Ngày xưa tôi đọc lịch sử của đức Phật rất thắc mắc về điểm này. Khi Ngài đi tu, trải qua năm năm tầm đạo, sáu năm khổ hạnh trong rừng già, chịu bao nhiêu khó khổ, cũng chỉ vì giải quyết vấn đề thoát ly sanh tử cho mình và tất cả chúng sanh. Sau bốn mươi chín đêm đêm dưới cội Bồ-đề, Ngài giác ngộ viên mãn, thành Phật. Lẽ ra đã đạt được mục đích tối hậu thì đã xong, đức Phật liền hiện chí nguyện sanh ngay, nhưng Ngài lại trù trừ, không muốn đi giáo hoá. Mãi cho đến khi trời Đế Thích, trời Phạm Thiên xuống lễ, tha thiết yêu cầu Ngài chỉ dạy chúng sanh, Ngài bảo: “Ta sợ nói ra, chúng sanh không hiểu”. Bấy giờ chư thiên năm lần bảy lượt như xin Phật lập phương tiện để chỉ dạy chúng sanh. Được thế hy vọng một lần họ sẽ hiểu. Từ đó đức Phật mới khởi sự đi đến vườn Lộc Uyển thuyết pháp đầu tiên là Tứ đế.
Như vậy pháp Tứ đế là phương tiện sanh ban đầu của đức Phật. Thế thì tại sao cái chân thật cứu kính Ngài thấy được lại không nói, mà phải dùng phương tiện? Tôi ngờ chỗ này, vì lòng từ bi của Phật tràn trề, những gì thấy phải nói cho chúng sanh nghe, chỉ cho chúng sanh hiểu, sao lại không chịu nói thẳng, mà phải dùng phương tiện nói quanh co? Hay là Ngài chờ đợi, yêu cầu thuyết pháp mới. Lúc trước tôi đã nghi xấu Phật như vậy đó.
Đến bây giờ mới hiểu ra tôi mới nhận được chỗ thâm sâu của đức Phật. Thấy mà nói không được, hay nói người ta không nghe, không hiểu thì làm sao nói! By vậy Ngài trù Trừ không muốn đi, không muốn nói. Đến khi chư thiên yêu cầu tha thiết giáo hóa chúng sanh, chừng ấy buộc lòng Ngài phải dùng phương tiện.
Thế nên biết giáo pháp của đức Phật, bắt đầu từ Tứ đế trở đi đều là phương tiện hết, ngộ không phải là chỗ cứu kính. Vì thế sau đây Phật nói pháp của Như Lai như ngón tay chỉ là mặt trăng. Mặt trăng là nơi muốn chỉ, nhưng nếu làm thinh không sử dụng phương tiện tiện lợi để làm sao người ta thấy, buộc lòng phải sử dụng các ngón tay chỉ. Ngón tay chỉ là mặt trăng, ngón tay là ngón tay, mặt trăng là mặt trăng, ngón tay không phải là mặt trăng. Nhưng sau này chúng ta lại đuổi cho ngón tay là mặt trăng, nên cứ bám vào chữ nghĩa để tu, không chịu thấy cái Phật muốn thôi. Đó là lỗi làm kẹt trong phương tiện mà quên chỗ cứu kính.
Như vậy pháp Tứ đế là phương tiện, nhưng bây giờ được xem như bốn chân lý không thể thay đổi. Khi Phật giảng cho năm anh em ông Kiều Trần Như, Ngài nói Tứ đế. Một là Khổng đế, đó là lẽ thật không ai cãi lại hết. Khi mới sanh ra khóc oa oa là khổ, đến lớn lên bệnh đau khổ, khát khao khổ, mê sang lo giữ khổ, có địa vị cao sợ mất khổ, ở địa vị thấp người khổ… nói chung cuộc sống lúc nào cũng đau khổ. Rõ ràng có thân là khổ, không ngờ gì hết. Hai là già khổ. Đã ra đời, lớn lên tới một ngày nào đó cũng phải già. Già rồi thì lờ mờ, lụm cụm đau hoài, không còn tự tại, không làm chủ được thân nữa. Có thân mà không làm chủ được nó thì rất khổ. nên nói già khổ. Ba là bệnh khổ. Không phải đợi lão mới bệnh mà trẻ cũng bệnh. Ai mang bệnh cũng đều rên khổ. Bốn là chết khổ. Ai trước khi chết cũng giật mình giụa,
Tóm tắt lại bốn tướng khổ này không ai phản bác được. Đức Phật dùng phương tiện nói ra lẽ thật của cuộc đời, của con người cho chúng ta thấy. Khi ta chấp nhận điều này rồi, Ngài nói đến nguyên nhân có khổ. Đó là từ quả khổ Ngài phăng lần tới nhân, chỉ ra nỗi khổ kia không phải bỗng nhiên có. It from the sanh file kernel. Tập nhân là gì? Là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến v.v… tất cả các phiền não.
Ví dụ như tham. Bọn ta có thân là khổ nhưng muốn nó còn hoài, biết ăn cao lương mỹ vị hay bệnh mà thích ăn ngon, biết đam mê nữ sắc là bệnh hoạn nhưng vẫn cứ đam mê mãi. Tất cả đều buồn trước mắt đều vì tham mà có. By tham nên mới yêu cầu, tìm kiếm, chiến thắng. Đòi hỏi, tìm kiếm, giành giật tất nhiên là đau khổ cho mình, cho người. Vì nếu kiếm mà bị ai chận đứng hay ngăn đón thì nổi giận lên, sau đó làm đủ chuyện tàn ác, hung bạo.
