VÔ TẦM VÔ TỨ ĐỊNH
(P: Avitakka avicāra samādhi)
THÍCH NỮ HẰNG NHƯ
---------------------------------------
I. DẪN NHẬP
Vô Tầm Vô Tứ Định là tầng Định thứ hai trong bốn chi Thiền do đức Phật thiết lập. Bốn chi Thiền đó gồm Sơ Thiền tương xứng với Sơ Định hay Định Hữu Tầm Hữu Tứ, Nhị Thiền tương xứng với Vô Tầm Vô Tứ Định, Tam Thiền tương xứng với Xả hay An Chỉ Định, Tứ Thiền tương xứng với Chánh Định.
Vô Tầm Vô Tứ Định là nền tảng cơ bản của tất cả các loại Định trong Thiền Phật Giáo gồm chung cả ba hệ: Nguyên Thủy, Phát Triển và Thiền Tông. Tầng Định này được thiết lập trên cơ sở không quán tưởng, không suy nghĩ, nói chung là trong vô ngôn hay không lời. Nếu thành tựu Định này vững chắc, Tánh giác sẽ có mặt trong bốn oai nghi. Hành giả nào muốn đi đến cuối cùng của Thiền Phật Giáo đều phải kinh nghiệm được tầng Định này.
Trên đường tu Định có nhiều cách tu tập. Dù phương cách có khác nhau nhưng chung quy cũng đưa đến chỗ tâm “vắng lặng không lời”. Muốn thực hành không sai lệch, trước hết chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của “Định” là gì? Chức năng nào đảm nhận vai trò đó? Đồng thời chúng ta cũng cần phải hiểu cụm từ “Định Vô Tầm Vô Tứ” là Định ra làm sao?
Thuật ngữ “Định” là từ ngữ chuyên môn trong Thiền. Nó được đức Phật dùng để chỉ tâm yên lặng. Sự yên lặng đó đức Phật mô tả là trạng thái tâm thuần nhất, tức là trong tâm của chúng ta chỉ hiện hữu một trạng thái biết không lời. Nếu biết mà có lời, thì tâm đang có vọng tưởng. Còn về từ ngữ “Vô Tầm Vô Tứ” được đức Phật dùng để mô tả trạng thái ngôn hành không động. Như vậy Định Vô Tầm Vô Tứ là tầng định bắt buộc chúng ta phải dụng công làm cho tiếng nói trong đầu phải chấm dứt.
II. Ý NGHĨA “VÔ TẦM VÔ TỨ ĐỊNH” LÀ GÌ?
- Định tiếng Pãli và Sankrist là “Samādhi”, người Trung Hoa dịch theo âm là “tam muội”. Về ngữ căn “Sam-ā-dhi” có nghĩa là “gom chung lại với nhau” (to put together) hay “tập trung” (concentrate).
- Trong Trung Bộ Kinh số 30 (Tiểu Kinh Ví Dụ Lõi Cây) có ghi: “… Tỷ-kheo diệt tầm và diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm”. Như vậy định là “Nhất tâm” (cittass’ekaggatā). Đây là trạng thái tâm đồng nhất với đối tượng bên ngoài giác quan, nơi đó không có ý thức hiện hữu mà chỉ có “đơn niệm biết”.
- Trung Bộ Kinh số 36 (Đại Kinh Saccaka), Định được xem là trạng thái “tâm thuần nhất” (cetaso-ekodhi-bhãva) . Trong đó nội tâm thiền gia không còn Tầm Tứ.
- Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Tổ Huệ Năng định nghĩa “Nội tâm bất loạn là Định”. Một vị cao tăng đắc đạo khác là ngài Hàn Sơn người Trung Hoa, đời nhà Đường trong bài thơ viết trên vách núi Thiên Thai cho rằng Định là “tám gió thổi không động” (bát phong xuy bất động). Tám gió đó là: Lợi (lợi lộc hay thắng lợi); Suy (sự suy đồi, suy sụp, thua lổ); Hủy (phỉ báng, hạ nhục, ô nhục); Dự (lời ca tụng, tán dương); Xưng (đề cao, khen ngợi); Cơ (chê bai, nói xấu); Khổ (bất toại nguyện, đau khổ); Lạc (vui vẻ, an lạc).
- Thời nay, vị Tổ sư dòng Thiền Chân Không-Thường Chiếu là Hòa Thượng Trúc Lâm tại Việt Nam cũng dạy: “Vọng tưởng dừng, là Định” nghĩa là trong đầu yên lặng, không còn suy nghĩ lung tung, thì đó là trạng thái Định.
Căn cứ vào các dữ kiện trên, chúng ta biết rằng muốn đạt được trạng thái Định, người thực hành phải đạt được trạng thái “Biết không lời” là cái Biết của Tánh Giác. Vì nếu “Biết có lời” cho dù là lời đúng, nhưng đó là cái Biết của Tưởng, của Thức nên tâm vẫn còn động chưa phải là “tâm thuần nhất”. Do đó, khi hành giả ở trong trạng thái Định mà tâm ngôn vẫn khởi lên, đức Phật gọi đó là “Định Có Tầm Có Tứ”. Còn tâm ngôn yên lặng, đức Phật gọi đó là trạng thái “Định Không Tầm Không Tứ”. Tâm ngôn ở đây chính là Tầm Tứ, là sự suy nghĩ, là những lời thầm thì qua lại trong não.
