PHẦN 1: PHÁP YẾU TU TẬP TỌA THIỀN CHỈ QUÁN - PHẦN CHÁNH TÔNG - TRỊ BỆNH
Hành giả chuyên tâm tu hành, hoặc tứ đại có bệnh là vì dùng quán tâm, quán hơi thở kích động bệnh cũ phát khởi. Hoặc không khéo điều hòa ba việc - thân, tâm, hơi thở - trong, ngoài có chỗ sai suyển, cho nên có bệnh hoạn. Phàm phương pháp tọa thiền nếu khéo dụng tâm thì bốn trăm lẻ bốn bệnh tự nhiên lành, nếu dụng tâm sai suyển thì bốn trăm lẻ bốn bệnh nhân đó phát sanh. Thế nên, nếu tự tu hay dạy người tu, phải khéo biết gốc bệnh, phải khéo biết phương pháp dùng nội tâm trị bệnh trong lúc tọa thiền. Một phen phát bệnh chẳng những chướng ngại sự tu hành, còn lo mất mạng là khác.
Nay nói về pháp trị bệnh có hai ý:
- Tướng bệnh phát khởi
- Phương pháp trị bệnh
1. TƯỚNG BỆNH PHÁT KHỞI
Bệnh phát tuy có nhiều cách, lược nói không ngoài hai thứ:
A) TƯỚNG BỆNH DO TỨ ĐẠI TĂNG GIẢM.
Nếu địa đại tăng thì mắc bệnh thũng kiết trầm trọng, thân thể khô gầy, như thế một trăm lẻ một bệnh sanh. Nếu thủy đại tăng thì đàm ấm dẫy đầy, ăn uống không tiêu, đau bụng, hạ hơi v.v... một trăm lẻ một bệnh sanh. Nếu hỏa đại tăng thì chợt lạnh, chợt nóng toàn thân đau nhức, hôi miệng, đại tiểu không thông v.v... một trăm lẻ một bệnh sanh. Nếu phong đại tăng thì thân thể lơ lửng như treo trên không, lăn lộn đau nhức, phổi sưng thở gấp, ụa mửa mệt lả, như thế v.v... một trăm lẻ một bệnh sanh. Cho nên trong kinh nói: “Một đại không điều hòa thì một trăm lẻ một bệnh sanh, tứ đại không điều hòa thì bốn trăm lẻ bốn bệnh đồng khởi.” Tứ đại phát bệnh mỗi thứ có tướng mạo của nó, chính trong khi ngồi thiền và trong khi mộng phải khảo sát cho rõ.
B) TƯỚNG NGŨ TẠNG SANH BỆNH.
Từ tim sanh bệnh thì thân thể nóng, lạnh, đầu nhức, miệng khô v.v... vì tim là chủ về miệng. Từ phổi sanh bệnh thì thân thể mập phù, tứ chi mỏi mê, mũi nghẹt v.v... vì phổi chủ về mũi.
Từ gan sanh bệnh trong lòng thường không vui, buồn rầu, thương lo, giận hờn, đầu nhức, mắt mờ v.v... vì gan chủ về con mắt.
Từ lá lách sanh bệnh thì thân thể và trên mặt nổi phong khắp cả, ngứa ngáy đau nhức, ăn uống không ngon v.v... vì lá lách chủ về lưỡi. Từ trái cật sanh bệnh thì ở cổ sanh nấc cục, bụng no, lỗ tai bùng v.v... vì trái cật chủ về lỗ tai. Năm tạng sanh bệnh rất nhiều, mỗi cái có tướng của nó, phải xem xét trong khi ngồi thiền và trong mộng thì biết được.
Như thế nguyên nhân sanh bệnh của tứ đại, ngũ tạng không phải một, tướng bệnh rất nhiều không thể nói hết. Hành giả nếu muốn tu pháp môn Chỉ, Quán để thoát ly sanh tử, phải khéo biết nguyên nhân sanh bệnh. Hai thứ bệnh này nguyên nhân chung là do trong và ngoài phát động. Hoặc do dụng tâm không điều hòa, quán hạnh sai lạc, hoặc do khi pháp định phát sanh không biết giữ gìn đến khiến tứ đại, ngũ tạng sanh bệnh, ấy là tướng bệnh do bên trong phát khởi.
Lại nữa, có ba thứ nhân duyên khiến người mắc bệnh:
Tứ đại, ngũ tạng tăng giảm khiến người mắc bệnh như đã nói ở trên.
Quỉ thần gây nên khiến người mắc bệnh.
Nghiệp báo khiến người mắc bệnh.
Những bệnh như thế, mới mắc phải sớm trị rất dễ được lành, nếu để qua thời gian lâu bệnh thành thục, thân gầy bệnh nặng, chữa trị rất khó lành.
2. PHƯƠNG PHÁP TRỊ BỆNH
Đã rõ nguyên nhân phát bệnh, cần tạo phương pháp trị bệnh. Phương pháp trị bệnh có nhiều cách, tóm lược không ngoài hai phương tiện Chỉ và Quán.
THẾ NÀO DÙNG CHỈ TRỊ BỆNH? Có thầy nói: “Phải an tâm ngưng tại chỗ bệnh, tức là bệnh lành. Tại sao? Vì tâm là chủ của thân quả báo trong một thời kỳ, ví như vua đến chỗ nào thì bọn trộm cướp đều tan sạch.” Lại có thầy bảo: “Dưới rốn một tấc gọi là đơn điền, nếu ngưng tâm tại chỗ này không tán loạn, trải qua thời gian lâu đa số bệnh đều dứt.” Có thầy bảo: “Thường ngưng tâm dưới chân, bất luận đi, đứng, nằm hay nghỉ liền trị được bệnh. Vì cớ sao? Vì người do tứ đại không điều hòa cho nên sanh các bệnh, đó là do tâm thức duyên lên trên khiến tứ đại không điều hòa. Nếu an tâm ở dưới thì tứ đại tự nhiên điều hòa, các bệnh đều lành.”
DÙNG QUÁN TRỊ BỆNH. Có thầy nói: Dùng Quán tâm tưởng sáu thứ hơi thở trị bệnh, tức là dùng Quán trị bệnh. Thế nào là sáu thứ hơi thở? Nghĩa là: suy, hô, hi, ha, hư, hứ. Sáu thứ hơi thở này đều do trong lưỡi, miệng và tâm tưởng phương tiện chuyển động mà thành, phải dùng đều đều nhẹ nhẹ. Bài tụng chép:
Tâm thuộc về ha, thận thuộc suy,
Tỳ hô, phổi hứ Thánh đều biết,
Gan và tạng nhiệt do chữ hư,
Tam tiêu ngăn trệ chỉ nói hi.
Có thầy nói: Nếu khéo dùng Quán tưởng vận chuyển mười hai thứ hơi thở thì trị được nhiều bệnh. Mười hai thứ hơi thở:
Hơi thở lên
Hơi thở xuống
Hơi thở đầy
Hơi thở tiêu
Hơi thở tăng trưởng
Hơi thở diệt hoại
Hơi thở ấm
Hơi thở lạnh
Hơi thở xông lên
Hơi thở gìn giữ
Hơi thở điều hòa
Hơi thở bồi bổ
Mười hai thứ hơi thở này đều do tâm quán tưởng mà có. Nay lược tướng đối trị của mười hai thứ hơi thở. Hơi thở lên trị bệnh trầm trọng. Hơi thở xuống trị bệnh lơ lửng. Hơi thở đầy trị bệnh khô gầy. Hơi thở tiêu trị bệnh thũng phù. Hơi thở tăng trưởng trị bệnh ốm yếu. Hơi thở diệt hoại trị bệnh tăng thạnh. Hơi thở ấm trị bệnh lạnh. Hơi thở lạnh trị bệnh nóng. Hơi thở xông lên trị bệnh ngăn nghẹn không thông. Hơi thở gìn giữ trị bệnh lăn lộn. Hơi thở điều hòa chung trị bệnh tứ đại bất hòa. Hơi thở bồi bổ bồi dưỡng tứ đại suy kém. Khéo dùng các thứ hơi thở này, có thể trị lành các bệnh, suy ra có thể biết.
Có thầy nói: Khéo dùng giả tưởng quán hay trị hết các bệnh. Như người mắc bệnh lạnh, tưởng trong thân hơi lửa xông ra liền trị được bệnh lạnh. Cách trị bệnh này trong kinh Tạp A-hàm về bảy mươi hai thứ bí pháp trị bệnh có nói rộng.
Có thầy bảo: Dùng Chỉ, Quán kiểm xét tứ đại trong thân không có bệnh, tâm cũng không có chỗ sanh bệnh thì các bệnh tự lành. Như thế, bao nhiêu thuyết nói dùng Quán trị bệnh chỗ ứng dụng không đồng, nếu khéo hiểu được ý đều trị lành bệnh.
Hai pháp Chỉ, Quán nếu người khéo hiểu được ý thì không bệnh nào mà trị chẳng lành. Nhưng người thời nay, căn cơ tối, cạn, đa số tập quán tưởng không thành công nên pháp này ít được lưu truyền. Lại có người tu không được pháp này, bèn xoay qua học khí thuật, nhịn cơm e sau này sanh kiến chấp tà dị, những thứ thuốc bằng cây, cỏ, vàng, đá... thích hợp với bệnh thì nên dùng.
Nếu là bệnh do quỉ phá thì phải lập tâm cho vững, thêm tụng chú để giúp sự trị bệnh. Nếu là bệnh nghiệp báo cần phải tu phước và sám hối, bệnh ắt tiêu diệt. Hai pháp Chỉ, Quán trị bệnh, nếu người khéo hiểu một pháp cũng đủ tự tu và dạy người, huống là thông đạt cả hai. Nếu cả hai pháp đều không biết thì bệnh sanh không thể trị, chẳng những bỏ bê sự tu hành, còn e tánh mạng khó bảo toàn làm sao tự tu và dạy người? Thế nên, người muốn tu Chỉ, Quán phải hiểu phương pháp nội tâm trị bệnh. Pháp này không phải hiểu một, hiểu ý tại người, chớ không thể truyền bằng văn tự.
