá
địa ngục và triệu thỉnh các loại cô hồn trong lục đạo. Nay văn thí
thực đây, thì trước phá địa ngục rồi sau mới triệu thỉnh, là do lúc
đầu tụng bài kệ Duy tâm chỉ bày ra chỗ phá ngục, tức là đạo tràng
rồi. Đọc thần chú trên trước khi phụng thỉnh Tam bảo, có ý là phải
tưởng tất cả quỷ thần đều cùng hồ quỳ chấp tay cung kính đồng
xưng danh hiệu Phật.
Nam Mô Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh ( 3 lần )
Yếu giải
Đây là danh đề của bộ kinh Hoa Nghiêm, tức là ngôi nhứt thể Tam
bảo : Đại Phương Quảng là pháp bảo, Phật là Phật bảo ; Hoa
Nghiêm là Tăng bảo.
Chữ Đại là nói lên cái thể rộng lớn không ngằn mé. Chữ Phương
nói lên pháp môn vô tận. Quảng là nói lên cái dụng rộng lớn cùng
khắp không có giới hạn, không thể tính đếm suy lường được. Phật
là chỉ cho thể tánh thanh tịnh sáng suốt, toàn giác. Hoa, thì bát
ngát phơi bày ra muôn hạnh, sáng rỡ các đức. Nghiêm, thì tròn đủ
đức hạnh năng nhân. Kinh, là nói lên yếu nghĩa khế lý và khế cơ,
muôn đời bất di bất dịch.
Chỉ nêu lên danh đề của kinh, thì đã gồm thâu hết ý nghĩa của toàn
kinh. Vì kinh này, Phật hiện viên mãn báo thân phóng quang để gia
bị cho các vị Đại Bồ tát và chỉ có những vị này mới thấu hiểu được
nghĩa lý thật tướng thâm áo tròn đầy mà Phật đã nói. Vì thế, người
nghe và tụng lạy kinh này, thì được lợi lạc rất lớn.
Tổ Thiên Thai đại sư nói : « Chỉ nghe cái đầu đề kinh này, đã được
công đức vô lượng ».
Những câu danh hiệu Phật dưới đây là tiêu biểu cho biệt tướng
Tam bảo :
Nam mô thường trụ thập phương Phật.
Nam mô thường trụ thập phương pháp.
Nam mô thường trụ thập phương Tăng.
Yếu giải
Chữ thường trụ ( trú ) có nghĩa là gì ?
Chữ « Thường » có nghĩa là luôn luôn hằng còn không biến đổi,
vượt ngoài thời và không gian. Còn nghĩa của chữ « Trụ » là sao ?
Là nói pháp thân lặng lẽ trùm khắp, chẳng dời đổi, xưa sao nay vậy
là Trụ. Đây là nói lý nhất thể hay đồng thể Tam bảo. Nói cách
khác, thường trụ cũng có nghĩa là vô trụ. Vô trụ là không bị dính
mắc nơi trần cảnh. Khi hành giả tiếp xúc với sáu trần ( sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp, ) mà tâm thể vẫn như như an nhiên bất động,
không để tâm hệ thuộc vào sáu trần, đó là nghĩa vô trụ tướng, hay
vô tâm. « Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền »( Sơ Tổ Trúc Lâm ).
Đức Lục Tổ Huệ Năng nói : « Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm ». Có
nghĩa là, nên sanh cái tâm mà không bị dính mắc vào sáu trần. Nói
rõ ra, khi sáu căn của hành giả tiếp xúc với sáu trần, mà tâm của
hành giả không bị dao động phân biệt tốt xấu hay dở… dính mắc
vào sáu trần, là ngay đó hành giả đã được giải thoát rồi. Hành giả
không cần phải tìm cầu giải thoát ở đâu xa. Bởi thế, nên trong Kinh
Lăng Nghiêm Phật dạy cho Tôn giả A nan : « Giải thoát hay luân
hồi là ở nơi sáu căn của ông ». Đây cũng là nghĩa của « tùy duyên
bất biến », hay nghĩa của hai chữ thường trụ vậy.
Nói biệt tướng, tức là tướng riêng của Tam bảo. Đứng về mặt thể
tánh, thì Tam bảo có cùng chung một thể tánh. Nhưng đứng về mặt
danh tướng, thì có sai khác. Như đứng về mặt bản thể, thì những
lượn sóng có chung thể tánh là nước. Nhưng đứng về mặt hiện
tượng, thì những lượn sóng lớn nhỏ kia có sai khác. Tuy có sai
khác trên hình tướng, nhưng tánh thể thì không hai. Toàn nước
chính là sóng, mà toàn sóng cũng chính là nước. Một thí dụ khác,
như có nhiều bóng đèn điện ở trong phòng, hình thể của mỗi bóng
tuy có khác, nhưng tất cả chỉ có cùng chung một dòng điện. Dòng
điện là dụ cho tánh thể. Các bóng đèn là dụ cho biệt tướng. Cũng
thế, nếu đứng về mặt danh tướng mà xét, thì Phật, Pháp, Tăng, mỗi
mỗi đều có sai khác, nhưng đứng về mặt bản thể, thì không hai.
Xét về biệt tướng Tam bảo thì hiển nhiên, Đức Phật Thích ca
không phải là Đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế Âm, hẳn nhiên
là phải khác với Bồ tát Địa Tạng… Đến giáo pháp của chư Phật
dạy cũng tùy cơ duyên phương tiện độ chúng sanh mà có khác. Vì
mỗi vị đều có sở nguyện và lập trường sử dụng phương tiện độ
sanh có khác nhau, ít ra cũng là trên phương diện pháp môn.
Nhưng cứu cánh cũng nhằm một mục đích chung, là đưa chúng
sanh đến chỗ viên mãn chóng thành Phật quả mà thôi. Như vậy,
trên phương tiện thì có khác mà cứu cánh thì không hai. Hiểu thế,
thì giữa Tướng và Tánh hay giữa Sự và Lý đều viên dung vô ngại,
không có gì chống trái sai khác nhau cả.
Tóm lại, về biệt tướng Tam bảo thì có khác mà đồng thể Tam bảo
thì nhứt như.
Kế tiếp là đồng niệm danh hiệu Đức Bổn sư Thích ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca mâu Ni Phật.
Yếu giải
Bổn Sư là ông Thầy gốc ; Thích Ca ( Sakya ) là họ ; Mâu Ni là tên.
Mâu ni Trung Hoa dịch là tịch mặc. Phật, tiếng Phạn là Buddha,
Trung Hoa dịch là Giác giả, nghĩa là một người luôn có đời sống
tỉnh thức hay đã giác ngộ hoàn toàn.
Về phần lịch sử nói về cuộc đời của Đức Phật, thiết nghĩ, tất cả
chúng ta ít nhiều gì cũng đã biết qua. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu
ra tiêu biểu tóm tắt một vài nét chính yếu mà thôi. Như tất cả
chúng ta đều biết, Đức Phật thị hiện trong cung vua Tịnh Phạn.
Lớn lên, Ngài ý thức những nỗi thống khổ của kiếp nhân sinh :
sanh, già, bệnh, chết. Từ đó, Ngài quyết chí từ bỏ ngai vàng điện
ngọc, vợ đẹp con ngoan, đi xuất gia, tầm đạo và tỏ ngộ chân lý.
Cuối cùng, Ngài đã thành Phật đưới cội cây Bồ đề, có danh hiệu là
Phật Thích ca Mâu Ni. Từ đó, Ngài đã trở thành vị khai sáng ra
đạo Phật và Ngài đã hoằng pháp lợi sanh suốt cả cuộc đời. Vì là
người khai sáng ra đạo Phật ở cõi này, nên Ngài là người giáo chủ
của cõi Ta bà này. Cho nên, trước hết chúng ta phải niệm danh
hiệu của Ngài, để thức nhắc mọi người nhớ đến công lao cao cả vĩ
đại của Ngài. Từ đó, chúng ta cố gắng noi theo tấm gương tự giác,
giác tha, giác hạnh viên mãn cao cả của Ngài, mà mỗi người chúng
ta cần nên nỗ lực học hỏi hành trì đúng theo những gì mà Ngài đã
thực hiện, chỉ giáo. Có thế, thì chúng ta mới thực sự là người tri ân
và báo ân Ngài. Và như thế, thì sự tu học của chúng ta mới thực sự
có lợi ích vậy.
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát.
Yếu giải
Đại bi là lòng thương xót rộng khắp chúng sanh, không phân biệt
thân sơ. Dùng cái tâm vô duyên từ bi để phổ độ cứu khổ chúng
sanh. Quán là dùng trí huệ quán sát cùng khắp. Thế Âm là tiếng
kêu than của chúng sanh ở chín cõi. Nơi nào có tiếng kêu than, thì
Bồ tát lắng nghe tầm thinh cứu khổ. Đó là hạnh nguyện cứu khổ
sâu rộng của Bồ tát Quán Thế Âm. Chính Ngài hiện thân Diện
Nhiên Quỷ Vương, để bảo Tôn giả A Nan thỉnh cầu nơi Phật mà
nói ra thần chú này. Với nguyện lực là cứu độ khắp cả chúng sanh
ở cõi dương và cõi âm.
Bồ tát Quán Thế Âm là vị Bồ tát rất có nhân duyên với chúng
sanh ở cõi Ta bà này. Do đó, mà Ngài thường hiện ra nhiều ứng
hóa thân để cứu khổ chúng sanh. Khi niệm danh hiệu Ngài chúng
ta phải hết sức tâm thành để lắng nghe lại hạnh nguyện Quán Âm
của chính lòng mình. Không nên chỉ một bề hướng ra ngoài để cầu
Ngài cứu khổ không thôi. Ngài chỉ cứu giúp cho chúng ta một
phần nào đó. Nhưng phần chính yếu khổ hay vui là do chính chúng
ta định đoạt tạo lấy. Hiểu thế, thì mới tương ưng phần nào hạnh
nguyện cứu khổ của Ngài. Chúng ta không nên ỷ lại giao hết thân
mạng của chúng ta mà phó thác cho Ngài. Vì như thế là ta đã hoàn
toàn ỷ lại ở nơi Ngài. Ỷ lại và tin tưởng như thế, thì chúng ta hoàn
toàn sẽ không bao giờ hết khổ.
Ngài không bảo chúng ta phải tin ngài bằng cách phó thác như
thế. Tin Ngài là phải nỗ lực tu theo hạnh nguyện : « Phản văn văn
tự tánh » và từ bi vị tha rộng lượng bao dung của Ngài. Nghĩa là
phải thực tập cho kỳ được bốn tâm hành vô lượng : « Từ, Bi, Hỷ
Xả ». Phải có tấm lòng cởi mở trải rộng lòng thương chúng sanh
như thế. Đức Phật Bổn Sư của chúng ta cũng đã từng dạy : « Mỗi
người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi, nhưng phải thắp lên với
chánh pháp ». Như thế, thì chỉ có ta mới làm chủ nhân ông quyết
định đời ta mà thôi. Phật hay Bồ tát chỉ là những người trợ duyên
chỉ giáo cho chúng ta. Chúng ta nên biết rằng, hạnh Quán Âm là
lắng nghe, và phải lắng nghe một cách sâu sắc. Ta nên thường
xuyên tập hạnh lắng nghe theo hạnh nguyện cứu khổ của Ngài. Có
thiết thiệt lắng nghe ta mới hiểu và cảm thông những nỗi thống khổ
của ta và tha nhân. Từ đó, ta mới có thể hóa giải tháo gỡ những nỗi
khổ niềm đau nơi chính bản thân ta và rồi tìm cách tháo gỡ giúp hộ
cho mọi người. Được thế, thì ta mới thiết thiệt là người khéo tin và
rất trung thành khi niệm danh hiệu Ngài.
Tiếp theo là niệm Địa Tạng Vương Bồ tát.
Nam mô Minh Vương cứu khổ Địa Tạng Vương Bồ tát.
Yếu giải
Sở dĩ niệm danh hiệu Ngài là vì nương theo đại nguyện của Ngài.
Và tại sao gọi là Minh Vương ? Bởi vì Tam ác đạo : địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh, là ba cảnh giới thuộc về cõi U Minh. Còn lại ba
cảnh giới kia : trời, người và A tu la, thuộc về cảnh giới Dương
gian. Do đó, Nên gọi Ngài là Minh Vương. Hơn nữa, Ngài có thệ
nguyện rằng : « Độ hết chúng sanh mới chứng Bồ đề ( gồm cả
Minh Dương ), địa ngục chưa trống không, thì Ngài thề chẳng
thành Phật ». Chỉ nói cõi Minh, nên nói là Minh Vương cứu khổ.
Địa là đất, có hai công năng : năng sanh và sở sanh. Năng sanh là
hay sanh ra vạn vật. Sở sanh là nơi để sanh ra muôn vật. Tạng là
kho, có công năng chứa các báu. Vương là vua, có nghĩa tự tại. Ý
nói : Bồ tát dùng cái tâm bất tư nghì hạnh nguyện để trùm chứa cái
công đức hằng sa trí huệ, mà được cái diệu dụng tự tại. Do thế,
Đức Địa Tạng từ trong vô lượng kiếp, giáo hóa vô lượng đệ tử đã
thành Phật, mà Ngài còn ở địa vị Bồ tát, cho nên chưa nguyện
thành Phật, chớ đâu phải Ngài chẳng nguyện thành Phật ư !
Bởi thệ nguyện của Ngài quá rộng lớn không ngằn mé, vì độ chúng
sanh chưa hết, nên nguyện của Ngài chưa xong. Do đó, mà ta thấy
không có vị Bồ tát nào có thệ nguyện rộng lớn không bờ bến như
Ngài. Bởi cớ đó, nên Đức Phật đã khen ngợi hạnh nguyện của Ngài
hết lời.
Nam mô khải giáo A Nan Đà tôn giả
Yếu giải
Ngài A Nan là người cầu thỉnh Đức Phật nói ra pháp môn để cứu
thoát loài ngạ quỷ này, nên nói Ngài là người khải giáo. Tiếng
Phạn là Ananda, Trung Hoa dịch là Khánh Hỷ. Ngài sanh ra cùng
ngày Phật thành đạo, nên đặt tên Ngài là Khánh Hỷ. Khánh Hỷ có
nghĩa là Mừng Mừng! Vì mừng Phật thành đạo và mừng Ngài sanh
ra. Ngài là con thứ của Bạch Phạn Vương ( có chỗ nói ngài là con
Hộc Phạn Vương ) em ruột của Đề bà đạt đa. Như vậy, giữa Ngài
và Phật là anh em chú bác ruột. Ngài con nhà chú, Phật con nhà
bác. Vì Phật là con trai của Tịnh Phạn Vương. Tịnh Phạn Vương
có bốn anh em trai: Tịnh Phạn Vương, Bạch Phạn Vương, Hộc
Phạn Vương và Thiết Hộc Phạn Vương. Sau Ngài theo Phật xuất
gia và làm thị giả của Phật. Ngài có biệt tài là đa văn đệ nhất.
Phần kế tiếp là nguyện cho các loại quỷ thần hướng về Tam bảo
mà quy y. Quỷ thần có nhiều chủng loại khác nhau. Chỗ ở của
chúng cũng có nhiều nơi, nhưng không ngoài chánh trụ và biên trụ.
Chánh trụ là an trụ giữa trung ương, là nơi Diêm Vương thống lãnh
quỷ chúng. Còn biên trụ là quỷ thần ở rải rác khắp nơi như: trong
hang núi, ngoài bể cả, giữa đồng trống, trong vườn rừng, cầu tiêu
v.v…
Về quả báo thì có hai thứ: hữu uy đức và vô uy đức. 1. Loại quỷ có
uy đức, thì ở các chỗ giữa núi, trong hang giữa chỗ trống không,
bên bờ biển, đều có cung điện bằng thất bảo trang nghiêm, mỹ lệ,
mắt thường không thể thấy được. 2. Loại không có uy đức, thì
chúng nương dựa nơi những chỗ bất tịnh như: lùm cỏ, bụi cây, gò
mã, bình che nhà xí, gò hoang… Thứ quỷ này không có nhà cửa
cung điện, sống vất vả lang thang khắp nơi không có chỗ ở nhứt
định.