- Không Tầm Không Tứ Định: Xuất nguyên từ tiếng Pãli là “Avitakka Avicāra Samādhi” có nghĩa là “Định không lý luận xét đoán, cũng không tư duy biện luận” nghĩa là tâm hoàn toàn yên lặng. Về ý nghĩa của hai từ Vitakka và Vicāra được hiểu như sau:
- Vitakka: Người Tàu dịch là Tầm. Nguyên gốc chữ này có nghĩa: “suy tư, suy nghĩ, ngẫm nghĩ, lý luận, lý lẽ…”. Trên phương diện thực hành thiền, chúng ta có thể hiểu ý nghĩa cốt lõi của những từ ngữ này chính là “tâm ngôn” (mental chatter), hay “sự nói thầm” (muttering) trong não.
- Vicãra: Trước kia Tàu dịch là Quán, ngày nay người ta dịch là Tứ. Nguyên gốc Vicãra có nghĩa là: “sự dò xét, quán sát, tư duy, biện luận, cân nhắc…” Trên phương diện thực hành thiền, ý nghĩa cốt lõi của dò xét, quán sát, tư duy biện luận… chính là “sự đối thoại thầm lặng” tức suy nghĩ dây dưa hết chuyện này đến chuyện khác trong não.
Cả hai Tầm và Tứ thuộc về cái Biết của Ý thức và Ý căn. Chúng là tâm sở thuộc phạm vi Sơ Thiền. Có nghĩa là khi thực hành thiền, ở bước đầu chúng ta cần sử dụng Tầm và Tứ để tư duy, tìm hiểu về pháp học và pháp hành. Sau đó, ta cần quán sát đối tượng để nhận ra thực chất của pháp học. Trong trường hợp này, tác dụng của Tầm và Tứ giúp chúng ta chuyển đổi nhận thức, có cái nhìn mới về cuộc đời, không còn mê lầm, mê chấp, về hiện tượng thế gian. Từ đó, chúng ta dần dần buông bỏ những trói buộc ngoại duyên.
Thí dụ, Phật dạy “vạn pháp là vô thường”. Muốn hiểu rõ thực chất ý nghĩa của vạn pháp là vô thường, ta phải suy tư, ngẫm nghĩ, tức sử dụng Tầm để tìm hiểu ý nghĩa của thuật ngữ Vô thường là gì. Sau đó, ta sử dụng Tứ là quán sát hay dò xét về đối tượng, để xác minh tính chất vô thường của đối tượng đó.
Cụ thể, ta có thể chọn quán sát tiến trình phát triển của nụ hoa. Ban đầu, nụ hoa nở thành một đóa hoa xinh đẹp, màu sắc tươi thắm, hương thơm ngào ngạt. Hoa chỉ đẹp trong vài ngày ngắn ngủi, sau đó đổi màu, rồi héo úa tàn tạ, từng nhánh hoa rơi rụng xuống mặt đất. Qua vài cơn gió thổi những nhánh hoa tàn úa đó bay đi mất. Cuối cùng đóa hoa trên cành không còn nữa. Quán sát tiến trình phát triển của nụ hoa như vậy, chúng ta thấy được ngay từ lúc khởi đầu hoa mới nở, thời gian hoa tồn tại, hư hao, rơi rụng và biến mất. Chúng ta kinh nghiệm được tính chất vô thường của đóa hoa. Từ đó, chúng ta có thể liên tưởng đến cảnh vật xung quanh, theo thời gian đều không thoát khỏi qui luật vô thường biến dịch, giống như tình trạng “sinh diệt” của đóa hoa, đúng như lời Phật dạy.
Để hiểu thêm về luật vô thường, chúng ta có thể quán sát tiến trình hình thành một con người. Ban đầu còn là bào thai trong bụng mẹ đến khi ra đời, theo thời gian lớn lên.
Về thân: Khi thân thể phát triển đầy đủ, đứa nhỏ bé xíu ngày nào, dần lớn lên trở thành một thanh niên cường tráng, khỏe mạnh, tóc đen, mắt sáng… Theo thời gian người đó biến đổi thành người trung niên, rồi… già nua, tóc bạc, răng rụng, da nhăn, má hóp, lưng còng và bệnh tật.
Về tâm: Trong cuộc đời của mình, người đó kinh nghiệm bao nhiêu lần những vui buồn, phiền não, sợ hãi, lo âu, giận hờn, tranh chấp…
Cuối cùng: Dù thọ mệnh hay yểu mệnh, không ai thoát khỏi sự chết và biến mất ở thế gian này. Qua sự quán sát đó, chúng ta thông suốt ý nghĩa vô thường trên tất cả mọi loài mọi vật, dù hữu tình hay vô tình đều thay đổi theo thời gian. Không có hiện tượng nào là trường cửu hay bất diệt.
Như vậy Tầm và Tứ lúc ban đầu là phương tiện cần thiết giúp ta có nhận thức đúng đắn về thực chất của hiện tượng thế gian. Tuy nhiên, muốn an trú trong Định, chúng ta phải buông phương tiện Tầm và Tứ. Bởi vì nếu ta cứ suy nghĩ, cứ quán xét lý luận thì sóng não ta không bao giờ yên lặng, triều tâm lúc nào cũng dao động nên Chỉ và Định vắng mặt.
- Vô Tầm/Không Tầm (Avitakka): Là “Không lý luận xét đoán”. Nghĩa phía sau thuật ngữ này là “không nói thầm”. Muốn đạt được “Vô Tầm”, ta phải đạt được “sự không nói thầm trong não”. Đây là cách thực tập tiến thẳng vào ý nghĩa cốt lõi của thuật ngữ.
