THIỀN CĂN BẢN (DỊCH 1993/1999)
LỜI NÓI ĐẦU
Tập sách này do chúng tôi góp ba quyển Tọa Thiền Tam-muội của Samgharakasa, Pháp Yếu Tu Tập Tọa Thiền Chỉ Quán và Lục Diệu Pháp Môn của Đại sư Trí Khải in chung lại và để tên là THIỀN CĂN BẢN.
Nói Thiền Căn Bản, quí độc giả đã nhận được ngay đây là phương pháp tu thiền có thứ lớp vững chắc. Phương pháp tu đây căn cứ trong các kinh Phật dạy theo thứ tự từ thấp đến cao. Bất cứ hạng người nào cũng tu được, nếu cố gắng và bền chí.
Kính mong quí độc giả tu Thiền thành công.
Thiền viện Thường Chiếu
Giữa mùa Đông 1998
THÍCH THANH TỪ
PHẦN 1: PHÁP YẾU TU TẬP TỌA THIỀN CHỈ QUÁN:
NGUYÊN DO PHÁP CHỈ QUÁN
Tương truyền rằng:
Đại sư Trí Khải có người anh tên Trần Châm làm Tham tướng trong quân đội. Trần Châm được bốn mươi tuổi, một hôm đi đường gặp vị tiên tên Trương Quả Lão. Lão thấy tướng ông liền kêu lại bảo: “Ta xem tướng ông dương thọ đã hết, chỉ trong một tháng thì chết.” Trần Châm nghe qua kinh hãi, đến hỏi kế với Đại sư, Đại sư bảo: “Anh nghe theo tôi dạy tu trì, chắc chắn sẽ qua khỏi.” Trần Châm hứa vâng theo. Ngài bèn thuật pháp Tiểu Chỉ Quán đơn giản yếu lược này, bảo dụng công tu tập. Trần Châm y theo phương pháp tha thiết tu trì.
Hơn một năm, Châm gặp lại Trương Quả Lão, Lão thấy kinh ngạc, hỏi: “Ông không chết, có phải tại uống thuốc trường sanh chăng?” Châm đáp: “Không phải. Do em tôi là Trí Khải dạy tôi tu tập Chỉ, Quán tọa thiền nên được như vầy.” Lão khen: “Phật pháp không thể nghĩ bàn, hay phản tử hoàn sanh, thật là hi hữu!”
Mấy năm sau, Trần Châm mộng thấy đến Thiên cung. Trong ấy có đề: “Nhà của Trần Châm, mười lăm năm sau sẽ sanh lên đây.” Đúng mười lăm năm sau, Trần Châm từ biệt quyến thuộc, ngồi kiết-già yên ổn mà tịch.
PHẦN 1: PHÁP YẾU TU TẬP TỌA THIỀN CHỈ QUÁN - TIỂU SỬ TÁC GIẢ
ĐẠI SƯ TRÍ KHẢI (538-597)
Ngài Sa-môn Đại sư Trí Khải ở chùa Tu Thiền núi Thiên Thai thuật:
Đại sư Trí Khải sanh thời Ngũ Đại vào đời Trần và đời Tùy năm Đại Đồng thứ 4 (538), đời nhà Lương. Ngài tên Trần Đức An, pháp danh Trí Khải, người ở gần sông Dĩnh tỉnh Hồ Bắc. Thân phụ là Trần Khởi Tổ, đời vua Nguyên Đế nhà Lương được phong Ích Dương Hầu. Thân mẫu Ngài là họ Từ.
Vừa lọt lòng mẹ, Ngài có cặp lông mày hiện tám sắc, đôi mắt sáng lóng lánh. Cha mẹ yêu quí Ngài như châu ngọc. Còn nằm trong nôi mà Ngài đã biết chắp tay, khi ngồi thì xây mặt về hướng Tây. Lên bảy tuổi, Ngài theo mẹ đi viếng chùa, được thầy Trụ trì dạy tụng phẩm Phổ Môn, chỉ dạy qua một lượt, Ngài đọc thuộc làu. Đến mười bảy tuổi Ngài phát tâm xuất gia, nhưng xin cha mẹ không cho. Một hôm, Ngài nằm mộng thấy đến dưới một hòn núi cao, chân núi nằm tận bể cả, trên đảnh có vị Sư vẫy tay gọi Ngài, rồi duỗi tay xuống tận chân núi kéo Ngài lên một ngôi chùa. Vị Tăng bảo: “Ông sau sẽ ở nơi này và cũng tịch tại đây. Hòn núi này tên Thiên Thai.”
Được mười tám tuổi, cha mẹ lần lượt qua đời, Ngài liền từ biệt anh là Trần Châm đi xuất gia. Ngài xuất gia với người cậu họ, hiệu Pháp Chữ ở chùa Quả Nguyện, xứ Hành Châu. Đến hai mươi tuổi, Ngài thọ giới Cụ túc và chuyên học giới luật. Những giới phẩm vi tế nào: khai, giá, trì, phạm, Ngài đều thấu suốt. Ngài cũng thông cả kinh điển Đại thừa Phương đẳng. Về sau, Ngài tụng kinh Pháp Hoa, kinh Vô Lượng Nghĩa, kinh Phổ Hiền Quán, chỉ trải qua hai mươi ngày thông cả ba bộ. Tiến lên, Ngài trì Phương đẳng thắng tướng được hiện tiền. Một đêm, Ngài nằm mộng thấy kinh điển ngổn ngang đầy cả thất, biết thân hiện ngồi trên tòa cao, chân đạp trên giường dây, miệng tụng kinh Pháp Hoa, tay sắp đặt lại kinh điển.
Sau nghe Tổ Nam Nhạc (Huệ Tư) ở tại núi Đại Tô xứ Quảng Châu, Ngài liền đến lễ bái xin thọ giáo. Tổ bảo: “Ông xưa cùng ta đồng dự hội Linh Sơn nghe kinh Pháp Hoa, duyên xưa đeo đuổi, nay lại gặp đây.” Tổ dạy Ngài tụng kinh Pháp Hoa, Ngài tinh tấn trì tụng không phút nào biếng trễ, tâm không khởi vọng niệm. Ngài chuyên tụng kinh Pháp Hoa trải qua mười bốn ngày, đến câu: “thị chân tinh tấn, thị danh chân pháp cúng dường Như Lai”, trong phẩm Dược Vương Bồ-tát Bổn Sự, thoạt nhiên nhập định. Trong định, Ngài thấy Phật thuyết pháp tại hội Linh Sơn chưa tan. Xuất định, Ngài đem chỗ sở đắc ấy thuật lại cho Tổ nghe. Tổ Nam Nhạc khen: “Duy ông chứng được, chỉ ta mới biết!” Về sau, Tổ lại bảo Ngài gia công tinh tấn. Ngài gia công dụng hạnh, tinh tấn trong bốn đêm vượt hơn công phu tu cả trăm năm. Khi ấy, Tổ Nam Nhạc bảo: “Chỗ sở đắc của ông mới là tiền phương tiện Pháp Hoa tam-muội, chỗ phát trì mới được Sơ triền đà-la-ni. Ông được bốn món biện tài, dù có muôn ngàn nhà luận lý đến biện luận cùng ông cũng không thắng được, trong số người thuyết pháp, ông là bậc nhất.”
