Mục lục
1. Kỳ ngộ khó tin (Chương: những trải nghiệm lạ kỳ)
2. Câu chuyện trong miếu
3. Vân du tiên giới
4. Vị thầy ẩn hình
5. Nhân duyên thờ phượng Quan Âm Bồ Tát
6. Học đạo ở Liên Đầu Sơn
7. Lần đầu hiển thần thông
8. Đến Bành Hồ hỏi Thành Hoàng
9. Trên Trúc Nam Sơn có tiên gia
10. Nét cười khó quên của Lục Giáp Nương nương
11. Đàm đạo ở Phụng Lâm Cung
12. Thuyết giáo ở Củng An cung
13. Ghi chép về Quan Âm Bồ Tát xả thân cứu kiếp nạn
14. Viếng thăm Chu Phỉ cư sĩ
15. Viếng thăm Lý Bỉnh Nam cư sĩ
16. Quy y và nhận Bồ tát giới
17. Độ vong thuật
18. Pháp hội lần đầu tại Lôi Tạng Tự
19. Linh là gì? (Chương: Khởi Linh và Thần Toán)
20. Tác tuế và tà tuế của Linh
21. Khởi động Chân Linh nguyên thủy
22. Chân linh ở nhất tâm, nhất niệm bất khởi
23. Tối hạ thừa là kê đồng
24. Bí thuật thần toán bốc quẻ
25. Phù kê thuật Thiên nhân hợp nhất
26. Truyền kỳ về Lộ thủy hình nộm
27. Thông linh thần toán kiêm đàm tâm thông
28. Thay thế Linh lực chính là bùa chú
29. Sơ đàm về Thiền cơ
30. Thần bàn linh nghiệm
31. Sơ đàm về mệnh vận
32. Trợ duyên của Chánh pháp
33. Pháp yếu mật chú
34. Tiền thế nhân quả diệu kỳ (Chương: Sự tích về Thông Linh Thần toán)
35. Ông già trồng cây quả
36. Cánh tay của tín đồ Cơ Đốc
37. Ra vào Thập pháp giới
38. Sự huyền bí của Hắc Lệnh Kỳ
39. Linh toán và Linh liệu
40. Tuyệt đối chớ tin Tà giáo
41. Hậu ký
42. Phụ lục
Lời mở đầu
* Vài câu nói mở đầu (Lư Thắng Ngạn văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Trước tiên, tôi muốn thanh minh rằng, đây là một quyển sách vô cùng thần diệu, nhưng tuyệt đối không phải là giả tạo, mà đây chính là những trải nghiệm của bản thân tôi, hoàn toàn chính xác chân thực, quyết không có chút nào giả dối. Đất trời bao la thế kia, chuyện kỳ lạ chi mà chẳng có. Nếu như các bạn xem kỹ quyển sách này, sẽ nhận thấy các kỳ ngộ mà bản thân Lư Thắng Ngạn tôi đã trải qua thật khiến người ta không thể nào ngờ được, sự thần kỳ và những điều không tưởng của nó sẽ làm cho những người sống trong thế kỷ 20 cảm thấy vô cùng kinh ngạc và không thể nào hiểu nổi. Hơn nữa khi tôi xuất bản quyển sách này cũng đã tạo nên sự chú ý, được những nhà khoa học hay những nhà nghiên cứu linh hồn học xem trọng, quả thật càng khiến rung động lòng người.
Tôi đã tốt nghiệp đại học, trình độ tri thức mặc dù chưa thể nói là cao đến mức mọi người giơ tay thán phục, tuy nhiên quyết không phải là hạng ngu si dốt nát. Tôi rất xem trọng việc giáo dục của bản thân, về tôn giáo, triết học, văn học, nghệ thuật v.v…đều có hứng thú nghiên cứu, đã viết hơn mười mấy quyển sách, nhưng tôi muốn nhấn mạnh một điều là tôi đã dùng thái độ nghiêm túc nhất để viết quyển “Mạn đàm về Linh Cơ thần toán” này, một quyển sách đáng trân trọng ghi chép về những trải nghiệm của chính bản thân, những tao ngộ li kỳ ở trong sách nếu như có câu nào giả dối, tôi xin gửi đến những độc giả đã kính trọng tôi, yêu mến tôi lời xin lỗi sâu sắc nhất.