- Vô Tứ/Không Tứ (Avicāra): Nghĩa là “Không tư duy, không biện luận”. Nghĩa phía sau thuật ngữ này là “không đối thoại thầm lặng”. Muốn đạt được “Vô Tứ”, ta phải thành tựu cách “không tự nói qua nói lại thầm lặng” bên trong não bộ.
Tóm lại, “Vô Tầm Vô Tứ Định” là tâm yên lặng, không có sự nói thầm cũng không có sự đối thoại thầm lặng bên trong não. Nó có nghĩa là “Định không lời” hay “Định không khái niệm”. Vậy muốn đạt được Vô Tầm Vô Tứ Định, ta phải đạt được trạng thái “vô ngôn vững chắc”.
III. LÀM SAO ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC “ĐỊNH KHÔNG TẦM KHÔNG TỨ” ?
Như định nghĩa ở trên “Không Tầm Không Tứ Định” là trạng thái tâm hoàn toàn yên lặng, không suy nghĩ, không khái niệm.
Dưới đây là gợi ý một số các chiêu thức và kỹ thuật thực hành rút ra từ những bài học trong kinh điển cũng như kinh nghiệm của các bậc Thầy chỉ dạy nhằm huấn luyện tế bào não có quán tính dao động từ từ làm quen với sự yên lặng.
1) Thu thúc lục căn (hay Ý thức không đối tượng): Khi sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; hành giả cố ý đóng cửa sáu căn không cho ý thức nhảy ra suy nghĩ, phân biệt, so sánh nọ kia. Xem như các giác quan của hành giả hiện hữu trong tiến trình thấy biết, nghe biết, xúc chạm biết mà “cái ta ý thức” không có mặt trong tiến trình đó. Nói dễ hiểu là khi mắt nhìn thấy đối tượng, biết. Tai nghe âm thanh, biết. Thân xúc chạm, biết… nhưng ngay lúc đó trong đầu “không có lời nói thầm hay suy nghĩ gì về đối tượng đó” thuật ngữ gọi cái biết này là “Biết không lời”. Thực tập miên mật nhiều ngày, khi cái Biết không lời vững chắc, hành giả sẽ kinh nghiệm “Định Vô Tầm Vô Tứ”.
2) Pháp “không định danh” hay “không gọi tên đối tượng”: Định danh đối tượng ở đây bao gồm ý nghĩa đặt điều dán nhãn, khen chê đối tượng. Còn tại sao gặp đối tượng (biết) mà không gọi tên? Đó là vì nếu gọi tên hay định danh đối tượng là chúng ta tiếp tay để cho Ý thức hoạt động. Chúng ta biết rằng chức năng của Ý thức là phân biệt, so sánh hai bên, thuật ngữ gọi là “tâm nhị nguyên” nên khi chúng ta vừa tiếp xúc đối tượng thì Ý thức liền giúp ta nhận định đối tượng theo quán tính chủ quan của nó là tốt hay xấu, thiện hay ác, ưa hay không ưa v.v… Chúng ta dụng công pháp “không định danh đối tượng” hoặc “không gọi tên đối tượng” để ngăn chận không cho tâm ngôn khởi lên.
3) Pháp “Chú ý trống rỗng”: Bằng mắt, nhìn tất cả đối tượng, thấy biết, mà trong tâm chúng ta không nói thầm về đối tượng. Từ “trống rỗng” tương ưng với “không gọi tên”. Không gọi tên đối tượng thì trong tâm yên lặng. Thực hành hoài, đến lúc có đối tượng hay không có đối tượng trước mắt chỉ cần “khởi ý trống rỗng” thì tức khắc trong đầu chúng ta yên lặng, trống rỗng. An trú trong “trạng thái trống rỗng” tức trạng thái tâm không có sự hiện hữu của Tầm Tứ. Tầm Tứ yên lặng bao lâu thì hành giả có kinh nghiệm “Định Vô Tầm Vô Tứ” bấy lâu.
4) Chiêu thức “Nghe tiếng chuông”: Thu sẵn âm thanh tiếng chuông vào máy MP3. Khoảng cách của mỗi tiếng chuông vang lên là mười tiếng đếm (1, 2, 3…. 10). Khi tọa thiền mở máy nghe. Nghe âm thanh, chỉ biết nghe, không thắc mắc trong đầu tiếng lớn hay tiếng nhỏ, âm thanh trong hay đục, không theo dõi âm thanh nhanh hay chậm. Nghe tiếng chuông, trong đầu không suy nghĩ, không nói thầm gì hết. Tâm yên lặng. Nghe như vậy kích thích Tánh Nghe. Khi buông tiếng chuông không nghe nữa mà tâm hành giả không khởi niệm, thì lúc đó hành giả đang ở trong trạng thái “Định Không Tầm Không Tứ.”