Lại nữa, trong khi ngồi thiền dụng tâm trị bệnh cần phải gồm đủ mười pháp sẽ được lợi ích. MƯỜI PHÁP:
Tin
Dùng
Siêng
Thường trụ trong duyên
Phân biệt nguyên nhân bệnh khởi
Phương tiện
Thực hành lâu
Biết thủ xả
Giữ gìn
Biết ngăn cản
Thế nào là tin? Nghĩa là tin pháp này hay trị được bệnh.
Sao là dùng? Nghĩa là tùy thời hằng dùng.
Sao là siêng? Chuyên cần không nghỉ, đến khi lành bệnh mới thôi.
Sao là trụ trong duyên? Tâm vi tế luôn luôn y nơi pháp, không duyên cái gì khác.
Sao là phân biệt nguyên nhân bệnh khởi? Như đoạn trước đã nói.
Sao là phương tiện? Là thở ra, hít vào tâm tưởng vận chuyển khéo léo thành tựu không cho trái phép.
Sao là thực hành lâu? Nếu áp dụng chưa có lợi ích chẳng kể ngày tháng thường tập không phế bỏ.
Sao là biết thủ xả? Biết cái có ích liền chuyên cần, cái có hại liền xả đi, chín chắn chuyển tâm điều trị.
Sao là gìn giữ? Khéo biết các duyên xúc phạm mà giữ gìn.
Sao là ngăn cản? Được điều ích lợi không đến người khác nói, chưa tổn hại không sanh nghi chê.
Nếu y mười pháp này trị bệnh quyết định có hiệu nghiệm không dối vậy.
PHẦN 1: PHÁP YẾU TU TẬP TỌA THIỀN CHỈ QUÁN - PHẦN CHÁNH TÔNG - CHỨNG QUẢ
Nếu hành giả khi tu Chỉ, Quán như thế, biết rõ tất cả pháp đều do tâm sanh, nhân duyên hư giả không thật, nên là không; vì biết không, nên không thấy có tướng danh tự của tất cả pháp, thế là thể nhập chân thật. Khi ấy, trên không thấy có Phật quả đáng cầu, dưới không thấy có chúng sanh đáng độ. Ấy gọi là quán từ Giả nhập Không, là quán Nhị đế, là tuệ nhãn, là Nhất thế trí. Nếu trụ nơi quán này tức là sa vào quả vị Thanh văn, Bích-chi Phật.
Cho nên trong kinh nói: “Các vị Thanh văn v.v... tự than rằng: Chúng ta nếu nghe cõi Phật thanh tịnh, giáo hóa chúng sanh, tâm không vui mừng. Vì sao? Vì tất cả pháp thảy đều rỗng lặng, không sanh không diệt, không lớn không nhỏ, vô lậu vô vi, suy nghĩ như thế nên không vui mừng.” Phải biết người thấy được pháp vô vi mà vào chánh vị, người ấy trọn không thể phát ba thứ tâm Bồ-đề, vì sức định nhiều mà không thấy Phật tánh.
Nếu Bồ-tát vì tất cả chúng sanh thành tựu tất cả Phật pháp thì không nên chấp giữ vô vi tự tịch diệt, khi ấy nên tu quán từ Không nhập Giả. Nghĩa là phải thật quán Tâm tánh tuy Không, nhưng khi đối duyên liền sanh ra tất cả các pháp cũng như huyễn hóa, tuy không quyết định thật mà vẫn có các tướng thấy, nghe, hiểu, biết v.v... khác nhau. Hành giả khi quán như thế, tuy biết tất cả pháp rốt ráo là rỗng lặng, mà hay ở trong Không tu các hạnh, như gieo giống trong Không; cũng hay phân biệt các căn của chúng sanh tánh dục vô lượng, nên thuyết pháp cũng vô lượng. Nếu chứng được Vô ngại biện tài thì hay làm lợi ích chúng sanh khắp lục đạo. Ấy gọi là Phương tiện tùy duyên Chỉ, là quán từ Không nhập Giả, là quán bình đẳng, là Pháp nhãn, là Đạo chủng trí. Trụ trong quán này sức trí tuệ nhiều, tuy thấy được Phật tánh mà không rõ ràng.
Bồ-tát tuy thành tựu hai pháp quán trên, đó gọi là Quán môn phương tiện, không phải là chánh quán. Kinh chép: “Hai thứ trước là đạo phương tiện, nhân hai thứ quán Không, Giả ấy được vào quán Trung đạo đệ nhất nghĩa, song chiếu cả hai đế, tâm thường vắng lặng, tự nhiên trôi vào biển Đại giác. Nếu Bồ-tát muốn ở trong một niệm đầy đủ tất cả Phật pháp nên tu: “Chỉ dứt hai bên phân biệt” (Tức nhị biên phân biệt Chỉ) thực hành chánh quán Trung đạo.”
Thế nào là Chánh quán? Nếu thấu hiểu tâm tánh không phải Chân, không phải Giả, dứt tâm duyên Chân, Giả gọi là Chánh thật quán, tâm tánh không phải Không, không phải Giả, mà không phá hoại pháp Không, Giả. Nếu hay chiếu liễu như thế thì ở nơi tâm tánh thông đạt được Trung đạo, viên chiếu cả Nhị đế. Nếu hay Tự tâm thấy được Trung đạo, Nhị đế, thì thấy Trung đạo, Nhị đế của tất cả pháp, mà không chấp Trung đạo, Nhị đế. Bởi vì quyết định tánh không thể có, ấy gọi là chánh quán Trung đạo. Như bài kệ Trung Luận nói:
Nhân duyên sanh các pháp,
Ta nói tức là không,
Cũng gọi là giả danh,
Cũng gọi nghĩa Trung đạo.
Sưu tầm ý bài kệ này, không những đầy đủ phân biệt tướng Trung quán, cũng gồm nói chỉ thú hai thứ quán môn phương tiện trước. Phải biết chánh quán Trung đạo tức là Phật nhãn, Nhất thế chủng trí. Nếu trụ nơi quán này thì sức định và tuệ đồng đẳng, thấy Phật tánh rõ ràng, an trụ trong Đại thừa, bước đi bằng phẳng nhanh như gió, tự nhiên vào trong biển Đại giác. Thực hành hạnh Như Lai, vào nhà Như Lai, mặc y Như Lai, ngồi tòa Như Lai, dùng đồ trang nghiêm của Như Lai mà tự trang nghiêm. Được sáu căn thanh tịnh, vào cảnh giới của Phật, đối với tất cả pháp không nhiễm trước, tất cả Phật pháp đều được hiện tiền, thành tựu niệm Phật tam-muội. An trụ trong định Thủ Lăng Nghiêm, thế là phổ hiện Sắc thân tam-muội, khắp vào cõi Phật trong mười phương, dạy bảo chúng sanh trang nghiêm tất cả cõi Phật, cúng dường mười phương chư Phật, thọ trì pháp tạng của chư Phật, đầy đủ tất cả hạnh ba-la-mật, ngộ nhập vị đại Bồ-tát, cùng với ngài Văn-thù, Phổ Hiền kết bạn. Thường trụ trong thân pháp tánh, vì chư Phật khen ngợi thọ ký, ấy là trang nghiêm Đâu-suất-đà thiên, thị hiện giáng thần trong thai mẹ, xuất gia, đến đạo tràng, hàng phục ma oán, thành Chánh giác, chuyển Pháp luân, vào Niết-bàn. Ở các cõi nuớc khắp mười phương làm viên mãn tất cả Phật sự, đầy đủ hai thân Chân và Ứng ... ấy là Sơ phát tâm Bồ-tát.
Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Khi sơ phát tâm liền thành Chánh giác, thông suốt tánh chân thật của các pháp, được tuệ thân không phải do người khác mà ngộ.” Cũng nói: “Sơ phát tâm Bồ-tát được một thân Như Lai làm vô lượng thân.” Cũng nói: “Sơ phát tâm Bồ-tát tức là Phật.” Kinh Niết-bàn nói: “Sơ phát tâm và Cứu kính tâm hai cái không khác, hai tâm như thế, tâm trước là khó.” Kinh Đại Phẩm nói: “Tu-bồ-đề! Có Đại Bồ-tát mới sơ phát tâm liền tọa đạo tràng, chuyển bánh xe chánh pháp, phải biết Bồ-tát ấy như Phật vậy.” Trong kinh Pháp Hoa nàng Long Nữ dâng hạt châu làm chứng, những kinh như thế đều nói sơ phát tâm làm đủ tất cả Phật pháp, như kinh Đại Phẩm nói “chữ A”(1), kinh Pháp Hoa nói “khiến chúng sanh khai Phật tri kiến”, kinh Niết-bàn nói “thấy Phật tánh cho nên trụ Đại Niết-bàn”. Đã lược nói tướng Sơ phát tâm nhân tu Chỉ, Quán được chứng quả.