Tham sân là cái khổ nổi dễ thấy. Nhưng sở dĩ có tham vì gốc không biết có phải là thật không. Ví dụ như tham ăn, ta thích ăn ngon nên cứ tưởng tượng đến món mình thích thì thấy thèm. Bây giờ nếu chịu khó quán chiếu trở lại, món ăn ngon đó được bao lâu? Chỉ ở thoáng một chút, bỏ vô từ cổ là hết thấy ngon. Nếu ăn hơi nhiều, lát sau ợ ngược, ợ xuôi còn tiếc nữa. Như vậy nó có thật đâu. Bởi vậy mà chúng ta hết thèm cái này, đến thèm cái kia, tại vì cứ ngỡ nó ngon thật, không ngờ bên cạnh cái ngon có cái không ngon.
Con người si mê cứ đuổi theo những cái nóng tạm thời mà không thấy tai họa lâu dài. Phật gọi đó là si. Từ si mới có tham, có sân. Nhưng vì tham sân dễ thấy, còn si tạm trú trong khó thấy nên ta thường nghe nói tham sân si. Thứ ba chính là nhân luân hồi. tại sao? Vì tham sống nên mất thân này liền tìm thân khác. Do sân nên tạo nghiệp ác, vay trả nợ nợ liên miên không hạn. Thế nên kiếp này có thân, kiếp sau tiếp tục có thân nữa để trả nợ cũ. Vì thế nói tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… cho những phiền não tế nhị hơn nữa đều là nhân đạt quả khổ.
Bây giờ muốn tiêu diệt nhân đau khổ đó phải làm sao? Phật nói diệt hết nhân đau khổ thì quả khổ không còn, đó là Diệt đế. Nhưng muốn diệt nó không được ngẫu nhiên diệt được, mà phải có phương pháp tức là Đạo đế. Phương pháp Phật dạy ở đây là ba mươi bảy sản phẩm trợ đạo, như Bát chánh đạo v.v… Tứ Bát chánh đạo là từ chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngôn, chánh nghiệp cho tới chánh định. Chánh định là sao? Là kết thúc những sân chơi lăng xê, lộn xộn trong nội tâm. Tới chỗ định là tới chỗ không còn suy nghĩ, không còn phân biệt, không còn tưởng tượng điên đảo nữa.
Trong bốn đế, Không đế là kết quả thực tế mà chúng ta thấy được. Từ phân biệt kết quả phăng lần tới nhân là Tập đế. Biết nhân tạo khổ rồi tìm cách diệt nhân đó là Đạo đế. Nhân đau khổ đã diệt hết gọi là Diệt đế. Diệt đế là tiêu-bàn, do nhân đau khổ đã diệt tức đi tới chỗ chôn định, giữ định thì đạt được tiêu-bàn.
Như vậy đức Phật đã đưa những phương tiện đó để chúng ta phân tích từ bên ngoài thân đến nội tâm. Thân này khổ là hình tướng bên ngoài, nhân là nội tâm gây ra. Muốn diệt nhân ấy phải có phương pháp, đó là phương tiện. Đã dùng phương tiện để tu thì cũng có kết quả phương tiện để chứng. Phương tiện chứng minh là gì? Nếu tu theo pháp Tứ đế thì chứng từ Sơ thiên, Nhị thiên, Tam thiên, Tứ thiên, rồi qua Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi phi tưởng xứ, cuối cùng đến Diệt tận định, chứng A-la-hán.
Nói theo Tứ quả Thanh văn thì Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Tu-đà-hoàn còn bảy phen trở lại thế gian tu nữa mới hết sanh tử. Tư-đà-hàm còn một phen trở lại nhân gian. A-na-hàm không trở lại nhân gian, mà sanh lên cõi trời tu tiếp, sau chứng A-la-hán.
Nói theo bậc tứ thiên, Sơ gọi là Ly sanh hỷ lạc. Ly là lìa ngũ dục mà được vui. Nhị thiền gọi là Định sanh hỷ lạc, làm tâm được an định, tự nhiên thấy vui. Tâm yên thấy vui đó là định sanh hỷ lạc. Tiến lên Tam thiên gọi là Ly hỷ thần lạc. Nghĩa là bỏ cái vui của Định sanh được cái vui của Định sanh, bây giờ cái vui của định cũng bỏ luôn, chỉ còn buồn vui nhẹ nhẹ thầm thì thầm bên trong gọi là Ly vui sướng lạc. Vì vui thô mất đi chỉ còn vui tế nên được gọi là tuyệt vời. Tiến lên Tứ thiên gọi là Xả niệm thanh tịnh địa, tức buông niệm. Niệm lên liền buông, buông niệm được yên nên gọi là Xả niệm thanh tịnh.
Tu theo thứ tự từng bậc thì như vậy. Cho nên người tu theo Thiền tông không nói bậc gì cả, mà nhảy thẳng vào chỗ vô niệm, nghĩa là đi tắt ngang Xả niệm thanh tịnh. Như thế nào là hiểu biết họ cũng trải qua các lớp thứ khác, nhưng không nói từng bậc chứng đắc. By Phật nói tu Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi phi tưởng xứ là kỳ dị ngoại đạo, nếu không tiến lên Diệt thọ tưởng định thì không thể nhập Niết-bàn được. Vì vậy Phật khuyên thầy Tỳ-kheo không nên đi theo con đường Tứ không, mà ngang với Tứ thánh tử qua Tứ Diệu đế, chứng Tứ quả Thanh văn thì tốt hơn.