5) Chánh niệm tỉnh giác: Sinh hoạt hằng ngày chúng ta thực tập giữ niệm Biết Không Lời. Làm việc gì “thầm nhận biết” mình đang làm việc đó, không để tâm nghĩ đến những việc khác. Thí dụ: Khi đi, mình biết là chân mình đang bước đi. Khi ngồi, mình biết mình đang ngồi. Khi quét nhà, biết mình đang quét nhà. Khi ăn cơm, biết mình đang ăn cơm v.v.. Ngoài ra, khi giác quan tiếp xúc đối tượng, mình chú ý giữ niệm Biết “đang là” về đối tượng. Thực tập lâu ngày, năng lượng của Chánh niệm giúp mình giữ được bĩnh tĩnh, không bối rối, sợ hãi khi gặp chuyện không hay xảy đến cho mình, hoặc không quá sôi nổi sung sướng khi chuyện vui bất ngờ ùa đến. Ngoài ra, hằng ngày thường xuyên sống với Chánh niệm, khi tọa thiền, hành giả sẽ dễ vào Định vì Tầm Tứ quen yên lặng.
6) PHÁP THỞ :
i) Bước thứ nhất (Đơn Niệm Biết Có Lời):
Ý Căn khởi niệm tập trung theo dõi hơi thở vào và hơi thở ra liên tục trong tiến trình thực hành để giúp tâm không tán loạn. Hành giả thực tập:
- Hít vào dài, nói thầm: “ tôi biết… tôi hít vào dài”
- Thở ra dài, nói thầm: “tôi biết… tôi thở ra dài”
- Hít vào ngắn, nói thầm: “tôi biết tôi hít vào ngắn”
- Thở ra ngắn, nói thầm: “tôi biết… tôi thở ra ngắn”
“Tôi biết…” là cái biết của Ý thức do tự ngã làm chủ. Tự ngã “khởi niệm tập trung là sắc thái của Tầm và chú ý quan sát là sắc thái của Tứ” tức có nói thầm trong não. Ở bước này, xem như hành giả thực tập Thiền Chỉ, tâm hành giả yên lặng không còn tán loạn, thuật ngữ gọi là “Định Có Tầm Có Tứ”.
ii) Bước thứ hai: Thầm lặng Biết “sự vào và ra của hơi thở”
Bước này, hành giả chấm dứt không khởi niệm theo dõi hơi thở nữa.
- Hành giả để hơi thở vào hơi thở ra tự nhiên, chỉ “thầm nhận biết” hay “lặng lẽ biết” hơi thở vào, ra, thô, tế, dài, ngắn, sâu, cạn … Thầm nhận biết những cảm thọ trên thân qua các bước thực hành hít thở vào ra. Đây là “biết như thật” về sự vào, ra của hơi thở. Trong đó, không có chủ thể Ta/Tôi đóng vai trò, chỉ có niệm biết rõ ràng mà thôi! Áp dụng đúng như thế tâm được yên lặng, đạt được “Định có nội dung là BIẾT”. Biết này là “Biết không lời” tức biết không thông qua suy nghĩ, suy luận của tâm phàm phu.. Trong kinh gọi là Sati-Samãdhi (Định niệm). Chữ Sati trong trường hợp này có nghĩa là sự “nhận biết” (awareness) là đặc tính của Tánh giác. Biết không lời vững chắc, sẽ kinh nghiệm được Định Không Tầm Không Tứ.
Cách thực tập:
- (Khi hít vào) thầm biết đang hít vào. – (Khi thở ra) thầm biết đang thở ra.
Hành giả giữ “trạng thái Thầm Nhận Biết sự vào và ra của hơi thở”. Bằng cách này quán tính Tầm và Tứ không thể khởi lên, vì hành giả không còn xử dụng Ý Căn mà chỉ xử dụng Biết không lời của Tánh giác. Do đó không có một niệm nào khác bất chợt xen vào trong tiến trình Định-niệm. Khi Định-niệm thường trực có mặt, đương nhiên Tầm và Tứ vắng mặt. Hành giả thành tựu “Định Không Tầm Không Tứ” nội tâm hoàn toàn yên tĩnh.
7) Kỹ thuật “KHÔNG NÓI”
(*): Không Nói ở đây có nghĩa là không suy nghĩ, không nói thầm trong não. Tại sao lại sử dụng hai từ “KHÔNG NÓI” để thực tập? Đó là vì ý nghĩa của hai từ này tương ưng với “không lời”, mà trạng thái tâm không lời, đồng nghĩa với trạng thái tâm yên lặng, trạng thái tâm yên lặng, cũng có thể hiểu là trạng thái tâm trống rỗng. Tu tập Thiền Định là thực tập để Tâm Phàm Phu trở về trạng thái yên lặng tự nhiên.
Kỹ thuật KHÔNG NÓI là một tiến trình dụng công nhiều giai đoạn thực tập. Ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu từ Giai đoạn I, là giai đoạn bắt đầu với dụng ý dùng Tầm tắt Tứ, rồi qua Giai đoạn II, dùng Ý tắt Tầm, đạt được Định Không Tầm Không Tứ.
GIAI ĐOẠN MỘT:
Dùng đơn niệm Biết (một nội dung là Không Nói để thực tập)
- Bước 1: Nói ra thành lời 2 từ “KHÔNG NÓI” để kích thích Tánh Nghe.
Cách thực tập:
i) Nói ra lời: Nói nhừa nhựa, vừa đủ tai mình nghe “.. KHÔNG… NÓI…”…… “…KHÔNG… NÓI…” ……. “…KHÔNG… NÓI…”. Khoảng cách giữa 2 niệm biết chừng 10 tiếng đếm. Về sau có thể kéo dài hơn 30 tiếng đếm. Thực tập vài ngày. Sau đó nói thầm.
ii) Nói thầm: “…KHÔNG… NÓI..”“…KHÔNG…NÓI…”…… như trên.