Có lẽ có người cho rằng “Linh học” là mê tín, có lẽ cũng có người cho rằng “thần” là mê tín, tôi chỉ nói với họ rằng, tất cả đều đừng nên phản bác, tôi chỉ yêu cầu rằng trước khi nói “mê tín” hãy bỏ chút thời gian đi nghiên cứu “linh hồn”, hãy đi tìm hiểu “Linh lực”, xin hãy dùng chút thời gian để tìm hiểu “lực lượng siêu tự nhiên” (thần), không biết thì hãy nói là không biết, ấy mới “chính thật là biết”, nếu như không biết mà cứ cố nói biết, cố nói “mê tín” thì đây không phải là thái độ của một học giả. Hôm nay tôi mạnh dạn nói rằng: “Phàm những ai cho rằng linh học là mê tín, cho rằng thần là mê tín thì cho thấy rằng họ đối với linh học và thần chỉ là vô tri”. Khoa học ngày nay đúng là rất phát triển, tuy nhiên nếu muốn khoa học tìm ra “linh lực siêu cảm giác: thì vẫn còn chưa đạt đến được. Nay tôi viết quyển sách này, tất cả đều là kinh nghiệm bản thân tôi, nếu như có ai đó cho là mê tín, xin hãy bỏ qua cho tôi, bởi lẽ những gì tôi nói đều là chân thật, tuyệt đối không phải là mê tín, tôi không có ý cổ súy cho những ai mê tín, mà chỉ là nói ra những lời chân thật mà đã mấy năm nay tôi không dám nói ra.
Trong quyển sách này, tôi sẽ nói đến tôi đã khởi linh như thế nào? Làm thế nào để đi vào Linh giới? Làm thế nào để làm bạn với “Linh”? Làm thế nào mượn Linh lực để suy đoán tương lai? Giả sử như có người muốn học cách tiếp xúc với “Linh” thì tôi có thể chỉ dẫn cho chút ít, tất cả các quá trình này đều không phải là hoang đường mà là vô cùng chân thật. Quyển sách này có tựa đề là “Mạn đàm về Linh cơ thần toán”, quý độc giả chớ nên cho rằng đây chỉ là một quyển sách bói toán thông thường, mà nó ẩn chứa những học vấn sâu sắc hơn nhiều. Trong sách tôi cũng có nói về “Mệnh lí”, “Linh lực”, đồng thời cũng có những chiết giải về những bí mật của “Linh hồn” và “Thần”, hoàn toàn là phân tích dựa trên tinh thần tìm hiểu của khoa học, hy vọng quyển sách này xuất bản có thể giúp mọi người tăng thêm một phần nhận thức về “Linh học” và “Thần học”, những mong mọi người đừng nên chỉ nói là “mê tín” mà dễ dàng quên đi sự tồn tại của “điều đó”.
Có lẽ có người muốn tìm hiểu thân phận của tôi, lúc đầu tôi là giáo đồ Cơ đốc, tốt nghiệp lớp Sư phạm Hội Trưởng Lão Cơ đốc Tân Hưng thuộc Cơ Đốc Giáo Cao Hùng, đã từng được rửa tội, làm giáo viên Chủ nhật học, thầy giáo lớp Tra Kinh; sau đó theo Đạo giáo , từng làm qua công đức, là đạo sĩ Phân đường Thạch Bích thuộc đường Từ Huệ hội Đạo giáo Trung Hoa; hiện nay tôi đang theo tín ngưỡng Phật giáo ở chùa Nam Đầu Bích Sơn Nham thụ Bồ Tát giới Ưu Bà Tắc, quy y Thuận Ấn pháp sư, với ba người thầy thụ giới là Hiền Đốn, Tuệ Tam, Giác Quang, hiện nay trụ trì “Từ Huệ Lôi Tạng tự”. Tôi bẩm sinh rất hiếu kỳ với tôn giáo, cảm thấy rất hứng thú với “Linh”, cũng như về các kinh điển của Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Hiên Viên giáo…, cuốn nào tôi cũng có nghiên cứu qua; còn về Phật giáo, Đạo giáo, Cơ Đốc giáo thì càng không cần phải nhắc đến. Tôi đặc biệt cảm thấy rất hứng thú với các loại Bảo thư Thiền Tông như “Truyền Đăng Lục”, “Nhân Thiên Nhãn mục”, “Chỉ Nguyệt lục”, “Tâm Đăng lục”…, ngay cả đến “Mật giáo thông quan” của Mật tông, tôi cũng đã từng nghiên cứu qua, còn về “Đạo tạng Tam thập lục bộ chân kinh” của Đạo giáo thì chính là giáo trình tu luyện hàng ngày của tôi.
