THÍCH THIỀN BA LA MẬT
THỨ ĐỆ PHÁP MÔN
Giảng giải: Đại Sư Thiên Thai
CHƯƠNG BẢY
GIẢI THÍCH TU CHỨNG
THIỀN BA LA MẬT
TẬP MỘT
Trên đã nói rộng phương tiện nội ngoại, nếu hành giả chuyên tâm tu tập hệ niệm môn Thiền sẽ có chứng nghiệm. Cho nên chương bảy nói rộng tu chứng.
Cho nên Kinh nói: Tu pháp ta, chứng thì tự biết.
Nay nói tu chứng, là có bốn:
1. Tu chứng Thiền thế gian.
2. Tu chứng Thiền vừa thế gian vừa xuất thế gian.
3. Tu chứng Thiền xuất thế gian.. Tu chứng Thiền không phải thế gian không phải xuất thế gian.
A. Tu chứng Thiền thế gian, có ba: Một là tứ Thiền, hai là bốn tâm vô lượng. Ba là bốn định vô sắc.
I. Tu chứng bốn Thiền: Một là Sơ Thiền, hai là Nhị Thiền, ba là Tam Thiền, bốn là Tứ Thiền.
Nay nói Sắc Giới Căn Bản Chánh Định, chỉ nói có bốn. Nếu phương tiện chung trung gian thì là bất định. Như các Sư Tát Bà Đa nói thì có Vị Đáo địa và Thiền trung gian thì đủ bốn Thiền là sáu địa định.
Còn các Sư Đàm Vô Đức thì không nói có Thiền vị lai mà nói có Thiền định trung gian Cõi Dục, lấy làm sáu địa định định của sáu địa. Như luận Đại Thừa và Cù sa nói thì có đủ Thiền trung gian Vị đáo địa Cõi Dục, là bốn Thiền làm bảy địa định định của Thất Địa. Đây là hội trung dung lấy nghĩa mà suy.
Nay nói theo vào chánh Thiền thì chỉ nói có bốn:
Thứ nhất: Giải thích Sơ Thiền tu chứng, như kệ trong Kinh nói:
Ly dục và pháp ác
Có giác và có quán
Ly sinh và hỷ lạc
Người nầy vào Sơ Thiền
Đã lìa được lửa dâm
Thì được định mát mẻ
Như người quá nóng bức
Xuống ao lạnh thì vui
Như nghèo được kho báu
Rất mừng biết động tâm
Phân biệt tức là quán
Vào Sơ Thiền cũng thế.
Trong kệ này Phật nói đủ tướng tu chứng của Sơ Thiền chỉ có ý là khó thấy, nay sẽ phân biệt.
Nói trong Sơ Thiền có mở ra ba thứ khác nhau: Một là giải thích tên, hai là nói tu tập, ba là nói tướng chứng.
1. Giải thích tên: Nói Sơ Thiền, Thiền gọi là dốc lòng, hành giả mới được pháp chi lâm nên gọi Sơ Thiền. Lại nữa, pháp giác quán gọi là chi, hành giả pháp Giác quán Sơ Thiền trước phải phát nên nói giác quán gọi là Sơ Thiền.
Hỏi: Nếu nói được phát trước nên nói Sơ Thiền, thì Vị đáo địa Cõi Dục là phát trước nhất, sao không được gọi là Sơ Thiền?
Đáp: Thiền gọi là công đức tòng lâm, Vị đáo Cõi Dục, v.v… chưa có pháp công đức chi lâm, tuy phát trước mà không gọi là Sơ Thiền. Lại nữa, luận Đại Thừa nói Vị đáo trung gian Cõi Dục thì trí nhiều mà định ít, là chỗ không vui, đã không phải chánh địa cho nên chẳng được gọi Sơ Thiền. Lại nói Sơ Thiền cũng gọi là Tam Muội có giác có quán, vì có người nghi nói trong tâm giác quán không có định, cho nên Phật nói Tam Muội giác quán.
Luận Địa Trì cho rằng gọi giác quán đều là Thiền. Thiền nầy khi phát phải cùng giác quán đều phát, cũng gọi là Thánh nói, pháp định trong định này có giác quán, đường nói năng chưa dứt, cũng gọi là nói pháp. Có các thứ tên gọi khác nhau như thế v.v…
Hai là nói tu tập, lại có hai: Một là nói pháp phải tu, hai là nói tâm năng tu.