Ngài y chỉ với Tổ Nam Nhạc độ bảy năm, Tổ khai đàn giảng kinh Bát-nhã, bảo Ngài thay Tổ giảng giải. Ngài vâng lời lên tòa giảng giải. Tổ nghe qua khen ngợi khôn cùng! Tổ kêu Ngài bảo: “Ta tuổi đã già, lâu nay hâm mộ núi Nam Nhạc, sẽ đến đó tu trì, ông ở lại hoằng dương đại pháp chớ khiến đoạn giống Phật pháp nơi người.” Vâng lời dạy, không được theo lên núi Nam Nhạc, Ngài bèn hợp với các ông Mao Hỉ v.v... hai mươi bảy người đến Kim Lăng. Lúc đầu chưa ai biết Ngài nên không có người thỉnh pháp. Khi ấy có vị Tăng hiệu Pháp Tế, tự khoe Thiền học, gặp Ngài đến, nằm dựa ghế hỏi: “Có người ở trong định nghe đất núi rúng động, biết có vị Tăng quán lý vô thường, ấy là định gì?” Ngài đáp: “Là biên định chưa sâu, là tà chứng ám nhập. Nếu chấp, nếu nói thì định ấy chắc chắn phải mất.” Pháp Tế nghe nói kinh hãi đứng dậy thưa: “Tôi thường được cái định này, vì nói cho người nghe nên đã mất.” Từ đây, tiếng tăm Ngài đồn khắp, vua quan, cho đến dân dã đều rần rộ tìm đến cầu pháp qui y.
Ngài đã ba mươi tám tuổi, một hôm gọi đại chúng đến bảo rằng: “Ta lần đầu lên tòa giảng kinh, thính giả tuy ít mà người hiểu đạo nhiều; hội thứ hai giảng kinh thính giả ba bốn trăm mà người hiểu đạo lại ít; hội thứ ba giảng kinh thính giả mấy ngàn người mà người hiểu đạo lại càng ít. Như vậy đủ thấy Phật pháp không phải dễ đạt. Hoằng pháp như vầy, e không được lợi mấy cho đời, ta sắp lên núi Thiên Thai ẩn tu.”
Đến núi Thiên Thai, Ngài thấy có vị sư ở trong am Định Quang, mường tượng đã quen. Vị sư hỏi: “Ông nhận được ta chăng?” Ngài sực nhớ, đó là vị Sư đã gặp trong mộng khi trước. Vị Sư bảo: “Chỗ này là kim địa, chỗ của ta ở; phía Bắc là ngân địa, chỗ của ông ở.” Ngài bèn đến phía Bắc sáng lập ngôi già-lam. Đêm ấy tự nhiên tiếng chuông trống vang rền, điềm chứng tỏ nơi đây thích hợp với Ngài. Phía Bắc ngôi già-lam có một chót riêng tên Hoa Đảnh, Ngài đến đó ngồi tu. Đến quá nửa đêm chợt có tiếng sấm nổ, mưa gió ào đến, bọn yêu ma quỉ mị hiện ra nhiều hình dáng dễ sợ, nhưng Ngài vẫn yên tâm lắng lặng, các loài ma túng thế rút lui. Sau chúng lại hiện hình cha mẹ, anh em đến nhiễu loạn Ngài, Ngài chỉ thầm niệm thật tướng, rõ suốt các pháp như huyễn hóa vốn không thể thấy. Liền đó, có vị Thần tăng đến bảo: “Chế ngự được địch, thắng các ma oán, mới đáng gọi là dũng.” Ở đây, Ngài thường cổ động việc phóng sanh.
Sau Ngài đến núi Ngọc Tuyền đất Kinh Châu kiến lập ngôi đạo tràng, đây là chỗ Ngài hoằng truyền giáo pháp cũng như tông Thiên Thai. Về sau Ngài biên soạn bộ Ma-ha Chỉ Quán, Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Pháp Hoa Văn Cú... đều tại đây.
Ngài thọ sáu mươi tuổi.
Đây là nguyên do Đại sư Trí Khải thuật bộ Chỉ Quán này.
PHẦN 1: PHÁP YẾU TU TẬP TỌA THIỀN CHỈ QUÁN - PHẦN DUYÊN KHỞI
Chớ làm các việc ác,
Tuân hành các điều lành,
Tự lóng tâm ý mình,
Đây lời chư Phật dạy.
Nói về pháp Niết-bàn, nhập ắt có nhiều lối. Lối cần thiết nhanh chóng nhất, không ngoài Chỉ và Quán. Sở dĩ như thế, vì Chỉ là cửa đầu để dẹp kiết sử,
Kết (tiếng Phạn: saṃyojana, tiếng Nam Phạn: saṃyojana, saññojana, Hán tự: 結), còn gọi là kiết sử, là một thuật ngữ trong Phật giáo chỉ những phiền não trong nội tâm ý thức của con người, sinh ra những chướng ngại khiến cho con người sa vào vòng luân hồi không thể giải thoát. Theo quan điểm Phật giáo, cần phải tiêu trừ những kiết sử này, con người mới có thể nhập Niết-bàn.
(Giữa các kinh điển Phật giáo có những khác biệt về phân loại và số lượng các kiết sử, theo đó có thể phân ra thành nhị kết, tam kết, tứ kết, ngũ kết, cửu kết và thập kết.
Mười kiết sử là:
–Trạo cử vi tế (uddhacca),
– Thân kiến (sakkàya-ditthi),
– Giới cấm thủ (silabata-paràmàsa)
– Tham đắm vào cõi dục (kàma-ràga)
– Tham đắm vào cõi sắc (rùpa-ràga),
– Tham đắm vào cõi vô sắc (arùpa-ràga),
– Sân hận (vyàpàda),
– Si vi tế (avijjà).
– Mạn (màna),
– Hoài nghi (vicikicchà),
–trạo cử vi tế (uddhacca),)
Quán là con đường chánh yếu để đoạn hoặc
(Hoặc là mê mờ. Do mê cảnh mà điên đảo sự lý nên gọi là hoặc. Do mê lầm đối với cảnh được nhận biết mà sinh phiền não, nên gọi là lậu hoặc. )
Chỉ là phương pháp hay nuôi lớn tâm thức, Quán là diệu thuật dẫn khởi thần giải. Chỉ là thắng nhân của thiền định, Quán là chỗ nương tựa của trí tuệ. Nếu người thành tựu hai pháp Định và Tuệ, ấy là pháp tự lợi, lợi tha đầy đủ. Cho nên kinh Pháp Hoa chép: “Phật ở trong Đại thừa, như pháp mình đã chứng, sức định tuệ trang nghiêm, lấy đó độ chúng sanh.” Phải biết hai pháp này như xe hai bánh, như chim hai cánh, nếu tu tập chênh lệch liền rơi vào tà đạo. Kinh chép: “Nếu thiên tu thiền định phước đức, không học trí tuệ, gọi đó là ngu; thiên học trí tuệ, không tu thiền định phước đức, gọi đó là cuồng.” Lỗi cuồng, ngu tuy có chút ít khác, nhưng về tà kiến luân chuyển đâu có sai biệt. Nếu tu không đồng đều, tức là hành không trọn vẹn, thì làm sao chóng lên cực quả. Kinh lại chép: “Người Thanh văn vì định lực nhiều không thấy Phật tánh. Hàng Thập trụ Bồ-tát trí tuệ lực nhiều, tuy thấy Phật tánh mà không rõ ràng. Chư Phật Như Lai định tuệ lực đồng, nên thấy Phật tánh rõ ràng.” Lấy đây mà xét, Chỉ Quán đâu không phải cửa thẳng tắt đến đại quả Niết-bàn; là con đường tốt để người tu hành tiến bước, là chỗ chung hội của muôn ngàn công đức; là chánh thể của cực quả vô thượng.
Nếu biết như thế, pháp môn Chỉ, Quán thật chẳng phải tầm thường. Muốn tiếp dẫn những kẻ sơ cơ, phá mê mờ mà tiến đạo, phải nương Chỉ, Quán hướng dẫn. Nhưng nói thì dễ mà thực hành rất khó, nên không thiết bàn nhiều về lý cao sâu. Nay lược trình bày mười ý, để chỉ lối cho kẻ sơ tâm hành đạo biết hướng tiến lên nấc thang chánh đạo, đi vào ngôi nhà Niết-bàn. Hành giả nên tự thẹn thực hành khó được, chớ chê văn này thiển cận. Nếu ý nghĩ, lời nói hợp nhau, chỉ trong chớp mắt trí đức, đoạn đức khó lường, thần giải khôn xiết. Nếu chỉ chấp suông trên văn ngôn, khẩu ý trái nhau, ngày tháng qua mất, biết nương đâu được đạo. Như kẻ nghèo đếm của báu cho người, rốt cuộc nơi mình nào có ích gì!
