Như bài trước đã viết, Quỷ ác chỉ có thể nhập vào những ai bị sa đọa trong hành vi thân, ngữ, tâm, mà cụ thể là tạo ác nghiệp thường xuyên về sát sanh, trộm cắp, tà hạnh trong quan hệ nam-nữ, nói dối hại người, lạm dụng các chất các thứ gây nghiện.
Song, những người đường hoàng, lương thiện tại sao cũng bị “nhập đồng”. Đây là lý do để đề cập đến một loại người gọi là “linh môi”.
LINH MÔI LÀ AI?
“Linh môi” là một thuật ngữ tôn giáo, và ở trong tín ngưỡng dân gian thường được gọi là “bà đồng”, “bà cốt”, “người chầu Mẫu”. Ở miềnNamthường truyền miệng danh từ nhân xưng là “Cô”, “Cậu”, “Thím”…Chúng ta tìm hiểu về hạng người đầu tiên trong phạm trù này.
“bà đồng”, “bà cốt”, “người chầu Mẫu”
Có những người nghiêm túc, do kiếp trước là một trong những vị thuộc hoàng tộc của Quỷ Vương, Long Vương, Thiên Vương, sau khi hết phước họ thác sanh vào 3 cõi thấp. Mãn nghiệp, họ được làm người, bấy giờ trong họ sẵn có mầm mống kiếp cũ . Nhờ ngoại duyên tác động, tiềm thức trỗi dậy một cách lờ mờ nhưng khả năng ngoại cảm được bộc phát gọi là “sức linh”. Linh môi có nghĩa là hạng người trung gian (môi giới), giao tiếp giữa con người và “thần linh” nào đó thuộc thế giới siêu hình. Họ nhận lời dạy, chỉ dẫn của “thần linh” rồi hướng dẫn lại con người làm theo.
“bà đồng”, “bà cốt”, “người chầu Mẫu”
Tùy theo kiếp cũ xa xưa của họ thuộc Quỷ chúng, Long chúng, hoặc Thiên chúng, thì nay họ có được những sức linh tương ưng. Do vậy, họ hay khuyên người khác thờ tự những ai mà trước đó họ tôn kính. Chẳng hạn như linh môi thuộc Quỷ chúng, thì bảo đồ đệ thờ Quỷ vương, tương tự – Long vương; Thiên vương. Riêng linh môi thuộc Quỷ chúng, thường không muốn tự nhận mình là quyến thuộc của Quỷ nên họ mạo xưng những từ cao cấp như “Thần linh”, “Tiên ông”, “Tiên nữ”, “Thiên sứ”, “Tiên tri”, “Bồ tát”…Vì sao? Bởi lẽ họ hiểu rằng Quỷ là loại chuyên gây họa, gây hại cho loài người nhiều hơn là hành thiện, nên họ tránh dùng những từ ngữ liên quan đến Quỷ.
“bà đồng”, “bà cốt”, “người chầu Mẫu”
Thuở hồng hoang của lịch sử, khi loài người còn ở dạng bộ lạc ban sơ, sức linh dễ được phát hiện. Bỡi lẽ, thời đó, giữa con người và sinh thể cõi siêu hình dễ tương thông vì tâm lý loài người thời đó thường sợ hãi, và bị chế ngự bởi nhiều ảo tưởng. Họ có khuynh hướng thờ cúng những vị thần do họ tưởng tượng. Đây là điều kiện tốt cho chúng quỷ lộng hành, tác oai tác quái. Họ dựa vào những linh môi mà phán xét, ra lệnh. Từ đó xuất hiện những hạng người như thầy mo, thầy pháp, thầy cúng, phù thủy của bộ lạc, bộ tộc. Về sau, khi trình độ văn minh lên cao, người ta dùng từ cao cấp hơn là “tế sư”, “tiên tri” “thiên sứ”, “thuật sĩ”…Cho dầu dùng bao nhiêu mỹ từ đi nữa, bản chất họ vẫn là hạng “linh môi”.