Nói về Tứ không, trước tiên là Không có biên giới. Đây là một hành động giả sử dụng trí tưởng tượng về khoảng trống không, từ khoảng trống không nhỏ đến khoảng trống không lớn dần đến vô cùng tận thế, chứng minh đạt được Không có biên giới. Bỏ cái không đó quay lại quán phân biệt của mình. Biết phân biệt không có tướng mạo, từ phân biệt thân đến phân biệt tâm, cứ bủa ra khắp hết vô cùng vô tận, đạt được Thức vô biên xứ. Kế tiếp tưởng thân tâm không có gì hết, trống rỗng không chỗ đứng, chứng đạt Vô sở hữu xứ. Dù tưởng rỗng tếch vẫn còn là tưởng, nên tiến lên Phi tưởng phi phi tưởng, nghĩa là không có tưởng mà không phải không tưởng. Đến đây không còn tưởng thô, tưởng không, tưởng thức mà có tưởng vi tế tức tưởng trống rỗng, còn cái tưởng đó cũng phải bỏ, mới qua Diệt tận định. Diệt tận định còn gọi là Diệt tưởng định. Thọ tức là giác của sáu căn đối với sáu trần, tưởng là phần bên trong nội tâm. Trong nội tâm thì lặng lẽ, bên ngoài đối với sáu trần không bụi, đến đây nhập Diệt thọ tưởng định, chứng vô sanh tức quả A-la-hán.
Tu theo Thiền tông không vướng vào Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền mà đi thẳng vào Xả niệm thanh tịnh. Xả niệm thanh tịnh rồi lại tiếp tục tiến thẳng lên Diệt thọ tưởng định, không qua Tứ không. Như vậy chỉ cần một bước buông bỏ là thẳng tiến tới Diệt tưởng định. Đó là tôi đối chiếu giữa Thiền tông với thiên nguyên thủy, tu theo Tứ đế.
Trên đường tu nếu theo cấp bậc thì thấy được quả này, quả kia. Nhưng thấy “được” thì dễ thắc mắc trong chứng đắc lắm, bữa nay tôi chứng sơ rồi, tâm ngã mạn theo đó phát sanh. Còn tu thấy niệm khởi liền bỏ, không nói chứng thì không có gì để chấp, nhờ thế tâm vô ngã mạn không phát sanh. Khi niệm nào vắng lặng, muôn vạn bên ngoài không mờ, nội tâm không kẹt, không động, đó là vô sanh, không nói duyên Niết-bàn mà đã nhập vào Niết-bàn. This is original of the tu.
Thật ra bậc đều là danh, cái hiểu, cái giả sống thực bên trong mới quan trọng. Phật vì phương tiện lập bậc cấp để chúng ta dễ tu, đó không phải là mục đích cứu kính. Nhưng vì không hiểu, ta lại chấp phương tiện ấy là chân lý nên không nhận ra được chỗ chân thật đức Phật muốn chỉ bày. Lại chỗ chân thật ấy không có tướng mạo nên không thể chỉ thẳng, dùng ngôn ngữ người ta càng không biết, do đó buộc lòng đức Phật phải dùng phương tiện nói quanh co. Ai nhận được thì tu đúng với tông chỉ của Phật, đạt được kết quả viên mãn.
Thế nên phương tiện chỉ nên giúp chúng ta trong một giai đoạn nào thôi, phải cố gắng tiến lên nữa, đừng truy tìm trong phương tiện. Nếu chúng ta còn sót lại nơi chứng đắc là còn tính toán, còn mong đợi. Mà toan tính trông đợi thì tâm làm sao yên. Đi tới cứu kính thì phải hoàn toàn vắng lặng mọi suy tư phân biệt, tâm lặng lẽ thanh tịnh mới thể nhập được chân thật bất sanh bất diệt.
Trở lại vấn đề của Đức Phật. Khi nhận ra được cái chân thật ai cũng có sẵn nhưng quên nên chúng sanh mãi chìm đắm trong sanh tử, đức Phật không biết nói sao cho chúng sanh hiểu. Cho nên các Ngài do dự chần chừ không muốn nói, sợ họ không tin. Như nói thân này giả, thế gian có chấp nhận đâu, họ còn cười nữa là khác. Như vậy làm sao giáo hóa? Thật là khó. Bởi vậy Phật mới nghĩ ra Tứ đế, chỉ cho thấy thân này có một, hai, ba, bốn khổ. Chúng sanh tin rồi mới dẫn một lần đi tới chỗ thân không thật. Nên giáo pháp là phương tiện, là ngón tay chỉ mặt trăng thôi.
Vượt qua bao nhiêu năm trời dẫn chúng sanh đi trong phương tiện, sau khi chúng đã thuần thục, đức phật mới nói thẳng phương tiện ấy không thật, cái thật ở chỗ này nè. Giống như ngón tay không phải mặt trăng, nhưng vì muốn nhìn thấy mặt trăng phải nương tay, song hãy nhớ rằng đừng tước ngón tay là mặt trăng.
Khi nhận thấy căn cơ của một ít đồ đệ đã chín mùi, một hôm hội ngộ Linh Sơn đức Phật gặp tất cả chư Tăng lại, Ngài thăng thăng không nói gì, chỉ cầm cành hoa sen đưa lên, rồi nhìn từng người xem ai hiểu điều mình muốn nói. Nhìn đến Ngài Ca Diếp, thấy Ca Diếp mỉm cười, Phật rất vui. Đây thực sự là người đã chín mùi, đã hiểu được, đã chết. Vì thế sau này các Tổ thường dùng câu “bốn mắt nhìn nhau”, nguyên văn chữ Hán là tứ mục tương cố.