Kế nói Hậu tâm chứng quả. Cảnh giới của Hậu tâm chứng không thể biết, nay suy theo giáo lý để rõ, trọn không rời hai pháp Chỉ và Quán. Tại sao? Kinh Pháp Hoa nói: “Ân cần khen ngợi trí tuệ của chư Phật là nghĩa Quán.” Đây là đứng về Quán để rõ quả. Kinh Niết-bàn luận rộng về “một trăm câu giải thoát” để giải thích Đại Niết-bàn. Niết-bàn nghĩa là Chỉ. Đó là đứng về Chỉ để rõ quả. Cho nên nói Đại Niết-bàn là thường tịch định. Định tức là nghĩa Chỉ. Trong kinh Pháp Hoa tuy đứng về mặt Quán để rõ quả, nhưng cũng nhiếp Chỉ. Cho nên nói: Nhẫn đến tướng cứu kính Niết-bàn thường tịch diệt trọn qui về Không. Trong kinh Niết-bàn tuy đứng về mặt Chỉ để rõ quả, nhưng cũng gồm Quán. Bởi vì lấy ba đức làm Đại Niết-bàn. Hai bộ kinh lớn này tuy văn có hiện, có ẩn khác nhau, nhưng đều đứng về hai môn Chỉ, Quán biện chỗ cứu kính của nó, gồm căn cứ hai pháp Định, Tuệ để rõ quả vị cùng tột.
Hành giả phải biết quả ban đầu, bậc giữa, rốt sau đều không thể nghĩ bàn. Cho nên bản tân dịch kinh Kim Quang Minh nói: “Như Lai lúc ban đầu không thể nghĩ bàn, Như Lai khoảng giữa bao nhiêu thứ trang nghiêm. Như Lai rốt sau thường không thể phá hoại.” Đó là ước về hai tâm tu Chỉ, Quán để biện kết quả của nó. Bài kệ trong kinh Ban Châu Tam-muội chép:
Chư Phật từ tâm được giải thoát,
Tâm ấy thanh tịnh gọi không nhớp,
Năm đạo sạch sẽ chẳng nhuốm màu,
Học được pháp này thành Đại đạo.
Thệ nguyện tu hành phải trừ tam chướng và ngũ cái. Nếu như không trừ, tuy siêng năng dụng công trọn không lợi ích.
Trong kinh Đại Phẩm ví sơ phát tâm là “Chữ A”, cứu kính là “Chữ TRA”.
Phần 2: Tọa Thiền Tam Muội –
Lời Dịch Giả
Quyển này nguyên tên là Tọa Thiền Tam-muội Kinh, cũng tên là Thiền Kinh. Theo quan niệm đa số Phật tử, phàm là kinh phải của Phật nói và đủ lục chủng chứng tín - như thị ngã văn v.v… mà quyển này do Tổ y cứ trong kinh soạn ra, nên tôi giản lược chữ Kinh, chỉ đề Tọa Thiền Tam-muội.
Nguyên nó cả thảy hai quyển - thượng và hạ - tôi thấy văn thể liên tục nên hợp chung lại làm một quyển để khi đọc khỏi phải gián đoạn.
Về nội dung, chương mục không được rõ ràng. Muốn tiện cho độc giả nghiên cứu, tôi sắp và thêm chương mục của mỗi phần cho dễ thấy.
Vì có thay đổi chút ít nên tôi ghi vào đây ít hàng để quí độc giả khỏi nghi ngờ.
Cẩn chí THÍCH THANH TỪ
Phương Bối am - Mùa Đông Tân Sửu (1961)
PHẦN 2: TỌA THIỀN TAM MUỘI - PHẦN DUYÊN KHỞI
Trình bày mười ý này để rõ lối tu Chỉ, Quán. Đây là điều kiện cần thiết cho kẻ mới học tọa thiền. Nếu người khéo hội ý tu tập, khả dĩ an tâm vượt các chướng nạn, được định sanh tuệ và chứng vô lậu Thánh quả.
PHẦN 2: TỌA THIỀN TAM MUỘI - TÙY BỆNH ĐỐI TRỊ - PHÁP MÔN TRỊ ĐA DỤC
Nếu người đa dục dùng pháp môn Bất tịnh trị. Nếu người nhiều nóng giận dùng pháp môn Từ bi trị. Nếu người nhiều ngu si lấy pháp môn quán Nhân duyên trị. Nếu người nhiều lo nghĩ lấy pháp môn Niệm hơi thở trị. Nếu người đẳng phần (tham, sân, si đồng nhau) lấy pháp môn Niệm Phật trị. Bao nhiêu thứ bệnh có bấy nhiêu thứ pháp môn để trị.
I.- PHÁP MÔN TRỊ ĐA DỤC
Người dâm dục nhiều nên tu quán Bất tịnh. Từ chân đến đầu đầy dẫy bất tịnh: tóc, lông, móng, răng, da mỏng, da dày, máu mủ, thịt, gân, mạch, xương, tủy, gan, phổi, tim, lá lách, dạ dày, ruột non, ruột già, phẩn, nước tiểu, nước mũi, nước miếng, mồ hôi, nước mắt, cứt ráy, đất, óc, bong bóng, mật đàm, bầy nhầy, mỡ, mỡ sa, màng óc. Đó là ba mươi sáu vật bất tịnh trong thân.
LẠI QUÁN BẤT TỊNH CÓ CHÍN THỨ THEO THỨ TỰ:
Quán thây mới chết bầm xanh.
Lần lần sình trương.
Kế nứt nẻ.
Máu chảy ra.
Rục rã.
Lầy thúi.
Dòi, thú đục, ăn.
Xương mục.
Thiêu rụi.
Đó là Cửu tưởng bất tịnh.
Người đa dục có bảy thứ yêu:
Yêu sắc đẹp.
Yêu dáng điệu.
Yêu dung mạo.
Yêu âm thanh.
Yêu bóng láng.
Yêu con người.
Tổng yêu.
Nếu yêu sắc đẹp nên tập quán thây chết bầm xanh, những sắc bất tịnh vàng, đỏ cũng như vậy. Nếu yêu dáng điệu nên tập quán thây sình trương và nứt nẻ. Nếu yêu dung mạo nên tập quán thây máu chảy và rục rã. Nếu yêu âm thanh, tập quán người khi sắp chết, cổ nức lên và tắt thở. Nếu yêu bóng láng nên tập quán bộ xương và người bệnh khô gầy. Nếu yêu con người nên tập quán cả sáu thứ trong chín thứ bất tịnh. Nếu tổng yêu nên quán cả chín thứ. Hoặc khi quán các thứ này, lại khi quán các thứ khác, đều gọi là quán Bất tịnh.
- Nếu thân bất tịnh như thây thúi lầy thì do đâu mà yêu? Nếu yêu thân trong sạch thì thân thúi lầy cũng vẫn yêu? Nếu không yêu thân thúi lầy thì thân trong sạch cũng không yêu, vì hai thân là một vậy.
- Nếu tìm hai cái thật tịnh thì không thể có. Tâm người mê lầm bị sự điên đảo che đậy nên không phải tịnh chấp là tịnh, nếu phá dẹp tâm điên đảo thì được pháp quán thật tướng liền biết bất tịnh là hư dối không thật.
Lại nữa, thây chết không có hơi ấm, mạng sống, thần thức và các căn bế tắc, người nhận kỹ thì tâm không sanh yêu mến. Thân sống có hơi ấm, mạng sống, thần thức các căn sáng sủa, nên tâm điên đảo mê lầm sanh yêu mến.
Khi tâm yêu sắc cho đó là tịnh, tâm yêu sắc dứt liền biết là bất tịnh. Nếu là thật tịnh thì phải thường tịnh, mà đây không phải thế. Như chó ăn phẩn cho là sạch, lấy con mắt người xem thì thấy rất dơ. Thân này toàn cả trong, ngoài không có chỗ nào là sạch. Nếu yêu dáng ngoài của thân, toàn thân da mỏng bao bọc, nếu nắm cắt một miếng bằng ngón tay ta sẽ thấy bày tướng bất tịnh, huống là cả ba mươi sáu vật nhơ nhớp trong thân.
Hơn nữa, xét ra nhân duyên tạo thành thân có bao nhiêu thứ bất tịnh. Trước tiên do tinh huyết cha mẹ hợp thành là bất tịnh, thành thân rồi thường chảy ra các thứ bất tịnh, cho đến quần áo, mền chiếu cũng là bất tịnh, nếu đến khi chết thì sự bất tịnh không thể kể xiết. Do đó nên biết sống, chết, trong, ngoài đều là bất tịnh.
Sau khi quán Bất tịnh thành công chuyển lên quán Tịnh.
Người tu Tịnh quán có ba hạng: mới tập, đang tập, tập đã lâu.
- Nếu người mới tập (người trước chưa phát tâm kiên cố) phải dạy rằng: Tưởng lột toác da ra trừ dẹp hết máu, thịt v.v… các thứ bất tịnh, quán bộ xương người đỏ. Buộc ý quán tưởng không cho nghĩ gì khác, có nghĩ khác phải lôi trở về.
- Nếu người đang tập (người tập hành đôi ba năm) nên dạy: Tưởng toác da thịt quán xương đầu, không cho nghĩ gì khác, có nghĩ khác phải lôi trở về.
- Nếu người tập hành đã lâu (người đã tu tập trải qua mấy mươi năm) nên dạy: Tưởng dẹp hết da, thịt, buộc ý năm chỗ: đỉnh đầu, trán, giữa chân mày, chót mũi, ngay quả tim. Trụ ý năm chỗ ấy, quán xương không cho nghĩ gì ngoài, có nghĩ ngoài phải thu nhiếp trở về. Thường xem xét tâm nó chạy đi phải lôi lại. Nếu tâm mệt mỏi sẽ dừng lại chỗ buộc duyên, không chạy ra ngoài nữa, như con khỉ bị xiềng bên cây cột, nhảy nhót mệt rồi sẽ nằm lại bên cây cột. Chỗ buộc tâm duyên như cây cột, ý niệm chăm chú như sợi dây, tâm như con khỉ. Lại như bà mẹ chăm giữ đứa con còn bú, không để nó rơi té. Hành giả quán tâm cũng như thế, lần lần chế phục được tâm, bắt nó ở một chỗ. Nếu tâm trụ được lâu đó là hợp pháp thiền. Nếu được thiền định thì phát ba tướng:
Thân thể vui vẻ nhẹ nhàng mềm dịu.