1. Nói pháp phải tu: Tức là A Na Ba Na, là pháp tu tập căn bản Sơ Thiền.
Có ba ý: Một là giải thích tên tức, hai là nói về tướng tức, ba là nói dụng của tức khác nhau. Một là nói A Na Ba Na, đây là tiếng Thiên trúc, đời Tần dịch A na là thở vào, Ba na là thở ra. Kinh An Ban Thủ Ý Tam Muội nói An là sinh, Ban là diệt. Nếu nói theo hơi thở sinh diệt thì nghĩa như trên. Nếu nói theo tâm sinh diệt thì bất định. Nay cho rằng nghĩa hơi thở ra vào là dịch chánh.
Hai là nói về tướng tức, có bốn: Một là phong, hai là suyễn, ba là khí, bốn là tức.
Phân biệt bốn tướng đủ như trong Điều Tức có nói: Chỉ nhiều phong thì tán, nhiều Suyễn thì kết, nhiều khí thì lao nhọc nhiều tức thì định. Hành giả phải bỏ ba thứ kia mà giữ lại tức, khéo lấy chẳng có tiếng, chẳng kết, nhẹ nhàng dường như còn, dường như mất mà dùng.
Ba là nói dùng tức khác nhau: Một Sư dạy buộc tâm đếm hơi thở ra.
Vì sao, vì đếm hơi thở ra thì khí chẳng gấp, thân chẳng trướng mãn, thân tâm nhẹ nhàng nhanh nhẹn dễ vào Tam Muội?
Có Sư dạy đếm hơi thở vào.
Vì sao?
Vì đếm hơi thở vào thì một là dễ vào định theo hơi thở thu vào trong, hai là dứt cảnh ngoài, ba là dễ thấy ba mươi sáu vật trong thân, bốn là sức thân nhẹ mạnh, năm là trong thật dứt tham giận. Có các lợi ích tốt đẹp như thế chẳng phải một, nên đếm hơi thở vào.
Có Sư dạy đếm hơi thở ra vào không ở đâu hết, lấy chỗ tiện lợi mà đếm không dùng riêng, tùy tâm người an vào định không lỗi, tức dùng chỗ luận của ba Sư đều chẳng cho ra vào đều đếm một lúc.
Vì sao?
Vì bị hơi thở ngăn, bệnh sẽ sinh trong cổ họng, cũng như có lá cỏ khạc chẳng ra, nuốt chẳng vào, đây là bệnh sinh. Lại Thầy y theo bốn thời dùng số, nay thì chưa rõ. Hai là nói tâm năng đếm, cũng có ba ý: Một tâm năng đếm, hai là chuyển duyên, ba là phân biệt.
Một là Tâm năng đếm dùng tâm tế niệm nhiếp tâm đối hơi thở từ một đến mười khiến tâm chẳng tan, nên gọi là sổ tức đếm hơi thở. Nếu đếm chẳng đủ mười gọi là số giảm đếm bớt, nếu đêm mười một gọi là số tăng.
Song số tăng giảm đều không phải được đạo định, nếu từ một đến mười, phải thường đủ mười, không có lỗi cách một, nên gọi là đếm pháp thành tựu. Nếu giữa chừng tâm bỗng gặp duyên khác mà số đếm lộn lạo thì tâm biết tán loạn còn mạnh. Nếu lấy một làm số thì không có khoảng giữa, nếu có duyên lạ thì chẳng biết ngay vì chỉ duyên với một hơi thở, chẳng thể dứt loạn.
Nếu quá mười thì lại một pháp mà khởi, một tâm duyên hai thì có loạn sinh, nên gọi là thêm. Hễ đếm số, chỉ tế tâm y cứ hơi thở ghi số mà thôi, chẳng được lấy nhiều số. Nếu thờ nhiều thì khí đầy bụng phình thể gập, muốn ngồi chẳng yên.
Hai là chuyển duyên, là trước đếm hơi thở, biết hơi thở nhẹ nhàng thì phải bỏ đếm số mà theo hơi thở tùy tức, mặc tình vào ra, nếu tâm muốn tịnh, liền bỏ tùy ngưng mà tâm dừng trụ ở tâm. Nếu tối tăm liền tĩnh chiếu sắc tức tâm. Nếu phù động thì liền bỏ quán theo sổ và theo chỉ, cho nên gọi là hoàn. Tâm chẳng rong ruổi, ngưng thần dứt lự nên gọi là Tịnh. Nếu hành giả khéo léo nhiếp lục như thế thì tâm dễ định.
Ba là phân biệt tức là môn đầu.
Hỏi: Tất cả Pháp Môn đều có thể làm đầu, vì sao chỉ nói A Na Ba Na là môn đầu?
Đáp: Chẳng phải thế, nay theo Phật dạy như Kinh nói: A Na Ba Na là môn đầu của Chư Phật ba đời vào đạo. Cho nên Đức Thích Ca trước đến cây đạo muốn tu tập Phật Pháp, trong tâm nghĩ về An Ban một Sổ, hai Tùy, cho đến Hoàn tịnh, đủ như Kinh Thụy Ứng có nói.