Lại nữa, loại quỷ có uy đức có hai hạng: chánh thần và tà thần. 1.
Chánh thần là loại thần vừa có phước lại vừa có đức như: Thành
Hoàng, Thổ Địa v.v…Những vị thần này được người thờ cúng
hương lửa đàng hoàng, nên gọi là chánh thần. 2. Tà thần là loại
thần có phước, nhưng không có đức. Như các loài: Dạ xoa ( loài
quỷ ở trên mặt đất hoặc trong hư không, dùng oai thế não hại
người, hoặc dùng oai thế giữ gìn chánh pháp, là một trong tám bộ
chúng ). La sát ( loại ác quỷ có thần thông, có thể bay nhanh ở
trong hư không, hoặc đi nhanh trên mặt đất, bạo ác đáng sợ ) Ly (
loại quỷ hung dữ chuyên hại người, thường gọi là hồ ly tinh ) Mỵ (
loại quỷ yêu quái ở gỗ đá hóa ra ), Võng Lượng ( giống yêu quái ở
gỗ đá ) Đó là những loài nương dựa nơi bất cứ vật gì, như: đình
làng, miếu xã, để đem điều phúc, họa, làm bậy bạ để kiếm ăn
hưởng cúng nơi huyết thực dâm từ.
Tuy quỷ thần có nhiều chủng loại: hiền, dữ, phước đức khác nhau,
nhưng chúng cũng phải có người lãnh đạo trông coi điều hành. Tất
cả đều dưới quyền thống lãnh giám sát của tứ Thiên vương. ( Bốn
vị vua này cai quản 4 nơi ở lưng chừng núi Tu di và chịu dưới
quyền cai trị thống lãnh của trời Đế Thích ). Bốn vua trời đều lãnh
hai bộ Quỷ Thần để bảo hộ đời người trong bốn châu ( Nam thiệm
bộ châu, Tây ngưu hóa châu, Đông thắng thần châu, Bắc cu lô
châu ) nên thiên hạ nhân dân được bình an, nếu nhân loại đều biết
tu thiện.
Loài quỷ ở rải rác trong các thú ( nhân, A tu la, địa ngục, súc sanh
), nhẫn đến trong phòng, trong nhà, chỗ các người ở đều có quỷ
đầy dẫy ở trong cả, nhưng người với quỷ chẳng thấy lẫn nhau,
cũng không trở ngại với nhau. Vì vô minh nghiệp chướng của
chúng sâu dày, nên dẫu có ánh sáng Phật pháp chiếu tới mà chúng
cũng không thể hồi tâm chuyển ý ăn năn sám hối.
Nay nguyện cầu cho chúng hãy đồng nương về Tam bảo để tu
hành, cải ác tùng thiện, cải tà quy chánh, đó là ý nghĩa của sự
tuyên bày pháp Tam quy y sau đây:
CHÁNH VĂN:
Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.
Quy y Phật lưỡng túc tôn,
Quy y Pháp ly dục tôn,
Quy y Tăng chúng trung tôn,
Quy y Phật cánh, Quy y Pháp cánh, Quy y Tăng cánh. ( 3 lần )
DỊCH NGHĨA
về nương Phật, về nương Pháp, về nương Tăng.
Về nương Phật đấng Lưỡng túc
Về nương Pháp đấng Ly dục
về nương Tăng đấng giữa chúng
Về nương Phật rồi
Về nương Pháp rồi
Về nương Tăng rồi
( Theo bản dịch của Cố Hòa Thượng Khánh Anh trong Nhị Khóa
Hiệp Giải tr 479)
Yếu giải
Khi đọc phải quán tưởng: nguyện cầu cho tất cả chúng sanh đều
hết lòng trở về nương tựa Ba Viên Ngọc quý: Phật, Pháp, Tăng.
Lưỡng túc tôn là chỉ cho Phật. Vì Phật là bậc cao quý trong loài
hai chân, tức chỉ cho loài người. Lại, túc cũng có nghĩa là đủ. Ý
nói Phật đầy đủ cả phước đức và trí huệ. Phước trí viên dung,
lưỡng toàn phương tác Phật.
Ly dục tôn là chỉ cho Pháp. Vì giáo pháp của Phật nói ra nhằm chỉ
cho chúng sanh xa lìa dục vọng, tức là xả tất cả ngoại duyên cho
đến thân tâm, có thế, thì mới được giác ngộ giải thoát tự tại.
Chúng trung tôn là chỉ cho Tăng. Tăng có hai hạng : Thánh tăng
và phàm tăng. Thánh Tăng là chỉ cho các vị Bồ tát đã được giải
thoát tự tại. Như Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Địa Tạng v.v… Còn
phàm tăng là chỉ cho những vị Tăng, Ni, chưa dứt hết vô minh
phiền não. Những vị này đang trên bước đường tu tập. Tuy chưa
dứt hết tập nhân phiền não, nhưng những vị đó có nhiệm vụ trọng
trách là thay Phật tuyên dương chánh pháp để vừa lợi mình, lợi
người, đúng theo chánh pháp Phật dạy.
Quy y Tam bảo có Sự quy y và Lý quy y. Về phần Sự là nương nơi
hình thể Tam bảo thế gian để chúng ta tu tập. Như nương nơi Phật
tượng, Kinh điển và chư Tôn đức Tăng Ni. Tôn thờ Phật tượng,
với mục đích chính là để chúng ta noi theo tấm gương trong sáng
công hạnh tu hành giác ngộ giải thoát của Phật. Nương nơi Kinh
điển, đó là những lời vàng ngọc mà Phật Tổ đã chỉ dạy, để cho
chúng ta y theo đó mà hành trì. Kinh điển như là bản đồ chỉ dẫn
cho chúng ta biết rõ đường lối tu hành. Nhờ đó mà chúng ta không
bị lầm đường lạc lối rơi vào con đường tà kiến ngoại đạo. Nương
nơi các bậc xuất gia tu hành chơn chánh để chúng ta học hỏi những
gì mà chúng ta chưa hiểu rõ. Nhờ có chư Tăng Ni chỉ dạy mà
chúng ta mới được mở mang trí sáng để tu hành đúng theo chánh
pháp. Đó là nói sơ lược về phần Sự quy y là như thế.
Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ biết một bề quy y phần sự tướng
không thôi, thì chưa đúng ý nghĩa của hai chữ quy y. Phần sự
tướng chỉ là phương tiện ngoại diện bước đầu để chúng ta tiến sâu
vào phần lý tánh. Vì Phật dạy mỗi người chúng ta ai ai cũng đều
sẵn có Tam bảo tự tâm. Ai ai cũng có khả năng thành Phật tác Tổ.
Khả năng đó nó tiềm tàng sâu kín trong tâm thức của mỗi cá thể
chúng ta. Chỉ cần chúng ta chịu khó xoay lại, tức hồi quang phản
chiếu, hay phản quan tự kỷ, là chúng ta sẽ trực nhận được Tam bảo
sẵn có nơi tự tâm ta. Tuy sẵn có, nhưng vì từ vô thỉ kiếp đến nay,
chúng ta bị vô minh nghiệp thức che đậy, nên chúng ta không nhận
ra được tự thể Tam bảo đó thôi. Nay nhờ đủ duyên lành, nương nơi
Tam bảo bên ngoài để chúng ta nhận lại cái Tam bảo sẵn có của ta.
Nhà Thiền gọi đó là “kiến sắc minh tâm”. Có nhận ra và thực sự
trở về nương tựa với Tam bảo tự tâm như thế, thì chắc chắn đảm
bảo chúng ta sẽ không còn trôi lăn trong vòng sanh tử khổ đau nữa.
Vì sự lợi ích thiết thiệt của việc quy y Tam bảo lớn lao như thế,
nên người cúng thí phải hết lòng hướng dẫn các loại cô hồn, quỷ
thần đồng trở về nương tựa nơi Tam bảo. Nhờ đó mà họ thức tỉnh
tu hành để được thoát khổ.
Sau khi hướng dẫn các loại quỷ thần, cô hồn đã trở về nương tựa
Tam bảo rồi, kế đến là hướng dẫn cho họ sám hối tội lỗi. Bởi vì,
trong nhiều kiếp quá khứ, vì vô minh bất giác, nên họ đã gây tạo
không biết bao nhiêu nghiệp ác lỗi lầm, nay muốn hết tội lỗi đã
gây, thì phải đem hết lòng thành để ăn năn sám hối. Nhờ đó, mà
những tội lỗi đã gây, sẽ được nhẹ bớt và sẽ tiến dần lên con đường
thánh thiện. Đó là ý nghĩa của những điều hướng dẫn cho họ sám
hối tam nghiệp sau đây :
CHÁNH VĂN :
Phật tử ( Hữu tình, Cô Hồn ) sở tạo chư ác nghiệp,
Giai do vô thỉ tham, sân, si,
Tùng thân, ngữ, ý chi sở sanh,
Nhứt thiết Phật tử ( Hữu tình, Cô hồn ) giai sám hối.
DỊCH NGHĨA:
Phật tử ( Hữu tình, Cô hồn ) chỗ tạo các nghiệp ác,
Đều bởi vô thỉ tham, sân, si,
Từ thân, miệng, ý chỗ sanh ra,
Tất cả Phật tử ( Hữu tình, Cô hồn ) đều sám hối.
Yếu giải
Phật tử, Hữu tình, Cô hồn, phân ra làm ba câu mà đọc như thế.
Theo lời giải trong Nhị Khóa Hiệp Giải, thì cho rằng, điều phân
chia đó e không đúng với nguyên bổn của Mông Sơn. Chỉ cần đọc
Phật tử là thỏa đáng hơn.
Phật tử là con của đấng Giác Ngộ, tức là con của Phật. Dù mệnh
danh là con, nhưng thật hành không đúng theo lời Phật dạy. Từ đó
gây tạo ra nhiều ác nghiệp, nên phải chiêu cảm lãnh lấy quả báo
khổ đau. Phải sa đọa vào tam đồ ác đạo. Vì muốn cho họ hồi tâm
cải hối để được giải thoát khỏi cảnh khổ đau, nên cần hướng dẫn
họ hết lòng ăn năn sám hối.
Hữu tình, là chỉ chung những loài có tình thức phân biệt, biết khổ
vui và ham sống sợ chết. Vì có tình thức, nên có sự ân ái, tham
đắm dục tình. Từ đó, gây tạo nhiều ác nghiệp, rồi phải chịu quả
báo khổ đau.
Cô hồn, là những loài sống lang thang, không nơi nương tựa.
Không ai cúng thí cho ăn, phải chịu đói khát khổ sở trăm bề. Đó là
cái quả báo, bởi do ba nghiệp không lành tạo nhiều điều bất thiện.
Nhứt là cái tội tham lam, keo kiết, bỏn xẻn, khinh chê Tam bảo mà
mắc tội báo dường ấy.
Vì lòng từ bi, muốn cho họ thoát khổ, nên nay đối trước Tam Bảo,
chúng ta thành tâm tha thiết mong cầu cho họ nên hết lòng thố lộ,
cầu xin sám hối.
Sám hối tiếng Phạn là Samma Trung Hoa dịch là hối quá. Sám có
nghĩa là ăn năn lỗi trước đã gây tạo. Hối là nguyện chừa bỏ lỗi sau.
Nghĩa là nguyện từ nay trở đi không bao giờ tái phạm. Đó là ý
nghĩa của hai chữ sám hối. Sám hối cũng có Sự và Lý. Trong Kinh
nêu ra có 4 cách sám hối : 1. Tác pháp sám hối. 2. Hồng danh sám
hối. 3. Thủ tướng sám hối. 4. Vô sanh sám hối. Ba cách sám hối
trước thuộc về Sự, còn cách sám hối sau ( vô sanh sám hối ) thuộc
về Lý.
Về sự sám hối, tất nhiên, là phải cần đến hình thức. Như Tác pháp
sám hối là người sám hối phải cầu thỉnh thanh tịnh Tăng chứng
minh. Đương sự phải thành tâm phát lồ sám hối, tức bày tỏ những
lỗi lầm mà mình đã gây ra. Nay đối trước thanh tịnh Tăng, nguyện
ăn năn hối cải không bao giờ tái phạm. Sau khi đã được chư Tăng
yết ma chứng minh rồi, và khi giới thể được thanh tịnh, thì tội lỗi
sẽ không còn.
Cách thứ hai, là Hồng danh sám hối. Đây là cách sám hối phổ
thông mà thường ở các chùa theo hệ phái Phật giáo phát triển ( Đại
Thừa ), cứ mỗi tháng đều có tổ chức hai kỳ sám hối vào tối 14 và
tối 29 ( nếu là tháng đủ ) hoặc tối 28 âm lịch ( nếu là tháng thiếu )
. Cách sám hối này là hành giả phải lạy đủ 108 lạy ( biểu trưng để
trừ 108 phiền não ), do Ngài Bất Động Pháp Sư đời Tống bên
Trung Hoa soạn ra. Nhờ xưng tán lễ bái hồng danh chư Phật mà
được tiêu trừ tội lỗi.
Cách sám hối thứ ba là Thủ tướng sám hối. Cách sám hối này, có
phần khó hơn hai pháp sám hối trước. Pháp sám hối này thuộc về
quán tưởng, chỉ dành cho người tu hành có trình độ cao, hoặc là ở
chỗ không có Tăng, hay có, nhưng không được thanh tịnh. Người
sám hối phải đối trước tượng Phật hay Bồ tát, thành tâm lễ bái,
trình bày những tội lỗi đã phạm, và nguyện ăn năn chừa bỏ. Cứ
sám hối như thế từ một ngày cho đến 49 ngày hay nhiều hơn nữa,
mãi cho đến khi nào thấy được hảo tướng như : thấy hào quang,
hoa sen báu, thấy Phật, Bồ tát đến xoa đầu v.v… thì mới thôi.
Cách sám hối cuối cùng là khó nhứt, đó là Vô sanh sám hối. Vì
cách sám hối này, nó thuộc về lý sám hối, phải là bậc thượng căn
mới có thể thực hành được. Bởi tội lỗi có ra là do từ nơi tâm ta tạo
ra, thì cũng phải từ tâm mà sám. Khi tâm ta hoàn toàn thanh tịnh,
thì bao nhiêu tội lỗi cũng không còn. Cả hai tâm và tội đều vắng
lặng, tức không còn thấy có năng, có sở, tức năng sở câu vong, thì
đó mới thật là chơn sám hối. Vì một khi hành giả đã nhận được
thật tướng, ( tức tướng không của muôn pháp), thì các giả tướng
không còn và như thế thì tội lỗi cũng không còn chỗ đâu gá nương
mà tồn tại, vì tánh tội vốn không. Đây là cách sám hối cao nhứt và
cũng là khó nhứt trong các pháp sám hối.
Sau khi sám hối xong, lại phải thành tâm phát khởi bốn điều thệ
nguyện rộng lớn, gọi là tứ hoằng thệ nguyện :
CHÁNH VĂN :
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
DỊCH NGHĨA :
Chúng sanh không ngằn thệ nguyện độ.
Phiền não không hết thệ nguyện dứt.
Pháp môn không lường thệ nguyện học.
Đạo Phật không gì hơn thệ nguyện thành.
Yếu giải
Bốn điều đại nguyện trên đây, hoàn toàn thuộc về sự. Đây là tứ
hoằng thệ nguyện của Bồ tát.
1. Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ là sao ?
Chúng sanh, nói đủ là chúng duyên nhi sanh. Nghĩa là nhiều thứ
hợp lại tạo thành một vật thể nào đó, thì gọi là chúng sanh. Như
con người, ắt phải nhờ nhiều thứ hợp lại mới thành. Như phải có
tinh cha huyết mẹ, thần thức, nói rõ ra là phải do năm uẩn cấu hợp
mà thành. Đã do duyên hợp, tất nhiên bản chất nó là không thật.
Ngay khi thọ nhận cái báo thân này, thì chúng ta đã thọ không biết
bao nhiêu điều thống khổ. Trong kinh thường nói có : « ba khổ và
tám khổ ». Đó là những nỗi thống khổ lớn của con người. Khổ tuy
vô lượng, nhưng ta nguyện độ hết. Độ có nghĩa là vượt qua.
Chúng sanh vô biên, thì nguyện ta cũng vô biên, đó là duyên theo
khổ đế mà phát thệ nguyện vậy. Nhưng có điều chúng ta cần hiểu
thêm rằng, nói độ chúng sanh ở đây, có hai ý nghĩa :1. noi theo
hạnh nguyện của Bồ tát mà rộng độ khắp chúng sanh bên ngoài. 2.
phải hằng tỉnh giác độ chúng sanh tự tâm ta. Độ chúng sanh tự
tâm bằng cách nào ? Bằng cách là cứ mỗi một niệm dấy khởi lên
nghĩ về người hoặc nghĩ về vật, thì đó là một chúng sanh. Nhiều
niệm dấy khởi là nhiều chúng sanh. Ta phải độ các chúng sanh
này, đưa tất cả chúng nó vào Vô dư niết bàn. Niết bàn là vắng lặng,
là vô sanh. Nghĩa là khi chúng ta nhận diện rõ bộ mặt thật của
chúng, thì chúng sẽ tan biến ngay. Chính cái chỗ tan biến, không
còn niệm, đó là Niết bàn, là lặng lẽ khi chưa khởi niệm.
Cách độ chúng sanh này, là ta noi theo phương cách Phật dạy cho
ngài Tu Bồ Đề ở trong Kinh Kim Cang Bát Nhã. Có hằng độ như
thế, thì tâm ta mới chóng hết phiền não và từ đó chúng ta mới có
thể phổ độ chúng sanh bên ngoài. Đây cũng là thể hiện tinh thần tự
lợi, lợi tha của hạnh nguyện Bồ tát vậy.
2. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn là nghĩa gì ?
Phiền não là những thứ rối rắm, bức rứt, bất an, gây ra khó chịu
trong tâm. Chữ phiền, theo sự cấu tạo của chữ Hán, thì nó có bộ
hỏa. Hỏa là lửa. Ý nói mỗi khi tâm ta bất an, như giận tức hay ganh
ghét ai chẳng hạn, thì lửa giận nó đưa lên đầu, tạo thành trạng thái
tâm lý nóng nảy khó chịu vô cùng. Phiền não nói chung, nó gồm
có hai thứ : « Căn bản và tùy phiền não ». Nói cách khác là Kiến,
Tư hoặc phiền não. Hai thứ này, có thứ gốc rễ sâu khó trừ khó
đoạn. Đó là căn bản hay tư hoặc phiền não.
Còn loại phiền não dễ trừ, đó là tùy phiền não hay Kiến hoặc. Căn
bản phiền não gồm có 6 thứ : tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Tuỳ
phiền não gồm có 20 thứ : Phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống,
siễm, hại, kiêu, vô tàm, vô quý, trạo cử, hôn trầm. bất tín, giải đãi,
phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri. Ngoài ra, còn có trần
sa hoặc ( Nhị thừa ) , vô minh hoặc ( vi tế của Thập Địa Bồ tát )
Duy chỉ có Phật mới hoàn toàn thanh tịnh.
Phiền não chưa hết, thì nguyện ta chưa xong. Đó là duyên về Tập
đế mà phát đại nguyện. Người tu hành mà không đoạn trừ hay
chuyển hóa phiền não, thì quả thật chúng ta chưa phải là người tu
theo đạo Phật. Bởi vì, Đức Phật sở dĩ Ngài được thành Phật là vì
Ngài đã dứt sạch hết vô minh phiền não. Do hết vô minh phiền
não, nên tâm thể của Ngài mới được hoàn toàn vắng lặng thanh
tịnh trong sáng. Vì Ngài đã được hoàn toàn giác ngộ, nên người ta
gọi Ngài là Phật.
Thế nào là pháp môn vô lượng thệ nguyện học ?
Do vì căn cơ của chúng sanh trong 9 cõi ( tiếng Hán Việt gọi là
cửu hữu hay cửu địa, là chỗ của loài hữu tình cư trú, gồm có : 1.
ngũ thú tạp cư địa ( địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, trời) 2. Tứ
thiền ( Ly sanh hỷ lạc, Định sanh hỷ lạc, Ly hỷ diệu lạc, Xả niệm
thanh tịnh ). 3.Tứ không ( Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô
sở hữu xứ, Phi tưởng, phi phi tưởng xứ chung lại là 9 cõi ) có
muôn ngàn sai khác, nên Phật thuyết giáo có nhiều pháp môn
phương tiện. Những pháp môn phương tiện đó, ta đều phải nguyện
học hết. Ta không gì có chút ít hiểu biết mà lại tự mãn cho là đủ
mà không chịu nỗ lực học hỏi. Người nào có tâm tự mãn, thì đó là
một thiệt thòi rất lớn. Chính cái căn bệnh tự cao, tự đại này , nó
làm chướng ngại trên bước đường nghiên cứu học Phật của chúng
ta rất lớn.
Do đó, Phật có vô lượng pháp môn, thì ta cũng phải phát đại thệ
nguyện học hỏi vô lượng. Vô lượng là ta thệ nguyện học hỏi không
bao giờ cùng. Đó là duyên về Đạo đế mà phát thệ nguyện. Cổ đức
nói : « Tu mà không học là tu mù ». Người tu, nhứt là đối với
người xuất gia, dù chúng ta còn một hơi thở tàn, nhứt quyết chúng
ta cũng còn phải học hỏi. Có học hỏi hiểu rõ chánh pháp, thì việc
hành trì của chúng ta mới đúng pháp và mới thực sự biết rõ đường
lối tu hành. Nếu không, thì dù chúng ta có ở lâu trong đạo, cũng trở
thành người quê kịch, « xúc sự diện tường » ( lời của Tổ Quy Sơn )
mà thôi. Tổ Quy Sơn nói : « Giáo lý vị thường thố hoài, huyền đạo
vô nhơn khế ngộ ». Ngài khuyến nhắc chúng ta rằng, nếu người
xuất gia, mà giáo lý chưa từng để lòng, thì chỗ huyền đạo làm sao
tỏ ngộ cho được ? Lời dạy này của Tổ, thiết nghĩ, là người xuất gia
hay tại gia, chúng ta cũng đều phải ý thức mà nỗ lực nghiên tầm
học hỏi chánh pháp đúng theo lời Phật dạy. Có thế, thì chúng ta
mới có thể cứu mình, độ người thoát khỏi cảnh mê lầm tăm tối khổ
đau vậy.
Tại sao Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành ?
Phật là người đã hoàn toàn giác ngộ. Ngài đã thoát ra hai thứ sanh
tử : « phần đoạn và biến dịch ». Ngài sanh ra trong cõi đời, đó
chẳng qua là do bản nguyện độ sanh của Ngài. Trong tiến trình tu
chứng, từ phàm phu đến Phật quả, thì Phật quả là vô thượng cao tột
không gì hơn. Do đó, Phật đạo vô thượng, thì nguyện ta cũng phải
vô thượng. Đây là do duyên với Diệt đế mà phát thệ nguyện. Phật
quả là mục tiêu nhắm tới của người tu. Muốn đạt được Phật quả,
thì chúng ta cần phải tu hành đúng theo cái hướng Phật nhân. Phật
nhân là tánh giác thanh tịnh sáng suốt, mà mỗi người chúng ta đều
sẵn có. Nếu không có Phật nhân thì làm sao chúng ta tu để đạt
thành Phật quả cho được? Phật nhân dụ như gạo hay lửa trong cây.
Vì có sẵn chất gạo nên ta mới nấu thành cơm ; vì có sẵn lửa trong
cây, nên ta cọ cây mới phát ra lửa.
Do đó, ta phải tin chắc rằng, nếu chúng ta chịu khó gia công nỗ
lực hành trì đúng theo tiến trình tu chứng như lời Phật dạy, thì chắc
chắn một ngày nào đó, chúng ta sẽ đạt thành Phật quả. Đó là điều
mà chúng ta không còn gì phải nghi ngờ. Chỉ sợ chúng ta đi lệch
hướng theo lời Phật dạy mà thôi. Một khi đã lệch hướng quỹ đạo
chánh pháp rồi, tất nhiên, chúng ta sẽ rơi vào con đường tà ngoại.
Đó là điều mà hành giả đạo Phật cần phải chú ý thận trọng trong
khi tu hành. Nguyện là một ước muốn mà trong đó phải có sự thật
hành. Nếu không, thì điều nguyện đó cũng chỉ là nguyện suông
không tưởng vô ích mà thôi !
Bốn điều đại nguyện trên tuy là chỗ của Bồ tát tu, nhưng ở đây vì
muốn cho chúng sanh khắp cõi u minh phát nguyện rộng lớn để họ
chóng thành tựu đạo quả vô thượng Bồ đề.
Sau đây là bốn điều thệ nguyện rộng lớn thuộc về lý.
CHÁNH VĂN :
Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ,
Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn,
Tự tánh pháp môn thệ nguyện học,
Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành.
DỊCH NGHĨA:
Với chúng sanh, tự tánh thệ nguyện độ
Với phiền não, tự tánh thệ nguyện đoạn
Với pháp môn, tự tánh thệ nguyện học
Với Phật đạo, tự tánh thệ nguyện thành.
Yếu giải
Giữa Thánh và phàm, thì nhiễm, tịnh và mê, ngộ có khác nhau. Mê
ngộ hay nhiễm tịnh, tùy ở nơi một niệm hiện tiền mà có. Hễ đương
niệm mê là theo nhiễm duyên thì tạo nghiệp ác, tất nhiên, là thọ
khổ. Ngược lại, hễ đương niệm giác, thì theo tịnh duyên tạo nghiệp
lành, tất nhiên, là thọ vui. Vui hay khổ tùy ở nơi một niệm đầu dấy
khởi. Từ đó, mới có ra tứ Thánh và lục phàm. Thế nên, chúng
sanh, phiền não, pháp môn, Phật đạo, đâu chẳng là cái dụng vốn
đầy đủ ở nơi tánh thể đó sao ! Tuy nhiên, về dụng tuy có nhiễm, có
tịnh, nhưng tánh thể thì nó vẫn bất biến.
Tỷ như cái gương khi chiếu cảnh, bóng cảnh dù có hiện trong
gương, nhưng thể sáng của gương vẫn không biến đổi.
« Chúng sanh ở cõi u minh kia, nếu hay đương niệm lãnh ngộ, thì
với chúng sanh phiền não, vốn không đoạn mà đoạn, với pháp môn
Phật đạo, vốn không chứng mà chứng, với lý đã viên thông, thì với
sự nguyện trước kia, khá dùng tương tức nhau được » ( Nhị Khóa
Hiệp Giải tr 484 )
Kế tiếp, tụng câu chú :
Diệt Định Nghiệp Chơn Ngôn.
Nghĩa là :
Lời Chân Ngôn Diệt Định Nghiệp Của Địa Tạng Bồ Tát.
( Từ đây trở đi là diệt các tội nghiệp )
Án bát ra mạt lân đà nãnh ta bà ha.
Yếu giải
Khi tụng chú này, tâm quán tưởng tất cả chúng sanh thảy đều phá
trừ định nghiệp từ vô thỉ. Nghiệp tuy có nhiều loại, nhưng ở đây
chỉ nêu ra hai thứ : Định nghiệp và Bất định nghiệp.
1. Định nghiệp : Nghiệp đã gây tạo đời trước, thì đời nay phải trả.
Định nghiệp này, sám hối thật khó tiêu trừ. Như phạm tội ngũ
nghịch : giết cha, giết mẹ v.v…Tuy nhiên, có thể chuyển nghiệp
nặng thành nghiệp nhẹ, hay chuyển tội nặng thành tội nhẹ. Nếu
người chứng đạt chân lý, ( thành đạt Phật quả ) thì tội nghiệp kia ắt
không còn. Trong Chứng Đạo Ca, Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác có
nói : « Chứng thật tướng vô nhân pháp, sát na diệt khước A tỳ
nghiệp … » Nghiệp không còn là do vì hành giả đã chứng được
Thật tướng. Thật tướng là tướng « không » của muôn pháp. Đến
đây, không còn thấy có ngã và pháp nữa. Nhưng khi chưa chứng,
thì tội nghiệp đã gây, tất nhiên, là quả phải trả. Tuy nhiên, sự trả
nghiệp nặng nhẹ, còn tùy theo sức huân tu, làm lành lánh dữ, bố
thí, tu tạo phước đức của mỗi người. (Đối với những người đã
chứng đạo, thì việc trả quả đối với các Ngài không có gì phải sợ
hãi. Vì tội tánh bản lai không, tuy trả nhưng không có gì phải trả,
bởi ngũ uẩn giai không. Ngược lại, đối với phàm phu là phải trả
quả trong đau khổ, vì còn nặng lòng chấp ngã, chấp pháp, thấy tất
cả đều thật nên phải chịu hành hạ khổ sở )
2. Bất định nghiệp : Những nghiệp đã gây tạo từ trước hoặc nhẹ
hoặc nặng không nhứt định, nên nay sám hối thì có thể dễ tiêu trừ.
Định hay bất định nghiệp đều do mê hoặc mà tạo ra. Nhưng mê
hoặc vốn không có thực thể, mà nó lấy chơn như làm tánh. Thí như
thực thể của đám mây là không, mà nó phải nương nơi bầu trời mà
có. Mây thì có sanh có diệt, nhưng bầu trời vẫn yên lặng. Mây dụ
cho nghiệp hoặc, bầu trời dụ cho tánh giác. Như vậy, mây thì có
thể tan biến, nhưng bầu trời thì bất diệt. Nghiệp thì có hết, nhưng
thể tánh vẫn như nhiên thường hằng. Nói rõ ra, vô minh và Phật
tánh cả hai đều đồng có từ vô thỉ, nhưng vô minh thì vô thỉ mà hữu
chung, còn Phật tánh thì vô thỉ vô chung. Thế thì, tâm, Phật và
chúng sanh, đứng về mặt thể tánh mà nói, thì cả ba không sai khác.
Đứng về mặt tướng hay mê tạo nghiệp thì có sai khác. Khi mê là
chúng sanh, giác ngộ là Phật. Chính vì nghiệp hoặc không có thật
tánh, nên khi gặp ánh sáng oai lực của thần chú hay nghe danh
hiệu Phật, mà hồi tâm phản tỉnh, bừng sáng giác ngộ, thì vô minh
nghiệp hoặc không còn, vì chúng là hư vọng không thật, giống như
sương khói vậy. Tuy nhiên, tuy chúng là hư vọng không thật,
nhưng khi còn mê, chúng ta theo vọng tạo thành ác nghiệp, tất
nhiên, chúng ta phải cảm thọ quả báo khổ lụy nhiều đời.
Khi tụng chú, người tụng phải nhiếp tâm quán tưởng tâm mình như
vầng trăng sáng chiếu soi chúng sanh trong nghiệp đạo, bao nhiêu
tội lỗi đã gây, tất cả đều nương nhờ oai lực của Phật mà hết lòng
cải hối, phát Bồ đề tâm, thì nghiệp hoặc sẽ được tiêu trừ.