Đây là tự mình nói ra hai từ “KHÔNG NÓI”. Hai từ này được xem như Tầm. Trong tâm mình mỗi lần chỉ khởi lên một niệm, nên khi niệm KHÔNG NÓI có mặt, thì niệm khác không thể khởi lên cùng một lúc. Dụng ý dùng hai từ KHÔNG NÓI là để chận những suy nghĩ (Tứ), không cho chúng khởi lên trong lúc hành giả ngừng nói.
Ban đầu khoảng cách của hai cụm từ “KHÔNG NÓI” hơi khít nhau. Về sau thì khoảng cách lơi ra để tâm làm quen với sự yên lặng. Thực tập mỗi ngày, kéo dài một tuần hoặc lâu hơn.
Ghi chú:
Điều quan trọng là lúc nói, hay lúc im lặng không nói, hành giả đều có cái biết. Cái biết này là “Biết Có Lời” vì còn sử dụng Trí năng tỉnh ngộ để dụng công. Khi nói Không Nói, hành giả “Biết mình đang nói hai từ “Không Nói”, khi ngưng, hành giả “Biết mình đang không nói hai từ “Không Nói” tức đang im lặng. Trong khoảng thời gian im lặng này nếu vọng tưởng không khởi lên, thì kéo dài thời gian im lặng dài chừng nào tốt chừng nấy. Chỗ tâm yên lặng này chỉ có “niệm Biết”, xem như hành giả kinh nghiệm “Định Có Tầm Không Tứ”.
- Bước 2: Đi Thiền Hành, dùng đơn niệm biết nói ra thành lời “KHÔNG NÓI” để kích thích Tánh Xúc Chạm.
Cách thực tập:
i) Bước đi khoan thai, áp dụng đúng theo kỹ thuật thiền hành. Chân trái chạm xuống đất nói ra lời “KHÔNG”, chân phải chạm xuống đất nói “NÓI”. Tập chừng một ngày. Sau đó nói thầm.
ii) Chân trái chạm xuống đất, nói thầm “KHÔNG”, Chân phải chạm xuống đất nói thầm “NÓI”.
- Bước 3: Mắt nhìn hai chữ “KHÔNG NÓI” viết sẵn để trước mặt. Đọc ra lời 2 từ “KHÔNG NÓI”, sau đó đọc thầm, để kích thích vào Tánh Thấy. Thực tập bước này ít nhất là một tuần.
- Bước 4: Nói ra lời, sau đó nói thầm trong não, câu : “Thầm nhận biết… KHÔNG NÓI” kết quả đưa đến kích thích “Tánh Nhận Thức Biết”.
Cách thực tập: Trước tiên, hạ thấp giọng xuống, tiếp theo thong thả nói ra hai nhóm lời (group of words) với giọng nói nhừa nhựa, vừa đủ tai nghe.
Nói ra lời nhóm thứ nhất: “T…h…ầ…m….. N…h…ậ…n…… B…i…ế…t…..” rồi nói tiếp nhóm thứ hai: “K…h…ô…n…g…………. N…ó…i….” ngưng một chút rồi lặp lại. Khi câu nói đã quen thuộc nơi cửa miệng. Hành giả chuyển qua nói thầm trong não câu này, suốt thời thiền. Thực tập khoảng một tuần hoặc hơn. Mục đích là để cất giữ câu này vào trong Tánh Nhận thức.
GIAI ĐOẠN II: Biết Không Lời - Dùng Ý tắt Tầm
Sau một tháng thực tập Giai đoạn I vững chắc. Hành giả có thể bước qua giai đoạn II. Giai đoạn này không còn nói ra lời, hay nói thầm hai từ “KHÔNG NÓI”nữa.
Từ “KHÔNG NÓI” đã nội tại vào trong Nhận Thức Cô Đọng của hành giả và trở thành “Mã Số Không Nói”. Mã số Không Nói bây giờ trở thành mệnh lệnh. Khi ý nghĩ “KHÔNG NÓI” vừa phát ra, các tế bào não tự động yên lặng, cũng giống như khi chúng ta lái xe ngoài đường phố gặp bảng “Stop” hay “đèn đỏ”, là chân của chúng ta có thói quen tự động đạp thắng cho xe ngừng liền không cần suy nghĩ gì cả.
Cách thực hành:
- Khi tọa thiền, hành giả “thầm khởi ý KHÔNG NÓI” rồi tắt Ý, “trạng thái Không Nói” xuất hiện ngay tức khắc trong tâm hành giả. Hành giả an trú trong “trạng thái biết không lời” đó (tức trạng thái tâm yên lặng, không còn Tầm và Tứ). Trạng thái Biết Không Lời vững chắc, hành giả kinh nghiệm ĐỊNH KHÔNG TẦM KHÔNG TỨ.
Để giúp trạng thái Định mỗi lúc một vững chắc hơn, thỉnh thoảng hành giả nên “gợi Ý Thầm Nhận Biết Không Lời” hay “Thầm Nhận Biết Trống Rỗng” rồi buông Ý. Nếu quên niệm Biết, hành giả sẽ rơi vào hôn trầm mất Định. Đạt được tầng Định này hành giả cảm thấy hỷ lạc xuất hiện lúc đầu ít, sau nhiều. Hành giả biết nhưng không dính mắc với hỷ lạc, chỉ giữ vững Trạng thái Biết Không Lời cho đến hết thời thiền.