Tôi tin thuyết Luận Túc mệnh, tuy nhiên tôi cũng tin vào thuyết Khai vận lập mệnh, chuyện trong thiên hạ quả thật rất là kỳ diệu, Linh chính thực là gì? Thuyết Thiên đường Địa ngục phải chăng là có thật? Chính quyển sách này sẽ cho các bạn một đáp án tường tận. Do bởi thuật “Linh thông” của tôi được rất nhiều người biết đến nên đã có nhiều người từ khắp mọi tỉnh thành các nơi hiếu kỳ tìm đến, tuy nhiên tôi lại không muốn bản thân mình nổi tiếng vì những chuyện như thế, hơn nữa tôi cũng không muốn làm những chuyện phiền phức kia để khiến mọi người nghi hoặc, nên tôi viết quyển sách này kể toàn bộ sự việc ra không có chút dấu giếm nào, tôi không trốn tránh công chúng, mà là tôi muốn yên tĩnh tu hành để có thể đạt được một cảnh giới cao hơn, bởi lẽ nếu mọi người đều đến tìm tôi thì tôi sẽ chẳng còn chút thời gian nào để tu luyện.
Sau cùng tôi muốn mượn lời của nhà văn người Nga Tolstoy Lev Nikolaevich: “Sự mê tín ngu xuẩn nhất chính là có nhà khoa học cho rằng: Nhân loại không có tín ngưỡng thì vẫn có được cuộc sống”. Hiện nay tôi không dám nói rằng, người không có tín ngưỡng thì đều là người xấu, nhưng mà những người không có tín ngưỡng, những người không tin vào luân hồi quả báo thì hiển nhiên so với những người tương đối có tín ngưỡng thì càng tung hoành vô luật, chuyện ác nào cũng có thể làm, trong lòng không hề có chút úy kị nào cả. Quyển sách này tôi xin dâng tặng cho những vị thần linh tôi tôn kính và cho cả những bạn bè trong hư không linh giới.
(Viết tại Đài Trung, Từ Huệ Lôi Tạng Tự - Đài Loan tháng 4 năm 1975)
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh Cơ Thần Toán) Chương: Những trải nghiệm lạ kỳ
Kỳ ngộ khó tin
6 năm trước, vào ngày nào đó của năm 1969, mẹ tôi đi lạy Phật ở một ngôi miếu gần nhà, lúc đó tôi là tín đồ của Cơ Đốc giáo. Theo lý mà nói thì tôi không nên đi theo mẹ. Thế nhưng, sáng sớm hôm đó, tôi đã mơ thấy 1 giấc mộng thật kỳ lạ, trong mơ tôi thấy mình leo núi, một ngọn núi rất cao, dường như trên đỉnh núi có 1 ngôi miếu cổ, tôi không cưỡng lại được nên đã bước vào, thật kỳ lạ thay tôi không cảm thấy sợ hãi chút nào cả, dường như bản thân đã trở về nơi quê nhà thân thuộc vậy, trong miếu có rất nhiều pho tượng, có pho diện mạo từ bi, lại cũng có pho giống như Kim cương trừng mắt phẫn nộ, tôi nhẹ nhàng bước vào đại điện, có 1 vị đạo trưởng đứng trước mặt tôi.
Vị đạo trưởng chắp tay nói với tôi rằng: “Mới đến sao? Ta đã đợi ngươi lâu lắm rồi.”
“Đạo trưởng và tôi chưa từng quen biết, cớ sao lại nói đợi tôi?”
“Làm sao lại không quen biết chớ, đi khắp tam giáo, chu du tứ hải, 500 năm mới một lần hội ngộ, cho dù là ngươi có đọa xuống địa ngục u minh, trở thành ác quỷ, thì ta cũng có thể nhận ra chân tướng của ngươi!”