MƯỜI Ý:
1. Cụ duyên
2. Trách dục
3. Xả cái
4. Điều hòa
5. Phương tiện
6. Chánh tu
7. Thiện phát
8. Trị ma
9. Trị bệnh
10. Chứng quả
Trình bày mười ý này để rõ lối tu Chỉ, Quán. Đây là điều kiện cần thiết cho kẻ mới học tọa thiền. Nếu người khéo hội ý tu tập, khả dĩ an tâm vượt các chướng nạn, được định sanh tuệ và chứng Vô lậu thánh quả.
Phần 2: Tọa Thiền Tam Muội - Tùy Bệnh Đối Trị - Pháp Môn Trị Đa Dục
Nếu người đa dục dùng pháp môn Bất tịnh trị.
Nếu người nhiều nóng giận dùng pháp môn Từ bi trị.
Nếu người nhiều ngu si lấy pháp môn quán Nhân duyên trị.
Nếu người nhiều lo nghĩ lấy pháp môn Niệm hơi thở trị. Nếu người đẳng phần (tham, sân, si đồng nhau) lấy pháp môn Niệm Phật trị.
Bao nhiêu thứ bệnh có bấy nhiêu thứ pháp môn để trị.
I.- PHÁP MÔN TRỊ ĐA DỤC
Người dâm dục nhiều nên tu quán Bất tịnh.
Từ chân đến đầu đầy dẫy bất tịnh: tóc, lông, móng, răng, da mỏng, da dày, máu mủ, thịt, gân, mạch, xương, tủy, gan, phổi, tim, lá lách, dạ dày, ruột non, ruột già, phân, nước tiểu, nước mũi, nước miếng, mồ hôi, nước mắt, cứt ráy, đất, óc, bong bóng, mật đờm, bầy nhầy, mỡ, mỡ sa, màng óc. Đó là ba mươi sáu vật bất tịnh trong thân.
Lại quán Bất tịnh có chín thứ theo thứ tự:
Quán thây mới chết bầm xanh.
Lần lần sình trương.
Kế nứt nẻ.
Máu chảy ra.
Rục rã.
Lầy thối.
Dòi, thú đục, ăn.
Xương mục.
Thiêu rụi.
Đó là Cửu tưởng bất tịnh.
NGƯỜI ĐA DỤC CÓ BẢY THỨ YÊU:
Yêu sắc đẹp.
Yêu dáng điệu.
Yêu dung mạo.
Yêu âm thanh.
Yêu bóng dáng.
Yêu con người.
TỔNG YÊU.
Nếu yêu sắc đẹp nên tập quán thây chết bầm xanh, những sắc bất tịnh vàng, đỏ cũng như vậy.
Nếu yêu dáng điệu nên tập quán thây sình trương và nứt nẻ.
Nếu yêu dung mạo nên tập quán thây máu chảy và rục rã. Nếu yêu âm thanh, tập quán người khi sắp chết, cổ nức lên và tắt thở.
Nếu yêu bóng dáng nên tập quán bộ xương và người bệnh khô gầy.
Nếu yêu con người nên tập quán cả sáu thứ trong chín thứ bất tịnh.
Nếu tổng yêu nên quán cả chín thứ.
Hoặc khi quán các thứ này, lại khi quán các thứ khác, đều gọi là quán Bất tịnh.
- Nếu thân bất tịnh như thây thúi lầy thì do đâu mà yêu? Nếu yêu thân trong sạch thì thân thúi lầy cũng vẫn yêu? Nếu không yêu thân thúi lầy thì thân trong sạch cũng không yêu, vì hai thân là một vậy.
- Nếu tìm hai cái thật tịnh thì không thể có. Tâm người mê lầm bị sự điên đảo che đậy nên không phải tịnh chấp là tịnh, nếu phá dẹp tâm điên đảo thì được pháp quán thật tướng liền biết bất tịnh là hư dối không thật.
Lại nữa, thây chết không có hơi ấm, mạng sống, thần thức và các căn bế tắc, người nhận kỹ thì tâm không sanh yêu mến. Thân sống có hơi ấm, mạng sống, thần thức các căn sáng sủa, nên tâm điên đảo mê lầm sanh yêu mến.
Khi tâm yêu sắc cho đó là tịnh, tâm yêu sắc dứt liền biết là bất tịnh. Nếu là thật tịnh thì phải thường tịnh, mà đây không phải thế. Như chó ăn phân cho là sạch, lấy con mắt người xem thì thấy rất dơ. Thân này toàn cả trong, ngoài không có chỗ nào là sạch. Nếu yêu dáng ngoài của thân, toàn thân da mỏng bao bọc, nếu nắm cắt một miếng bằng ngón tay ta sẽ thấy bày tướng bất tịnh, huống là cả ba mươi sáu vật nhơ nhớp trong thân.
Hơn nữa, xét ra nhân duyên tạo thành thân có bao nhiêu thứ bất tịnh. Trước tiên do tinh huyết cha mẹ hợp thành là bất tịnh, thành thân rồi thường chảy ra các thứ bất tịnh, cho đến quần áo, mền chiếu cũng là bất tịnh, nếu đến khi chết thì sự bất tịnh không thể kể xiết. Do đó nên biết sống, chết, trong, ngoài đều là bất tịnh.
Sau khi quán Bất tịnh thành công chuyển lên quán Tịnh.
Người tu Tịnh quán có ba hạng: mới tập, đang tập, tập đã lâu.
- Nếu người mới tập (người trước chưa phát tâm kiên cố) phải dạy rằng: Tưởng lột toác da ra trừ dẹp hết máu, thịt v.v… các thứ bất tịnh, quán bộ xương người đỏ. Buộc ý quán tưởng không cho nghĩ gì khác, có nghĩ khác phải lôi trở về.
- Nếu người đang tập (người tập hành đôi ba năm) nên dạy: Tưởng toác da thịt quán xương đầu, không cho nghĩ gì khác, có nghĩ khác phải lôi trở về.
- Nếu người tập hành đã lâu (người đã tu tập trải qua mấy mươi năm) nên dạy: Tưởng dẹp hết da, thịt, buộc ý năm chỗ: đỉnh đầu, trán, giữa chân mày, chót mũi, ngay quả tim. Trụ ý năm chỗ ấy, quán xương không cho nghĩ gì ngoài, có nghĩ ngoài phải thu nhiếp trở về. Thường xem xét tâm nó chạy đi phải lôi lại. Nếu tâm mệt mỏi sẽ dừng lại chỗ buộc duyên, không chạy ra ngoài nữa, như con khỉ bị xiềng bên cây cột, nhảy nhót mệt rồi sẽ nằm lại bên cây cột. Chỗ buộc tâm duyên như cây cột, ý niệm chăm chú như sợi dây, tâm như con khỉ. Lại như bà mẹ chăm giữ đứa con còn bú, không để nó rơi té. Hành giả quán tâm cũng như thế, lần lần chế phục được tâm, bắt nó ở một chỗ. Nếu tâm trụ được lâu đó là hợp pháp thiền. Nếu được thiền định thì phát ba tướng:
Thân thể vui vẻ nhẹ nhàng mềm dịu.
Xương trắng phát ra ánh sáng trong như ngọc.
Tâm dừng lặng.Đó là tướng Tịnh quán.
Khi ấy, được tâm hợp với Sắc giới. Ấy là người mới học pháp thiền được tâm khế hợp Sắc giới. Tâm hợp với pháp thiền tức pháp Sắc giới. Tâm được pháp này mà thân còn ở Dục giới vẫn được ba tướng:
Tuy tứ đại thô mà được vui vẻ mềm dịu, hình chất trong sạch, tươi nhuần, bóng láng, điều hòa. Ấy gọi là tướng vui vẻ.