Khi Phật đưa cành hoa sen lên, rồi nhìn khắp chúng sinh, ai cũng ngơ ngác. Đến ngài Ca Diếp, hai thầy trò bốn mắt nhìn nhau thông cảm nên Tôn giả nụ cười. Như vậy tứ mục tương cố chỉ để cái gì? Điều này trong nhà Thiền gọi là bí mật không thể nói được. Nhưng thật ra đâu phải bí mật gì, thật qua mở miệng thì sai nên làm thinh vậy thôi.
Đức Phật đưa hoa sen lên là gợi cho hội chúng khởi tâm nhìn hoa sen. Bây giờ Thế Tôn xem xét trong hàng đệ tử thấy mọi người không biết gì hết, tất cả đều nhìn chăm chăm vào hoa sen. Riêng Ngài Ca Diếp khi thấy hoa sen, cùng lúc bắt gặp ánh mắt của Phật chạm tới, Ngài liền cười, Phật vui lên liền và ấn chứng cho Ngài Ca Diếp. That is information. Như vậy mắt Phật nhìn, mắt Ngài Ca Diếp nhìn, bốn mắt gặp nhau hiểu nhau mới nên cười. Như vậy Phật muốn chỉ cái gì? Đây là vấn đề hết sức sâu mà cũng hết sức đơn giản.
Như tôi đã nói khi tất cả các ký ức xóa hết là chứng tận diệt tận hưởng. Nếu trong tâm đã định rồi, hành giả nhìn thấy vật bên ngoài có tàn niệm không? Undefault. Bên trong im lặng thì đối với cảnh bên ngoài cũng im lặng. Trong im lặng, ngoài im lặng lúc này còn cái gì? Chỉ một cái trong im lặng. Tôi thường nói như quý vị ngồi năm ba phút không ý nghĩ gì lật lên, lúc đó có biết không? Unknown clear. Tiếng chim kêu mình nghe, bóng người đi mình thấy. Thấy biết cuốn theo cái nào ra cái ấy, biết mà không động, lặng yên tri giác. Cái biết đó không động cũng không tướng nên nó bất sanh diệt.
Nhưng chúng ta có bệnh Vừa thấy thì phân biệt tốt xấu, vừa nghe thì phân biệt hay dở, rồi quên cái thấy nghe ban đầu của mình. Nắm bắt theo tướng âm thanh bên ngoài thành điên loạn. Hiện tại ai không có cái đã biết hiện tiền? Thấy tức là biết, biết tức là tâm. Như vậy khi ở trong lặng được vọng tưởng rồi, ngoài đối duyên xúc cảnh, sáu căn không bị đắm chìm với sáu trần, lúc đó ta là Phật hiện tiền không còn gì nữa! Nhưng nói thế nào là thiên hạ không chịu đâu, phải có hào quang, có hoa sen hiện trên trời, trên mây mới được.
Cái biết rõ ràng nơi trước mắt, đó là cái thật của mình mà ta coi thường, không chịu nhận. Nhìn cây tùng nói nó dáng con gì, vật gì thì thích lắm, coi thường cây tùng là cây tùng thì không chịu. Phật nói chúng sanh điên đảo là vì vậy, không bao giờ chấp nhận sự thật, chấp nhận sự hiện hữu của mình và ước nguyện vật đúng ở vị trí của mỗi thứ.
Trong hội Linh Sơn, đức Phật đưa cành hoa lên là muốn chỉ cái Ngài đã ấp ủ từ trước đến giờ, đó chính là tâm hiện tiền chân thật đầy đủ nơi mỗi người, là tánh thấy tánh giác hằng tri hằng giác. Tất cả mọi người đều có tánh thấy, tánh nghe, tánh biết mà không chịu nhận, cứ chạy theo những thứ giả tạm bên ngoài. Phật muốn chỉ thẳng nhưng không làm sao chỉ được, buộc lòng phải nói quanh co, đủ thứ tiện lợi. Chờ đến nhân duyên chín mùi Ngài mới chỉ thẳng bằng cách đưa cành hoa lên. Ở đây đức Phật rời bỏ làm cho hội chúng nhận ra tánh thấy hằng hữu nơi mình, nhưng tất cả đều ngơ ngác tỏ ra không biết gì. Đến Ngài Ca Diếp nhìn liền cười vì Ngài nhận biết chỗ Phật muốn chỉ, đó là Ngài đã ngộ nên được đức Thế Tôn ấn chứng.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy Phật đã cố gắng chỉ cái chân thật cho mình, không muốn che giấu làm gì. Nhưng vì ta không lãnh hội thôi, cứ theo kinh mà hiểu, kẹt trong văn tự chữ nghĩa nên không thấy được cái sâu kín bên trong. Sau khi Phật nhập Niết-bàn rồi, Tôn giả A-nan hỏi Ngài Ca Diếp:
- Thưa sư huynh, đức Thế Tôn truyền y kim lang cho sư huynh, ngoài ra còn truyền cái gì khác không?
Ngài Ca Diếp kêu:
- A-nan.
Ngài A-nan ứng thinh:
- Dạ.
Ngài Ca Diếp bảo:
- Cây phướn trước chùa ngã.
Nhưng thật ra lúc ấy cây phượng có ngã đâu. Như vậy mới biết rằng tâm trọng là vừa kêu liền ứng thinh dạ, đó là tánh giác thường hằng hữu. Cái biết từ lỗi tai không có suy nghĩ, nghe kêu thì lên tiếng, chứng tỏ cái biết nó luôn bày sẵn nơi ta. Đó là ngài Ca Diếp đã trả lời đức Phật truyền cho mình rồi, ngay đó ngài A-nan liền nhận được.