Xương trắng phát ra ánh sáng trong như ngọc.
Tâm dừng lặng.
Đó là tướng Tịnh quán.
Khi ấy, được tâm hợp với Sắc giới. Ấy là người mới học pháp thiền được tâm khế hợp Sắc giới. Tâm hợp với pháp thiền tức pháp Sắc giới. Tâm được pháp này mà thân còn ở Dục giới vẫn được ba tướng:
Tuy tứ đại thô mà được vui vẻ mềm dịu, hình chất trong sạch, tươi nhuần, bóng láng, điều hòa. Ấy gọi là tướng vui vẻ.
Hành giả nội quán thấy tướng xương trắng phát ánh sáng khắp chiếu, sắc nó trắng trong.Tâm trụ một chỗ.
Như thế gọi là Tịnh quán. Trừ thịt quán xương gọi là Tịnh quán.
PHẦN 2: TỌA THIỀN TAM MUỘI - TÙY BỆNH ĐỐI TRỊ - PHÁP MÔN TRỊ NÓNG GIẬN
Nếu người nhiều nóng giận, phải học pháp môn ba thứ Từ tâm. Hoặc người mới tập hành, người đang tập hành, người tập hành đã lâu.
- Người mới tập hành nên dạy: Tâm Từ đến những người thân mến. Thế nào tâm Từ đến những người thân, nguyện làm cho họ được vui? Hành giả nếu được các thứ thân tâm vui thích, như khi lạnh được mặc ấm, khi nóng được mát, đói khát được ăn uống, nghèo túng được của cải, làm nhọc nhằn được nghỉ ngơi v.v… những thứ vui ấy nguyện cho người thân mến cùng được hưởng. Chuyên tâm nhớ Từ không nghĩ gì khác, có nghĩ khác liền thu nhiếp trở lại.
- Người đang tập hành nên dạy: Tâm Từ đến những người không thân không sơ. Thế nào tâm Từ đến những người không thân không sơ, nguyện cho họ được vui? Hành giả nếu được các thứ thân tâm vui thích, nguyện cho những người không thân không sơ đồng cùng chung hưởng. Chuyên tâm nhớ Từ không nghĩ gì khác, có nghĩ khác liền thu nhiếp trở về.
- Người tập hành đã lâu nên dạy: Tâm Từ đến những người thù ghét. Thế nào tâm Từ đến những người ấy, nguyện cho họ được vui? Hành giả nếu được các thứ thân tâm vui thích, nguyện những kẻ thù ghét đồng cùng chung hưởng, sự hưởng này đồng với người thân mến. Được bình đẳng nhất tâm, tâm rộng lớn thanh tịnh, người thân, người không thân không sơ, và kẻ thù ghét đều xem như nhau. Rộng đến cả thế giới vô lượng chúng sanh đều khiến được an vui, khắp cả mười phương cùng đồng một tâm bình đẳng rộng lớn thanh tịnh. Xem chúng sanh cả mười phương như xem thân mình, thấy họ rõ ràng trước mắt đồng được thọ hưởng khoái lạc. Khi ấy được Từ tam-muội.
- Người thân mến, người không thân không sơ nguyện cho vui là được, còn kẻ thù ghét hung ác tại sao lại thương xót nguyện được vui?
- Nên ban vui cho những người ấy. Vì sao? Người ấy còn bao nhiêu việc tốt là nhân của pháp thanh tịnh, tại sao ta nay lại do một cái thù nhỏ mà bỏ quên những cái tốt kia! LẠI SUY NGHĨ: Người kia thời quá khứ biết đâu không phải là thân quyến của ta, nay không thể do một chút sân mà sanh thù ghét. Ta phải nhịn họ, đó là thiện lợi của ta. Hoặc nghĩ: Ta thực hành pháp nhân đức, hàm chứa hoằng truyền sức từ bi vô lượng không thể để cho nó tiêu mất.
LẠI NGHĨ: Nếu không có kẻ thù ghét thì làm sao thành tựu nhân Sanh nhẫn. Sanh nhẫn là do kẻ oán thù ban cho, như vậy kẻ oán thù là người thân thiện của ta. Hơn nữa, quả báo của sân là tối trọng, trong các thứ ác nó là bậc trên hết, do sân mới tàn hại người, vật, nó là cái độc mà không thể kềm chế được, tuy muốn đốt người mà kỳ thật là thiêu mình. Nên tự suy nghĩ: Bên ngoài mặc chiếc áo pháp, bên trong thực hành hạnh nhẫn nhục gọi là Sa-môn, thì đâu có thể nghe tiếng nói xấu liền thay đổi sắc diện, buông lung tâm tệ ác.
LẠI NGHĨ: Thân ngũ ấm này là cái rừng đau khổ, là mục tiêu chịu đựng những điều tai ác, thì những cái khổ não tai ác đến làm gì tránh khỏi. Như gai nhọn đâm vào thân, khổ não vô lượng, các thứ thù oán rất nhiều không thể diệt hết, phải tự bảo vệ bằng cách mang đôi giày nhẫn nhục. Như Phật dạy:
Lấy sân trả sân,
Sân trở hại đó,
Sân mà không trả,
Hay phá quân to.
Hay không sân hận,
Là pháp Đại nhân,
Tiểu nhân sân hận,
Khó động như núi.
Sân là độc dữ,
Tàn hại rất nhiều,
Không thể hại người,
Trở về tự hại.
Sân là tối lớn,
Có mắt không thấy,
Sân là bụi nhớp,
Ô uế tịnh tâm.
Sân độc như thế,
Phải mau trừ diệt,
Rắn độc trong nhà,
Không đuổi hại người.
Sân hận như thế,
Rất nhiều vô lượng,
Thường tập Từ tâm,
Trừ diệt sân hận.
Như trên là môn Từ tam-muội.
PHẦN 2: TỌA THIỀN TAM MUỘI - TÙY BỆNH ĐỐI TRỊ - PHÁP MÔN TRỊ NGU SI
Nếu người nhiều ngu si phải học pháp môn ba thứ suy nghĩ.
Nếu người mới tập hành phải dạy: Sanh duyên lão tử, vô minh duyên hành. Chỉ như thế suy nghĩ không cho nghĩ gì khác, có nghĩ khác liền thu nhiếp trở về.
Nếu người đang tập hành phải dạy: Hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu. Như thế suy nghĩ không cho nghĩ gì ngoài, nếu có nghĩ việc ngoài liền thu nhiếp trở về.
Nếu người tập hành đã lâu nên dạy: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử. Như thế suy nghĩ không cho nghĩ gì khác, có nghĩ khác liền thu nhiếp trở về.
Tất cả người trí là minh, tất cả người ngu là vô minh, trong ấy thế nào là vô minh?
Vô minh là tất cả không biết. Ở trong đây vô minh hay tạo có đời sau. Cái đáng có thì không, cái đáng không lại có, bỏ các điều thiện, lấy các thứ ác, phá tướng chân thật, chấp các thứ giả dối. Như trong phẩm Vô Minh Tướng nói:
Pháp mờ mịt không sáng,
Không biết nghiệp đạo đức,
Mà tạo nhân kiết sử,
Như lửa nhân kéo có.
Pháp ác mà tâm thích,
Xa bỏ các pháp lành,
Giặc cướp sáng chúng sanh,
Xưa nay thường bị cướp.
Tướng, thường, lạc, ngã, tịnh,
Chấp trong thân ngũ ấm,
Pháp khổ, tập, diệt, đạo,
Cũng lại không thể biết.
Đường hiểm các thứ não,
Người mù đi vào trong,
Phiền não nên nghiệp tập,
Nghiệp nên khổ xoay vòng.
Không nên lấy mà lấy,
Nên lấy trở lại bỏ,
Theo đuổi tối, sai lầm,
Dẫm phải gốc té nhào.
Có mắt mà không tuệ,
Thí dụ cũng như thế,
Bởi nhân duyên ấy diệt,
Trí sáng như mặt trời.
Như thế lược nói vô minh cho đến lão tử cũng vậy.
Trong Phật pháp lý nhân duyên rất cao sâu, tại sao người nhiều ngu si lại hay quán nhân duyên
Có hai hạng người ngu si: hạng người mê muội như trâu, dê; hạng người ôm các thứ tà kiến mê lầm đen tối, là người ngu si tà kiến. Phật vì hạng người sau bảo phải quán nhân duyên tập chánh định.
PHẦN 2: TỌA THIỀN TAM MUỘI - TÙY BỆNH ĐỐI TRỊ - PHÁP MÔN TRỊ LO NGHĨ
Người nhiều lo nghĩ phải tập pháp môn A-na-ban-na tam-muội.
Nếu người mới tập hành phải dạy: Nhất tâm đếm hơi thở vào, ra, hoặc dài, hoặc ngắn, đếm từ một đến mười.
Nếu người đang tập hành phải dạy: Đếm hơi thở từ một đến mười và theo hơi thở vào, ra, niệm cùng hơi thở, đồng dừng tâm ở một chỗ.
Nếu người tập hành đã lâu nên dạy: Đếm hơi thở, theo hơi thở, chỉ, quán, hoàn và tịnh.
A-na-ban-na tam-muội có sáu môn, chia làm mười sáu phần. Sáu môn là:
1) SỔ TỨC.- Hành giả nhất tâm nhớ hơi thở vào đến cùng, đếm một, hơi thở ra đến cùng, đếm hai. Nếu hơi thở chưa cùng mà đếm là sai. Nếu đếm từ hai đến chín mà quên phải đếm lại một. Ví như nhà toán học tính một với một là hai, hai với hai là bốn v.v… không sai một mảy.
TẠI SAO PHẢI ĐẾM?