IV. LÀM SAO BIẾT THIỀN ĐÚNG HAY THIỀN SAI?
Trong lúc thực hành Thiền có những điều kiện cần phải theo như:
1) Không tập trung: Tập trung hoài vào một điểm trước mặt sẽ khiến bị hoa mắt, chóng mặt, nhức đầu. (Tập trung đối tượng là xử dụng Ý thức)
2) Không tự kỷ ám thị: Tự cho mình đã chứng đắc một cảnh giới nào đó trong lúc tọa thiền sẽ không bao giờ có kết quả thật sự. (Xử dụng Ý Căn)
3) Không tưởng tượng : Không tưởng tượng gì hết trong thời thiền. (Tưởng tượng là đang xử dụng Trí Năng) .
4) Không nỗ lực quá sức: Công phu miên mật đều đặn nhưng không cố gắng quá sức.
Chú ý, tập trung, đè nén, tưởng tượng hoặc nỗ lực quá sức … khiến cho sóng não rối loạn. Những tín hiệu căng thẳng này, thường xuyên tác động vào Giao Cảm Thần Kinh tiết ra nội tiết tố Norepinephrine, Epinephrine… để đáp ứng nhu cầu căng thẳng của cơ thể. Hai chất này tiết ra nhiều và lâu ngày khiến cho hành giả mắc những căn bệnh về tâm thể (**) rồi đổ thừa “tu Thiền bị tẩu hỏa nhập a”!
Thiền là phải Thư Giãn. Cho nên khi ngồi xuống bắt đầu buổi tọa thiền, hành giả cần thư giãn cả thân và tâm. Thư giãn thân là buông lỏng các cơ bắp, các thần kinh đầu, mặt, tay, chân, lưng v.v… Thư giãn tâm là buông tất cả niệm, không suy nghĩ, lo lắng hay cầu mong bất cứ điều gì trước khi khởi ý về chủ đề tu tập mình đã chọn. Điểm quan trọng cần thiết khác là khi tọa thiền phải giữ cột xương sống thẳng với cột xương cổ. Cuối xương sống (nơi xương cụt) và xương mông, lúc ngồi tạo thành một góc 90 độ. Cách ngồi như thế, tim, phổi, thận v.v… bên trong cơ thể giữ nguyên vị trí của chúng, hành giả không bị đau lưng, nhói tim, tức ngực, khó thở trong thời thiền.
Muốn biết mình thiền đúng hay sai. Hành giả có thể tự kiểm điểm bản thân sau mỗi thời thiền 10-15 phút bằng cách: Nếu mang chứng bệnh cao huyết áp hay tiểu đường, trước khi tọa thiền tự đo trước. Sau khi thiền đo lại nếu thấy huyết áp hạ, chỉ số đường xuống là thiền đúng. Sau khi xả thiền, cảm thấy đầu óc nhẹ nhàng, sáng suốt, có khi lâng lâng, dễ chịu, hơi thở điều hòa, đó là thiền đúng. Cảm thấy phấn khởi, trong lòng vui vẻ, hăng hái làm việc không mệt, đó là thiền đúng. Ngược lại trong lúc tọa thiền, mồ hôi toát ra mà trong người cảm thấy nóng hay lạnh quá, đó là thiền sai (vì nỗ lực quá sức). Sau khi xả thiền cảm thấy nhức đầu, huyết áp gia tăng, bần thần khó chịu cả ngày, đó là thiền sai.
Tóm lại để biết mình tu sai hay đúng? Sau một thời gian tu tập, quan sát kết quả trên Thân, Tâm và Trí Huệ tâm linh của mình. Tu đúng là càng ngày mình càng nhận ra thân thể khỏe mạnh, đi đứng nhẹ nhàng, khoan thai, thần sắc trong sáng. Tâm bớt dính mắc, bớt phiền muộn, ít giận hờn, thường thanh thản, an vui, bao dung, tha thứ. Về Trí huệ tâm linh thì nhận ra mỗi ngày mình tiến triển nhiều hơn. Chẳng hạn như trước kia mình đọc kinh không mấy hiểu. Bây giờ đọc kinh sách mau hiểu hơn. Sống ngoài đời gặp những chuyện bất trắc mình giải quyết hài hòa, thông minh, nhanh lẹ, có lợi cho mình mà không hại người khác v.v
V. KẾT LUẬN
Bước đầu thực hành Thiền, điều quan trọng trước tiên là hiểu rõ nội dung ý nghĩa của chủ đề cũng như những thuật ngữ được dùng trong kỹ thuật dụng công. Nếu hiểu sai cốt lõi thuật ngữ, hiểu sai cách thực hành, thì sự dụng công sẽ đưa đến kết quả sai. Tiếp đến là chọn chiêu thức hay kỹ thuật thực hành thẳng vào mục tiêu chứ không đi loanh quanh lạc đề. Chúng ta cũng cần nhớ lời Phật dạy là các phương thức thực hành chỉ là phương tiện, là chiếc bè chở người qua sông. Muốn lên bờ thì phải buông phương tiện đó đi.
Chủ đề bài viết này là “Định Vô Tầm Vô Tứ” có nghĩa là tu tập để đạt được trạng thái tâm yên lặng. Muốn kinh nghiệm Định này, hành giả phải dứt niệm nói thầm triền miên trong não.