Người xưa có cố tình giấu giếm mình làm gì đâu, chỉ vì không nói được. By say ra là trật, chỉ còn thuật kêu thôi. Khi ngài ca Diếp kêu, A-nan ứng thinh “dạ”, cả hai bên đều không khởi suy nghĩ mà nghe rõ ràng, hiện tiền nơi sáu căn của chúng ta. Đó là điều cốt lõi Đức Phật đã để lại và chư Tổ tiếp tục truyền trao cho đến ngày nay.
Chúng ta thấy từ Phật đến Tổ Ca Diếp chỉ truyền một thứ, không có khác. Nếu khác chăng thì ở trước mắt hoặc tai thôi, không có hai pháp. Các Ngài cố chỉ cái biết thật của mình, còn cái biết hơn thua, phải quấy là cái biết của thế gian không thật, biết qua bóng dáng vô thường. Cái biết thật là biết trực tiếp không qua hình ảnh ngôn ngữ nào hết. Đó là nơi thiết yếu chư Phật Tổ đã truyền lại cho chúng ta.
Thế thì chỉ “cái đó” gần hay xa, có quyền bí mật gì không? Các Ngài chỉ ra một cái thực tế sẵn có nơi mình mà chúng ta không thể tưởng tượng nổi, nên không ai nhận “cái đó” của mình hết. Đó là giai đoạn đầu từ Phật đến Tổ. Qua giai đoạn kế là các Tổ sau này truyền thừa cho nhau, đi quanh co đến đâu rồi cũng trở về chỗ đó.
Tổ thứ ba là Tổ Tăng Xán. Ngài có làm bài “Tín tâm minh”. Open the first to this:
Đại đạo vô nan,
Duy hiềm giản lược
bao nhiêu thì thôi đã nói hết rồi. Đạo ở đây là lấy từ bên Lão giáo. Lão giáo nói đạo là chỗ không còn ngôn thuyết, không còn nói năng, là chân lý tuyệt đối. Như vậy chân lý cuối cùng chúng ta gọi là đại đạo. Đại đạo không khó, mà khó là tại giản lược, phân biệt. Cứ nghe gọi trực tiếp trả lời, đưa cái gì lên trực tiếp thấy, đó là đại đạo. Còn bước qua cái suy nghĩ thứ hai thì mất đại đạo. By vậy có người hỏi Ngài Triệu Châu: “Thế nào là đại đạo? Ngài trả lời: “Đại đạo là con đường cái”. Đại đạo ở ngay trước mắt không chịu hỏi, tức nhiên phải chỉ đường cái ngoài kia. Người sau cứ như vậy mà gò nên gò không ra.
Đến ngài Triệu Châu hỏi ngài Nam Tuyền: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp: “Bình thường tâm thị đạo”, tức tâm bình thường là đạo. Tâm bình thường là sao? Chúng ta có tâm bình thường không? There are not known nên thành không. Vậy tâm bình thường là tâm gì? Là tâm không thiện, không ác, không nghĩ phải, không nghĩ quấy… Tất cả những cái nghĩ hai bên đều không có. Thế thì hiện tại chúng ta có tâm đó không? Ai cũng thừa nhận có mà không sống được với nó vì bỏ quên lâu quá, giờ không nhận ra nữa. By vậy tôi nói chúng ta là những kẻ rất phủi bạc, rất tệ bạc. Phũ hoàng ai? Phũ phượng mình. Cứ xách gói đi đầu này học đạo, đầu kia học đạo, cầu lật mích lục muốn u đầu lực lượng mà tìm vẫn không ra. Nghe chỗ nào linh thiêng liền chạy đến, càn cuộc cái sẵn có bên mình lại quên, không phũ phàng là gì?
Chúng ta thường gọi những người điên là bất thường. Bây giờ tâm mình đang bình thường, tự nhiên khởi nghĩ lăng xăng là bất thường, như vậy mình có phát điên không? Bởi vậy Phật nói chúng sanh điên đảo. Rõ ràng đang sống bình thường nổi dậy chạy tứ tung, rồi kề cận. Unknown? Chúng ta tu không chịu sống với tâm bình thường, nên trở thành điên đảo, nhưng ai nói ta điên thì tức thì lộn ngược lên. The is crazy crazy.
Phật chỉ rõ tâm bình thường là đạo, nhưng chúng ta chạy tìm cuốn kinh này, tranh luận kia đọc đau cả đầu, suy nghĩ nát óc. Đọc hết ba đời kinh rốt cuộc rối ren thêm nhiều, nhận không được cái bình thường. Tâm bình thường là đạo, hết sức đơn giản, ai cũng có nhưng tại chúng ta muốn phi thường cho oai, thành ra trở thành bất thường.
Tâm bình thường là tâm không nghĩ phải quấy, hơn thua, tốt xấu… Thấy biết, nghe biết, đói biết, không biết mà không suy nghĩ gì hết, đó là tâm bình thường. Cả ngày đi đứng ngồi, sống như mọi người mà tâm không đố kị nên các Thiền sư thường dùng từ như ngây như ngô, không lanh lẹ như người thế gian. Chúng ta lanh lẹ quá, vừa tới liền nghĩ đông, nghĩ tây. Nói một cách dễ hiểu hai ba, thành ra cả đầu mất trí nhớ. Nhiều người ôm đầu nói tôi khó ngủ quá, nghĩ tứ tung hết làm sao ngủ được.