Hành giả nội quán thấy tướng xương trắng phát ánh sáng khắp chiếu, sắc nó trắng trong.Tâm trụ một chỗ.
Như thế gọi là Tịnh quán. Trừ thịt quán xương gọi là Tịnh quán.
PHẦN 1: PHÁP YẾU TU TẬP TỌA THIỀN CHỈ QUÁN - PHẦN CHÁNH TÔNG - CỤ DUYÊN
I.- CỤ DUYÊN
Phàm người phát tâm thực hành, muốn tu Chỉ, Quán cần phải đủ năm duyên:
- Giữ giới thanh tịnh.
- Ăn mặc đầy đủ.
- Yên ở chỗ vắng.
- Dứt các sự ràng buộc.
- Gần gũi thiện tri thức.
1. GIỮ GIỚI THANH TỊNH
Như trong kinh dạy: “Nương nơi giới luật được sanh các thứ thiền định và trí tuệ diệt khổ. Thế nên, Tỳ-kheo phải giữ giới thanh tịnh.” Nhưng người giữ giới chia ba hạng
A) Người khi chưa làm đệ tử Phật, không tạo tội ngũ nghịch, sau gặp thầy lành dạy thọ Tam qui, Ngũ giới làm đệ tử Phật, hoặc được xuất gia thọ mười giới làm Sa-di, kế thọ Cụ túc giới làm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni. Từ khi thọ giới về sau gìn giữ thanh tịnh không có hủy phạm, ấy gọi là người trì giới bậc thượng. Người ấy tu hành Chỉ, Quán ắt chứng được Phật pháp, ví như cái áo trắng dễ nhuộm màu.
B) Nếu người thọ giới rồi, tuy không phạm giới trọng, phần nhiều phạm các giới khinh, vì tu thiền định nên theo đúng pháp sám hối. Người ấy cũng gọi là trì giới thanh tịnh, phát sanh trí tuệ. Ví như cái áo đã dơ, nay đem giặt sạch, nhuộm cũng có thể được.
C) Hoặc người thọ giới rồi, không kiên tâm gìn giữ, các giới khinh, giới trọng phần nhiều đều phạm. Nếu y theo giáo lý Tiểu thừa thì phạm tứ trọng không thể sám hối. Nếu y theo giáo lý Đại thừa thì có thể trừ diệt được. Cho nên kinh chép: “Trong Phật pháp có hai hạng người mạnh mẽ: 1- người không làm ác. 2- người làm rồi biết sám hối.”
Người muốn sám hối phải đủ mười pháp trợ lực mới thành tựu:
Tin chắc nhân quả.
Sanh tâm kinh sợ.
Khởi lòng hổ thẹn.
Cầu phương pháp diệt tội. Như trong kinh Đại thừa dạy các phương pháp thực hành phải đúng như vậy mà tu tập.
Phát lồ các tội trước.
Đoạn tâm tương tục.
Khởi tâm hộ trì Phật pháp.
Phát đại thệ nguyện, độ thoát chúng sanh.
Thường tưởng nhớ mười phương chư Phật.
Quán tội tánh vốn không sanh.
Nếu đã đủ mười duyên, hành giả trang nghiêm đạo tràng, tẩy rửa sạch sẽ, đắp y thanh tịnh, đốt hương và tán hoa, ở trước Tam Bảo như pháp sám hối. Hoặc bảy ngày, hai mươi mốt ngày, một tháng, ba tháng, cho đến nhiều năm, hành giả chuyên tâm sám hối tội trọng đã phạm, khi nào diệt được mới thôi.
Thế nào là tướng tội trọng diệt? Nếu hành giả khi chí tâm sám hối như thế, tự biết thân tâm nhẹ nhàng, thấy mộng tốt, hoặc thấy điềm linh tướng lạ, hoặc biết thiện tâm khai phát, hoặc tại chỗ ngồi biết thân như mây, như bóng, nhân đó lần lần chứng được các cảnh giới thiền. Hoặc tâm hiểu ngộ, rỗng suốt, hay biết pháp tướng, tùy nghe kinh liền thấu đạt nghĩa lý, nhân đó được pháp hỉ, tâm không lo rầu hối hận. Những tướng trạng ấy tức là tướng tội phá giới được tiêu diệt. Từ đây về sau kiên trì giới cấm, cũng gọi là trì giới thanh tịnh có thể tu thiền định được. Ví như cái áo rách và dơ, nếu vá lành lại, đem giặt sạch sẽ cũng có thể nhuộm được.
Nếu người phạm trọng giới rồi, e chướng ngại thiền định, tuy không y các kinh tu các hạnh pháp, chỉ sanh tâm rất hổ thẹn, đối trước Tam Bảo phát lồ tội trước, đoạn tâm tương tục, thân thường ngồi ngay thẳng, quán tội tánh vốn không, niệm mười phương chư Phật; hoặc khi xuất thiền, chí tâm thắp hương lễ bái, sám hối, tụng giới và tụng các kinh Đại thừa, trọng tội chướng đạo lần lần tiêu diệt, nhân đây giới được thanh tịnh, thiền định khai phát. Cho nên kinh Diệu Thắng Định chép: “Nếu người đã phạm tội trọng, sanh tâm kinh sợ, muốn tìm cách trừ diệt, nếu ngoài thiền định không có pháp nào diệt được. Người ấy nên ở chỗ vắng vẻ thường ngồi nhiếp tâm và tụng kinh Đại thừa, tất cả tội trọng thảy đều tiêu diệt, các thiền tam-muội tự nhiên hiện tiền.”
2. ĂN MẶC ĐẦY ĐỦ
Sự mặc có ba thứ:
A) Như vị Đại sĩ núi Tuyết - đức Thích-ca - chỉ cần một chiếc y rách che thân là đủ, vì không dạo trong xóm làng, sức kham nhẫn được thành tựu.
B) Như ngài Đại Ca-diếp thường tu hạnh đầu-đà, chỉ chứa ba cái y phấn tảo, không chứa các y khác.
C) Nếu ở xứ lạnh nhiều và nhẫn lực chưa thành, ngoài ba y, Như Lai cũng cho chứa các vật khác; nhưng cần phải thuyết tịnh, biết lượng sức mình và biết đủ, nếu tham cầu cốt chứa nhiều thì loạn tâm, chướng ngại đạo
SỰ ĂN CÓ BỐN THỨ:
A) Nếu là bậc Thượng nhân Đại sĩ vào nơi thâm sơn, xa hẳn thế tục, chỉ tùy thời dùng rau quả nuôi thân.
B) Thường hành đầu-đà thọ pháp khất thực, phá bốn thứ tà mạng, sống theo chánh mạng hay sanh Thánh đạo.
Bốn thứ tà mạng là:
Trồng trọt nuôi sống.
Xem thiên văn.
Tìm cách mưu sinh.
Rong ruổi bốn phương mong cầu sự sống hoặc coi bói, thuốc thang...
Tướng tà mạng như ngài Xá-lợi-phất vì Thanh Mục Nữ nói.
C) Ở chỗ vắng vẻ nhờ đàn việt đem đến cúng.
D) Ở trong chúng tăng ăn uống đúng pháp.
Bởi có những duyên này, nên gọi ăn mặc đầy đủ. Vì cớ sao? Vì không có những duyên này thì tâm không an ổn, chướng ngại trên đường đạo.
3. YÊN Ở CHỖ VẮNG VẺ
Không làm các việc gọi là yên. Chỗ không ồn náo gọi là vắng vẻ. Có ba chỗ có thể tu thiền định:
A) Chỗ núi sâu không có người đến.
B) Chỗ vắng vẻ hành đầu-đà, cách xa làng xóm ít nữa cũng ba bốn dặm, bặt tiếng mục đồng không còn các tiếng ồn.
C) Ở trong ngôi già-lam thanh tịnh, cách xa kẻ thế tục.
D) Ở những nơi ấy đều gọi là “yên ở chỗ vắng vẻ”.