Kế tiếp, là đọc thần chú :
Diệt Nghiệp Chướng Chơn Ngôn. ( Chú này là của Đức Quán
Thế Âm Bồ tát ).
Án a lỗ lặc kế ta bà ha ( 3 lần ).
Yếu giải
( Xin chú ý : từ đây trở đi, những chữ in nghiêng như dưới đây là
chúng tôi trích nguyên văn lời dặn ở trong quyển Nhị Khóa Hiệp
Giải, viết tắt là NKHG )
Khi đọc chú này, tâm phải quán tưởng : tất cả chúng sanh có bao
nhiêu nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt.
Như trên đã nói nghiệp có hai : Định nghiệp và Bất định nghiệp.
Chú trước là để phá cái định nghiệp thuộc về lý. Còn chú này là để
phá cái Bất định nghiệp thuộc về sự. Sự và lý viên dung vô ngại,
đó mới thật là chân sám hối. Khi tụng chú này, người tụng cũng
phải nhiếp tâm như nói ở trên. Có thế, thì mình và chúng sanh mới
được lợi ích.
Tiếp theo là đọc thần chú :
Khai yết Hầu Chơn Ngôn.
Án bộ bộ đế rị già đa rị đác đa nga đa da. ( 3 lần )
Yếu giải
Nên nhớ khi đọc tụng chú này phải quán tưởng những ngạ quỷ
cuống họng bằng mũi kim, tất cả mở rộng ra, lửa nghiệp thôi cháy
mà được thanh lương khoái lạc.
Yết hầu là chủ về ngòi rãnh ( cửa vàm ) để cho việc uống ăn chảy
thông vào. Nhưng loài ngạ quỉ cái yết hầu của chúng nhỏ như mũi
kim, nuốt vào thật khó khăn, bụng thì to mà cổ họng thì quá nhỏ
như thế, nghĩa là yết hầu bị đóng nghẹt, suốt cả trăm ngàn muôn
kiếp, chẳng nghe đến cái tên nước cháo. Hoặc có khi thấy nước
vừa muốn uống thì lại thấy nó hóa làm nung huyết. Hay có khi đưa
nước vừa đến miệng, thì nước nó lại hóa ra lửa đốt cháy cả thân,
mãi chịu đói khát. Như trường hợp bà Mục Liên Thanh Đề chẳng
hạn. Đó là để nói lên do cái nhân quá tham lam keo kiết bỏn xẻn,
lại thêm kiêu mạn, khinh người dưới mắt, rồi tạo ra nhiều nghiệp
ác, nên nay phải lãnh lấy cái quả báo hành hạ khổ đau như thế.
Sở dĩ chúng sanh trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, bởi do chỗ tạo
nghiệp sâu nặng từ vô thỉ đến nay, nếu không nhờ pháp lực của trí
quán và mật chú, thì không dễ gì tiêu trừ được. Chú này cũng đồng
nghĩa với chú khai yết hầu trong kinh Diệm Khẩu.
Kế đến đọc thần chú :
Tam Muội Da Giới Chân Ngôn :
Đầu trang Xem thông tin cá nhân
minhthien
Tiêu đề bài viết: Re: Nghi Thức Mông Sơn Thí Thực Yếu GiảiGửi bàiĐã gửi: Thứ 4 26/10/11 0:54
Ngoại tuyến
Ngày tham gia:
Thứ 3 16/08/11 23:55
Bài viết: 298
Đã cảm ơn : 93 lần
Được cảm ơn : 357 lần
THÍCH PHƯỚC THÁI
Án tam muội da tát đỏa phạm ( 3 lần )
Yếu giải
Khi tụng đọc chú này, quán tưởng tất cả chúng sanh đồng thụ lãnh
Bửu giới kim cang quang minh, tâm đắc thanh tịnh, thân như Bồ
tát. Đây trao giới tam muội cho chúng sanh.
Tam muội giới nghĩa là đại thần giới, chính là của Bồ tát thọ trì.
Nếu muốn đắc giới dây, trước tiên phải sám hối để diệt nghiệp
chướng đời trước rồi sau mới thọ nhận giới được. Tỷ như cái bình
lưu ly là thứ bình rất trong sạch sáng suốt, mới có thể chứa đựng
sữa của con sư tử. Còn đựng vào thứ đồ khác thì sẽ bị nứt bể.
Nay vì một loại chúng sanh đang chịu thống khổ cực hình nơi chốn
u minh, trước phải diệt nghiệp trừ khổ, nếu không, thì chúng không
thể nào lãnh thọ giới pháp để dứt hết khổ đau. Do đó, văn này có
kệ chú diệt nghiệp sám hối làm trước, rồi sau mới tiến đến thọ giới
tam muội da.
Kinh Duyên Khởi nói : « nếu muốn hành trì pháp thí thực, thì nên
phát tâm bồ đề, trao lấy giới tam muội da ».
Trong Đàn nghi nói : « phương pháp thọ giới được thành tựu là
chú trọng ở ba lần yết ma, giới thể nhân đây mà được viên mãn ».
Kinh Thí Ngạ quỉ nói : « tụng chú đây ba biến rồi, tất cả Quỉ thần
liền nghe được pháp bí mật thậm thâm, đều đặng cụ túc tam muội
da, vô lượng y phước. Tam muội Trung Hoa dịch là chánh định
hay chánh thọ, do giới pháp thanh tịnh, nên được chánh định ».
Tiếp đến là đọc thần chú :
Biến Thực Chơn Ngôn.
Nam mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế. Án tam bạt ra,
tam bạt ra hồng.
Yếu giải
Đọc chú đây nó biến hóa ra pháp vị : khi đọc chú quán tưởng các
đồ ăn từ một biến hóa ra thành bảy, với bảy lại hóa ra thành bảy
nữa, nhẫn đến hóa ra nhiều đến vô lượng, đầy lấp cõi hư không
cùng vạn vật không ngần ngại, thụ hưởng pháp vị, thân tướng viên
mãn.
Duyên do có ra câu thần chú này, là do ngài A Nan bạch Phật về
việc thấy quỉ Diệm Khẩu khi ngài nhập định trong rừng. Nhân đó
Phật dạy : Ta tự nhớ lại thuở đời quá khứ, ta làm một người dòng
Bà la môn, đối trước Quán Thế Âm Bồ tát, truyền trao cho phương
pháp đà la ni của Phật Vô lượng uy đức tự tại quang minh Như
Lai ; tụng đà la ni đó, nó hay biến một món ăn mà hóa ra làm vô
lượng món ăn lớn bằng núi Tu di, lượng đồng cõi pháp giới, trọn
không thể hết.
Kinh Thí Ngạ quỉ nói : « tụng một hay bảy biến, hoặc nhiều hơn,
càng nhiều càng tốt, thì cả thảy Ngạ quỉ đều đặng đồ ăn số bảy lần
bảy hột như hột của nước Ma đà dà thường dùng, ăn rồi đều được
siêu sanh lên các cõi trời, hoặc vãng sanh về Tịnh độ, hay khiến
hành giả tiêu trừ nghiệp chướng, mạng thêm sống lâu ».
Tiếp theo là đọc thần chú :
Cam Lồ Thủy Chơn Ngôn.
Nam mô tô bà da, đát tha nga đa da. Dát điệt tha, án tô rô tô
rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, ta bà ha ( 3 lần )
Yếu giải
Khi tụng chú này, quán tưởng cúng nước biến thành pháp thủy
cam lồ, rộng lớn như biển, cùng vật không ngăn, thắm đến nước
đây, thường được thanh tịnh diệu lạc.
Đây là pháp thí cam lồ của đức Phật Diệu sắc thân Như Lai.
Kinh Thí Ngạ Quỉ nói : « Tụng chú này bảy biến, hay khiến các
món ẩm thục và nước đều biến thành màu sữa cam lộ, hay mở rộng
cuống họng của tất cả ngạ quỉ, mà được cùng ăn với nhau một cách
bình đẳng ».
Hỏi : Nếu nói vật ăn và nước uống đều khắp cả thế giới, vậy xin
hỏi Phật và chúng sanh để thân đứng, ngồi vào chỗ nào ?
Đáp : Kinh Lăng Nghiêm nói : « Tánh của sắc là chân không, tánh
của không là chân sắc ». Kinh ấy lại nói : « Tánh của thủy là chân
không, tánh của không là chân thủy, thanh tịnh bản nhiên, châu
biến pháp giới, tùy chúng sanh tâm, ứng khả tri lượng, tùy nghiệp
phát hiện ». Lời nói đó có nghĩa là : Tánh của nước là chân không,
tánh của không ( do nhân duyên mà có ) là chân nước, tánh của nó
là bản nhiên thanh tịnh, biến khắp pháp giới, tùy tâm của chúng
sanh phân biệt như thế nào, thì hiện ra theo sự hiểu biết của chúng
sanh thế ấy. đó là do tùy theo nghiệp lực của chúng sanh mà hiện
ra đó thôi. Kỳ thật thì tánh thể của muôn vật trùm khắp cả pháp
giới, thanh tịnh bản nhiên, không sanh không diệt.
Nay hành giả quán trí đều thanh tịnh khắp giáp, thì nước và đồ ăn
đâu chẳng khắp giáp. Khi tâm thanh tịnh, thì vật thực uống ăn đều
thanh tịnh. Nếu đứng về mặt hiện tượng của vạn pháp, thì ta thấy
có chướng ngại nhau. Ngược lại, nếu đứng về mặt bản thể, thì
không có gì ngăn ngại. Dụ như đối với muôn vật có hình tướng ở
thế gian, thì chúng ngăn ngại nhau, nhưng hư không, thì làm gì có
ngăn ngại. Hư không là dụ cho bản thể hay pháp thân. Hiểu thế, thì
ta thấy, người cúng thí và vật cúng thí, cả hai tánh thể đều vắng
lặng. Chính đó là ý nghĩa khắp cả pháp giới vậy. Như thế, thì pháp
vị nhiệm mầu thật khó nghĩ lường.
Kế đến tụng thần chú :
Nhứt Tự Thủy Luân Chơn Ngôn
Án noan noan noan noan noan ( 3 lần )
Yếu giải
( Chú ý: câu thần thú này, là dựa theo bản Nghi Thức Mông Sơn
Thí Thực của Tổ Đình Phước Huệ hiện đang sử dụng. Còn theo
trong quyển Nhị Khóa Hiệp Giải, thì không phải chữ “Noan” mà là
chữ “Tông”, Án tông tông tông tông tông. Thú thật, chúng tôi
không biết dùng chữ nào mới đúng. Hay là cả hai đều giống nhau?
Vì là thần chú, nên không ai giải nghĩa được. Nhưng theo lời dặn
trong quyển Nhị Khóa Hiệp Giải, thì khi tụng chú này, quán tưởng
nước ấy lại đặng thanh tịnh diệu vị ).
Kinh Thí Ngạ quỉ chép rằng: “Với cái pháp ấn và thần chú Nhất tự
tâm thủy luân quán chân ngôn của đức Tỳ Lô Giá Na ( Pháp thân
Phật ) là : ở nơi trung tâm tay hữu ( thủ ấn ) như màu sữa, biến hóa
ra nước có tám chất công đức ( bát công đức thủy là: Vắng lặng,
mát mẻ, ngon ngọt, nhẹ nhàng, bóng lộn, ôn hòa, uống vào khỏi
đói, uống vào nuôi lớn các thiện căn ), chảy ra tất cả vị cam lồ, đề
hồ ( một trong 5 thức ăn chế ra từ sữa bổ dưỡng nhứt ), liền đưa tay
để trong những món đồ đựng thức ăn uống, quán tưởng sữa và các
thức ăn kia từ trong chữ “Tông” ( Noan ) chảy ra, dường như mặt
nhật nguyệt, tất cả quỉ chúng đều được no đủ, không thiếu một vật
chi.
Tiếp đến tụng thần chú:
Nhũ Hải Chơn Ngôn.
Nam mô tam mãn đa mẫu đà nẩm án noan ( 3 lần )
Yếu giải
Khi tụng chú này, quán tưởng nước trước lại được rộng lớn hòa
suốt, dường như màu sữa, nhiệm mầu khó nghĩ.
Theo kinh Thí Ngạ quỉ, thì thần chú này có công năng biến thành
biển sữa và tụng chú này là muốn cho biển sữa kia thêm rộng lớn
hòa suốt mà thôi.
Căn cứ lời bổ chú của Tổ Vân Thê nói: “Từ trước đến đây, đọc và
quán tưởng các thần chú, biến hóa mỗi mỗi, ẩm thực thắng diệu,
mà chưa từng quán tưởng cho hòa lẫn thành một vị, e chẳng đồng
đều lòng từ tế, nên phải lại niệm thêm thần chú đây, để hòa lẫn các
món ẩm thực kia đều thành biển sữa, đặng phổ thí chúng quỉ thần
thân tâm no nê, thụ dụng không thiếu”.
Hỏi: Món ăn là chỉ chuyên nuôi thân, chớ làm gì lại khiến tâm no?
Đáp: Đây là pháp thực vậy, vì với thực vị thì khá nuôi thân, còn
với pháp vị có thể minh tâm: nay đây dùng cái tâm quán tưởng, trì
cái pháp bí mật, để biến hóa ra thức ăn thanh tịnh, tức thành nghĩa
“Thiền duyệt pháp hỷ”.
Hỏi: Với chút ăn chút nước, làm sao có thể khắp pháp giới?
Đáp: Một là pháp lực của thần chú, hai là năng lực của quán
tưởng, và ba là cảm thông đến uy lực từ quang phổ chiếu của Tam
bảo, cả ba lực ấy viên dung, chẳng thể nghĩ bàn, nên mới có thể
biến hóa ít ra làm nhiều được như thế đó. Vả lại như ông Loan Ba,
dùng một chung rượu làm phép thuật, còn có thể hóa nên một trận
mưa thay, huống chi là cái thần lực “Vô sanh khó nghĩ được” của
Tam bảo ư? Mà hành giả ( thầy tụng chú thí thực ) chẳng thể chẳng
dụng tâm cho đúng hành trì! (Đời nhà Hán ông Loan Ba làm chức
Thượng thư lang, nhân ngày sanh của vua, thiết lễ khánh đản, giữa
bữa tiệc, nhà vua ban cho rượu, Loan Ba ngậm rượu hướng mặt về
đất Ba Thục mà phun ra, quan Hữu tư tâu với vua rằng: ông Loan
Ba bất kính! Loan Ba tâu rằng: Xứ thành đô bị hỏa hoạn, nên phun
rượu để chửa lửa. Sau nghe thành đô tâu lên rằng: Bị thất hỏa,
được nhờ có luồng mưa tắt cháy, trong đám mưa có hơi rượu!) (
Trích nguyên văn những câu hỏi đáp trên trong quyển NKHG tr
493 )
Lục Tông Cách Nói: “Có cái lực đại nguyện đại trí, và cái lực pháp
tánh tự thể không vô tánh, nên với tất cả chỗ ra làm, vẫn tự nhiên
xong nên”.
Sở dĩ chúng ta cho có sự ngăn ngại, không biến khắp pháp giới, là
vì hiện chúng ta đang sống trong vòng vọng chấp, lấy trí phàm
phân biệt so đo, nên mới cho là có ngăn ngại. Đó là do tâm sở hiện.
Vì cái tâm nhỏ hẹp, nên thấy cái gì cũng nhỏ hẹp. Ngược lại, nếu
chúng ta trải rộng tâm rộng khắp, không có ngằn mé, thì tất cả
không có gì ngăn ngại. Mọi vật cũng theo đó mà rộng khắp.