Mã Tổ ngày xưa thấy một vị tăng thường ngồi thiền ở hành lang, Ngài tới chỗ bọ tai là phù không cho ngồi. Ai không hiểu cứ nghĩ ông già chơi kỳ cục! By chính Mã Tổ lúc đầu ngồi tâm tình rất nhiều, sau này ngài Hoài Nhượng đến thử mới biết Mã Tổ chưa thông, vì mê trong cái ngồi. Đến khi đắc pháp nơi Tổ Hoài Nhượng rồi, thấy ai ngồi thiền, Ngài liền tới là. tại sao? Bởi nếu chấp nhận ngồi là thiên thần, đó là giết chết. Phải biết đi đứng ngồi đều là thiền, không phải chỉ có ngồi mới thiền.
Chúng ta đi đứng ngồi ngồi trong bốn oai nghi không có tâm lăng xăng, sống với tâm bình thường thì không ngồi buồn, ngồi ngứa cỏ chơi cũng vẫn vui như thường. Bài hát nếu chưa sống với tâm bình thường thì phải ngồi thiền. Tổ sư muốn chỉ cho chúng ta thấy Thiền là vô tâm trong tất cả chỗ, tất cả thời gian. Vô tâm là không có tâm chạy theo, nhưng vẫn có tâm bình thường. Không nghĩ suy phân biệt mà vẫn biết rõ gọi là vô tâm. Nên nói nếu được tất cả chỗ vô tâm thì tất cả chỗ là đạo. Chúng ta đi đứng nằm ngồi có khi chạy lên cõi trời, có khi chui xuống địa ngục, có khi làm thánh hiền, có khi làm tướng cướp đủ thứ hết. Vì vậy mà trôi lăn trong lục đạo mãi mãi.
Người sống với tâm bình thường thì không tạo nghiệp. Không tạo nghiệp đâu cần giải thoát, nên chư Tổ thường hỏi ai trói buộc, không ai trói buộc, cầu giải thoát làm gì cho dư. Nói chuyện nghe lạ tai, nhưng xét kỹ thật là thực tế một phần trăm. Phật Tổ dạy chúng ta bỏ tâm mê loạn, điên cuồng để sống với tâm bình thường sẵn có. Đó là chuyện hết sức thực tế, khỏi phải viễn vông mơ hồ ở đâu. Rõ ràng chủ trương con đường của các Ngài hết sức cụ thể, hết sức thực tế nhưng rất tiếc chúng sanh bị say thuốc điên cuồng quá, chạy loạn tứ tung hết, không kềm chế nổi rồi khó tu quá.
Chúng ta sống được với tâm bình thường, dù không cầu giải thoát thì tự nhiên cũng giải thoát. By ta đâu có nghiệp. Quí vị thử một ngày sống tâm bình thường xem có tạo nghiệp được gì không? Giả sử ta lỡ chết con kiến cũng không bị định nghiệp. tại sao? Bởi vì nghiệp làm ý niệm xấu nổi lên, rồi miệng nói thân làm. Nếu thân làm mà tâm không khuyết thì không thành định nghiệp.
Nói đến đây, tôi nhớ Sơ Tổ Trúc Lâm ngày xưa hết sức kỳ đặc. Khi ở nhà vua Ngài đã ẩn nhập được lý Thiền, hiểu Phật pháp rất sâu. Lúc quân Nguyên kéo binh qua xâm lược nước ta, Ngài biết nếu ra lệnh cho quân dân đánh giặc thì phạm tội giết sanh, mình giết hay dạy giết người. Bây giờ làm sao? Chỗ này Ngài giải quyết rất lý thú, nhưng chúng ta ít để ý đến. Thầy nghĩ mình là người chịu trách nhiệm với muôn dân, ra lệnh thì người ta làm. Nhưng ra lệnh đánh giặc tức thì là cố ý sát hại, như vậy ý nghiệp đã thành. Ý cộng với bạn thân nữa thì định nghiệp không thể chuyển. Nên Ngài họp tất cả tướng sĩ lại trưng cầu ý kiến, làm vậy mà có đại hội Bình Than. Ngài hỏi:
- Giặc tới muốn cướp nước ta, vậy nên đánh hay nên hòa?
Tất cả tướng sĩ đồng thanh hô to:
- Đánh.
Đó là lệnh của tướng sĩ bảo phải đánh, không được làm theo ý của Ngài. Hỏi tướng sĩ chưa đủ, Ngài Triệu tập hết các bô lão trong nước họp nghị Diên Hồng, hỏi:
- Giặc đến muốn cướp nước ta, nên đánh hay nên hòa?
Các bô lão cũng khẳng định kết hôn:
- Đánh.
Như thế được lệnh của tướng sĩ, được lệnh của nhân dân, Ngài chỉ làm theo mệnh lệnh thôi, chứ đâu phải Ngài ra lệnh. Chúng ta thấy Ngài chưa? Vừa tránh được định nghiệp cho mình, lại vừa rất dân chủ, được mọi người kính trọng. Thật quá ư là khéo! Cho nên tuy đánh giặc, có thương tổn đến nhiều sinh mạng, mà Ngài không định nghiệp, sau này ngộ đạo thành Tổ. Hiểu như vậy chúng ta mới giải thích được chỗ này, nếu không sẽ lúng túng khi bị hỏi “Một ông vua cầm quân đánh giết bao nhiêu người, chẳng lẽ ra phải đọa địa ngục, sao lại thành Tổ?”
Bất cứ tội lỗi nào cũng vậy, ý nghiệp là gốc. Nếu phạm mà không có ý nghiệp thì tội ấy có thể chuyển được. Vì vậy về sau Ngài nỗ lực tu hành, cứu dân độ để chuyển những tội lỗi bất đắc dĩ trước kia Ngài đã gây ra. Đó là nơi trú ẩn hay dành cho Tổ chức.