4. DỨT CÁC SỰ RÀNG BUỘC
Có bốn thứ:
A) Dứt việc làm nuôi sống: tức là không tạo sự nghiệp thế gian.
B) Dứt việc kết giao với nhân gian: không kết bạn thân với người thế tục.
C) Dứt các kỹ thuật khéo léo: không làm thợ khéo, thầy thuốc, thầy bùa, thầy bói, thầy tướng, thầy số...
D) Dứt sự học vấn: những việc đọc sách, học hỏi đều bỏ.
Tại sao bỏ các việc này? Vì còn nhiều việc ràng buộc thì việc hành đạo phải bê trễ, tâm loạn động khó nhiếp phục.
5. GẦN GŨI THIỆN TRI THỨC
Thiện tri thức có:
A) Ngoại hộ thiện tri thức: là người hay kinh doanh, cúng dường ủng hộ người tu, để cho người tu khỏi lo phiền rối loạn.
B) Đồng hạnh thiện tri thức: người đồng đạo tu hành, nhắc nhở cảnh giác lẫn nhau, không nhiễu loạn nhau.
C) Giáo thọ thiện tri thức: bậc thầy chỉ đạo, lấy những pháp môn thiền định phương tiện điều phục nội ngoại, chỉ dạy cho được lợi hỉ.
PHẦN 1: PHÁP YẾU TU TẬP TỌA THIỀN CHỈ QUÁN - PHẦN CHÁNH TÔNG - TRÁCH DỤC
Nói trách dục tức là trách ngũ dục. Phàm muốn tọa thiền tu tập Chỉ, Quán quyết phải quở trách ngũ dục. Ngũ dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc ở thế gian. Nó hay làm mê hoặc tất cả phàm phu khiến phải say đắm. Nếu người biết tội lỗi của nó liền xa lìa, ấy gọi là trách dục.
1. TRÁCH SẮC DỤC: Những hình dáng kiều diễm của nam nữ, như mắt trong, mày dài, môi son, răng trắng... và bao nhiêu màu sắc mỹ lệ xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, lam, lục của các vật báu ở thế gian. Nó hay khiến kẻ phàm phu trông thấy sanh lòng yếu mến, tạo các ác nghiệp. Như vua Tần-bà-ta-la vì sắc dục đem thân vào nước địch, cam ở trong phòng nàng A-phạm-ba-la. Lại vua Ưu-điền cũng vì sắc dục chặt tay chân năm trăm vị tiên. Sắc dục còn gây biết bao tội lỗi như vậy.
2. TRÁCH THANH DỤC: Là tiếng đàn tranh, đàn cầm, ống tiêu, ống sáo, tiếng ty, tiếng trúc, kim, thạch tấu thành âm nhạc và giọng ca ngâm, tán tụng của nam nữ. Nó hay cám dỗ kẻ phàm phu vừa nghe liền sanh tâm đắm nhiễm, tạo các ác nghiệp. Như năm trăm vị tiên ở núi Tuyết nghe giọng ca của nàng Chân-đà-la liền mất thiền định, tâm say mê cuồng loạn. Mê âm thanh tạo nên tội lỗi, còn biết bao việc như thế.
3. TRÁCH HƯƠNG DỤC: Mùi hương của nam nữ, của các thức ăn uống và các thứ hương xông ướp, kẻ ngu không biết xét tướng trạng của nó, vừa ngửi liền sanh mê đắm, mở cửa cho kiết sử. Như vị Tỳ-kheo ở bên hồ sen, ngửi mùi hương của hoa sanh tâm ưa thích, bị vị thần giữ ao quở trách: “Tại sao dám trộm mùi hương của ta.” Vì thích mùi hương khiến các kiết sử đang nằm liền đứng dậy. Còn biết bao nhân duyên do hương dục gây tai hại như thế.
4. TRÁCH VỊ DỤC: Là những mùi vị đắng, cay, chua, ngọt, mặn, lạt... những thứ cao lương mỹ vị hay khiến phàm phu sanh tâm nhiễm trước, tạo các nghiệp ác. Như ông Sa-di vì thích vị tô lạc nên sau khi chết làm con dòi ở trong tô lạc. Vị dục còn lắm việc hại tương tợ như thế
5. TRÁCH XÚC DỤC: Da thịt mềm mại mịn màng của nam nữ; khi lạnh chạm ấm, khi nóng xúc mát và các cái xúc chạm hợp với nhu cầu, kẻ ngu không trí vì đó chìm đắm, khiến ngăn ngại đạo nghiệp. Như vị tiên một sừng vì xúc dục mà mất thần thông, bị dâm nữ cỡi cổ. Xúc dục có lắm việc tai hại như thế.
Phương pháp trách dục như trên đều rút trong luận Ma-ha-diễn.
Lại than rằng: “Than ôi! Chúng sanh thường bị ngũ dục não loạn, mà mải tìm cầu không thôi. Ngũ dục này, nếu cầu được càng hăng, như lửa thêm củi, ngọn lửa càng mạnh. Ngũ dục không vui, như chó gặm xương khô. Ngũ dục gây tranh đấu, như bầy quạ giành thịt thúi. Ngũ dục thiêu người, như cầm đuốc đưa ngược gió. Ngũ dục hại người, như đạp rắn độc. Ngũ dục không thật, như mộng được của báu. Ngũ dục tạm bợ không lâu bền, như chọi đá nháng lửa. Trí giả suy xét coi nó như giặc thù; thế nhân lầm mê tham đắm ngũ dục đến chết không bỏ, đời sau phải chịu vô lượng khổ não.
Đến các loại súc sanh vẫn có ngũ dục này, nên tất cả chúng sanh thường bị ngũ dục sai sử, đều làm tôi mọi cho ngũ dục; lao mình trong tệ dục, chìm đắm trong tam đồ. Ta nay tu thiền định lại bị chúng ngăn che, chúng là giặc dữ phải chóng gấp xa lìa. Như bài kệ trong kinh Thiền chép:
Chết sống không đoạn dứt,
Vì ưa dục, thích vị,
Nuôi thù vào gò nổng,
Luống chịu các đắng cay.
Thân thúi như tử thi,
Chín lỗ chảy bất tịnh,
Như trùng phân ưa phân,
Kẻ ngu thân không khác.
Người trí nên xét thân,
Không tham nhiễm thế lạc,
Không mắc, không ham muốn,
Ấy gọi chân Niết-bàn.
Như chư Phật đã nói,
Nhất tâm, nhất ý hành,
Sổ tức tu Thiền định,
Ấy gọi hành đầu-đà.
PHẦN 1: PHÁP YẾU TU TẬP TỌA THIỀN CHỈ QUÁN - PHẦN CHÁNH TÔNG - XẢ CÁI
Xả cái tức là bỏ ngũ cái: tham dục, giận hờn, mê ngủ, diêu động và hối hận, nghi ngờ.
1. XẢ THAM DỤC: Trước đã nói đối ngũ trần bên ngoài sanh tham muốn, nay nói chính trong ý căn sanh tham muốn. Nghĩa là khi hành giả ngồi ngay thẳng tu thiền, tâm khởi tham muốn niệm niệm tiếp nối, che đậy thiện tâm không được tăng trưởng, biết rồi liền bỏ. Tại vì sao? Vì như nàng Thuật-bà-già trong tâm khởi tham dục, còn bị đốt cháy cả thân thể thay! Huống chi trong tâm sanh lửa tham dục mà không thiêu hết các pháp lành? Người tham dục cách đạo rất xa. Tại sao? Vì dục là chỗ trú của bao nhiêu sự não loạn. Nếu trong tâm ôm ấp tham dục thì không do đâu được gần đạo. Như bài kệ Trừ Cái nói:
Người hổ thẹn vào đạo,
Ôm bát phước chúng sanh,
Tại sao theo trần dục,
Chìm lặn trong ngũ tình?