Thơ “nhập đồng”
Tùy theo “bề trên” của họ là ai (quỷ, rồng, trời) thì họ có được sức linh của cõi ấy. Họ có thể dựa vào đó mà thể hiện một ít “thần thông” như đoán trước được sự kiện sẽ diễn ra trong vài ngày tới; thấy được những gì dưới lòng đất; giao tiếp được với những sinh thể siêu hình. Do đó, người ta thường kính sợ linh môi, cứ xem họ như bậc tiên thánh. Thực ra, họ chỉ có thể phát huy được sức linh của mình khi được “bề trên” dựa vào. Ngoài thời điểm ấy, họ chỉ là người thường với những hỷ nộ ái ố của riêng mình.
“Thần y” chữa bệnh bằng nhảy múa
PHÂN LOẠI LINH MÔI
Hạng linh môi được phân chia thành 2 loại. Một là loại linh môi tự nhiên, hai là linh môi được đào luyện.
Linh môi tự nhiên hoặc ngẫu nhiên là người có thể vía nhẹ, tần số tâm linh gần tương ưng hoặc tương ưng với “bề trên”. Một ngày kia họ vào đền, miếu, đình, mạo, miễu liền được “bề trên” (quỷ, rồng) gá vào, liền bỗng nhiên đạt được khả năng ngoại cảm. Giờ đây cần hiểu nghĩa từ “ngoại cảm” là gì? Ngoại tức là “ngoài”, “cảm” là cảm nhận, cảm thấy bằng những giác quan sẵn có của con người, như khứu giác, vị giác, thị giác, thính giác, xúc giác (gọi là 5 giác quan thuộc mắt, tai, mũi, lưởi, thân). Ngoại cảm tức là giác quan ngoài 5 thứ kia, mà thế gian dùng từ “giác quan thứ 6”. Khả năng ngoại cảm là như vậy!
Loại người thứ hai là linh môi được đào luyện. Họ là những người được huấn luyện qua trường lớp, khóa học, khóa tu nào đó, rồi mới trở thành linh môi. Có nghĩa là trong quá trình đó, bằng những bài tập tâm linh, họ được rèn luyện trong những điều kiện thích hợp cho sự “nhập đồng” của “bề trên”, tùy theo những vị thầy linh môi. Từ đó họ có thể tiếp cận được với quỷ thần, rồng trời trong nghi lễ huyền hoặc, hoặc trong cúng tế đầy huyết tanh. Đây là hiện tượng của những kẻ “hầu đồng”, “lên đồng”, “thầy bói”, “thầy pháp”, “thầy mo”.
hiện tượng của những kẻ “hầu đồng”, “lên đồng”, “thầy bói”, “thầy pháp”, “thầy mo”.
Tùy theo trình độ tâm linh của “bề trên” mà linh môi dạy người khác theo những phương pháp khác nhau. Có linh môi dạy bằng cách giáng cơ, lập đàn; có linh môi được sức linh mà giảng thuyết hướng thiện. Ở những giáo phái do linh môi này sáng lập, thường chỉ có giáo luật (quy tắc, luật lệ) giáo nghi (hình thức hành lễ), mà không có giáo điển (yếu nghĩa cốt lõi của giáo phái), lại càng không có lịch sữ phát triển rõ ràng, nên đây là “tôn giáo” tự phát, tựa như một “cái lẩu” tâm linh.
Có loại linh môi được một trong những hoàng tộc của Quỷ vương, Long vương, Thiên vương, thuở xưa được vân tập về Pháp hội Linh Sơn nghe Đức Phật thuyết pháp, thì linh môi này được ứng khẩu nói ra những điều hay, lẽ phải; khuyên người khác làm lành, tránh dữ; khuyên người ta sùng bái “bề trên” của họ để được tài lộc, sức khỏe, công danh… Đây là sự giải thích cho những giáo phái hành thiện ra đời trong bối cảnh lịch sử đất nước. Tuy có những lợi ích tâm linh nhất định từ những linh môi này, nhưng lời dạy của họ chưa hợp với yếu nghĩa giải thoát của đạo Phật.