Nhân đếm hơi thở quán vô thường, dễ được dứt các lo nghĩ và được nhất tâm. Thân tâm sanh diệt vô thường liên tục tương tợ khó thấy, nhân thở vào, ra sanh diệt vô thường mà dễ biết, dễ thấy được nó. Tâm buộc tại số, dứt các lo nghĩ.
LO NGHĨ CÓ SÁU THỨ:
Lo nghĩ tham dục
Lo nghĩ giận hờn
Lo nghĩ não hại
Lo nghĩ quê hương thân thuộc
Lo nghĩ cõi nước
Lo nghĩ không chết
Người muốn cầu tịnh tâm vào chánh đạo, trước phải diệt ba thứ lo nghĩ thô, kế trừ ba thứ tế. TRỪ HẾT SÁU CÁI LO NGHĨ NÀY SẼ ĐƯỢC PHÁP NHẤT THIẾT THANH TỊNH. Ví như người luyện vàng, trước bỏ những đá sỏi thô, sau mới bỏ bợn cát tế, lần lượt được vàng ròng.
- THẾ NÀO LÀ BỆNH THÔ?
- Nghĩ tham dục, nóng giận, não hại là ba thứ bệnh thô. Nghĩ quê hương thân thuộc, cõi nước, không chết là ba thứ bệnh tế. Trừ được sáu cái lo nghĩ này sẽ được pháp tất cả thanh tịnh.
- Người chưa được đạo, kiết sử chưa đoạn, sáu cái lo nghĩ này từ tâm khởi loạn, làm sao trừ được?
- Tâm chán thế gian và tu chánh quán thì hay ngăn mà chưa nhổ được gốc nó, sau khi được đạo vô lậu mới nhổ hết gốc rễ của nó
- THẾ NÀO LÀ CHÁNH QUÁN?
- Như bài tụng:
Thấy người đa dục cầu đã khổ,
Được nó giữ gìn càng thêm khổ,
Mất đi buồn thảm khổ lại hơn,
Khi tâm được dục không mãn khổ.
Dục nhân vô thường, không, sầu thảm,
Các thứ chung hợp nên bỏ đi,
Thí như rắn độc vào nhà người,
Không gấp đuổi đi hại ắt đến.
Không định, không thật, không quí trọng,
Những thứ dục cầu vui điên đảo,
Như A-la-hán lục thần thông,
Cảnh tỉnh đệ tử giác dục rằng:
Ngươi không phá giới, giới thanh tịnh,
Không cùng người nữ chung nhà ngủ,
Rắn độc kết dục đầy nhà tâm,
Ràng buộc vui ái không xa lìa.
Đã biết giới thân không thể phá,
Mà tâm thường cùng lửa dục chung,
Ngươi vốn xuất gia cầu đạo pháp,
Bởi đâu buông lung đến thế này?
Cha mẹ sanh thành nuôi nấng ngươi,
Bà con quyến thuộc thương yêu lắm,
Thảy đều rơi lệ quyến luyến ngươi,
Ngươi đành xa bỏ không đoái tưởng.
Mà nay sao lại ôm lòng dục?
Cùng dục vui vầy không chán nhàm,
Thường cùng lửa dục chung một chỗ,
Vui vẻ thích thú không tạm lìa.
Như thế các thứ quở trách tham dục và những thứ chánh quán trừ tâm tham dục.
- THẾ NÀO DIỆT TÂM GIẬN HỜN?
- Như bài tụng:
Từ bào thai ra thường chịu khổ,
Chúng sanh như thế chớ giận hại,
Nóng giận khởi lên dùng Từ diệt,
Từ bi nóng giận không chung cùng.
Người nhờ Từ bi nóng giận dứt,
Ví như sáng tối không chung chỗ,
Nếu giữ tịnh giới mà nóng giận,
Người ấy tự phá pháp lợi mình.
Ví như dẫn voi xuống nước tắm,
Lại lấy bùn đất trét đầy mình,
Tất cả đều phải già, bệnh, chết,
Mọi thứ đánh đập trăm ngàn khổ.
Tại sao người lành thương chúng sanh,
Mà lại gia tăng giận não hại?
Nếu khởi nóng giận muốn hại người,
Chưa đến người kia trước đốt mình.
Thế nên thường nghĩ hành từ bi,
Nóng giận, nghĩ ác tâm không sanh,
Nếu người thường nghĩ hành pháp lành,
Thường nghĩ pháp lành tâm vui vẻ.
Đời nay được vui, sau cũng thế,
Được đạo thường vui, ấy Niết-bàn,
Nếu tâm dồn chứa điều bất thiện,
Tự mất lợi mình, lại hại người.
Đã tự trong tâm mất thiện pháp,
Người có tịnh tâm cũng trầm một,
Ví như đạo nhân ở chỗ vắng,
Đưa tay kêu to: “Giặc cướp tôi!”
Có người hỏi rằng: “Ai cướp ngươi?”
Đáp rằng: “Giặc của tôi chẳng sợ,
Tôi không giữ của cầu thế lợi,
Làm gì giặc của hại được tôi.
Tôi tập căn lành các Pháp bảo,
Giặc giác quán (xét nghĩ) phá tôi thiện lợi,
Giặc của đã lánh chỗ chứa nhiều,
Giặc cướp thiện đến không thể tránh.”
Như thế các thứ trách nóng giận và các thứ chánh quán trừ tâm nóng giận.
- THẾ NÀO TRỪ CÁI NGHĨ NÃO HẠI?
- Như bài tụng:
Chúng sanh luống chịu trăm ngàn thứ:
Các bệnh luôn luôn đến não hại,
Giặc chết rình chụp thường muốn giết,
Vô lượng chúng khổ tự vây quanh.
Tại sao người lành thêm não hại?
Chê bai mưu hại không nhân từ,
Hại người chưa được tự mang họa,
Người tục mưu hại còn thể tha.
Đó là nghiệp ác của thế gian,
Cũng không tự nói ta tu thiện,
Cầu đạo thanh tịnh người xuất gia,
Mà sanh nóng giận tâm tật đố.
Trời tạnh trong mây xẹt lửa độc,
Phải biết ác này tội rất nặng,
Người ưa vắng vẻ khởi tật đố,
Có bậc La-hán được tha tâm.
Răn dạy quở rầy: “Ngươi sao dại?”
Tật đố tự phá cội công đức,
Muốn được cúng dường phải tự tập,
Bao nhiêu công đức trang nghiêm thân.
Nếu không trì giới, thiền, đa văn,
Dối mặc áo nhuộm hoại pháp thân,
Thật kẻ ăn xin, người tệ ác,
Tại sao mong lợi được cúng dường?
Đói, khát, lạnh, nóng trăm ngàn khổ,
Chúng sanh thường bởi các khổ này,
Thân tâm khổ ách không cùng tận,
Tại sao người lành thêm não hại?
Ví như ghẻ lớn dùng dao mổ,
Cũng tợ tù nhân khảo chưa xong,
Khổ ách quanh mình các khổ nhóm,
Tại sao từ bi lại muốn tăng?
- THẾ NÀO TRỪ CÁI NGHĨ QUÊ HƯƠNG THÂN THUỘC?
- Nên nghĩ thế này: Trong thế giới sanh tử tự nghiệp duyên ràng buộc thì đâu là thân đâu là sơ? Chỉ do ngu si khởi tâm mến bừa, chấp cho là thân. Đời quá khứ, đời vị lai, không phải thân mà nay là thân. Đời này là thân mà quá khứ không phải thân. Ví như đàn chim chiều về chung đậu một cây, sáng ra tùy duyên mỗi con bay mỗi chỗ. Quê hương thân thuộc cũng như vậy. Sanh trong thế giới mỗi người tự có tâm khác, duyên hợp nên thân, duyên tan thành sơ, không thể có nhân duyên quả báo quyết định mãi cùng nhau thân cận. Ví như cát khô tay nắm chắc thành khối, do nắm nên hiệp, buông ra thành tan. Cha mẹ nuôi con đến khi già con đền đáp lại. Con nhờ sự bồng ẵm nuôi nấng nên phải báo đáp lại. Nếu thuận ý cha mẹ là thân, nghịch ý là sơ. Có khi thân không có ích mà trở lại hại, có khi sơ không hại mà có ích. Người do nhân duyên nên sanh ra ái, bởi nhân duyên ái nên trở lại hại người. Ví như họa sĩ họa tượng người nữ, trở lại yêu thích tượng ấy. Người yêu quê hương thân thuộc cũng thế. Tự sanh nhiễm trước, nhiễm trước những cái bên ngoài, trong đời quá khứ ngươi vẫn có quê hương thân thuộc, đời này ngươi đã làm gì? Ngươi không thể làm lợi ích cho người thân đời quá khứ, người thân đời quá khứ cũng không thể làm lợi ích cho ngươi, hai bên đều không thể làm lợi ích cho nhau. Trong cõi thế giới không định vô biên này, có nghĩ đến người thân hay không thân cũng chỉ là nghĩ suông mà thôi. Như vị A-la-hán dạy đệ tử mới xuất gia còn luyến ái người thân rằng:
“Như kẻ hư hèn đã mửa ra rồi lại ăn vào, ngươi cũng như vậy. Ngươi đã được xuất gia tại sao trở lại ái trước? Cạo tóc, mặc áo hoại sắc là tướng giải thoát, ngươi còn yêu mến người thân quê hương không được giải thoát, trở lại bị cái yêu mến buộc ràng. Ba cõi vô thường lưu chuyển không định, hoặc thân, không thân, tuy nay thân nhưng lâu xa cũng hết. Như thế, mười phương chúng sanh luân hồi, quê hương thân thuộc không định thì đâu không phải là quê hương thân thuộc của ta. Người khi sắp chết tâm thức không có, trực thị (đứng tròng), tắt thở, mạng sống dứt, như rơi vào hầm tối. Khi ấy quê hương thân thuộc còn đâu? Nếu khi mới sanh, đời trước không phải thân mà nay gắng gượng hòa hợp làm thân; khi sắp chết người thân trở lại không phải thân. Như một đứa trẻ một ngày chết ba chỗ, cha mẹ ba nơi đều khóc.”