Đã xả ngũ dục lạc,
Bỏ nó không luyến tiếc,
Vì sao lại muốn được?
Như người ăn đồ mửa.
Các dục khi cầu khổ,
Khi được nhiều sợ hãi,
Khi mất lại lo rầu,
Tất cả thời không vui.
Họa các dục như thế,
Do đâu xả được nó?
Được vui sâu thiền định,
Liền không bị nó lừa.
2. XẢ GIẬN HỜN: Giận là cội gốc làm mất Phật pháp, là nhân duyên sa vào ác đạo, là oan gia của pháp an lạc, là bọn giặc dữ của thiện tâm, là tạng phủ của bao nhiêu ác khẩu. Thế nên hành giả khi tọa thiền suy nghĩ người này hiện tại phá hại ta, phá hại gia quyến ta, khen ngợi người thù của ta; suy nghĩ quá khứ, vị lai cũng thế, ấy là chín thứ phiền não. Do đó sanh sân hận, khởi sân hận nên sanh oán thù, do tâm oán thù bèn khởi tâm tàn hại kẻ ấy. Sân hận che đậy tâm như thế, nên gọi là Cái. Phải gấp bỏ nó, không cho tăng trưởng. Như ngài Thích-đề-bà-na dùng bài kệ hỏi Phật:
Vật gì giết an lạc?
Vật gì giết vô ưu?
Vật gì gốc của độc?
Nuốt tiêu tất cả thiện?
Phật đáp:
Giết sân thì an lạc,
Giết sân thì vô ưu,
Sân là gốc của độc,
Sân diệt tất cả thiện.
Đã biết sân nguy hiểm như thế, phải chóng tu từ bi, nhẫn nhục để diệt trừ nó cho tâm được thanh tịnh.
3. XẢ MÊ NGỦ: Ngủ hay phá hoại cái vui chân thật nơi tâm đời này và đời sau, cùng cái vui cõi trời và Niết-bàn. Nó rất ác, không có chút thiện. Tại sao? Vì những phần Cái khác dễ biết nên trừ được, còn khi ngủ như chết, không thể hiểu biết, vì không biết nên khó trừ. Như bài kệ chư Phật, Bồ-tát quở các đệ tử mê ngủ:
Ông dậy! Chớ ôm thây thúi nằm,
Những thứ nhớp nhúa tạm gọi người,
Như bệnh nặng, tên cắm vào thân,
Dẫy đầy đau khổ đâu yên ngủ!
Như người bị trói sắp đem giết,
Tai hại kề bên đâu thể ngủ!
Giặc kiết chưa diệt, hại chưa trừ,
Như cùng rắn độc chung nhà ở,
Như vào trận, giữa hai đao bén,
Khi ấy làm sao yên ngủ được?
Ngủ là đen tối không thể thấy,
Ngày ngày cướp mất ánh sáng ta,
Do ngủ khiến tâm không thấy được,
Hại to như thế đâu yên ngủ?
Còn lắm việc như thế để quở trách mê ngủ. Lấy vô thường cảnh giác sự ngủ nghỉ khiến giảm bớt, không che mờ tâm tánh. Nếu tâm mê ngủ quá nặng phải dùng thiền trượng đuổi nó.
4. XẢ DIÊU ĐỘNG VÀ HỐI HẬN: Diêu động có ba thứ:
a) Thân diêu động: thân ưa chạy rong đùa giỡn lăng xăng, ít khi ngồi yên.
b) Miệng diêu động: ưa ca hát, tranh cãi phải quấy, nói những việc vô ích, nói những việc thế gian.
c) Tâm diêu động: tâm tình phóng túng, ý nghĩ lăng xăng, suy nghĩ văn chương, kỹ nghệ thế gian, các điều xét nghĩ xấu ác... Diêu động hay phá tâm của người xuất gia. Người cố nhiếp tâm vẫn không được định, huống chi kẻ tán loạn. Người tâm tán loạn như con voi say mà không câu móc, con lạc đà không dây mũi không thể kềm giữ được. Có bài kệ:
Ông đã cạo tóc mặc áo nhuộm,
Ôm bình bát vào xóm xin ăn,
Vì sao lại ưa thích diêu động?
Buông lung ý mất cả lợi lành.
Đã mất pháp lợi, lại mất cả cái vui ở đời, biết lỗi ấy rồi phải gấp đuổi nó.
Nếu diêu động không, chưa thành che đậy, phải có hối hận mới thành. Vì sao? Vì khi diêu động là còn ở ngoài. Trong khi nhập định mới hối hận việc làm trước, lo rầu che đậy cả tâm tánh.
HỐI HẬN CÓ HAI THỨ:
a) Nhân diêu động, sau mới sanh hối hận.
b) Người đã gây tội trọng thường ôm lòng sợ hãi, mũi tên hối hận cắm sâu vào tim khó mà nhổ ra. Có bài kệ:
Không nên làm mà làm,
Nên làm mà không làm,
Lửa hối hận thiêu cháy,
Đời sau đọa ác đạo.
Nếu phạm tội nên hối,
Hối rồi chớ lo phiền,
Như thế tâm an vui,
Không nên thường nhớ mãi.
Nếu có hai thứ hối:
Hoặc nên làm không làm,
Không nên làm lại làm,
Ấy là tướng kẻ ngu.
Vì không tâm hối hận,
Không nên làm lại làm,
Những việc ác đã làm,
Không thể bảo không làm.
5. XẢ NGHI NGỜ: Do nghi che đậy tâm, đối trong chánh pháp không khởi lòng tin. Vì không tín tâm, nên ở trong Phật pháp không được chi cả. Ví như người vào núi vàng, mà không có tay nên không thể lấy được. Nhưng nghi rất nhiều tai hại, không riêng gì chướng định. Nay nói về chướng định, nghi có ba thứ:
A) NGHI MÌNH: Nghĩ rằng ta là kẻ ngu tối, tội chướng nặng nề, không phải như những bậc kia! Tự khởi nghi như thế pháp thiền định không thể phát sanh. Nếu muốn tu thiền định, chớ có khinh mình, vì căn lành nhiều đời trước đâu thể lường được.
B) NGHI THẦY: Nghi thầy ấy tướng mạo, oai nghi như thế, chính còn chưa có đạo đức thì làm sao dạy ta được? Khởi nghi mạn như thế, tức là chướng ngại định. Muốn trừ được bệnh này, như trong các luận Ma-ha-diễn dạy: “Ví như trong đãy da thúi mà có đựng vàng, vì ham vàng ta không thể bỏ cái đãy thúi. Người tu cũng như thế, thầy tuy chưa hoàn toàn thanh tịnh, vẫn tưởng như Phật.”
C) NGHI PHÁP: Người đời phần nhiều hay chấp điều mình nghĩ trước là phải, nên sau khi thọ giáo pháp không thể liền sanh tâm tin kính phụng hành. Nếu tâm dụ dự thì pháp không thể nhiễm tâm. Vì sao? Vì nghi làm chướng ngại, như trong bài kệ nói:
Như người trước ngã ba,
Nghi ngờ không biết lối,
Trong các pháp thật tướng,
Nghi cũng lại như vậy.
Vì nghi không cần cầu,
Thật tướng của các pháp,
Thấy nghi từ si sanh,
Là ác trong các ác.
Trong pháp lành và ác,
Sanh tử và Niết-bàn,
Quyết định thật có pháp,
Ở trong chớ sanh nghi.
Ông nếu ôm lòng nghi,
Chết bị chúa ngục trói,
Như sư tử chụp nai,
Không thể nào thoát khỏi.
Ở đời tuy có nghi,
Phải tùy hỉ pháp lành,
Ví như thấy ngã ba,
Đường tốt, lợi nên đi.
Lòng tin hay vào được Phật pháp. Nếu người không tin, tuy ở trong Phật pháp, mà hoàn toàn không được gì cả. Những việc như thế, đủ biết nghi là tai hại, hãy gấp bỏ nó.