Khi nói đến chỗ chân thật, nó gần như thật tế làm sao. Bởi vậy có nhiều Thiền sư ngộ đạo la lên khiến huynh đệ giật mình, hỏi: Huynh thấy cái gì mà ngộ? Trả lời: Nếu sớm biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi. Nghĩa là sao? Ở nhà quê người ta thường thắp đèn bàn thờ, vậy mà tới giờ nấu cơm không nhớ nhà mình có lửa, chạy qua hàng xóm xin lửa về nhúm, thành ra mất cơm. Đến khi nhìn lên bàn thờ thấy cây đèn mới phải tiếc là biết ngay đèn flash lấy lửa thì Nồi cơm đã chín lâu rồi. Cũng thế, nếu sớm biết mình có Phật sẵn thì sự tu hành đã thành tựu từ lâu.
Một vị trí khác ở giữa chúng là lên “Tôi ngộ rồi. Tôi ngộ rồi”. Quí thầy chạy lên bạch với Hoà thượng. Hòa thượng kêu lên hỏi: Ông ngộ cái gì? Trả lời: Ni sư là cô gái làm ra. Hòa thượng Trưởng ban. Đơn giản làm sao! Ngoài cô gái kiếm Ni sư có không? Không. Vì cô gái đó là Ni giáo chấp ai. Một điều đơn giản, thực tế mà không ai quan sát, không ai quan sát, tìm kiếm ở đâu.
Trước kia chúng ta đi tu cũng không ngờ như thế, cứ tưởng Phật trên cõi Cực Lạc, không ngờ ở ngay nơi mình. Bây giờ biết ra thì quá gần. Như vậy từ Phật đến Tổ truyền Thiền tông một mạch, đều chỉ thẳng tâm bình thường là đạo, không có gì khác. Nhưng trải qua những giai đoạn tu tập khó đến cuối cùng chúng ta mới thấy được điều đó. Tại vì mình điên đảo quá nặng, quá đậm nên khó khăn, thành ra việc chậm tiến độ.
Đêm ngủ đêm vừa nhớ vọng tưởng liền bỏ, vậy mà bỏ hoài vẫn không hết. tại sao? Vì khi ngồi thì bỏ, khi chạy ra thì mệt vô. Dropshipping vô hiệu hóa. Tối bỏ sáng, cứ như vậy hoài cổ một đời bỏ cũng không hết. Bây giờ làm sao ngồi bỏ, đi đứng cũng bỏ, tiếp duyên xúc cảnh đều buông luôn, như vậy tu mới có quả. Người tu muốn đến nơi đến chốn phải cố gắng xả bỏ thứ lăng xăng lộn xộn trong tâm, đừng để xả bỏ bất cứ thứ gì. Ai buông bỏ hết thị phi, tốt xấu thì trở về không khó khăn chút nào hết. Việc tu thực tế như vậy, chỉ là trở về với cái thật của chính mình thôi.
Bây giờ tôi nói đến những cái “không ngờ”. Trước khi nói điều này, tôi đã dẫn kinh Kim Cang. Bản kinh tuy dài nhưng tâm không trọng ngoài hai câu hỏi của Ngài Tu Bồ Đề: “Người phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác làm sao hàng phục được tâm, làm sao an trụ được tâm?” Phật trả lời an trụ tâm trước: “Người phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không nên đối với sắc sanh tâm đố, không nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm đố. Phải ở chỗ không vướng bận mà tâm ấy”. Tức thì một trụ ngay chỗ không bận bịu gọi là tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nghĩa là không đối nghịch với sáu trần.
Phật trả cách hàng phục tâm là đưa tất cả chúng sanh hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu sắc, phi vô sắc, phi hữu tưởng, phi vô tưởng đều vào Vô dư Niết-bàn. Độ tất cả chúng sanh mà không thấy chúng sanh bị diệt độ. Chúng sinh hữu sắc là cái nhớ đối với hình ảnh người. Chúng sinh vô sắc là vật nhớ đối với chuyện phải quấy, tốt xấu. Tất cả những hữu tưởng, vô tưởng, hình ảnh, tâm niệm, không hình ảnh, vô niệm v.v… đều đưa vào Vô dư Niết-bàn. Niết-bàn có hai: Hữu dư y và Vô dư y. Hữu dư y là còn thân mà tâm được hoàn toàn thanh tịnh, không sanh diệt. Vô dư y là không còn thân và lặng hết mọi sanh diệt. Tất cả chúng sanh lăng xăng đưa vào Vô dư y, tức trong tâm không còn hình bóng, không còn sanh diệt gì hết.
Hồi xưa tôi thắc mắc Phật bảo độ tất cả chúng sanh vào Vô dư y Niết-bàn. Nếu có Phật con sẽ thưa: “Bạch Thế Tôn, con chưa được Niết-bàn làm sao độ tất cả chúng sanh vào Niết-bàn được?”. Nhưng bây giờ mới hiểu Vô dư y Niết-bàn là chỗ không còn niệm sanh diệt, mà niệm sanh diệt là chúng sanh. Chúng sanh lặng hết không còn sanh diệt tức là vào Vô dư y Niết-bàn. Khi tâm lặng rồi không còn thấy chúng sanh bị diệt độ. Chỗ này trầm trầm làm sao! Chúng ta tu muốn đến chỗ cứu kính, ở trong độ tất cả những chúng sanh vào Vô dư y Niết-bàn, ở ngoài đối với sáu trần không phiền não. Đó là tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bởi vậy khi Lục Tổ Huệ Năng nghe đến câu “vô sở trụ” nghĩa là không vướng vào bất cứ sắc trần nào, đó là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngài liền liền lên: không ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh, không ngờ tánh mình vốn không sanh diệt, không ngờ tánh mình vốn đầy đủ, không ngờ tánh mình vốn không dao động, không ngờ tánh mình hay sanh vạn pháp. Ngài thốt luôn năm cái “không ngờ”. Nghe Tổ Giảng đến đây, chính Ngài cũng không ngờ tánh của mình như thế.