Như thế các thứ chánh quán trừ lo nghĩ quê hương thân thuộc.
- THẾ NÀO TRỪ CÁI NGHĨ CÕI NƯỚC?
- Hành giả nếu nghĩ nước ấy giàu có, vui vẻ, an ổn, nhiều người tốt, thường bị sợi dây đất nước trói buộc. Phải bỏ đi cái nghĩ sai lầm như thế! Nếu người có trí không nên mến trước. Vì sao? Vì bao nhiêu cõi nước do tội lỗi thiêu đốt và thời tiết biến chuyển nên có đói khát khổ nhọc, tất cả cõi nước đều là vô thường không an ổn. Lại nữa, già, bệnh, chết, không nước nào mà chẳng có. Từ chỗ này thân khổ, đến chỗ kia thân cũng khổ, đi khắp tất cả nước không đâu chẳng khổ. Giả sử có nước an ổn, giàu có, vui vẻ mà còn có kiết sử tâm sanh đau khổ thì nước ấy cũng chưa phải tốt. Nếu hay dẹp được những cái xấu xa trong nước làm tiêu mòn kiết sử cho tâm khỏi khổ, ấy là nước tốt. Tất cả chúng sanh có hai thứ khổ: thân khổ và tâm khổ. Do hai thứ khổ này mà thường khổ não. Không có nước nào mà không có hai cái khổ này. Lại có nước rất lạnh, có nước rất nóng, có nước đói khát, có nước nhiều bệnh tật, có nước nhiều giặc cướp, có nước pháp nước bất công v.v… Các nước như thế, tâm chán không nên đắm mến. Đó là chánh quán trừ nghĩ cõi nước.
- THẾ NÀO TRỪ CÁI NGHĨ KHÔNG CHẾT?
- Nên dạy hành giả, hoặc sanh trong nhà khá giả, hoặc con dòng quí phái, người có tài nghệ, thế lực, tất cả đều không nên nghĩ nhớ. Tại sao? Vì khi chết đến không lựa già, trẻ, sang, hèn, tài nghệ, thế lực… Thân này là chỗ tụ hợp của các nhân duyên sầu khổ. Nếu tự thấy mình ít tuổi còn sống lâu, được an ổn, đó là người ngu si. Vì cớ sao? Chỗ nương tựa của sầu khổ là tứ đại, tứ đại gây nên hình thể cũng như bốn con rắn độc, tuy chung mà không hợp thì làm sao được an ổn? Hơi thở ra chưa trở vào là không thể tin được. Khi ngủ chưa ắt có thức, việc ấy cũng khó tin. Từ khi sanh cho đến lúc già, cái chết lúc nào cũng rình rập bên mình, thế mà vì mong sống lâu nói rằng không chết, làm sao tin được? Giặc chết rút đao, nắm tên tìm người giết, không có chút lòng thương xót. Người sanh trên đời cái chết là sức mạnh bậc nhất, tất cả không có cái gì thắng được sức mạnh của cái chết. Người anh hùng bậc nhất của đời quá khứ không thắng được cái chết, bậc đại trí trong đời hiện tại cũng không thắng được cái chết, không thể dùng lời nhỏ nhẹ van xin được nó, không thể dùng lời khéo léo lừa gạt được nó, cũng không thể giữ giới, tinh tấn mà đuổi được nó. Do đó nên biết, mạng người tạm bợ không thể trông cậy. Chớ có tin chắc rằng ta sẽ sống lâu. Bọn giặc chết thường dẫn người đi, không đợi già rồi mới giết. Như A-la-hán dạy đệ tử bị cái nghĩ không chết não hại rằng:
“Ngươi đã biết chán đời vào đạo, sao lại khởi nghĩ như thế? Này! Có người chưa sanh đã chết, có người chết trong khi sanh, có người chết trong lúc còn bú, có người chết sau khi dứt sữa, có người chết lúc còn bé, có người chết trong thời trai tráng, có người chết lúc tuổi già. Trong tất cả thời đều là cảnh của chết. Ví như cây trổ hoa liền rụng hoặc thành trái mới rụng, có khi chưa chín lại rụng. Thế nên, phải gắng sức tinh tấn cầu đạo an ổn, chung ở với bọn giặc dữ không thể tin được, bọn giặc này như cọp khéo giấu hình khó thấy. Giặc chết thường tìm giết người, mọi vật trên thế giới không thật như bọt nước, tại sao đợi già mới lo tu? Ai có thể bảo chứng rằng người già ắt được hành đạo? Ví như cây to đứng dựa vực thẳm, trên bị gió lớn, dưới bị nước xoi bày rễ, ai có thể tin được cây này lâu bền? Mạng người cũng vậy, tuy tuổi nhỏ vẫn khó tin. Cha như hạt giống, mẹ như khoảnh ruộng, nhân duyên tội phước đời trước như mưa sương, con người như cây lúa, chết sống như cắt gặt. Những vị Thiên tử, Nhân vương, trí đức hưởng những thứ vui sướng cao sang, nhưng sau rồi lại rơi vào chỗ tối tăm. Bởi thế nên chớ tin mạng sống mà nói rằng: “ta ngày nay làm việc này, ngày mai cũng làm việc này”.”
Các thứ chánh quán như thế trừ quan niệm không chết.
Trước trừ lo nghĩ thô, sau trừ lo nghĩ tế, tâm thanh tịnh liền được chánh đạo, tất cả kiết sử dứt, từ đây được chỗ an ổn, ấy là quả của người xuất gia. Tâm tự tại, ba nghiệp hoàn toàn thanh tịnh, không phải trở lại thọ sanh, học rộng, đọc nhiều kinh, khi ấy được quả báo tốt. Khi được như vậy, không nhọc công phá quân ma vương mà được khen ngợi là người dũng sĩ bậc nhất, bọn giặc phiền não tự lui; tuy không gọi là mạnh mà hay trừ giặc phiền não, diệt được lửa tam độc, mát mẻ, vui vẻ, trong sạch, gối tay nằm an ổn trong rừng Niết-bàn. Ngọn gió mát Thiền định, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi bốn phía thổi đến, đoái nhìn thương xót chúng sanh đang chìm đắm trong biển tam độc. Cái diệu lực như thế mới gọi là kiện toàn. Thế nên những người tán tâm phải niệm A-na-ban-na, học sáu pháp đoạn các thứ lo nghĩ. Do đó trước phải học Sổ tức.
- Nếu trong bốn pháp - quán bất tịnh, niệm Phật v.v… - cũng trừ được lo nghĩ, vì sao chỉ nói riêng Sổ tức?
- Vì các pháp quán kia chậm rãi nên khó mất, pháp Sổ tức mau chóng nên dễ chuyển. Ví như người thả trâu, do trâu khó mất nên sự coi giữ lơ là, nếu thả vượn khỉ, do khỉ dễ mất nên sự coi giữ khít khao. Pháp này cũng như thế. Sổ tức chăm chú tâm và số không được một chốc nghĩ việc khác, nếu có một chốc nghĩ việc khác là số đã lộn mất. Bởi thế nên, lúc ban đầu muốn đoạn sự lo nghĩ phải Sổ tức.
Được pháp Sổ tức rồi phải thực hành pháp Tùy tức để đoạn các lo nghĩ.
2) TÙY TỨC.- Hít hơi vô tới cùng, tâm chỉ duyên theo không đếm một, thở hơi ra đến cùng, tâm duyên theo chớ đếm hai. Ví như người thiếu nợ, chủ nợ đến đòi theo mãi bên lưng không rời. Như thế, suy xét hơi thở vào, trở ra có khác, hơi thở ra, trở vào có khác. Khi ấy biết hơi thở vào khác hơi thở ra. Vì hơi thở ra ấm, hơi thở vào lạnh.
- Hơi thở vào, ra chỉ là một. Vì sao? Vì ra rồi trở lại vào. Ví như nước ngậm vào miệng thì ấm, nhổ ra thì lạnh, lạnh trở ra ấm, ấm trở lại lạnh cũng chỉ là một.
- Không phải như vậy. Do nội tâm động nên có thở ra, ra rồi liền mất, mũi và miệng hít bên ngoài thì có hơi thở vào, vào rồi diệt, cũng không có sắp ra, không có sắp vào. Nơi rún phát ra hơi thở hình như liên tục, thở ra đến mũi và miệng, ra rồi liền diệt. Ví như hơi trong quả bóng khi mở dây cột ra liền xẹp, nếu dùng nhân duyên mũi, miệng thổi hơi thở vào, ấy là nhân duyên mới mà sanh. Ví như cái quạt, do các duyên hợp lại nên có gió. Khi ấy, biết do nhân duyên nên có hơi thở ra vào, nó hư dối không thật, sanh diệt vô thường.
Suy xét do nhân duyên mũi miệng hít có hơi thở vào, do nhân duyên tâm động có hơi thở ra, mà mê lầm không biết, chấp là hơi thở của ta. Hơi thở là gió, cùng với gió bên ngoài không khác. Đất, nước, lửa, không, cũng như thế. Bởi nhân duyên ngũ đại hợp nên có thức sanh. Thức cũng như vậy, không phải là của ta. Ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới cũng như thế. Biết như vậy, theo hơi thở ra vào gọi là Tùy tức.Đã được pháp Tùy tức phải thực hành pháp Chỉ.