Có người hỏi: “Những việc ác nhiều như bụi không thể tính hết, tại sao ở đây chỉ dạy bỏ năm điều mà thôi?” Đáp: Trong năm điều này gồm cả tam độc và đẳng phần(1). Bốn thứ này làm căn bản, nhiếp cả tám muôn bốn ngàn trần lao. Đó là:
Tham muốn thuộc tham độc.
Giận hờn thuộc sân độc.
Mê ngủ và nghi thuộc si độc.
Diêu động và hối hận thuộc đẳng phần.
Chúng hiệp thành bốn phần phiền não. Trong mỗi phần có hai muôn một ngàn. Họp bốn phần là tám muôn bốn ngàn. Thế nên, trừ ngũ cái là trừ tất cả pháp ác. Người tu nên lấy những việc như thế trừ bỏ ngũ cái. Ngũ cái bỏ rồi, ví như người mang nặng được gỡ bỏ, như bệnh được lành, như người đói được đến nước giàu có, như bị giặc bao vây được cứu thoát, yên ổn không lo sợ. Người tu cũng vậy, trừ được ngũ cái rồi, tâm yên ổn, mát mẻ an vui. Như mặt trời, mặt trăng bị năm việc che tối: khói, bụi, mây, mù, nhật nguyệt thực, nên không thể chiếu sáng, tâm người bị ngũ cái cũng như thế.
ĐẲNG PHẦN: Trong tâm có cả tham, sân, si ngang bằng nhau, không cái nào nặng cái nào nhẹ.
PHẦN 1: PHÁP YẾU TU TẬP TỌA THIỀN CHỈ QUÁN - PHẦN CHÁNH TÔNG - ĐIỀU HÒA
Hành giả mới học tọa thiền muốn tu theo giáo pháp của mười phương chư Phật, trước phải phát đại thệ nguyện, độ thoát tất cả chúng sanh, nguyện cầu Phật đạo vô thượng, tâm kiên cố như kim cang, tinh tấn dũng mãnh không tiếc thân mạng. Nếu thành tựu tất cả Phật pháp, hoàn toàn không thối chuyển rồi, nhiên hậu trong khi tọa thiền chánh niệm suy nghĩ tướng chân thật của các pháp. Nghĩ rằng: Pháp thiện, ác, vô ký, trong, ngoài, căn, trần, thức, tất cả pháp phiền não hữu lậu, pháp hữu vi, nhân quả, sanh tử trong tam giới đều nhân tâm mà có. Cho nên kinh Thập Địa chép: “Tam giới không riêng có, chỉ do nhất tâm tạo tác. Nếu biết tâm không tánh thì các pháp không thật, tâm không nhiễm trước thì tất cả hạnh nghiệp sanh tử đều dứt.” Quán như thế rồi, kế nên theo thứ lớp khởi hạnh tu tập.
THẾ NÀO LÀ ĐIỀU HÒA? Dùng thí dụ để so sánh cho dễ hiểu. Ví như người thợ gốm khéo trộn nước, đất nhồi thành mềm dẻo, sau mới để lên khuôn mà nặn. Như cây đàn cầm, trước phải điều hòa dây, không dùn, không thẳng, sau mới khảy ra những bản nhạc âm thanh vi diệu. Hành giả tu tâm cũng như vậy, khéo điều năm việc khiến được hòa thích thì chánh định dễ sanh. Nếu có việc không điều thì sanh nhiều chướng nạn, căn lành khó phát sanh. Điều năm việc:
1. ĐIỀU HÒA SỰ ĂN UỐNG: Sự ăn uống cốt để nuôi thân tiến tu đạo nghiệp. Nếu ăn no quá thì bao tử đầy, hơi thở gấp, trăm mạch không thông, tâm bị bế tắc, ngồi niệm không yên. Nếu ăn quá ít thì thân gầy, bao tử lỏng lẻo, ý lao lự xao động, không vững. Hai việc này đều không được định. Nếu ăn những vật trọc uế khiến tâm thức phải hôn mê. Nếu ăn những vật không thích nghi hay khơi bệnh cũ, khiến tứ đại chống nghịch nhau. Người mới tập tu thiền định phải dè dặt tránh những điều này. Cho nên kinh chép: “Thân yên thì đạo đầy đủ, ăn uống có tiết độ, thường ưa ở chỗ vắng vẻ, tâm lặng ưa tinh tấn, ấy là lời dạy của chư Phật.”
2. ĐIỀU HÒA SỰ NGỦ NGHỈ: Ngủ là bị vô minh che đậy, không nên ngủ nhiều. Nếu người ngủ nhiều quá, không những bỏ bê sự tu hành, lại mất hết những công phu, khiến tâm ám muội, căn lành tan mất. Phải giác ngộ lý vô thường, điều phục sự ngủ nghỉ để tinh thần trong sáng, tâm niệm minh tịnh. Được thế mới có thể gá tâm nơi thánh cảnh, chánh định hiện tiền. Cho nên kinh chép: “Đầu hôm và buổi khuya cũng chớ bỏ phế, không do nhân duyên ngủ nghỉ để một đời luống trôi qua, không được gì cả. Phải nghĩ rằng ngọn lửa vô thường thiêu cả thế gian, sớm cầu tự độ chớ nên ngủ nghỉ.”
Phương pháp điều thân, điều hơi thở, điều tâm, ba việc này phải hợp nhau dùng, không thể nói riêng. Nhưng pháp hành có trước, giữa và sau không đồng. Do đó tướng nhập, trụ và xuất cũng có khác nhau.
3. ĐIỀU THÂN: Hành giả muốn nhập chánh định phải áp dụng phương pháp điều thân. Khi ở ngoài định đi, đứng, nằm, ngồi và mọi hành động thảy đều nhẹ nhàng thư thả; nếu hành động gấp gáp, nặng nề thì hơi thở hổn hển, hơi thở hổn hển thì tâm tán loạn khó kềm chế, đến khi ngồi bứt rứt tâm không thư thái. Do đó tuy chưa nhập định hành giả vẫn phải dụng ý, sớm tìm phương tiện hạn chế nó dần. Lúc nhập định phải khéo an thân cho được định.
Khi đến chỗ ngồi thiền, trước phải ngồi yên, mỗi bộ phận đều nghe yên ổn, lâu lâu thấy không có gì chướng ngại, mới bắt đầu sửa soạn chân. Nếu ngồi bán già thì lấy chân trái để trên đùi mặt, kéo sát vào thân, để bàn chân trái bằng với đùi mặt, bàn chân mặt bằng với đùi trái. Nếu ngồi toàn già phải kéo chân mặt để lên chân trái. Nới rộng dây lưng và cổ áo, sửa cho ngay thẳng. Lấy bàn tay trái để lên lòng bàn tay mặt và các ngón tay chồng lên nhau, trừ ngón cái, rồi đặt trên bàn chân, kéo sát vào thân. Thân ngay thẳng, chuyển động thân và các chi tiết bảy lần, giống như pháp xoa bóp, không cho tay chân xê dịch. Như thế rồi giữ xương sống cho thẳng không để cong vẹo. Cổ sửa cho ngay, đầu cúi hơi, giữ chót mũi ngay rún không chinh không vạy, không ngước không cúi, gương mặt bình thản ngồi yên(1). Kế dùng miệng thở hơi ô trọc ra, khi thở há miệng cho hơi ra, đừng mạnh cũng đừng gấp, phải đều đều nhẹ nhẹ, hơi vô tưởng không khí trong sạch vào khắp trong thân, những chỗ không thông đều theo hơi thở mà được lưu thông, rồi há miệng thở hơi ra sạch hết. Thở như thế đến ba lần, nếu khi thân và hơi thở đã điều hòa thì thở một lần cũng được. Thở xong ngậm miệng lại môi và răng vừa khít nhau, lưỡi để lên ổ gà. Con mắt nhắm vừa khuất ánh sáng bên ngoài thôi. Thân ngồi phải ngay thẳng như tấm vách đá. Thân và chân tay không được cử động. Đó là phương pháp ban đầu khi nhập thiền định điều thân. Tóm lại, không hoãn mà cũng không gấp, đó là tướng trạng thân điều hòa.