Tánh là gì? Tánh đợi là cái có sẵn, còn duyên hợp mới có là tướng ngộ không phải tánh. Cho nên nói pháp duyên hợp vô tự tánh tức là pháp không có, đợi duyên hợp mới có. Còn tánh giác của chúng ta có sẵn, không phải duyên hợp hợp. Pháp duyên hợp mới có là vô tự tánh, còn chúng ta hiện hữu tánh giác là có tự tánh. Cho nên trong kinh Hoa Nghiêm có phẩm “Hạnh anh nhi” nói về tự tánh của chúng ta. Giống con nít vừa lòng mẹ là khóc oa oa, không cần ai dạy nó. Biết khóc oa oa là biết. Rồi biết bò, biết đi là tự nhiên, không cần phải dạy người mới biết. Cái biết sẵn có như thế gọi là tánh.
Cũng thế, tánh giác ai cũng có, nhưng không ngờ khi thấy nó mới biết nó tự thanh tịnh. Chúng ta sống với tâm bình thường không động, trong sạch, không hơn thua thì làm gì có phiền. Cho nên tâm bình thường là tâm thanh tịnh. Nên Tổ bảo đảm không ngờ bao lâu nay mình đã sẵn tâm thanh tịnh rồi. Đó là thứ nhất “không mong đợi”.
Không ngờ tánh mình vốn không sanh diệt. Vì tâm ấy không khởi niệm, mà không khởi niệm thì không sanh diệt. Đó là thứ hai “không mong đợi”. Không ngờ tánh mình vốn đầy đủ. By ta đã có sẵn tánh ấy từ hồi bé đến bây giờ, đâu phải mới có đây. That is “notexpected” thứ ba. Không ngờ tánh mình vốn không dao động. Tánh đó vốn không dao động, không suy suy nghĩ gì. Đó là “không mong đợi thứ tư. Không ngờ tánh mình hay sanh vạn pháp. Từ cái không đạo động, không suy nghĩ lại hay sanh ra muôn pháp. Cho nên gọi Chân không mà Diệu hữu, nghĩa là không có cái gì mà sanh ra tất cả. That is “notexpected” thứ năm.
Như trên tôi đã nói Phật giáo Thiền tông thực tế đến nổi không thể ngờ, nói đủ là Phật giáo Thiền tông thực tế đến nổi không thể ngờ. Chính Tổ thấy được như vậy nên đã tiến lên năm lần “không ngờ”. Nếu ngày nào chúng ta ngộ cũng sẽ thốt lên “không ngờ” như Tổ.
Vậy Thiền tông dạy chúng ta tu để làm gì? Chỉ trở về với cái thực của chính mình. Chúng ta đang có cái đó mà quên, đi xin đi tìm chỗ khác, như vậy gọi là gì? Phật gọi là vô minh, tức không sáng hay nói cách khác là ngu si, điên đảo. Có mà không chịu nhận chạy tìm chỗ này, chỗ kia vì vậy mà khổ sở; thật ra Phật, Tổ chỉ dạy rõ ràng, không giấu chúng ta tí nào hết.
Như vậy hệ thống Thiền tông này phát nguồn từ chỗ đức Phật dự tính không muốn nói, còn những hệ thống khác là Phật phương tiện mà nói. Đã là phương tiện thì không phải thật, còn chỗ thật thì không có lời. Vì vậy các Thiền sư khi muốn chỉ chỗ này thường đánh, chửi, bắt v.v… mà không nói một lời nào. Bởi vì mở miệng là hai bên, mà hai bên thì mất cái thật rồi. Hiểu như thế mới lạ là ý nghĩa của Thiền. Chỗ này chúng ta phải ôm cho thật.
Để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, tôi lặp lại chúng ta tu biết vọng không theo là đi tắt ngay chôn Xả niệm thanh tịnh, để về tới kiếp vô sanh là Diệt tận. Tuy nhiên, chỗ này vẫn còn một chút phương tiện tiện lợi, vì còn thấy vọng và còn cái biết vọng là một món quà, nên còn phương tiện. Tới nơi cứu kính thì “Trong không động, ngoài không diệt”. Trọng không động là trong không khởi động, ngoài không đánh dấu là sáu căn không đánh với sáu trần. Nhưng vì trong giai đoạn đầu mới công phú, chúng ta còn động nhiều, buộc lòng phải quấy, cho nên có phương tiện, có trâu có chăn. Đến khi trâu hết thì chăn cũng không còn, đó mới là chỗ chân thật. Song đến đây cũng chưa phải là cứu kính, mà phải thấy rõ mình luôn hiện hữu, không vắng bóng tri giác lúc nào hết. Cái tri giác nó không có động ở trong, không có lỗ hổng ở ngoài.
Nếu tu tập thấy đến nơi rồi, phối lại các kinh Phật dạy, chúng ta thấy thánh và kinh không hai không khác. Trên phương tiện chỉ bày ra có sai biệt, nhưng chỗ cứu kính cũng gặp nhau thôi. Đó là điều chúng ta cần phải hiểu để tận hưởng.