Sách Lược Giải cho rằng: “Nước thí thực đây, chẳng đồng với cam
lồ trước kia, đó là quá ư cuộc chấp! Chứ biết đâu, thần chú đây lại
dung hòa với lẽ mầu nhiệm của thần chú biến thủy biến thực trước
kia!”
Tiếp theo là tụng danh hiệu Phật, mục đích là:
Tưởng chúng quỉ nghe danh Phật đặng lợi ích. ( 7 danh hiệu
Phật dưới đây tụng 3 lần )
Nam mô Đa Bảo Như Lai
Nghe đến danh của đức Phật Đa Bảo, thì có thể đắc trí huệ tài bửu
của pháp lành mà thụ dụng không hết, vì là của sẵn trong tự tánh.
Nam mô Bảo Thắng Như Lai
Nghe danh của đức Phật Bảo Thắng, hay dứt được lửa nghiệp
phiền não sanh tử, liền đắc cái trí bửu pháp tánh bực vô thượng.
Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai
Nghe danh của đức Phật Diệu Sắc Thân, hay đặng cái thân tướng
hảo đoan nghiêm bực nhứt giữa tam giới, tức Kinh Pháp Hoa bảo:
“Vi diệu tịnh pháp thân, cụ túc tam thập nhị”, thật thế.
Nam mô Quảng Bác Thân Như Lai
Nghe được danh của đức Phật Quảng Bác Thân, thì đặng tiêu
được lửa nghiệp, cuống họng mở thông, mà đặng cái thân thanh
lương vô ngại.
Nam mô Ly Bố Úy Như Lai
Nghe được danh đức của Phật Ly Bố Úy, thì xa lìa các điều sợ sệt,
thường đắc mọi sự khoái lạc thanh tịnh.
Nam mô Cam Lộ Vương Như Lai
Nghe được danh đức của Phật Cam Lộ Vương, thì năng đắc mùi vị
cam lộ rót vào thâm tâm hằng được khoái lạc luôn.
Nam mô A Di Đà Như Lai
Được nghe đến danh hiệu của Phật A Di Đà, thì được đắc sanh
sang thế giới Cực lạc là Tịnh độ, do liên hoa hóa sanh vào bực bất
thối chuyển.
Khi tụng danh hiệu của bảy đức Như lai đây, phải tưởng những
tiếng tâm niệm Phật khắp nghe cả thế giới, tất cả chúng sanh đều
quỳ gối chấp tay chí tâm lóng nghe tin chịu, một phen lọt vào lỗ
tai, vẫn làm hột giống Phật, liền có thể vĩnh viễn xa lìa các khổ
sanh tử của ba ác đạo, đắc vãng sanh về nước Cực lạc, do trong
hoa sen hóa sanh.
Kinh Niết Bàn nói: “Nghe được hai chữ “thường trú”, vẫn chẵng
đọa địa ngục”. Huống chi được nghe cả Hồng danh vạn đức của
Như Lai ư?”
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Rất đổi như người nghe danh của Như lai,
và nghe được cái pháp sở thuyết, mà chẳng sanh tâm tin hiểu đó,
cũng còn được tập thành hạt giống Phật, thì sẽ được thành Phật.
Nay mà nghe danh của đức Phật, đều được vô lượng công đức,
chẳng thể nghĩ bàn!”
Tới đây là kết thúc những câu thần chú trên và đến phần chánh
nguyện thí thực.
Kệ tụng
CHÁNH VĂN
1. Thần chú gia trì tịnh pháp thực
Phổ thí hà sa chúng Phật tử
Nguyện giai bảo mãn xả xan Tham
Tốc thoát u minh sanh Tịnh độ
Quy y Tam bảo phát Bồ đề
Cứu cánh đắc thành vô thượng đạo
Công đức vô biên tận vị lai
Nhứt thiết Phật tử đồng pháp thực.
2. Thần chú gia trì pháp thí thực
Phổ thí hà sa chúng hữu tình
…………………………….
Nhứt thiết hữu tình đồng pháp thực.
3. Thần chú gia trì Cam lồ thủy
Phổ thí hà sa chúng cô hồn
……………………………
Nhứt thiết cô hồn đồng pháp thực.
Dịch nghĩa
Thần chú gia trì tịnh pháp thực ( pháp thí thực, cam lồ thủy )
Khắp thí hà sa chúng Phật tử ( hữu tình, cô hồn )
Nguyện đều no đủ bỏ xan Tham
Chóng thoát u minh về Tịnh độ
Quy y Tam bảo phát Bồ đề
Rốt ráo đặng thành đạo vô thượng
Công đức không ngằn tột đời sau
Tất cả Phật tử ( hữu tình, cô hồn ) đồng pháp thực.
Yếu giải
Thần chú là chỉ các thần chú “Biến thực, Biến thủy” ở trên. Câu
đầu, theo bổn xưa, đọc 3 lần đều chỉ gọi là “Tịnh pháp thực” mà
thôi, còn các bổn ngày nay đều phân ra là “Pháp thí thực và Cam lồ
thủy”, với mục đích là để cho cân đối: “Hữu tình và Cô hồn”. Điều
này, không đúng thực bổn chánh Mông Sơn! Như thế, chưa bằng
cả ba lần đọc đều chỉ đọc là “Tịnh pháp thực” thì suốt một lẽ phải
hơn. ( NKHG tr 496 )
Bồ đề: cựu dịch là đạo; tân dịch là giác.
Ba bài kệ tụng trên, là mở rộng ra để thí thực cho Phật tử, Hữu
tình, Cô hồn, khác nào như lời mời gọi tất cả đồng quy tụ về đạo
tràng để thọ hưởng những thức ăn nước uống. Đồng thời, khi thọ
dụng như thế, thì cũng nguyện cầu cho họ hãy bỏ tánh xan tham
keo kiết, chóng thoát khỏi cảnh khổ đau nơi chốn u minh để cầu
sanh Tịnh độ. Khi đã hồi tâm chuyển ý, phát tâm đại Bồ đề, thì họ
sẽ mau thành Phật đạo. Đó là thành tựu công đức vô lượng vô biên
mà tất cả Phật tử, Hữu tình, Cô hồn đồng hưởng pháp mầu vi diệu
vậy.
Kế đến là tụng hai bài kệ:
CHÁNH VĂN
Nhữ đẳng Phật tử ( Hữu tình, Cô hồn ) chúng
Ngã kim thí nhữ cúng
Thử thực biến thập phương
Nhứt thiết Phật tử ( Hữu tình, Cô hồn ) cộng
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ hữu tình
Giai cộng thành Phật đạo
Dịch nghĩa
Các ngươi là chúng Phật tử ( Hữu tình, Cô hồn )
Ta nay cúng thí cho các ngươi
Cơm này khắp cả mười phương
Thí chung cho hết thảy Phật tử ( Hữu tình, Cô hồn )
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Ta cùng với các ngươi ( Phật tử, Hữu tình, Cô hồn )
Đều trọn thành Phật đạo.
Yếu giải
Bài kệ này là quy kết tất cả đồng trọn thành Phật đạo. Đó là bản
nguyện chung của tất cả muôn loài.
Khi tụng kệ trên, hành giả phải quán tưởng tất cả quỉ thần đồng thọ
thực trong tinh thần hòa hợp bình đẳng. Và phải hết lòng thương
yêu quý kính nhau. Không nên có thái độ tranh giành gây chia rẽ
với nhau. Vì tất cả đều có chung một tánh thể, một ý niệm quy
hướng về Phật đạo. Thân phận của tất cả chúng sanh hiện đang
đắm chìm trong bể khổ. Chìm ngập trong biển ái sông mê, nay có
được chút phước duyên, nghe lời kinh tiếng kệ, hãy mau thức tỉnh
hồi đầu để hướng lòng về bến giác.
Xong rồi, “hành giả nên bưng nước và đồ ăn để trên đài hoặc chỗ
sạch sẻ, tránh để chỗ có cây thạch lựu, cây đào, vì quỉ thần sợ hãi
mà chẳng ăn được”. ( NKHG tr496 )
Kế đến tụng câu thần chú:
Thí Vô Giá Thực Chân Ngôn
Án mục lực lăng ta bà ha ( 3 lần )
Yếu giải
Khi tụng thần chú này, quán tưởng: đạo tràng lẫn suốt với pháp
thực. kẻ oán kẻ thân, người xa người gần, đều không ngăn cản
nhau, sáu đạo quỉ thần đều đặng bình đẳng.
Từ trước đến đây, nào là làm phép: Tụng chú, kiết ấn, vận tâm
quán tưởng, dù là bình đẳng khắp thí, nhưng mà hoặc kẻ quý khinh
kẻ tiện, người mạnh lướt người yếu, lớp lớn ngăn lớp nhỏ, hoặc
hành giả quán tưởng chẳng đúng như pháp, hoặc quỉ loại bị nghiệp
nặng mà chẳng nghe đến được, đến đổi chẳng thụ hưởng gì đặng!
Thế, há chẳng vượt mất qua cái ơn từ tế của Phật ư! Nên trái lại
phải tuyên dương lời mật chú, để khiến cho kẻ oán người thân từ
lịch kiếp nay được bình đẳng.
Lại các vị thiện hữu, thân thích, hoặc vì sự duyên chi mà chẳng thể
đi đến được, khiến họ đều đem sự giúp nhau, để dấy đạo tâm,
chóng đến quả Bồ đề.
Rút lại mà nói: “Đàn giới mỗi pháp trần lẫn khắp, việc cúng mỗi
sắc tướng đều chân, tột pháp giới đều là diệu viên khắp hư không
đồng là pháp tánh thì đâu còn có những điều lạ lùng: oán thân xa
gần!?” ( NKHG tr 497 )
Sau cùng, tụng thần chú:
Phổ Cúng Dường Chân Ngôn
Án nga nga nẳng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng ( 3 lần ) (
xong rồi trở về bàn Phật )
Yếu giải
Khi tụng chú này, hành giả nên quán tưởng từ trước tới đây những
thức ăn đều biến thành món tịnh thực, kháp thí cho hết thảy chúng
sanh trong lục đạo mười phương, kẻ xa gần đồng một thể, bực cao
thấp đều bình đẳng, người già trẻ, kẻ sang hèn, không phân sót,
hạng mạnh yếu hay kẻ oán người thân đều không phân biệt xa
cách.
Kinh Tịnh Danh nói: “Hội pháp thí ấy là không hề phân cách trước
sau đồng nhứt thời cúng dường tất cả chúng sanh”.
Tụng bài Bát Nhã tâm Kinh là muốn tỏ bày cái công thí thực hòa
lẫn vào biển Bát nhã vô tận tạng. Bởi vì Tâm Kinh là tinh yếu của
Bát nhã. Bát nhã tức là trí huệ, nếu không có trí huệ thì làm gì có
thể liền sạch lòng cho được! E chúng kia chấp trưóc nơi công đức
pháp ái là thực sự, nên dùng bát nhã tâm kinh để rửa sạch bụi lòng,
hòa lẫn vào biển Như lai tạng.
Lại niệm chú vãng sanh đó, là để mong nhờ Phật A Di Đà và các
Thánh chúng phóng quang tiếp dẫn, mau chứng bực thánh nơi Cực
Lạc quốc.
Đến đây là Khắp Kết Hồi Hướng
Thần chú Phổ Hồi Hướng Chân Ngôn
Án ta ma ra, ta ma ra, di ma nẳng táp cáp ra, ma ha thinh cáp
ra hồng.
( Lời soạn giả : câu thần chú này, không thấy trong quyển Mông
Sơn Thí Thực của Tổ Đình Phước Huệ - 2002 )
Từ trước lại đây, đem công đức thí thực, hồi hướng cho tất cả
chúng hữu tình, ngõ hầu đều phát tâm tu chứng lên quả vị Vô
thượng bồ đề, để làm việc tự lợi, lợi tha đặng sớm sanh về nước
Cực lạc, đồng chứng bực Phật thừa.
Lại đối với chúng hữu tình nào không có thiện căn, thì khiến làm
cho tăng trưởng căn lành. Hầu chớ quyến luyến nơi luân hồi, và
đều mau thành Phật đạo. ( NKHG tr498-499 ).
CHÁNH VĂN
Nguyện trú kiết tường, dạ kiết tường
Trú dạ lục thời hằng kiết tường
Nhứt thiết thời trung kiết tường giả
Nguyện chư thượng sư ai nhiếp thọ
Nguyện trú kiết tường, dạ kiết tường
…………………………………….
Nguyện chư Tam Bảo ai nhiếp thọ.
Nguyện trú kiết tường, dạ kiết tường
…………………………………….
Nguyện chư Hộ Pháp thường ủng hộ.
Tứ sanh đăng bửu địa ;
Tam hữu thác hóa liên trì,
Hà sa ngạ quỉ chứng Tam hiền,
Vạn loại hữu tình đăng Thập địa.
Dịch nghĩa
Nguyện ngày kiết tường, đêm kiết tường
Ngày đêm sáu giờ hằng kiết tường
Trong tất cả giờ người kiết tường
Xin các bậc thượng sư thương nhận cho.
…………………………………………
Xin các ngôi Tam bảo thương nhiếp hộ cho
…………………………………………..
Xin các vị Hộ Pháp thường ủng hộ.
Yếu giải
Nội dung ý nghĩa của bài kệ này là nguyện đem công đức thí thực,
để mong các ngôi Tam bảo và những vị Long Thần Hộ Pháp
thường ủng hộ gia trì cho ngày đêm đều được sống trong an lành.
Thượng sư : tức là ngôi Nhất thể hay Đồng thể Tam bảo.
Hộ pháp : chỉ cho Thiên Long bát bộ chúng và Hộ giáo Già lam.
Bốn loài lên nơi đất báu
Ba cõi gá sanh ao sen
Đông nhiều ngạ quỉ chứng Tam hiền
Muôn loại hữu tình lên Thập Địa.
Bốn câu kệ này là gồm thâu tất cả công đức thí thực để phổ nguyện
cho hết thảy quần sanh, đồng sanh về Tịnh độ, chóng chứng lên
quả Thánh. Bốn loài, ngạ quỉ, hữu tình, là thân chánh báo giữa thế
gian; Tam bảo là gọi y báo của thế gian. Đất báu, ao sen là là cõi y
báo của nước Cực lạc. Tam hiền, Thập địa là ngôi thánh ở nước
Cực lạc, tức là thân chánh báo bên Cực lạc.
Tứ sanh là bốn loài gồm có: Noản, thai, thấp, hóa. Bốn loài này là
gồm thâu tất cả chúng sanh ở ba cõi.
Tam hữu là ba cõi. Do vì chúng sanh trong ba cõi ( dục, sắc, vô
sắc ) đều tham chấp bám lấy sanh tử nên có báo ứng về thiệc ác
nhân quả, nên nói là ba cõi.
Ngạ quỉ : nêu ra các chúng bị nghiệp chướng thâm trọng mà nói là
ngạ quỉ. kỳ thật, thì phàm là trời đất, tất cả thần kỳ và các chúng ly
muội v.v… đều thống nhiếp chung thuộc về loại quỉ cả.
Lục đạo : sáu nẻo luân hồi của chúng sanh. Chúng sanh trong sáu
đường, đều có cái tình niệm, do nơi tình niệm, nên tham nhiễm
chấp trước ở nơi sáu trần. Do đó, chẳng dứt được sanh tử, nên nói
là hữu tình.
Đất báu : là vàng ròng làm đất. Ao sen : là do bảy thứ báu kết
thành. ( tất cả đều có giải thích rõ trong Kinh Di Đà )
Tam Hiền: Thập trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi Hướng. Ba mươi vị
đây đều gọi là bậc hiền.
Thập Địa: 1. Hoan hỷ địa 2. Ly cấu địa 3. Minh địa 4. Diệm ma
địa. 5. Nan thắng địa. 6. Hiện tiền địa. 7. Viễn hành địa. 8. Bất
động địa. 9. Thiện huệ địa. 10. Pháp vân địa.