Ở đây xin nói thêm một chút về kỹ thuật “KHÔNG NÓI”. Không Nói là pháp thực tập có hơi mới mẻ so với các phương thức cổ điển, do cố Thiền Sư dòng Thiền Tánh Không là Hòa Thượng Thích Thông Triệt truyền dạy hơn 25 năm qua, đã mang lợi lạc cho nhiều tăng ni và thiền sinh khắp nơi. Nghiên cứu kỹ thì kỹ thuật “KHÔNG NÓI” cũng không khác gì với các phương cách mà đức Phật đã đưa ra. Đó là làm sao để đạt được tâm yên lặng.
Thực tập pháp “KHÔNG NÓI” hành giả cũng phải ứng dụng vai trò quan trọng của Trí Năng tỉnh ngộ, tức là tự ngã phát ra ý nghĩ “KHÔNG NÓI”. Ý nghĩ “KHÔNG NÓI” truyền thẳng vào vùng Wernicke, rồi từ đó truyền qua vùng Broca. Broca là trung tâm khuếch tán 2 từ “KHÔNG NÓI” đến những nơi tiếp nhận khác trong bộ não. Trước hết là vùng ký ức vận hành được xem là vùng ký ức ngắn hạn, rồi đến vùng ký ức xúc cảm (Amygdala), cuối cùng đến vùng ký ức dài hạn. Lúc bấy giờ toàn bộ não sẽ dần dần trở nên yên lặng mà không thông qua pháp nào hết. (**)
Tu tập không có gì khó, chỉ khó ở chỗ là hành giả có chịu dụng công miên mật về chủ đề “KHÔNG NÓI” tức là “không nói thầm trong não” một cách tích cực để cho tế bào não quen dần im lặng “không gọi tên, không nói thầm ” khi giác quan tiếp xúc đối tượng. Đó là cách chúng ta huấn luyện tế bào não vùng phát ra lời Ý Căn, Ý Thức, Trí Năng chuyển sang quán tính yên lặng.
Sau cùng, chúng ta nhận ra rằng, giữa hai sắc thái tâm cách nhau một khoảng “nói thầm” hay “không nói thầm”. Nếu chúng ta nói thầm hay nói ra lời thì chúng ta đang ở trong Tâm Phàm Phu. Còn nếu chúng ta đối duyên xúc cảnh, nhìn thấy biết, nghe biết, xúc chạm biết trong không lời thì chúng ta lọt vào tâm bậc Thánh, an trú trong ĐỊNH VÔ TẦM VÔ TỨ.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
THÍCH NỮ HẰNG NHƯ
KHÔNG TẦM KHÔNG TỨ ĐỊNH
Đề tài mà chúng ta đang thảo luận là Không Tầm Không Tứ định qua đó chúng ta cần phải vào được tầng định này, thì xem như chúng ta đã vượt qua một chặng đường gian truân. Nếu vị nào không qua được tầng định này thì xem như chúng ta sẽ mãi mãi ngồi đó mà không thể nào nắm bắt được nội dung ý nghĩa cùa Không Tầm Không Tứ định. Cho nên ở đây chúng ta cần phải nắm bắt cho được rốt ráo từ ngữ Không Tầm Không Tứ định là gì. Ở đây chúng ta thấy có 3 cụm từ: (1) là từ Định (2) là từ Không Tầm (3) là Không Tứ.
Về từ Định, ý nghĩa rốt ráo của từ nầy là chỉ cho trạng thái tâm yên lặng, không giao động trước tất cả ngọn gió đời, thuật ngữ quen gọi là “bát phong suy bất động”. Đó là 8 thứ gió gồm lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc thổi đến mà ta không hề giao động.
Đó là điều quá lý tưởng về ý nghĩa rốt ráo của từ Định. Trên thực tế, từ ngữ Định chỉ cho một trạng thái của tâm người thực hành được hoàn toàn đứng yên một chỗ. Rồi tiếp theo sau đó có nhiều chủ đề được gắn liền với từ ngữ Định để tạo ra một sắc thái
tâm siêu thế gồm 3 lãnh vực: từ phàm tâm chuyển đổi thành tâm Bậc thánh, từ tâm Bậc thánh chuyển đổi thành tâm Phật. Do đó về từ ngữ Định chúng ta sẽ nhận ra rằng trong đó bao hàm nhiều nội dung khác nhau. Mỗi nội dung đều mang lại một ý nghĩa
riêng biệt cho tầng định đó. Thí dụ trong Phật giáo Nguyên thủy đức Phật thường đề cao 3 loại định là Không định, Vô tướng định và Vô nguyện định. Ngài gọi người nào muốn đi đến giải thoát đều có thể đi vào một trong 3 cửa đó. Còn trong kinh Phật tự
thuyết Ngài mô tả: "Này các tỷ kheo, có xứ này (Ayatana), tại đấy không có đất, không có nước, không có lửa, không có gió; không có hư không vô biên xứ; không có thức vô biên xứ; không có vô sở hữu xứ; không có phi tưởng phi phi tưởng xứ, không có đời này; không có đời sau, không có cả hai mặt trăng mặt trời. Do vậy, này các tỷ kheo, Ta tuyên bố không có đến, không có đi, không có trú, không có diệt, không có sanh, không có an trú, không có chuyển vận, không có sở duyên. Đây là sự đoạn tận
khổ đau." Nội dung chính yếu của bài pháp đó là Phật muốn mô tả một trạng thái tâm của hành giả phải thể nhập vào chỗ “không có gì để bàn luận nữa”. Ngược lại hành giả phải tự biết chỗ đó tên gọi là gì mới có khả năng vượt qua tất cả khổ đau và cuối cùng đạt được giải thoát. Đó là sau khi từ giã cõi đời. Còn trong khi còn sống thì thành tựu một trạng thái vô ngã. Như vậy dù cho bài pháp không có đề cập đến thể nhập vào Chân như hay Niết bàn mà chính đó là Phật muốn ám chỉ một cảnh giới mà hành giả
cần phải thể nhập vào cảnh giới đó qua lời mô tả của Đức Phật.