3) PHÁP CHỈ.- Sổ, Tùy tâm rất an trụ, ý dừng bên cửa hơi thở để xem nó ra vào. Vì sao phải Chỉ? Vì dứt các lo nghĩ, dừng tâm tán động. Khi Sổ tức, Tùy tức tâm không định vì rất nhiều việc. Chỉ thì tâm nhàn rỗi ít việc, tâm trụ một chỗ xem hơi thở ra vào. Ví như người gác cửa đứng bên cửa xem người ra vào. Tâm Chỉ cũng như vậy, biết hơi thở khi ra từ rún đến hông, ngực, cổ, miệng, mũi, khi vào từ miệng, mũi đến cổ, ngực, hông, rún. Như vậy, buộc tâm một chỗ gọi là Chỉ.
4) PHÁP QUÁN.- Trong pháp Chỉ, tâm dừng lại để quan sát, khi hơi thở vào ngũ ấm sanh diệt khác, khi hơi thở ra ngũ ấm sanh diệt khác. Như thế, trừ dẹp loạn tâm, nhất tâm suy xét cho pháp quán được tăng trưởng gọi là Quán.
5) PHÁP HOÀN.- Bỏ chỗ đứng bên cửa, rời pháp quán thô. Rời pháp quán thô là nhận biết hơi thở vô thường, ấy gọi là chuyển quán. Quán ngũ ấm vô thường cũng niệm sự vô thường ra, vào, sanh, diệt của hơi thở. Thấy hơi thở vào không từ đâu đến, xem hơi thở ra không biết về đâu; do nhân duyên hòa hợp nên có, nhân duyên ly tán nên không, đó là chuyển quán.
6) PHÁP TỊNH.- Trừ diệt ngũ cái và các phiền não, tuy trước được Chỉ, Quán mà phiền não chưa sạch, tâm còn tạp loạn, nay pháp Tịnh là tâm được thanh tịnh. Pháp quán trước là dị học, tương tợ hành đạo niệm hơi thở ra vào, nay là vô lậu đạo, tương tợ hành thiện hữu lậu đạo, nên gọi Thanh tịnh.
Pháp quán trước là một phần thân niệm Chỉ, dần dần toàn thân niệm Chỉ, kế thọ và tâm niệm Chỉ, trong đó chưa phải thanh tịnh còn xa đạo vô lậu. Ở đây, trong pháp niệm Chỉ, quán mười sáu phần niệm hơi thở ra vào, được pháp noãn, đảnh, nhẫn, thế đệ nhất, khổ pháp nhẫn cho đến vô học tận trí nên gọi là thanh tịnh.
TRONG MƯỜI SÁU PHẦN LÀ:
Phần hơi thở vào có sáu hạnh A-na-ban-na.
Phần hơi thở ra cũng có sáu hạnh A-na-ban-na.
Hơi thở dài, ngắn.- Nhất tâm niệm hơi thở vào, ra hoặc dài, hoặc ngắn. Ví như người có việc kinh sợ, mang đồ nặng leo núi thì hơi thở lên, là hơi thở ngắn. Như người khi làm nhọc được nghỉ thì vui vẻ và như người bị giam trong khám được thả ra, thế đều là hơi thở dài. Tất cả hơi thở đều nằm hai nơi dài, ngắn, thế nên nói hơi thở dài, ngắn. Trong phần hơi thở dài, ngắn cũng niệm sáu hạnh A-na-ban-na.
Hơi thở khắp thân.- Tưởng hơi thở khắp thân cũng nương hơi thở vào, ra. Phải quán hơi thở vào, hơi thở ra khắp các lỗ chân lông trong thân cho đến ngón tay, ngón chân đều thở, ví như nước đổ xuống cát. Hơi thở ra cảm biết từ chân đến tóc đều thở ra, như nước đổ xuống cát. Như quả bóng hơi vô, hoặc ra đều khắp, mũi miệng hít hơi vào cũng như thế.
Trừ các thân hành.- Quán hơi thở khắp thân không ngại, như cọng sen dẫn nước, như lưới đánh cá. Lại không riêng mũi, miệng quán hơi thở ra vào mà tất cả lỗ chân lông và trong chín lỗ (hai lỗ tai, hai lỗ mũi, hai mắt, miệng, tiểu, đại) cũng thấy hơi thở ra vào. Thế nên, biết hơi thở khắp thân trừ các thân hành cũng niệm hơi thở ra vào.
Tâm thọ Hỉ.- Người mới học quán hơi thở, nếu thân nặng nề lười biếng ưa ngủ phải dẹp bỏ đi. Dùng pháp quán hơi thở ra vào thân nhẹ nhàng hòa dịu, được thiền định tâm thọ hỉ và trừ tâm nặng nề lười biếng ưa ngủ, được tâm nhẹ nhàng hòa dịu tùy thiền định tâm thọ hỉ. Hơi thở vào thân niệm Chỉ xong, hơi thở lưu hành thọ niệm Chỉ rồi, là được thân niệm Chỉ. Thật nay lại được thọ niệm Chỉ thật thọ Hỉ.
Tâm thọ Lạc.- Đã biết thật tướng của thân, muốn biết tướng của tâm và tâm số. Thế nên thọ hỉ niệm hơi thở ra vào, thọ lạc cũng niệm hơi thở ra vào, vì cái hỉ được tăng trưởng gọi là lạc. Tâm mới sanh mừng gọi là hỉ, toàn thân đều mừng là lạc. Lại nữa, cái thọ lạc của Sơ thiền, Nhị thiền gọi là Hỉ, cái thọ lạc của Tam thiền gọi là Lạc.
Thọ các tâm hành.- Thọ các tâm hành cũng niệm hơi thở ra vào. Các tâm pháp sanh diệt, tâm nhiễm, tâm không nhiễm, tâm tán loạn, tâm thu nhiếp, tâm chánh, tâm tà, các tâm tướng như thế gọi là tâm hành.
Tâm khởi mừng.- Tâm khởi mừng cũng niệm hơi thở ra vào. Cái thọ hỉ trước là tự sanh không phải do cố tâm phát khởi. Cái này là cố tâm khởi mừng. Vì sao cố tâm khởi mừng? Vì muốn trị hai thứ tâm - tán động và thu nhiếp - nên khởi tâm mới được ra khỏi phiền não. Thế nên niệm pháp cho tâm khởi mừng. Nếu tâm không mừng gắng kích động cho nó mừng.
Tâm khởi nhiếp.- Tâm khởi nhiếp cũng niệm hơi thở ra vào. Nếu tâm không định gắng nhiếp phục cho nó định. Như trong kinh nói “tâm định là đạo, tâm tán loạn không phải đạo”.
Tâm khởi giải thoát.- Tâm khởi giải thoát cũng niệm hơi thở ra vào. Nếu ý không giải thoát gắng huân tập cho nó giải thoát. Ví như con dê vào lùm cỏ gai bị gai móc, người vì nó gỡ lần lần, tâm khởi giải thoát các phiền não cột trói cũng như thế. Ấy gọi là tâm niệm Chỉ khởi giải thoát.
Quán vô thường.- Quán vô thường cũng niệm hơi thở ra vào. Quán sự sanh diệt vô thường của các pháp rỗng không, không có người và ta. Khi sanh các pháp giả sanh, khi diệt các pháp tạm diệt. Trong ấy không thật có nam nữ, người, kẻ tạo, người thọ… ấy gọi là pháp quán Tùy vô thường.
Quán tan hoại.- Quán pháp hữu vi tan hoại cũng niệm hơi thở ra vào. Các pháp hữu vi có trong hiện tại là do nhân duyên của quá khứ, nhân duyên hòa hợp thì tụ, nhân duyên tan hoại thì tán. Tùy quán như thế gọi là quán tan hoại.
Quán ly dục.- Quán ly dục cũng niệm hơi thở ra vào. Tâm rời các thứ ràng buộc của tham dục, đó là pháp đệ nhất. Quán như thế gọi là Tùy quán ly dục.
Quán diệt tận.- Quán diệt tận cũng niệm hơi thở ra vào. Các khổ kiết sử nơi nơi đều dứt, chỗ này được an ổn, ấy là Tùy quán diệt tận.
Quán buông bỏ.- Quán buông bỏ cũng niệm hơi thở ra vào. Các thứ nhiễm ái, phiền não, thân, tâm, ngũ ấm, các pháp hữu vi đều buông bỏ, chỗ này là an ổn bậc nhất. Quán như thế gọi là Tùy quán buông bỏ.
PHẦN 2: TỌA THIỀN TAM MUỘI - TÙY BỆNH ĐỐI TRỊ - PHÁP MÔN TRỊ ĐẲNG PHẦN
Phần thứ năm này là pháp môn trị bệnh đẳng phần và người phạm tội trọng mong cầu làm Phật. Những người như thế phải dạy họ nhất tâm niệm Phật tam-muội.
1. Quán tượng Phật.- Nếu người mới tập hành nên dẫn đến trước tượng Phật, hoặc dạy họ tự đến trước tượng Phật xem cho kỹ những tướng tốt, mỗi tướng rõ ràng, nhất tâm nhớ giữ trở về chỗ yên tịnh, tâm nhãn quán tượng Phật không cho ý chuyển động, buộc niệm tại tượng Phật không nghĩ gì khác, có nghĩ phải thu nhiếp về tượng Phật. Nếu hành giả tâm không trụ, thầy phải dạy rằng:
“Ông phải tự trách tâm: Do người mà ta mang tội không thể tính kể, chết sống không cùng bao nhiêu sự khổ não đều trải qua. Hoặc ở địa ngục uống nước đồng sôi, nuốt hoàn sắt nóng; hoặc trong súc sanh ăn cỏ, phẩn, đồ nhơ nhớp; hoặc sanh ngạ quỉ chịu khổ đói khát; hoặc được làm người nghèo cùng nguy khốn; hoặc sanh lên cõi trời mất ngũ dục sầu khổ. Bởi theo ngươi, ta chịu bao nhiêu sự đau đớn nơi thân tâm và vô lượng khổ não. Nay quyết kềm ngươi, ngươi phải theo ta, ta buộc ngươi một chỗ. Ta quyết định không bị ngươi làm khổ, mà trở lại chịu mọi sự khổ độc. Xưa ngươi làm khổ ta, nay ta phải làm khổ lại ngươi.”