4. ĐIỀU HƠI THỞ:
Hơi thở có bốn tướng:
a)Tướng phong
b)Tướng suyễn
c)Tướng khí
d)Tướng tức
Ba tướng trước không điều hòa, tướng sau mới điều hòa. Thế nào là tướng phong, tướng suyễn v.v...?
- Khi ngồi thiền, hơi thở ra vào trong mũi nghe có tiếng, là tướng phong; hơi thở tuy không có tiếng mà ra vào ngăn trệ không thông, là tướng suyễn; hơi thở tuy không có tiếng, không ngăn trệ mà ra vào không nhẹ nhàng, là tướng khí; hơi thở không có tiếng, không bị ngăn và không thô, ra vào nhẹ nhẹ như còn như mất, tinh thần an ổn, thư thới, ấy là tướng tức. Nếu bị bệnh phong thì tán loạn; bị bệnh suyễn thì ngăn trệ; bị bệnh khí thì nhọc nhằn; chỉ được tướng tức là an định. Khi ngồi thiền có ba tướng phong, suyễn, khí gọi là không điều hòa; khi ấy nếu dụng tâm thì hại tâm, tâm khó được định.
Nếu muốn điều hòa phải y ba pháp:
Chuyên tưởng tâm ở tại rún.
Buông thả thân thể một cách tự tại.
Tưởng khắp lỗ chân lông hơi thở ra vào thông đồng không ngăn ngại.
Nếu tâm được vi tế thì hơi thở nhẹ nhàng. Hơi thở điều hòa thì các bệnh không sanh, tâm dễ được định. Ấy gọi là phương pháp điều hòa hơi thở khi hành giả mới tập ngồi thiền. Tóm lại, hơi thở nhẹ nhẹ, dài và đều là tướng điều hòa.
5. ĐIỀU TÂM:
Điều tâm có ba cách: nhập, trụ và xuất.
a) Nhập: Nhập có hai lối:
Điều phục loạn tưởng không cho buông lung.
Phải điều hòa giữa Phù, Trầm, Khoan, Cấp.
THẾ NÀO LÀ TƯỚNG TRẦM? Nếu trong khi ngồi tâm mờ mịt, không ghi nhớ chi cả, đầu ưa gục xuống, ấy là tướng trầm. Khi ấy phải chú tâm tại chót mũi, khiến tâm duyên trong một cảnh, không cho ý phân tán, đây là trị bệnh trầm.
THẾ NÀO LÀ TƯỚNG PHÙ? Nếu khi ngồi tâm ưa phóng túng loạn động, thân cũng không yên, nhớ những việc đâu đâu, đó là tướng phù. Khi ấy nên tưởng tâm tại rún, ngăn các loạn niệm, tâm liền dừng trụ, dễ được an tịnh. Tóm lại, không trầm, không phù là tướng điều hòa.
TÂM ĐỊNH ẤY CŨNG CÓ TƯỚNG KHOAN, CẤP.
Tướng bệnh định tâm cấp, do trong khi ngồi dụng niệm nhiếp tâm mà được vào định. Thế nên hơi xông lên trên hông, ngực đau nhói, phải buông xả tâm ấy, tưởng hơi đều dồn xuống, bệnh liền được lành.
Nếu tâm mắc bệnh khoan thì tâm chí tản mác, thân ưa xiêu vẹo, hoặc trong miệng chảy nước miếng, hoặc khi ấy mờ mịt. Bấy giờ phải thúc liễm thân và tâm chuyên niệm, khiến tâm trụ trong một chỗ, thân thể kềm giữ nhau, lấy đó mà trị bệnh. Tâm có tướng thô phù hay trầm lặng, cứ xét nơi đó có thể biết. Ấy là phương pháp điều tâm khi mới vào định.
Phàm nhập định là từ thô vào tế, thân là thô, hơi thở là trung bình, tâm là tế nhị, nên điều từ thô đến tế khiến tâm được an tịnh, đó là phương tiện ban đầu vào định. Đây gọi là khi nhập định điều hòa được hai việc.
B) TRỤ: Hành giả trong thời gian tọa thiền tùy dài hay ngắn, hoặc một đến hai ba giờ trong mười hai giờ nhiếp niệm dụng tâm. Trong ấy phải khéo biết thân, hơi thở, tâm được điều hòa hay không điều hòa. Nếu khi ngồi tuy điều thân xong, nhưng thân hoặc buông thả, hoặc kềm thúc, hoặc nghiêng, cong, cúi, ngước không ngay thẳng, biết rồi liền sửa cho thẳng khiến được an ổn. Sửa thân bậc trung không kềm, không thả, bình thường ngay thẳng an trụ.
Lại nữa, trong thời gian ngồi thiền thân tuy điều hòa, mà hơi thở không điều hòa. Tướng hơi thở không điều hòa như trước đã nói, hoặc phong, suyễn, khí, hoặc trong thân đầy hơi, phải dùng những phương pháp ở trước tùy bệnh mà trị khiến hơi thở êm, dài như có như không.
Thứ đến, trong thời gian ngồi thiền, thân, hơi thở tuy điều hòa, mà tâm hoặc phù, trầm, khoan, cấp không định. Khi ấy, nếu biết nên dùng những phương pháp ở trước điều hòa khiến được thích ứng bậc thường.
Ba việc này không nhất định trước sau, tùy cái nào không điều hòa sửa cho được điều hòa, khiến thời gian ngồi, thân, hơi thở và tâm, ba cái đều điều hòa thích ứng, không để trái nhau, dung hòa không hai. Thế là hay trừ được bệnh trước, những chướng ngại không sanh, pháp thiền định quyết định được.
C) XUẤT: Hành giả nếu tọa thiền sắp xong khi muốn xuất định, nên trước phóng tâm duyên cảnh khác, tụng bài hồi hướng, dùng mũi hít hơi vô đầy khắp thân, tưởng khắp trăm mạch máu đều theo hơi thở mà lưu chuyển(2). Thở ra bằng miệng, tưởng tất cả phiền não bệnh hoạn và hơi xú uế đều ra ngoài hết. Nhiên hậu nhẹ nhẹ động thân, kế động vai, bắp tay (chỗ con chuột); lần lượt đến tay, đầu, cổ và sau động hai chân, tất cả đều phải êm ái, rốt sau lấy tay xoa khắp lỗ chân lông, rồi hai tay xoa nhau cho nóng áp lên hai con mắt, sau mới mở mắt, đợi sức nóng trong người tan hết mới tùy ý ra đi. Nếu không đúng như vậy, khi ngồi được trụ tâm, mà khi xuất buông xả mau quá thì phần vi tế chưa tan, trụ lại trong thân khiến người nhức đầu, trăm lóng xương cứng đờ như mắc chứng phong lao; về sau trong khi tọa thiền bứt rứt không yên. Thế nên muốn xuất định, mỗi việc đều phải lưu ý. Đây là phương pháp điều thân, hơi thở và tâm, từ tế đến thô.
Thế gọi là khéo Nhập, Trụ và Xuất, như bài kệ:
Tiến dừng có thứ tự,
Thô tế không trái nhau,
Ví như khéo tập ngựa,
Tùy ý muốn đứng đi.
Kinh Pháp Hoa chép: “Đại chúng và chư Bồ-tát... ở hội này, đã trong vô lượng ức kiếp chỉ vì Phật đạo, siêng tu tinh tấn, khéo nhập, trụ, xuất được vô lượng trăm ngàn muôn ức chánh định, được đại thần thông, đã lâu tu hạnh thanh tịnh, khéo hay thứ tự lập các pháp lành.”
(1) Phần này đã được sửa đổi theo kinh nghiệm tu tập của dịch giả.
(2) Phần này có sửa đổi theo kinh nghiệm tu tập của dịch giả.