Lại nữa, Đề Bà khi mới ra đời, hàng phục ngoại đạo xong, mọi người kính tin, độ người Xuất Gia chẳng biết bao nhiêu, do đó tập hợp bảy chúng đệ tử tại gia Xuất Gia và Sát lợi Bàla môn, ở giữa chúng lên Tòa Sư Tử khóc lóc như mưa.
Khi ấy, đại chúng đều nghĩ thầm rằng: Có lẽ Phật Pháp sắp diệt, ngoại đạo sắp khởi tà, có lẽ trong nước sắp gặp nhiều tai họa dịch bệnh khắp nơi.
Khi ấy, Bồ Tát biết tâm đại chúng, lấy khăn lau lệ, sửa lại y phục ngay ngắn đưa tay phải lên nói rằng: Không phải Phật Pháp sắp diệt mà ngoại đạo khởi tà, không phải nước chẳng yên bệnh dịch khắp nơi.
Chỉ thương mặt trời Phật bớt sáng, mặt trăng Thánh lặn mất, trong đó trống rỗng chẳng có Cà Sa. Bấy giờ, đại chúng nghe lời ấy xong đều tự cảm thương mà khóc lớn. Khi ấy, nhiều loài chim ở trên hư không rơi xuống tán loạn, phát tiếng kêu thảm thiết.
Bấy giờ, Bồ Tát dùng lời dịu dàng từ ái an ủi đại chúng mà nói kệ rằng:
Mặt trời Phật ở đời
Không mắt nên chẳng thấy
Trăng Hiền Thánh không lặn
Bị che nên chẳng thấy
Nếu dẹp hết màn che
Thì sẽ tự thấy được,
Đâu lo sợ mất mát
Ngủ say như trẻ con.
Bấy giờ, đại chúng nghe từ âm của Bồ Tát tâm đều tỉnh ngộ, nhiếp tâm ngồi yên, lặng lẽ không tiếng động, nhìn Bồ Tát chăm chú, đều muốn nghe pháp. Khi ấy, Bồ Tát đều bảo khắp đại chúng mà nói kệ rằng:
Phật nói môn cam lồ
Tên A Na Ba Na,
Ở trong các Pháp Môn
Đạo bậc nhất an ổn
Nhân duyên thứ lớp khởi
Chẳng lẫn các vọng tưởng
Thí như trồng thạch lựu
Mầm mộng lần lượt mọc
Hoa trái và sắc vị
Tự nhiên chẳng thể làm
Thời đến thì tự chứng
Chẳng phải màu mỡ sáp
Các ông điều thục địa
Cho ông giống thạch lựu
Khiến tâm vào cam lộ
Đạo pháp thứ lớp sinh.
Từ đây trở đi, Pháp Sư Tây Trúc truyền nhau chẳng thôi, thường dùng pháp này khi mới học đạo. Nếu Đại Sĩ bốn y, Bồ Tát sáu thông nói pháp độ người thì nói đây trước.
Há không phải là cửa đầu vào đạo hay sao?
Đời Mạt Pháp nối theo nói pháp dạy trao mà tự mình chẳng tu định. Đã không có nội đạo nói ra liền phá hành giả định. Nếu theo lời Đề Bà nói bèn cho Thiền định là cốt yếu. Người đời điên đảo thật là đáng thương.
Lại có người nói pháp Thiền một bề chẳng được chỗ, đại chúng nói kính tìm Đề Bà ở giữa đại chúng nói rộng Thiền định. Thời nay há đốn, ngậm miệng chẳng được nói ta chứng pháp ấy. Ta chứng pháp ấy và cảnh giới Thiền vi diệu bí mật nói với người thì bị tội chẳng nhẹ.
Ba là nói chứng tướng Thiền, thông phương tiện luận chứng có ba bậc: Một là chứng tướng định Cõi Dục, hai là chứng tướng Vị đáo định, ba là nói về chứng Sơ Thiền.
1 Nói chứng định Cõi Dục, có hai ý: Một là nói tướng chứng, hai là nói được mất.
Nay nói trong Cõi Dục, có ba: Một là thô trụ tâm, hai là tế trụ tâm, ba là chứng định Cõi Dục.
Một là thô trụ tướng: Do hơi thở trước đã phương tiện tu tập tâm dần hư ngưng, chẳng còn duyên lự, gọi là thô trụ.
Hai là tế trụ tướng: Ở sau tâm ấy mà mất dần chuyển tế tức là tế trụ tâm. Phải được các thô tế nầy, hoặc khi sắp được thì sẽ có pháp trì thân sinh ra.