Tuy vậy, các trò cũng nên biết “Nhất Quán Đạo” và “Nhật Liên Tông” ở nước Nhật; Trai Giáo của Trung Quốc, giáo phái của Thanh Hải Vô thượng, tuy có dựa vào Tam bảo, nhưng thực tế họ không phải đạo Phật chân chính. Nên nhớ, tất cả các đạo khác, giáo phái khác ngoài đạo Phật, chỉ thuyết giảng (hoặc nói, hoặc viết) về hướng thiện, hướng thượng, không bàn đến hướng tịnh tức là Giải thoát. Luận lý của họ rơi vào nhị nguyên, biên kiến hoặc chấp có, hoặc chấp không, hoặc cả hai. Còn giáo điển Phật môn vượt lên trên những kiến chấp ấy, được gọi là Trí tuệ Tánh không vượt Luân hồi Tam giới. Tuy nhiên, dựa vào sức linh của “bề trên”, họ cũng tạo ảnh hưởng nhiều cho những người thiếu hiểu biết và mong cầu danh lợi.
Những hạng linh môi như trên gọi là “linh môi đời thứ nhất”. Do không có giáo điển nên đời sau của họ tùy theo mỗi người mà tự tung tự tác khác nhau, nên nảy sinh ra nhiều hậu quả. Từ đó có hạng linh môi được đào luyện.
Loại này được tuyển chọn từ những ai còn nhỏ tuổi (thiếu niên, hoặc nhi đồng), đưa vào đào tạo. Đương nhiên là linh môi được đào luyện phải có chút ít “linh căn”, có nghĩa là tâm lý nhạy cảm, mạnh ảo tưởng, chút gì đó “phiêu linh”. Về sau, khi họ trưởng thành, sức linh càng được củng cố, lớp linh môi này thay thế bậc đàn anh. Tuy nhiên, họ không còn được như thế hệ ban đầu vì sức linh đã suy giảm, khả năng không còn bén nhạy với sự tiếp cận “bề trên:. Phần lớn, họ phán đoán lờ mờ, sau đó tự nói theo ý riêng của mình để trục lợi cá nhân, dẫn dắt đồ chúng đến con đường lầm lạc mà bắt đầu từ sự mê tín. Do bản thân hạng linh môi đào luyện thiếu đạo đức thế gian, nên lúc bấy giờ Quỷ ác tha hồ “nhập đồng”, mà gây biết bao tai họa.
PHÂN BIỆT ĐỂ TRÁNH MÊ TÍN
Kinh Hoa Nghiêm và Địa Tạng của đạo Phật tuy có đề cập đến thần linh, bát bộ, nhưng đa số người dân nước ta có tín ngưỡng đa thần từ ảnh hưởng phong hóa của người Trung Quốc, chứ không phải theo niềm tin Phật giáo chân chánh. Theo nhận định của hòa thượng Thích Thánh Nghiêm, viện chủ Pháp Cổ Sơn ở Đài Loan, Phật giáo truyền vào Trung Quốc vào đời Tần Hán, trước cả thời Hai Bà Trưng ở nước ta. Trước đó, người Trung Quốc đã tín ngưỡng đa thần rồi. Họ coi Đức Phật cũng là một vị thần từ Tây Trúc mà thôi. Đến khi kinh Phật được dần dần phiên dịch, lưu truyền và kết tập thành Tam Tạng giáo điển bằng Hán ngữ, thì họ mới hiểu biết Phật giáo không phải thuộc tín ngưỡng dân gian. Song, cũng chỉ có những người nghiên tầm kinh điển Phật môn, và tu Phật chân chánh mới hiểu. Còn những người thường khi tiếp cận với Phật, Bồ tát trong đạo Phật, họ cũng có thái độ và quan niệm giống như tiếp cận với truyền thống thờ cúng tổ tiên, thần dân tộc, thần trong tự nhiên (thần cây, thần sấm, thần núi.). Cho nên thần và Phật trong tiểu thuyết, chuyện dân gian không có gì khác nhau. Người Trung Quốc thời bấy giờ biết đến Phật tổ, Quán Âm Bồ tát là nhờ vào tiểu thuyết thông tục như “Phong thần diễn nghĩa”, “Tây du ký”, “Quán Âm đắc đạo”v..v..mà không phải do đọc hiểu từ kinh điển Phật giáo. (nguồn: Phật học Quần Nghi).