Tam Hiền bên Biệt giáo, chưa phá được vô minh hoặc, nên xưng
là Hiền; còn Thập Địa đã phá được từng phần vô minh, chứng
được Phật tánh trung đạo, nên xưng là Thánh.
Tam Hiền bên viên giáo, đều phá được từng phần vô minh, mà
xưng là Hiền; còn Thập địa Viên giáo đã phá được nhiều phần vô
minh, tiến sâu vào pháp tánh, mà xưng là Thánh.
Tuy nhiên, do phá được từng phần vô minh nhẫn đi, đều là thân
chứng pháp tánh là bực thâm vị Đại bồ tát.
Nay với Cực lạc tịnh độ đây, có thể khiến nhứt thời đới (đái )
nghiệp vãng sanh, lại có thể chóng siêu lên Tam Hiền, Thập
Thánh, há không dễ lắm sao? Đây toàn là nương nơi kinh chú pháp
hiển mật, gia dĩ pháp viên quán, cảm lấy đức từ của Phật, mới có
thể mau chứng như thế đó!
Kệ Tán Phật
CHÁNH VĂN
A Di Đà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ tu di
Cám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn
Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới, đại từ đại bi, A Di Đà
Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát
Nam mô Thanh Tịnh Đại hải chúng Bồ tát.
Dịch nghĩa
A Di Đà Phật thân màu vàng
Tướng tốt rực rỡ không ví sánh
Lông trắng đoanh xoay năm núi cao
Mắt thanh lóng lánh bốn bể lớn
Hào quang Hóa Phật không kể ức
Hóa Bồ tát chúng cũng không ngằn
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín phẩm hàm linh lên bời kia
Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư
A Di Đà Phật.
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ tát
Bài kệ khen ngợi Phật này, rút ra ở sách Tịnh độ tu chứng nghi, tác
giả là ngài Trạch Anh pháp sư. ( Muốn hiểu rõ về tiểu sử của ngài,
xin xem quyển NKHG tr 504 )
Yếu giải
Từ câu A Di Đà ….đến…. mắt thanh lóng lánh…
Bốn câu này là tán thán cái báo thân của đức Phật Di Đà.
Vô đẳng luân: không sánh ví, rằng thân Phật tướng hảo không ai
đồng bực có thể so sánh đặng.
Bạch hào: lông trắng, chính giữa hai bên chân mày của Phật A Di
Đà. Nó xoay chiều qua phía hữu xoắn xít lớn như năm hòn núi tu
di. Núi Tu di bề sâu từ mặt biển sắp xuống là tám muôn bốn ngàn
do tuần, lại từ mặt biển nhẫn lên tới đảnh là cũng tám muôn bốn
ngàn do tuần. Do tuần có 3 hạng: tiểu do tuần 40 dặm; trung do
tuần 60 dặm; đại do tuần 80 dặm ) bề chạy giáp vòng núi cũng thế.
Thế chỉ một tướng tốt còn vậy, hà tất gì cả tám vạn bốn ngàn tướng
tốt nữa làm sao có thể nghĩ bàn được?
Cám mục: Mắt thanh. Cám: xanh đậm. Tứ đại hải: bốn biển lớn,
tức biển lớn chạy vòng ngoài bốn mặt núi Tu di. Dưới biển chỗ mà
cực sâu rộng, tuyệt không sinh cấu, nói là trừng thanh. Ý nói, đức
Phật Di Đà có đôi mắt rộng mà màu xanh đậm lóng lánh trong như
biển.
Hào quang hóa Phật không kể ức
Hóa Bồ tát chúng cũng không ngằn
Hai câu này là khen ngợi số hóa thân Phật rất nhiều không tính kể
của đức Phật Di Đà.
Trong hào quang có hóa Phật, hóa Bồ tát, là ý nói đức Hóa Phật là
chủ, Hóa Bồ tát là bạn. Chủ là chỉ cho Phật Di Đà và bạn là chỉ cho
các Bồ tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí v.v…để làm thị giả.
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm hàm linh lên bờ kia
Câu trên là tán dương chỗ nhân địa của Đức Phật Di Đà phát đại
thệ nguyện.
Câu dưới là tán thán công đức rộng độ khắp chúng sanh của Ngài.
Ngài nguyện thệ độ tất cả chúng sanh đồng đăng chín phẩm và
đồng lên bờ giác ngộ giải thoát.
Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư
A Di Đà Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
Từ trước đến đây, với bao nhiêu công đức đã tu, giờ đây phải niệm
Phật Di Đà để cầu thực chứng.
Kế đến là tiếp tục niệm Tứ Thánh.
Văn Hồi Hướng Và Tam Quy Y
Để làm Phổ Kiết Hồi Hướng.
Tại sao Phải hồi hướng? Và ý nghĩa hồi hướng như thế nào?
Hồi hướng cũng như là phát nguyện vậy. Bởi vì, có Hạnh mà thiếu
Nguyện, thì chí hướng không kiên cố nhứt định. Do đó, cần phải
phát nguyện. Thí như người ra đi, nếu không có chí nguyện kiên
quyết hướng đến cái mục đích mà mình nhắm tới, thì có khi giữa
đường gặp chướng ngại, thì không có thể vượt qua. Đôi khi còn
thối lui hoặc tẻ qua ngã khác. Đó bởi do nguyện lực không sâu và
hạnh cũng chưa thật đầy đủ. Thế nên người tu hành cần phải có
phát nguyện hồi hướng vậy.
Hồi hướng có 4 nghĩa:
1. Hồi nhân hướng quả: Nghĩa là tu các hạnh là nhân tiến đến
thành Phật là quả. Nay tu nhân Tịnh độ, hướng về quả Cực lạc.
2. Hồi tiểu hướng đại: Nghĩa là các học giả bên Tiểu thừa và
những người tu về nhân thiên thừa, nay hướng về Đại thừa. Đối
với hành giả tu về pháp môn Tịnh độ, bao nhiêu việc thiện đã làm,
nay đều hồi hướng về đài sen thượng phẩm.
3. Hồi tự hướng tha: Nghĩa là nay ta phát tâm làm lành chẳng vì
chỉ cầu lợi ích cho riêng mình mà còn rộng độ làm lợi ích cho hết
thảy chúng sanh.
4. Hồi sự hướng lý: Nghĩa là hành giả tu bao nhiêu phước thiện
như lạy Phật, tụng kinh, bố thí, cúng dường v.v… quyết không
chấp chặt vào những việc mình đã làm, mà phải dung hòa giữa Sự
và Lý viên dung vô ngại. Có thế, thì mới được lợi lạc rất lớn.
Tiếp đến là đồng quỳ xuống để tụng đọc bài Sám Nhứt Tâm.
CHÁNH VĂN
Nhứt tâm quy mạng, Cực lạc thế giới A Di Đà Phật, nguyện dĩ
tịnh quang chiếu ngã, từ thệ nhiếp ngã. Ngã kim chánh niệm,
xưng Như Lai danh, vị Bồ đề đạo, cầu sanh Tịnh độ.
Phật tích bổn thệ: nhược hữu chúng sanh, dục sanh ngã quốc,
chí tâm tín nhạo, xưng ngã danh hiệu, nãi chí thập niệm, nhược
bất sanh giả, bất thủ chánh giác.
Dĩ thử niệm Phật nhân duyên, đắc nhập Như Lai, đại thệ hải
trung, thừa Phật từ lực, chúng tội tiêu diệt, thiện căn tăng
trưởng, nhược lâm mạng chung, tự tri thời chí, thân vô bệnh
khổ, tâm bất tham luyến, ý bất điên đảo, như nhập thiền định.
Phật cập Thánh chúng thủ chấp kim đài, lai nghinh tiếp ngã, ư
nhứt niệm khoảnh, sanh Cực lạc quốc, hoa khai kiến Phật, tức
văn Phật thừa, đốn khai Phật huệ, quảng độ chúng sanh, mãn
Bồ đề nguyện, quảng độ chúng sanh, mãn Bồ đề nguyện.
Dịch Nghĩa:
Một lòng cúi lạy Đức A Di Đà Phật bên thế giới Cực lạc. Xin đem
ánh tịnh soi con, thệ từ thâu con. Con nay chính niệm, xưng danh
Như Lai, vì đạo Bồ đề, cầu sanh Tịnh độ.
Phật xưa đã thệ: nếu có chúng sanh, muốn sanh nước ta, chăm
lòng tin ưa, nhẫn đến mười niệm, bằng chẳng vãng sanh, ta không
thành Phật.
Do nhân duyên niệm Phật đây, đặng vào trong biển thệ nguyện lớn
của Như lai. Vâng sức từ của Phật, các tội tiêu diệt, căn lành thêm
lớn. Nếu đến mạng chung, tự biết giờ đến, thân không đau khổ,
tâm chẳng than tiếc, ý không điên đảo như vào thiền định.
Phật và các Thánh chúng, tay cầm đài hoa sen vàng đến đón tiếp
con, với chừng một niệm, sanh về Cực lạc quốc. Hoa nở thấy Phật,
liền nghe phật thừa ( Phật nói pháp ), chóng mở Phật huệ.
Rộng độ chúng sanh, mãn nguyện Bồ đề, rộng độ chúng sanh, mãn
nguyện Bồ đề.
yếu giải
Một lòng cúi lạy Đức A Di Đà Phật bên thế giới Cực lạc.
Hành giả Tịnh độ muốn cầu sanh về thế giới Cực lạc, trước tiên
phải hết lòng quy mạng cúi lạy đức Phật A Di Đà. Hai chữ “Một
lòng” là nói lên ý nghĩa khi hành lễ hành giả phải thu nhiếp sáu
căn. Không để cho sáu thức duyên theo sáu trần. Nhứt là ý thức
không loạn động, nên nói là một lòng. Đem hết thân mạng hướng
về đảnh lễ Đức Phật Di Đà với mục đích là để cầu chứng Phật quả
vậy.
Xin đem ánh tịnh soi con, thệ từ thâu con.
Ánh tịnh là tịnh quang, là hào quang chói sáng, biểu trưng cho trí
huệ căn bản vốn tự thanh tịnh chiếu soi khắp pháp giới không hề
ngăn ngại. Căn bản trí này, chúng sanh đều sẵn có. Nay nương nơi
ánh hào quang của Phật bên ngoài để tự xoay chiếu rọi lại ở nơi
bản tâm mình. Và luôn sống trong tịnh quang soi sáng đó, nghĩa là
hằng sống trong chánh niệm. Như thế, thì mới tương hợp với ý
nghĩa Vô Lượng Quang của Đức Phật A Di Đà vậy.
Từ Thệ: là bốn mươi tám lời thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà.
Với bốn mưoi tám điều đại nguyện này, nguyện nào Đức Phật
cũng nhằm nhắm đến để cứu độ chúng sanh. Đó là bi nguyện của
Phật. Đó cũng là ý nghĩa luôn nhiếp hộ chúng sanh, hay nhiếp hộ
cho thân tâm của con vậy.
Con nay chánh niệm, xưng danh Như lai, vì đạo Bồ đề, cầu
sanh Tịnh độ.
Chánh niệm là một niệm có mặt cả thân lẫn tâm hợp nhứt trong
giây phút hiện tiền trong khi đọc tụng. Nói cách khác niệm Phật
mà tiêu được tạp niệm đó là chánh niệm. Còn nếu thân tâm đang
tụng đọc mà không có mặt mình trong giây phút hiện tại, thì đó là
thất niệm rồi. Cho nên, khi tụng thuộc lòng hay đọc mặt chữ, đều
phải nhiếp tâm theo từng chữ tụng đọc, tuyệt đối, không nên nhớ
nghĩ chuyện gì khác. Được vậy, thì mới tương ưng phần nào với
chánh niệm. Dù chưa được trọn vẹn hoàn toàn.
Xưng danh Như Lai là hằng nhớ tưởng niệm Phật. Niệm Phật là
niệm tâm. Nếu chúng ta thiết thiệt niệm Phật, thì phiền não không
sanh. Phiền não không sanh thì trần lao dứt sạch. Đó mới thực là vì
đạo Bồ đề. Bồ đề là giác là vô sanh. Còn vọng khởi phiền não, thì
đó là mở rộng đường sanh tử. Niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ,
như buồm thuận gió xuôi theo giòng nước. Như thế, thì con đường
sanh tử khổ đau sẽ mau chấm dứt vậy.
Phật xưa đã thệ : nếu có chúng sanh, muốn sanh nước ta, chăm
lòng tin ưa, nhẫn đến mười niệm, bằng chẳng vãng sanh, ta
không thành Phật.
Đây là nêu lên để nhắc lại lời nguyện xưa của Phật để cho chúng
sanh tin chắc.
Bổn thệ : là lời thệ xưa. Nhắc lại một đoạn sử, thuở xa xưa, khi
Đức Phật Di Đà còn là vị quốc vương, bỏ tất cả ngai vàng điện
ngọc, vinh hoa phú quý, đi tu làm vị Tỳ kheo, tên là Pháp Tạng.
Ngài Pháp Tạng đối trước Đức Phật Thế Tự Tại Vương mà phát
bốn mươi tám lời thệ nguyện, rộng độ khắp chúng sanh, đồng
sanh về Cực lạc. Lời đại nguyện ở trên là lời thệ nguyện thứ mười
tám trong 48 đại nguyện vậy.
Chăm lòng là hoặc niệm Phật bằng cách niệm một đời không xen
hở ; hoặc niệm bằng cách kèm theo công việc siêng tu ; nhẫn đến ít
nhứt là đương khi công chuyện lăng xăng mà tạm để rãnh ra vài
phút niệm Phật, mỗi ngày niệm lấy số mười niệm, ắt đặng vãng
sanh.
Sở dĩ Ngài Pháp Tạng nguyện rằng : « Người mà mỗi ngày chí tâm
mười niệm, nếu chẳng vãng sanh, thì ta Pháp Tạng này trọn thành
nguyện dối rồi, làm gì chứng ngôi chánh giác ư ? » ( NKHG tr 519
)
Thập niệm : mười niệm, tức là mười hơi niệm Phật. Nghĩa là tùy
hơi ngắn, dài của hành giả, cứ hết một hơi ( niệm được bao nhiêu
câu cũng được ) là tính một niệm. Như thế, niệm mười hơi gọi là
mười niệm. Nhưng mỗi câu tùy tiếng và hơi phát ra nơi miệng
nghe vào nơi tai, tâm phải chăm chú chẳng dời đổi đó là cốt yếu
của việc niệm Phật. Vậy niệm đủ mười niệm, tức là mười hơi.
Còn đối với danh hiệu của các vị Bồ tát : Quán Âm, Thế Chí, Địa
tạng, Thanh Tịnh, mỗi hiệu niệm một hơi.
Do nhân duyên niệm Phật đây, đặng vào trong biển thệ nguyện
lớn của Như Lai. Vâng sức từ của Phật, các tội tiêu diệt, căn
lành thêm lớn. Nếu đến mạng chung, tự biết giờ đến, thân
không đau khổ, tâm chẳng tham tiếc, ý không điên đảo như
vào thiền định.
Đoạn văn này nói lên công phu niệm Phật của hành giả đã miên
mật sâu dày, nên kết quả được cảm nghiệm tốt đẹp như thế.