Pháp nầy khi phát thì thân tâm tự nhiên ngay thẳng, ngồi không mỏi mệt, như vật giữ thân, nếu giữ thân tốt thì chỉ nhẹ nhàng giúp thân lực mà thôi. Nếu là thô thì thân cứng chắc mạnh mẽ. Đến thì khổ gấp cứng chắc, đi thì chậm nhẹ làm khốn đốn người. Đây không phải là pháp tốt, tâm đã tế rồi, đối với giác mà biết tâm tự trong sáng, tương ưng với định.
Pháp định từ tâm mặc tình bất động từ cạn vào sâu, hoặc trải qua một lần ngồi mà ý không phân tán. Do đó, nói đây là định Cõi Dục. Khi vào định này, tướng Cõi Dục báo thân chưa hết. Hai là nói được mất, vào định Cõi Dục pháp tâm đã cạn, chưa có chi trì thì khó được mà dễ mất. Nhân duyên dễ mất là việc cần phải biết.
Mất định có hai thứ: Một là từ duyên bên ngoài, tức là khi được định chẳng khéo dụng tâm, phương tiện nội ngoại, giữa chừng trái phạm thì lui mất Thiền định.
Lại nữa, nếu hành giả khi được định hoặc nói với người, hoặc hiện tướng định cho người khác biết, hoặc bỗng có sự duyên hoại nhau như thế, các thứ ngoại sự ở trong chẳng hay chẳng biết, chướng pháp đã sinh thì liền mất định. Nếu giữ gìn vốn được thì chẳng mất. Chướng chẳng sinh nên gọi là Được.
Hai là y cứ nội mà nói về được mất, có sáu thứ hay mất Thiền định: Một là tâm trông mong, hai là tâm nghi, ba là tâm sợ, bốn là quá mừng, năm là ái nặng, sáu là lo hối. Chưa được Thiền định hai có một, tức là tâm trông mong.
Nhập định có bốn là nghi sợ mừng ái, xuất định có nhiều lo hối. Ở đây thì phá tâm định làm cho lui mất. Nếu nói chung sáu thứ nầy thì đều chưa nhập trụ xuất, đều có sáu thứ nầy làm cho lui mất định. Nếu lìa sáu thứ này thì dễ được định. Vì chẳng mết nên gọi là được.
Ở đây tuy việc gần nếu chẳng nói thì người chẳng biết. Nếu khéo giữ ý thì biết là che chướng. Hai là nói tướng định vị đáo địa. Nhân định Cõi Dục này thân sau tâm mất trống rỗng, mất thân Cõi Dục, trong lúc ngồi chẳng thấy đầu tay giường chõng, cũng như hư không.
Đây là định Vị đạo địa, nói Vị đáo địa là địa này sinh ra Sơ Thiền, tức là định Sơ Thiền phương tiện. Cũng gọi là Thiền Vị lai, cũng gọi là trạm tâm Hốt Nhiên. Khi chứng minh định này thì tướng đều cạn sâu, nay chẳng có sáng suốt. Lại nữa, trong định này hoặc có tà ngụy. Hành giả phải chứng tướng nó không phải một.
Lược nêu hai việc: Một là định tâm quá sáng, hai làquá tối đều là tà định. Sáng là khi nhập định thì thấy cảnh giới ngoài xanh vàng đỏ trắng, hoặc thấy mặt trời, mặt trăng, các sao và cung điện, v.v… hoặc một lúc, một ngày, cho đến bảy ngày mà không xuất định, thấy tất cả việc như được thần thông.
Đây là tà, phải mau bỏ đi. Hai là nếu vào Thiền này, bỗng biết tối tăm như ngủ mê chẳng khác, tức là không có tâm tưởng khiến cho hành giả sinh tâm điên đảo, phải mau bỏ đi.
Đây là nói lược tướng tà định, trong ấy các hại nạn không dùng văn nói hết. Lại nữa, nếu y vào Thành luận, Tỳ Đàm phân biệt hai định là bất tiện. Nay y theo Tôn Giả Cù Sa nói phân biệt hai định có khác, lẽ ra cũng không lỗi, đủ như trước đã dẫn luận Đại Thừa giải thích. Nhưng thường thấy người ngồi khi chứng định, thật có hai tướng định khác nhau, cho nên nay nói Cõi Dục hai định vị đáo đều khác.
Ba là nói về tướng chứng Thiền, có sáu thứ: Một là Sơ Thiền phát tướng, hai là nói chi, ba là nói thể dụng nhân quả, bốn là nói cạn sâu, năm là nói tiến lùi, sáu là nói công đức.