Quở trách như vậy mãi thì tâm không tán loạn. Khi ấy liền được tâm nhãn thấy tượng Phật sáng suốt, như hiện mắt thấy không khác. Như thế tâm được trụ, ấy gọi là hành giả mới tập tư duy.
2. Quán sanh thân Phật.- Người đang tập hành, sau khi quán tượng Phật thành công, lại phải nghĩ rằng: Tướng tượng này là ai? Là tướng tượng Phật Thích-ca Mâu-ni thời quá khứ. Như ta nay thấy hình tượng Phật, tượng không lại, ta cũng không đến. Tâm tưởng như thế liền thấy đức Phật thời quá khứ, khi mới giáng thần rung động trời đất, có ba mươi hai tướng đại nhân.
Lòng bàn chân bằng phẳng.
Dưới bàn chân có một ngàn khu ốc.
Ngón chân dài.
Gót chân rộng.
Kẽ ngón tay, kẽ chân đều có màng lưới mỏng.
Mu bàn chân cao, bằng, đẹp.
Đùi tròn vót như đùi nai quí.
Đứng thẳng hai tay quá gối.
Tướng mã âm tàng.
Thân tròn thẳng như cây ni-câu-lô-đà.
Mỗi lỗ chân lông đều có một sợi lông.
Lông hướng lên và xoay bên phải.
Sắc thân hơn vàng ròng.
Hào quang tỏa chung quanh thân một trượng.
Da mỏng đẹp.
Bảy chỗ no đầy.
Dưới hai nách bằng đẹp.
Phần trên của thân như hình sư tử.
Thân rất đẹp ngay thẳng.
Vai tròn đẹp.
Bốn mươi cái răng.
Răng trắng, bằng khít và chân sâu.
Bốn răng cửa trắng và lớn.
Má vuông như má sư tử.
Trong cổ có vị rất ngọt.
Lưỡi lớn, rộng, dài và mỏng.
Giọng trong, ấm, nghe rất xa.
Tiếng thanh như tiếng chim ca-lăng-tần-già.
Con mắt trong xanh.
Lông mi cứng xanh như lông mi trâu quí.
Trên đảnh có nhục kế.
Giữa chặng mày có lông trắng đẹp xoay bên phải.
Lại có tám mươi tướng đẹp:
Vô kiến đảnh.
Mũi cao, thẳng, đẹp, lỗ mũi không bày ra.
Chân mày như trăng lưỡi liềm, xanh như sắc lưu-ly.
Lỗ tai đẹp.
Thân dẻo chắc như Na-la-diên.
Xương mắc nhau như dây xích.
Thân khi xoay như tượng vương.
Khi đi chân cách đất bốn tấc mà vẫn có dấu.
Móng tay như sắc đồng đỏ, mỏng và bóng.
Đầu gối tròn đẹp.
Thân thanh tịnh.
Thân mềm dịu.
Thân không cong.
Ngón tay dài, tròn, vót.
Những nét nhăn của bàn tay đẹp như bức họa nhiều màu.
Mạch sâu không bày.
Mắt cá chân sâu không lồi.
Thân bóng láng.
Thân tự giữ không xiêu vẹo.
Thân đầy đủ.
Dung nghi đầy đủ.
Khi đứng vững vàng.
Uy dũng khắp cả.
Tất cả thích xem.
Mặt không dài.
Dung mạo một mực không có sắc xen tạp.
Môi đỏ như quả tần-bà.
Mặt tròn đầy.
Giọng nói hùng hậu.
Rún tròn sâu.
Lông mọi chỗ đều xoay bên phải.
Tay, chân đều no tròn.
Tay, chân được như ý.
Những nét nhăn của tay và chân đều sáng và thẳng.
Chỉ tay dài.
Chỉ tay liên tục.
Tất cả chúng sanh có ác tâm trông thấy đều lộ vẻ hòa vui.
Mặt rộng, đặc biệt.
Mặt tròn đầy như trăng rằm.
Chúng sanh thấy không kinh sợ.
Lỗ chân lông bay mùi thơm.
Miệng bay mùi thơm.
Dung nghi như sư tử.
Tiến hay dừng như tượng vương.
Pháp đi như ngỗng chúa.
Đầu không tròn không dài giống trái ma-đà-la.
Phần của tiếng đầy đủ (tiếng có 60 thứ, Phật đầy đủ).
Răng trắng bén.
Lông mềm và sạch.
Lưỡi lớn và đỏ.
Lưỡi mỏng.
Lông toàn màu hồng.
Con mắt rộng dài.
Các lỗ đầy đủ.
Tay, chân đỏ, trắng như sắc hoa sen.
Bụng không bày ra.
Bụng không lồi lên.
Thân không động.
Thân nặng.
Thân lớn.
Thân cao.
Tay chân mềm bóng láng.
Khi đi chung quanh hào quang sáng ra một trượng.
Bình đẳng xem chúng sanh.
Không vì sự giáo hóa, không ham đệ tử.
Tùy thuận tiếng của chúng sanh không kém thiếu.
Tùy tiếng nói của chúng sanh vì thuyết pháp.
Ngôn ngữ không ngăn ngại.
Phát ra lời thích hợp chúng sanh.
Thuyết pháp thứ tự liên tục.
Tất cả chúng sanh mắt nhìn kỹ cũng không thể biết hết tướng tốt.
Xem không biết nhàm.
Tóc dài đẹp.
Tóc xoăn đẹp.
Tóc không rối.
Tóc không trổ.
Tóc mềm mại.
Tóc xanh như sắc lưu-ly.
Tóc không ít.
Ngực có chữ Vạn, tay chân có chữ Kết.
Hào quang của Phật sáng suốt chiếu soi vô lượng thế giới, từ khi mới sanh bước đi bảy bước thốt ra một câu quan trọng. Khi Ngài xuất gia siêng năng khổ hạnh, ngồi dưới cội bồ-đề hàng phục ma quân, đến gần sáng thành bậc Đẳng Chánh Giác, tướng sáng khắp soi cả mười phương, chư Thiên trên không đàn ca, tán hoa, mưa hương cúng dường, tất cả chúng sanh đều cung kính không cùng. Ngài riêng đi trong tam giới chuyển mình nhìn lại như tượng vương xoay, xem xét cây Đạo, lần chuyển bánh xe pháp ban đầu, trời người đều ngộ, lấy đạo tự chứng tiến đến Niết-bàn. Thân Phật như thế cảm phát vô lượng. Chuyên tâm niệm Phật không nghĩ gì khác, có nghĩ khác liền thu nhiếp trở về. Như thế, tâm không loạn động. Khi ấy, được thấy sắc thân một đức Phật, hai đức Phật cho đến vô lượng thế giới chư Phật ở mười phương. Do tâm tưởng nên được thấy Phật.
3. Quán pháp thân Phật.- Người tập hành đã lâu, đã thấy Phật cần được nghe thuyết pháp, hoặc tự thưa hỏi. Phật vì thuyết pháp, giải quyết các nghi vấn. Đã được Phật nghĩ tưởng, lại phải tưởng nghĩ công đức pháp thân của Phật. Tuệ không lường sâu thẳm, trí rộng không bờ mé, công đức không thể tính kể: Như chư Phật đến, đáng cho nhân thiên cúng dường, khắp biết tất cả, đầy đủ tam minh, khéo vượt qua, thấu hiểu tất cả thế gian, bậc vô thượng, Đại trượng phu điều phục tất cả, thầy cả trời người, đấng hoàn toàn giác ngộ.
Khi ấy lại niệm thần đức của hai đức Phật, ba, bốn, năm cho đến vô lượng cùng tận cả hư không chư Phật. Trở lại thấy một đức Phật, hay thấy một đức Phật hóa mười phương chư Phật, mười phương chư Phật hiện thành một đức Phật. Hay thấy một sắc biến thành các sắc - vàng, bạc, thủy tinh, lưu-ly… - tùy ý người thích thảy được thấy.
Bấy giờ Chỉ, Quán hai việc, thân Phật trong hư không và công đức của Phật, không cho nghĩ gì khác. Tâm được tự tại, ý không lăng xăng, đó là thành tựu niệm Phật tam-muội. Hành giả nếu tâm chạy theo ngũ trần, hoặc nhớ sáu việc lo nghĩ thì phải cố gắng kềm hãm điều phục nó. Phải suy nghĩ thế này:
“Thân người khó được, Phật pháp khó gặp, cho nên nói: Các thứ sáng mặt trời là bậc nhất, các bậc trí tuệ Phật là bậc nhất. Vì sao? Phật thường vì tất cả khởi lòng đại bi, hi sinh đầu, mắt, tủy, não để cứu chúng sanh. Tại sao ta lại phóng tâm không chuyên niệm Phật mà cô phụ ơn nặng của Ngài? Nếu Phật không ra đời thì ai mở lối đến cõi người, cõi trời và Niết-bàn? Nếu có người đem hương hoa cúng dường, hoặc lấy xương, thịt, máu, tủy xây tháp cúng dường, cũng không bằng người tu hành dùng chánh pháp cúng dường được đến Niết-bàn. Tuy nhiên, người cô phụ ân Phật dù có niệm Phật cũng không được gì. Bởi vậy, ta phải chuyên tâm niệm Phật không quên để báo ân Phật. Huống nữa, niệm Phật sẽ được các thứ tam-muội, trí tuệ và thành Phật mà không chuyên tâm niệm Phật sao?”
Thế nên, hành giả thường phải chuyên tâm giữ ý không cho tán loạn. Đã được thấy Phật, thưa hỏi giải nghi, ấy gọi là “niệm Phật tam-muội trừ diệt đẳng phần và các tội trọng”.