Câu « do nhân duyên niệm Phật đây », là nương ý ở câu trên mà
nói. Nghĩa là do nhân duyên chánh niệm Phật nói ở trên, mà được
vào trong biển thệ nguyện lớn. Thệ nguyện lớn đó là gì ? Đó là bốn
mươi tám điều nguyện lớn của Đức Từ Phụ A Di Đà vậy. Bởi do
mỗi lời nguyện của Đức Phật Di Đà, nguyện nào cũng rộng lớn,
nên dùng biển cả để thí dụ. « Vâng sức từ của Phật, các tội tiêu
diệt, căn lành thêm lớn », ý nói chúng ta dù hiện còn sống đây,
nhưng nếu người nào hết lòng tín thành niệm Phật, thì cũng cảm
được Phật từ gia hộ, tiêu diệt các tội chướng đã gây và « căn lành
ngày càng thêm lớn ». Đến khi mạng chung, biết được giờ phút sẽ
đến, thân tâm an nhiên thanh tịnh, như vào thiền định, trong nháy
mắt được vãng sanh Cực lạc.
Phật và các Thánh chúng, tay cầm đài hoa, sen vàng đến đón
tiếp con, với chừng một niệm, sanh về Cực lạc quốc.
Nhờ lòng chí thành tha thiết niệm Phật nói trên, mà cảm ứng được
Phật đến tiếp dẫn. Phật nói ở đây, chính là Hóa thân của Đức Phật
A Di Đà. Còn nói Thánh chúng là chỉ cho các vị Bồ tát : Quán Thế
Âm, Đại Thế Chí và Thanh Tịnh Đại Hải nói ở trên. Nghĩa là
người nào niệm Phật mà được chánh niệm, thì khi duyên đời đã
mãn, duyên tịnh đã được thành thục, thì khi mạng chung, tự nhiên
thấy chính tay Phật cầm đài sen vàng cùng các hàng Thánh chúng
đến tiếp dẫn về Cực lạc.
Hỏi : Hai cõi cách nhau có mười muôn ức thế giới, làm sao chỉ có
trong một niệm liền sanh sang được ?
Đáp : Nói về « Sự » lấy trí phàm tình mà suy xét, thì ta thấy có xa
cách ; còn nếu luận về « Lý », thì chỉ trong một niệm, vì tất cả
mười vạn ức độ đều ở trong một niệm hiện tiền. Do đó, chỉ trong
khảy móng tay là chúng ta đã đến Cực lạc vậy. Vả lại, nhờ hào
quang oai thần lực của Phật tiếp dẫn, nên trong một sát na là sinh
sang nước Ngài. Điều này, không thể lấy trí phàm phu mà có thể
so sánh hiểu được vậy.
Hoa nở thấy Phật, liền nghe Phật thừa ( Phật nói pháp ), chóng
mở Phật huệ.
Đây là nói hoa nở thấy được chân thân Phật.
Hoa nở : hoa bản tâm nở ra. Phật thừa : là nhứt Phật thừa, tức
như Kinh Pháp Hoa tỷ dụ xe đại bạch ngưu. Phật huệ : là quyền
trí, thật trí của Phật, tức Kinh Pháp Hoa nói : Khai, Thị, Ngộ, Nhập
tri kiến Phật.
Kinh nói : « chúng sanh tuy chưa dứt hết nghiệp, nhưng nếu chí
thành niệm Phật, thì cũng sẽ được đái nghiệp vãng sanh. Đặc biệt
chỉ có cõi Cực lạc mới được đái nghiệp vãng sanh như thế, còn các
cõi khác thì không có. Bởi đây là do nguyện lực tiếp dẫn của Đức
Phật A Di Đà ».
Khi vãng sanh về Cực lạc, thì phẩm vị có chia ra làm 9 bậc. Bậc
Thượng Thượng phẩm, thì với khi mạng chung, liền tự thấy tự thân
nương trên hoa sen, hoa không xếp lại thấy được cái báo thân của
Phật tám muôn bốn ngàn tướng tốt, mỗi mỗi đều thấy đủ rõ ràng,
rộng nghe Phật nói pháp về lý Phật thừa, liền mở mang Phật huệ. (
chứng quả Bồ đề, tức vô sanh nhẫn)
Còn tám phẩm kia thì chẳng được chóng chứng như thế. Như
Thượng trung phẩm, mặc dù thấy được Báo thân của Phật, cầm
hoa đến rước, tự thân của mình nương nơi hoa mà hoa nó xếp lại
cách bảy ngày, mới đắc quả Bồ đề. Lại cách qua một tiểu kiếp, mới
chứng vô sanh nhẫn.
Hỏi : Phẩm Trung Thượng và phẩm Trung trung, thì khi người
mạng chung người cũng tự thấy được Báo thân Phật đó thì sao ?
Đáp : Mặc dù được thấy Báo thân Phật, mà với các tướng tốt, thấy
chẳng đặng đủ rõ, mãi đợi đến chừng hoa nở, sau khi nghe Phật
thừa, thấy mới được rõ đủ.
Còn ba phẩm dưới, khi mạng chung dù có Hóa thân Phật, cầm hoa
đến đón, tự thân nương sau hoa, nhưng chẳng được thấy nghe Hóa
thân Phật nói pháp mà chỉ thấy nghe các vị Bồ tát Quán Âm v.v…
thuyết pháp, đợi mãi đến khi nghiệp được tịnh, hoa mới nở, chừng
đó mới thấy tướng tốt của Phật.
Hỏi : Khi hoa sen xếp lại, thân của người vãng sanh có phiền là
chật hẹp không ?
Đáp : Hoa là do nơi tự tâm hóa hiện, rộng lớn không ngần ngại,
song nếu nghiệp của mình chưa thanh tịnh nên tợ hồ có xếp lại, đối
với diệu pháp của đức Chân Phật nói, tuy đợi đến chừng hoa nở
mới được thấy đức Chân Phật ( báo thân của Phật Di Đà ) và mới
nghe được diệu pháp ( Phật thừa của Báo thân Phật nói ), mà trong
thời gian hoa chưa nở, cũng được tùy cơ thường nghe Hóa thân của
ba Thánh thuyết pháp.
Hỏi : Đã là nghiệp chưa thanh tịnh, thì sao có thể vãng sanh ?
Đáp : Phật kia có lời nguyện rộng lớn khó nghĩ được và cái sức
niệm của mình nó khẩn thiết, duyên đời đã hết, nên có thể vãng
sanh.
Hỏi : Đã đới nghiệp vãng sanh, mà có khiến cho thân chẳng an
không ?
Đáp : Chẳng có đâu, như cõi Ta bà đây, kẻ mang thân trời cũng
hưởng thụ được cái vui hơn hết thảy, huống chi có cái sức của Phật
kia nhiếp trì, thắng hơn thân trời nhiều lắm, nào khá ví dụ !? (
Những câu hỏi đáp trên đây, chúng tôi hoàn toàn y cứ vào lời giải
của quyển NKHG từ tr 521- 522 )
Rộng độ chúng sanh mãn nguyện Bồ đề
Đây là nguyện bồ đề đầy đủ vậy.
Phật huệ đã mở, tức là chứng lên chân vị pháp thân của bậc sơ trụ
Bồ tát, bậc nầy có thể phân thân đi làm Phật sự cả trăm ngàn thế
giới, để ứng theo căn cơ mà độ sanh. Rộng độ chúng sanh là do
lòng từ bi quảng đại vô duyên từ của Bồ tát. Độ vô lượng vô biên
chúng sanh, nhưng không thấy có một chúng sanh nào được độ, đó
mới thực sự là viên dung mãn nguyện bồ đề. Mãn nguyện Bồ đề,
đó là Phật quả.
Đọc tụng bài sám Nhứt Tâm xong, kế tiếp hành giả tụng bài Tán lễ
Tây Phương.
CHÁNH VĂN
Tán lễ Tây phương, Cực lạc thanh lương,
Liên trì cửu phẩm hoa hương,
Bảo thọ thành hàng
Thường văn thiên nhạc kiện tương,
A Di Đà Phật đại phóng từ quang,
Hóa đạo chúng sanh vô lượng.
Giáng kiết tường
Hiện tiền chúng đẳng ca dương
Nguyện sanh an dưỡng
Hiện tiền chúng đẳng ca dương
Nguyện sanh an dưỡng.
Tạm dịch
Khen ngợi kính lạy phương Tây, cõi tịnh tươi mát vui vầy
Hoa sen chín phẩm thơm lây
Vật báu hàng cây;
Trời thường trổi nhạc vang đầy
Hào quang Phật…, ánh sáng lớn thay!
Chúng loại không lường độ hoài
Xuống điềm hay…,
Hiện tiền đại chúng khen bày:
Xin sang nước Ngài
Hiện tiền đại chúng khen bày :
Đồng sang nước Ngài.
Bài kệ răn khuyên đại chúng
CHÁNH VĂN
Thị nhựt dĩ quá, mạng diệc tùy giảm,
Như thiểu thủy ngư, tư hữu hà lạc,
Đại chúng đương cần tinh tấn,
Như cứu đầu nhiên,
Đản niệm vô thường,
Thận vật, phóng dật.
Tạm dịch
Ngày nay đã qua, mạng sống giảm lần
Như cá thiếu nước, nào có vui chi !
Mọi người nên chuyên cần tinh tấn
Như lửa cháy đầu
Hằng nghĩ đến vô thường
Dè dặt ! chớ có buông lung !
Bài kệ trên được rút ra từ trong Kinh Xuất Diệu.
Duyên do, Phật thấy những con cá khi nước tràn ngập, chúng trôi
theo dòng nước. Chúng nghĩ rằng, thừa lúc nước chưa rút xuống,
thì chúng mình mau mau bơi lội ngược dòng để ra biển cả. Nếu
không gắp rút, thì sẽ chết cạn. Hai con ráng hết sức tìm cách bơi
lội vượt qua được, còn con thứ ba không may, bị đuối sức, nên bị
người chài lưới bắt đặng. Do chứng kiến như thế, nên Đức Phật
mới nói ra bài kệ này, nhằm để răn nhắc đại chúng về sự vô thường
và mạng sống giảm lần, hơi mòn sức kiệt, xê dịch lần về cái chết,
khác nào như cá thiếu nước, làm sao có thể bơi lội cho được ? Thế
là cá sẽ bị mắc cạn chết khô !
Nghĩ đến cơn vô thường nhanh chóng, mỗi người tự ý thức mà nỗ
lực gia công tu hành, khác nào như lửa cháy đầu, phải kíp mau tìm
phương dập tắt, còn thời giờ đâu mà hơn thua tranh nhau, sống đời
phóng dật ! Đó là lời cảnh tỉnh thức nhắc của Phật bằng một bài kệ
ngắn gọn, nhưng nó có một giá trị tác dụng rất lớn, nếu người nào
khéo biết lợi dụng thời gian tu hành, thì chóng mau thoát khổ vậy.
Sau đó là tụng bài Hồi Hướng và kết thúc bằng tam tự quy y.
CHÁNH VĂN
Phúng kinh công đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ tát đạo
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai công thành Phật đạo.
Dịch Nghĩa
Phúng kinh công đức hạnh thù thắng
Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng
Nguyện khắp pháp giới các chúng sanh
Mau qua cõi Phật không ngằn mé
Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não
Nguyện được trí huệ rõ nguồn chơn
Nguyện khắp tội chướng đều tiêu trừ
Đời đời thường hành đạo Bồ tát
Nguyện sanh Tịnh độ ở phương Tây
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ
Hoa nở thấy Phật ngộ vô sanh
Bồ tát bất thối làm bậu bạn
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
Yếu Giải
Phúng kinh công đức thù thắng hạnh.
Phúng : theo Hán Việt Từ Điển của ông Nguyển văn Khôn giải
thích, thì nó có nghĩa là đọc thầm, dùng lời bóng bẩy để kích thích
người.
Theo Tự Điển Hán Việt của Thiều Chửu giải thích, thì chữ phúng
có nghĩa là đọc sách, đọc lên cao giọng, như phúng tụng : đọc tụng
ngâm nga. Như vậy, chữ phúng và chữ tụng có nghĩa giống nhau.
Cả hai đều phải tụng thuộc lòng và có giọng ngâm nga trầm bổng.
Ngược lại, chữ đọc, theo tôi, thì cần phải có bổn để đọc. Tuy nhiên
khi đọc vẫn có âm thanh trầm bổng tùy theo nội dung của bài kinh
mà mình đọc tụng.
Kinh : theo ý nghĩa chung là những lời Phật dạy, đã được chư Tổ
kết tập thành ba tạng : Kinh, Luật, Luận. Tuy nhiên, nếu nói như
thế, thì cũng chưa lột được nói lên ý nghĩa của chữ Kinh. Kinh nói
đủ là khế kinh, gồm có hai nghĩa : khế lý và khế cơ. Khế lý là hợp
với lẽ thật muôn đời không thay đổi. Khế cơ là hợp với mọi trình
độ căn cơ và thời đại. Nghĩa là phải khế hợp mọi trào lưu tư tưởng
của nhơn loại tùy theo mỗi thời đại mà có thích nghi sai khác.
Công đức : công là công phu, đức là lý tánh chân thật. Chúng ta
cần phân biệt giữa công đức và phước đức khác nhau. Kinh Pháp
Bảo Đàn, Đức Lục Tổ Huệ Năng giải thích tường tận về sự khác
biệt này. Qua câu chuyện giữa vua Lương Võ Đế và Sơ Tổ Bồ Đề
Đạt Ma. Tổ Đạt ma đã trả lời dứt khoát qua câu hỏi của vua Lương
Võ Đế về việc lập chùa, cúng dường, tạo Tăng, bố thí v.v… Tổ
nói : đó không phải là công đức mà chỉ là thuộc về phước đức.
Phước đức thuộc về hữu lậu pháp. Công đức thuộc về vô lậu pháp.
Vì công đức là do diệt trừ hết vô minh phiền não mà được tựu
thành. Do đó, công đức mới thật sự là giải thoát, còn phước đức
chỉ hưởng được quả báo tốt mà không được giải thoát, vì còn kẹt
dính vào pháp hữu vi. Ngược lại, công đức thì vượt ngoài phạm trù
dính mắc đó. Như vậy, nếu tụng kinh, hiểu theo nghĩa thường,
trong khi tụng mà hành giả hết lòng chú tâm vào câu kinh tiếng kệ,
tâm không vọng tưởng nghĩ chuyện gì khác, thì chính khi đó, hành
giả đã dừng vọng tưởng và dĩ nhiên là lúc đó không có phiền não
dấy khởi. Đó là tụng kinh có công đức. Ngược lại, nếu tụng kinh
mà để tâm nghĩ nhớ mông lung, thì đó chỉ có chút ít phước đức,
chớ không có công đức. Vì tụng kinh mà còn có vọng tưởng phiền
não, thì làm gì có được công đức ? Đó là nói theo nghĩa tụng kinh
hạn cuộc theo thời khóa. Còn nếu nói nghĩa sâu hơn, thì như Kinh
Pháp Hoa đã nói, người nào nhận ra và hằng sống được với Tri
kiến Phật, thì người đó mới thực sự hằng trì tụng kinh. Được thế,
mới thực sự là thành tựu công đức trọn vẹn vậy. Chính vì được như
thế, nên mới nói là thù thắng hạnh.
Vô biên thắng phước giai hồi hướng.
Vô biên là không có biên giới bờ mé.
Thắng phước : phước không gì có thể so sánh. Phước này, như
trong Kinh Kim Cang Bát Nhã, ngài Tu Bồ Đề hỏi Phật về phước
có ngằn mé không ? Phật nói phước không ngằn mé. Nhưng phải
với điều kiện là hành giả phải đạt đến thể Tam luân không tịch.
Tam luân không tịch là gì ? Tam luân là ba việc làm, mà nó có liên
hệ mật thiết nhau. Đó là người bố thí, vật bố thí và kẻ thọ thí. Cả
ba điều này, khi thực hiện, hành giả phải không còn có ý niệm nghĩ
đến. Làm với một tâm thể vắng lặng sáng suốt, như thế mới được
gọi là thể không tịch. Không tịch là tên khác của Niết bàn hay
Chân như. Đến đây, thì không còn thấy có ngã và pháp. Như thế là
hành giả đã triệt tiêu Tứ Tướng và chứng được Thật tướng. Phước
đức trong Kinh Kim cang Bát Nhã nói như thế, mới đồng nghĩa với
công đức vô lậu.