Dân tộc ta chịu sự đô hộ hằng ngàn năm của Trung Quốc, từ thưở An Dương Vương thất thủ tại kinh thành Cổ Loa, đến đời Hai Bà Trưng, rồi thời tiết độ sứ họ Khúc..đều chịu sự ảnh hưởng phong hóa từ người Tàu. Đến đời Đinh, Lê, Lý, Trần thì Phật giáo mới phổ biến ở nước ta, nhưng không thể đẩy lùi tín ngưỡng dân gian trong dân chúng, bị ảnh hưởng trước đó đã lâu. Đây là âm mưu thâm độc của Trung Quốc mong đồng hóa người Việt bằng cách phổ biến những tín ngưỡng dân gian. Ban đầu là những thần linh trong truyện thần thoại và nhân vật lịch sử trong dân gian, về sau Phật giáo phổ cập ở Trung Quốc, bọn linh môi, cơ đồng cũng lên đồng, lập đàn tự xưng Phật, Bồ tát, La hán. Họ còn bịa đặt những nhân vật lịch sử hoặc những thần linh trong truyện thần thoại của họ, trở thành những hộ pháp (!) đạo Phật. Chẳng hạn như họ truyền miệng trong dân gian rằng Quan Công đắc thánh (!) , trở thành Hộ pháp Già lam, bà Thiên Hậu nào đó được dân Việt thờ tự cũng được dựng lên “lý lịch” là thuở nhỏ đã tu Phật, khiến dân ta sùng bái vô lý. Dần dần do sức lan truyền rộng rãi trong dân chúng, nên Phật giáo bị xem như là tín ngưỡng dân gian. Và trong tín ngưỡng dân gian cũng lẫn vào sự sùng bái Phật, Bồ tát như chuyện “Tấm Cám”, “Cây tre trăm đốt”, “Quan Âm Thị Kính”.
Do vậy, để tránh rơi vào mê tín dị đoan, lầm mưu sa kế của những linh môi, cơ đồng, bà cốt.. trục lợi, chúng ta phải dùng trạch pháp nhãn Phật môn mà chiếu soi. Những kẻ linh môi bất chính thường sử dụng thần thông, khiến cho người khác sợ hãi, tin liền, và từ đó về sau là “tê liệt sự phản kháng trong ý thức”. Chiêu thức thần thông của họ là nhờ sức linh mà phán đoán trước sự cố; giao tiếp với vong hồn ; thấy được những gì người khác không thấy…
Ở đạo Phật sử dụng thần thông là điều tối kỵ
Đức Phật là một bậc đại thần thông, nhưng Ngài chỉ dụng thần thông giáo hóa, tức là soi sáng chân lý Phật đà bằng lý nhân duyên, luật nhân quả, thấu đáo “khổ tập diệt đạo”. Ở đạo Phật sử dụng thần thông là điều tối kỵ, nếu thánh giả, thánh sư, có sử dụng thì chỉ vì một mục đích duy nhất, là đưa đối tượng quy hướng đầu Phật. Với những linh môi, mục đích sử dụng thần thông là vì trục lợi cá nhân, đánh bóng bản ngã, lôi kéo đồ chúng.
Cũng cần nhấn mạnh một điều là thần thông của người tu đạo Phật chân chánh đều do khổ luyện, hành trì mà thành. Còn thần thông của linh môi tự nhiên mà có do sức linh của quỷ, thần, thiên, long “gá” vào. Do vậy, một bên là của mình nên luôn hiện hữu, còn bên kia là nương tựa vào “bề trên” nên chỉ thường sẽ mất sau khi “bề trên” rời khỏi.
Mặt khác, cần phân biệt rằng có những linh môi thuộc hạng người đa văn thông tuệ, thế trí biện thông. Họ có thể xuất khẩu thành thi (mở lời thành thơ), đặt bút thành bài, nhưng lãng bãng trong câu chữ của họ cũng bàng bạc những sắc thái “kiêu mạn”, “cầu danh”, “tham chức tước”, “phong tình”. Viết đến đây, các trò nên nhớ lại những quyển sách, mà trong đó trích dẫn những ví dụ về chuyện phụ nữ, phong tình lứa đôi; hoặc những bài thơ của một số thầy tu đạo Phật và ngoại đạo dùng những từ “rất đời như “em, nàng, yêu, ghét”.