Do đó ở đây chúng ta nhận ra Định chỉ là cái khung trong đó ta muốn bỏ vào từ ngữ gì thì ta sẽ thực hành theo pháp đó. Cuối cùng ta sẽ đạt được kết quả theo lời mô tả của pháp đó. Nếu lúc ban đầu ta xác định từ ngữ Định như thế nào thì ta sẽ thực hành theo
cách đó. Chính vì thế sự định nghĩa từ ngữ Định rất là quan trọng. Nó sẽ là kim chỉ nam hay la bàn cho ta muốn đi đến đích thì ta phải áp dụng thuật ngữ Định mà lúc ban đầu ta đã sử dụng. Ở đây lúc ban đầu chúng ta đã sử dụng niệm biết không lời để định
nghĩa từ ngữ Định.
Cách thực hành để chúng ta có kinh nghiệm thế nào là niệm biết không lời Muốn kinh nghiệm niệm biết không lời thì điều cần yếu trước tiên là chúng ta phải sử dụng trí năng tỉnh ngộ. Đó là khi giác quan chúng ta tiếp xúc đối tượng thì chúng ta áp dụng cách cắt đứt niệm biết phân biệt về đối tượng, nghĩa là chúng ta chỉ nhìn thấy biết đối tượng ,nghe biết đối tượng hay thân xúc chạm biết đối tượng mà trong đầu chúng ta không khởi lên một niệm nào hết về đối tượng. Nói chung, bằng cách đó thì chúng ta
áp dụng cách cắt đứt niệm phân biệt của ý thức, tiếp theo chúng ta cần áp dụng niệm không suy nghĩ về đối tượng. Đó là hai cách mà chúng ta cần áp dụng miên mật để cho quán tính phân biệt hay suy nghĩ về đối tượng bị cắt đứt . Lúc bấy giờ trong đầu chúng
ta chỉ còn lại niệm biết không lời về đối tượng mà thôi. Do đó, chúng ta cần phải tỉnh ngộ để mình có can đảm buông bỏ những niệm phân biệt hai bên và niệm suy nghĩ lăng xăng về đối tượng thì cuối cùng chúng ta mới đạt được ‘Định là cái biết không lời’.
Bây giờ chúng ta tiến hành qua chủ đề ‘Không tầm không tứ’ .
Tầm và Tứ chỉ là nội dung mà ta bỏ vào khung Định. Như vậy kết quả ta sẽ đạt được định không tầm không tứ. Bây giờ chúng ta cần hiểu rõ 2 từ ngữ không tầm không tứ là gì. Chúng do chức năng nào đảm nhận? Vì sao chúng lại được Phật tuyên bố là chướng ngại hàng đầu của người tu thiền? Vậy chúng ta thử tìm kiếm một định nghĩa về Tầm, Tứ. Có tìm ra đúng định nghĩa chúng ta mới hy vọng vào tận hang ổ của chúng, mới tiêu diệt được chúng. Tầm là sự nói thầm trong não chúng ta còn Tứ là sự đối thoại thầm lặng, chúng khởi phát ra trong các vùng ký ức của chúng ta. Chính chúng đã gây phiền toái trong cuộc sống của chúng ta mà chúng ta không hề hay biết. Chúng ta lại còn bênh vực, méo mó, lại còn hăng say đưa ra những quan điểm đấu tranh, giành giựt tạo ra nhiều đau khổ cho người và cho mình. Cuối cùng chúng ta sẽ đi đến chết mà chúng ta vẫn cho rằng mình đúng còn người khác là sai lầm. Do đó ở đây chúng ta phải biết cách dụng công để triệt tiêu mầm mống của luân hồi sinh tử bằng cách dùng Tầm tắt Tứ. Ở đây chính Tứ là niệm gây ra muôn ngàn sự đau khổ cho người và cho mình. Từ những vụ án giết người thảm khốc đến những vụ án giết người để trả thù cũng do vai trò của Tứ đảm nhận. Đêm đêm chúng ta trằn trọc không ngủ được, hết suy tính chuyện này đến suy tính chuyện kia. Vậy bây giờ chúng ta phải tỉnh ngộ để áp dụng cách dùng Tầm để tắt Tứ. Đó là chúng ta dùng niệm nói thầm Không Nói. Bao lâu trong đầu chúng ta quen dần hai từ Không Nói thì xem như chúng ta đã thành công trong việc dùng Tầm để tắt Tứ. Tại sao kỳ vậy? Vì trong não chúng ta cứ quen nói thầm triền miên, bây giờ chúng ta tự mình xếp lại cho trong não bộ của chúng ta thành một trật tự mới để khi chúng ta tiếp xúc với đối tượng nào thì chúng ta vẫn cứ duy trì niệm biết mà không phê phán gì về đối tượng cũng như không suy nghĩ gì về đối tượng nhưng trong đầu chúng ta vẫn nhận biết rõ ràng về đối tượng. Như vậy đó là cách chúng ta thành công trong bước đầu của tu thiền Không Nói.