Giai hồi hướng : đều hồi hướng. Hồi hướng là nguyện cầu cho tất
cả chúng sanh đều được như thế. Nghĩa là đều đạt đến quả vị Bồ đề
rốt ráo. Đó là mục đích cứu cánh nhắm tới của người tu. Sự
nguyện cầu đó cũng nói lên cái tâm nguyện đại bi của Bồ tát. Bồ
tát thì phải thật hành cái công hạnh tự lợi và lợi tha. Như thế, mới
xứng danh Bồ tát.
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh.
Phổ nguyện : nguyện khắp không còn phân biệt giới hạn ở nơi
thân sơ nhân ngã.
Pháp giới : chỉ cho Nhứt tâm, là một bản thể trùm khắp muôn loài.
Chư chúng sanh : gồm chung 9 cõi và bốn loài. Nghĩa là nói
chung là hữu tình chúng sanh và vô tình chúng sanh.
Đây là lời nguyện cầu mong muốn khắp hết thảy chúng sanh bên
ngoài cũng như chúng sanh bên trong tâm thức, thảy đều đồng thể
nhập vào pháp giới vô tận tạng Như Lai.
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Tốc vãng : chóng qua.
Vô lượng quang: ánh sáng không lường.
Câu này, có liên hệ đi liền với ý của câu trên. Nghĩa là nguyện cho
hết thảy chúng sanh trong pháp giới, thảy đều nhanh chóng vãng
sanh qua cõi Phật. Vô Lượng Quang, tức cõi Cực lạc của Đức
Phật A Di Đà, vì đức Phật Di Đà còn có danh hiệu là Vô Lượng
Quang. Chữ sát nghĩ là cõi, tức là cõi Phật Di Đà.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não.
Tam chướng : phiền não chướng, nghiệp chướng và báo chướng.
Ba chướng này có năng lực làm ngăn ngại cho sự tu hành tiến đạo
giải thoát của hành giả. Nhứt là đối với phiền não chướng, thật rất
khó trừ, khó đoạn. Muốn tiêu trừ chúng, hành giả phải nỗ lực gia
công tu hành già dặn và miên mật, mới có thể chuyển hóa chúng
được. Nói rõ hơn, là hành giả phải thương xuyên quán chiếu sâu
vào nội tâm, để nhận diện rõ ràng khi niệm dấy khởi. Nên Kinh
Viên Giác nói : « Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì ».
Nghĩa là, người tu hành không sợ tham, sân nổi lên, mà chỉ sợ giác
ngộ ( nhận diện ) chậm thôi. Vì vô minh vọng tưởng là đầu mối
của sự tạo nghiệp. Nếu dừng vọng tưởng, thì sự tạo nghiệp không
có. Mà không có tạo nghiệp, thì sự khổ đau sẽ không có. Do đó,
việc chuyển hóa phiền não thành Bồ đề thật là hệ trọng đối với
người tu hành mong cầu giải thoát. Vì hễ dứt phiền não chướng
rồi, thì nghiệp chướng và báo chướng cũng sẽ không còn. Khi đốn
gốc rồi thì ngọn cũng phải ngã theo.
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu.
Trí huệ đối với người tu hành thật là quan trọng. Dù hành giả tu bất
cứ pháp môn nào Phật dạy, đều phải lấy trí huệ làm gốc. Nếu thiếu
trí huệ, thì sự tu hành của chúng ta khó đạt thành sở nguyện. Dù đã
có niềm tin vững chắc, nhưng hành giả cũng cần phải có trí huệ để
chỉ đạo hướng dẫn cho niềm tin đó đi đúng theo chân lý. Ngược
lại, thì đó chỉ là niềm tin mù quáng. Thế nên, câu trên, nó mang ý
nghĩa là mong mỏi cho mỗi người luôn luôn có được trí huệ sáng
suốt để biện biệt rõ lẽ chánh tà, chân ngụy trong sự tu hành. Vì có
trí huệ soi sáng, thì sự tu hành mới được đảm bảo khỏi rơi vào con
đường tà ngoại. Nhờ thế, thì sự tu hành mới có đạt được kết quả tốt
đẹp.
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Phổ nguyện là mong muốn rộng khắp cho mình và tất cả chúng
sanh, bao nhiêu tội chướng đã vì vô minh bất giác gây tạo, nay tất
cả đều được tiêu trừ. Vì tội lỗi cũng là một chướng ngại lớn trong
sự tu hành. Muốn cho tội chướng không còn, thì trong đạo Phật có
chỉ dạy phương pháp sám hối. Sám hối là ăn năn tội lỗi đã gây ra.
Nguyện từ nay trở đi không bao giờ tái phạm. Sám hối cũng có cạn
sâu, Sự Lý khác nhau. Nhưng dù cách nào, mục đích chung cũng
vẫn là tẩy trừ dứt hết tội lỗi. Tội có ra là do nghiệp thức vô minh
chủ động tạo thành. Nay có trí huệ soi sáng dẫn đường hành đạo,
thì chắc chắn, những tội lỗi do si mê lầm lẫn gây ra, cũng sẽ đều
được tiêu diệt.
Thế thế thường hành Bồ tát đạo.
Bồ tát đạo là con đường thật vô cùng lý tưởng, mà hành giả Đại
thừa đang thật hành tiến bước. Đó là một đại lộ thênh thang rộng
lớn độ mình độ người, rộng ra là tất cả muôn loài đều được an vui
hạnh phúc. Một con đường xuyên suốt từ phàm phu đến Thánh
quả. Đó là con đường mà hành giả Đại thừa luôn luôn phát nguyện
nắm lấy tay nhau trong việc tự hành hóa tha. Một tâm nguyện rộng
lớn, tất nhiên sẽ đạt kết quả rộng lớn. Tâm nguyện đó, không phải
chỉ một đời, mà đời đời luôn gần gũi chúng sanh để hóa độ cứu
khổ chúng sanh. Đó là tâm nguyện Đại Bi mà Bồ tát luôn thật
hành.
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung.
Đây là điều mong muốn thiết tha của hành giả đang thật hành tu
theo pháp môn Tịnh độ. Pháp môn Tịnh độ lấy sự niệm Phật làm
chánh. Niệm Phật tuy có nhiều cách, nhưng cách thật hành dễ nhứt
mà đạt hiệu quả cao, xưa nay, trong Tông môn, chư Tổ Liên Tông
thường khuyên hành giả Tịnh độ nên ứng dụng phương cách Trì
Danh Niệm Phật. Mục đích của sự niệm Phật là để đạt được « Nhứt
tâm bất loạn ». Nhưng dù hành giả có đạt được Nhứt tâm bất loạn
hay chưa, cũng đều một lòng hướng nguyện cầu sanh về Tịnh độ.
Vì nơi dó chính là quê hương đích thực của hành giả niệm Phật.
Cho nên, dù sự hành trì niệm Phật sâu cạn, cao thấp có khác nhau,
song, tựu trung cũng lấy việc vãng sanh về Cực lạc làm tiêu đích
chính.
Thế nên, trong 3 món Tư lương :Tín, Hành, Nguyện, thì nguyện
lực đóng một vai trò tối ư quan trọng cho việc vãng sanh. dù hành
giả đã chuẩn bị Tín và Hành thật sâu dầy miên mật chu đáo, nhưng
nếu thiếu Nguyện lực chí thành tha thiết, thì cũng không thể được
vãng sanh. Vì sao ? Vì có tha thiết muốn đi, thì mình mới đến nơi
được. Dụ như, bạn có sẵn đầy đủ tiền bạc và phương tiện các thứ
như : máy bay, giấy thông hành, địa chỉ nơi đến chỗ du lịch v.v…,
nhưng bạn không có ý chí quyết định muốn đi, thì thử hỏi làm sao
bạn có thể đến nơi đó để thưởng ngoạn cho được ? Vì thế, việc
vãng sanh hay không, là tùy ở nơi nguyện lực chí thành tha thiết
của hành giả. Đó là do hành giả quyết định chọn lấy.
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu.
Khác với cõi Ta bà này, hành giả Tịnh độ khi được vãng sanh về
Cực lạc, thì thần thức gá vào hoa sen sanh ra. Không phải thai sanh
do nghiệp thức hợp với tinh cha huyết mẹ mà sanh ra. Bên cõi Cực
lạc, có chín phẩm hoa sen cao thấp khác nhau. Sở dĩ có sự khác
biệt cao thấp đó, là do công phu tu hành niệm Phật của hành giả
Tịnh độ ở cõi này có sai khác. Tuy dù có phẩm vị cao thấp, nhưng,
tất cả đều gá vào thai sen mà sanh ra, bằng cách biến hóa, nên nói
là « Liên hoa hóa sanh ». Do đó, nên nói, lấy hoa sen làm cha mẹ.
Không phải cha mẹ bằng xương thịt có sự giao hợp như cõi này.
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh.
Hoa khai là hoa nở nghĩa là khi hoa sen nở thì liền thấy Phật và tỏ
ngộ lý vô sanh. Vô sanh là chứng quả Vô sanh nhẫn. Quả vị này,
nếu so sánh bên Viên giáo, thì ở vào quả vị Sơ trụ. Còn bên Biệt
giáo là Sơ địa. Chứng quả vị này, tất nhiên hành giả sẽ không còn
lui sụt. Chỉ có một con đường tiến tu đến thành Phật quả mà thôi.
Bồ tát bất thối vi bạn lữ.
Dù tu hành ở cõi nào hay bất cứ ở trú xứ đạo tràng nào, việc liên
kết tình bạn sen đồng tu trong một ý hướng đồng lý tưởng giải
thoát, thật hết sức quan trọng. Người xưa nói: “ăn cơm có canh tu
hành có bạn”.
Câu nói đó ngầm ý khuyến nhắc người tu nên kết hợp với nhau
trong tinh thần yêu thương hòa ái đồng tu, đồng học, đồng hành, và
đồng tiến bước trên con đường lý tưởng giải thoát. Bạn đời, thì còn
có sự tranh chấp hơn thua phải trái gây chia rẽ hận thù với nhau, vì
họ còn nhắm vào mục đích danh lợi. Ngược lại, đối với bạn đạo,
nhứt là đối với những người đang thật hành noi theo con đường Bồ
tát đạo, thì có khác. Vì tinh thần Bồ tát là luôn luôn thể hiện tinh
thần rộng lượng bao dung tha thứ. Bồ tát nhìn ai cũng là bạn cả. Bồ
tát không thấy ai là kẻ thù. Bồ tát mang tinh thần vì người hơn vì
mình. Đó là thể hiện tình thương cao cả, chỉ có với con người thực
sự thật hành hạnh Bồ tát mà thôi. Đó là những người bạn đồng
hành tương thân quý kính cao đẹp mà ta cần kết giao, và xin
nguyện đời đời không bao giờ thối bước. Vì chỉ có những người
bạn đồng hành đó, mới đem lại sự tươi mát cho ta và mọi nguời
được an vui hạnh phúc lớn lao mà thôi.
Nguyện dĩ thử công đức.
Từ trước tới đây, nghĩa là từ khi hành giả bắt đầu hành lễ cúng thí,
đến đây, có bao nhiêu công đức, xin nguyện đem tất cả mà hướng
về chúng sanh, những ai còn đắm chìm trong đau khổ, thì nhờ công
đức này mà hồi tâm chuyển ý thiết thiệt tu hành để được hết khổ.
Đó là tâm nguyện của người hành lễ thiết tha mong muốn vậy.
Phổ cập ư nhứt thiết.
Phổ cập là cùng khắp, nhứt thiết là tất cả muôn loài. Hạnh nguyện
vị tha của Bồ tát là thế. Khi làm một điều gì hữu ích cho mình và
người, rộng ra là muôn loài, với tâm địa công hạnh của Bồ tát, thì
cũng muốn cho tất cả đều được lợi ích. Đó là tâm nguyện bình
đẳng không phân biệt thân sơ. Mong muốn tất cả đều được an vui
hạnh phúc.
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.
Đến đây hành giả nguyện cho mình và tất cả chúng sanh đều trọn
thành Phật đạo. Phật đạo là con đường tiến thẳng đến quả vị Phật.
Đó là mục đích tối hậu mà bất cứ người tu hành nào cũng đều
mong muốn được như thế. Nhưng không phải mong muốn suông
mà được. Tất cả đều phải gia công nỗ lực tu hành mới kỳ vọng đạt
thành sở nguyện.
Sau cùng, kết thúc buổi hành lễ bằng Tam tự quy y. Ba quy y này
là nói về Lý quy y Tam bảo, chớ không phải là Sự quy y Tam bảo.
Đạo Phật chủ trương Sự Lý phải viên dung. Nương Sự để hiển Lý,
hay tức Lý để hiển Sự, đó là yếu lý của đạo Phật. Bất cứ làm một
việc lành nào, cuối cùng cũng phải quy về tự tánh. Vì đó là cội gốc
mà mọi người cần phải trở về. Nếu chỉ biết một bề hướng ngoại
tìm cầu, thì đó là rơi vào con đường mê tín. Nương phương tiện để
đạt cứu cánh, đó mới đích thực là tôn chỉ của đạo Phật nhắm tới.
Do đó, đến đây hành giả phải hết lòng quy hướng nhận lại tự tánh
Tam bảo của chính mình. Đó là điều thức nhắc của chư Tổ, người
đã bày ra nghi thức tụng niệm này.
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát
lòng vô thượng.
Yếu Giải
Tự quy y là trở về nương tựa với ông Phật chính mình. Vì ai ai
cũng sẵn có tánh giác thanh tịnh sáng suốt như Phật. Nhưng vì theo
vòng vô minh tạo nghiệp nổi trôi trong biển sanh tử, mà chúng ta
quên mất đi tánh giác sẵn có này. Nay đây nhờ nương theo lời Phật
dạy, mà chúng ta biết được nẻo về, nên phải quyết lòng trở về nhận
lại gia tài quý báu của chính mình. Đồng thời, cũng nguyện cho
mọi loài, nhận rõ lý đạo cao siêu mà thành tâm phát nguyện rộng
rãi tu hành tiến đến đạo quả Vô Thượng vậy.
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ Kinh tạng, trí
huệ như biển.
Quy y Pháp là trở về nương tựa với thể tánh từ bi, bình đẳng của
chính mình. Đây là pháp mầu vi diệu mà Phật đã đạt thành và
Ngài đã thuyết giáo cho chúng sanh biết dể tu hành, chóng được
giải thoát. Đồng thời, cũng nguyện cho hết thảy muôn loài đồng
hướng về tự tánh để nhận ra pháp mầu vi diệu kho báu đó. Có thế,
thì trí huệ của chúng ta mới khai phát rộng lớn như bể cả bao la
không ngằn mé.
Tự quy Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết
thảy không ngại.
Quy y Tăng là trở về nương tựa với thể tánh thanh tịnh hòa hợp
của chính mình. Có nhận ra và sống được với thể tánh này, thì mới
được giải thoát mọi phiền não cấu trược ô nhiễm. Bởi quên mất
tánh thể sẵn có thanh tịnh này, nên chúng sanh mãi đắm nhiễm
duyên trần mà thọ khổ. Nay nhờ nghe Pháp Phật mà biết đường về.
Đồng thời cũng nguyện cho hết thảy chúng sanh cùng tất cả mọi
người không còn bị ngăn ngại, bởi vọng tưởng điên đảo vô minh
che ngăn phủ mờ tánh thanh tịnh bản nhiên nữa. Đó là trở về
nương tựa với tự tánh thanh tịnh vậy.
Biên soạn xong
Ngày 13/ 6/2008
Thích Phước Thái.