“Đạo trưởng, nói thế có nghĩa gì?”
“không đánh ngươi thì ngươi không biết”. Vị đạo trưởng vung phất trần lên, nhằm vào đỉnh đầu tôi vỗ xuống, tôi thất thanh kêu lên một tiếng, sợ đến toát cả mồ hôi lạnh, giật mình tỉnh giấc. Tôi vốn rất ít nằm mơ, duy chỉ có giấc mơ này thật là rõ ràng. Hôm đó vừa đúng là ngày Chủ nhật, mẹ tôi đi lạy Phật, bản thân tôi là tín đồ Cơ đốc giáo lại theo mẹ đi, đương nhiên là tôi chỉ đi chơi mà thôi, thắp nhang, nhưng sẽ không cúi đầu trước Quan Âm Bồ tát hoặc các vị Thần minh. Tôi xem việc đi miếu cũng giống như đi tham quan thắng cảnh vậy. Lúc bấy giờ, tôi thường hay cười nhạo những người dập đầu lạy Bồ Tát, nhất là những người đàn ông mặc Âu phục, nhìn dáng vẻ hết mực thành kính quỳ lạy kia thật đáng buồn cười thay.
Ngôi miếu đó không lớn, chỉ vào loại trung bình mà thôi, tên miếu là “Ngọc Hoàng Cung”. Ngọc Hoàng ở đây chính là Ngọc Hoàng Đại đế, trụ trí miếu này là một vị Hòa thượng tên là Thích Huệ Linh, trong miếu có rất nhiều Bồ Tát, nhưng đa phần tôi đều không biết. Hôm đó cũng không biết là ngày lễ gì mà người đi lễ rất nhiều, chen lấn với nhau, mùi nhang khói nồng cả lên, tôi rút vào góc góc nhỏ nơi hành lang miếu.
Lúc này, tôi bỗng chú ý đến trong số người đi lễ ấy, có một người phụ nữ mặc áo màu xanh, tuổi tác vào khoảng năm mươi mấy tuổi, đang quỳ trước Thần minh, trông dáng vẻ chừng như đang nói gì với Thần minh, xung quanh bà ấy có rất nhiều người, có lẽ như bà ấy đang giải đáp các vấn đề cho họ.
Bỗng một lát sau, bà ấy đột nhiên đứng lên kêu rằng: “Ai là Lư Thắng Ngạn? Trong các người ai là Lưu Thắng Ngạn?”
Tôi tuy là đứng ở bên ngoài cửa miếu nhưng vẫn nghe thấy, mẹ tôi cũng nghe thấy, mẹ tôi bước lên trước hỏi bà ấy: “Xin hỏi bà tìm Lư Thắng Ngạn chẳng hay có việc gì không?”
“Không phải là tôi tìm người này mà là Bồ Tát Thần minh tìm, mau bảo người này đến đây, Bồ Tát có việc cần căn dặn”. Người phụ nữ áo xanh này nói với mẹ tôi một cách gấp rút.
Thế là tôi đến đứng trước mặt người phụ nữ đó, bà ấy trông thật kỳ lạ, một mặt nằm phía trên, còn một mắt lại nằm phía dưới, miệng thì hơi lệch, cổ quái vô cùng, những người xung quanh nói rằng, một con mắt nằm trên của bà ấy là để nhìn trời (Thần), một mắt dưới là để nhìn Đất (Quỷ), tôi đứng trước người phụ nữ này nhưng trong lòng không hiểu gì cả
“Ngươi chính là Lư Thắng Ngạn à?”
“Đúng vậy, không biết có gì chỉ dạy chăng?”
Bà ấy quỳ trước mặt Bồ Tát, lẩm bẩm nói gì đấy với Bồ Tát, sau đó quay lại hỏi tôi: “Ngươi là tín đồ Cơ Đốc à?” “Thưa phải.” “Ngươi hiện đang phục vụ ở đơn vị xx?” “Đúng vậy.” “Ngươi đã tốt nghiệp đại học, đúng không?” “Đúng”, “Giấc mộng chỉ điểm sáng nay, ngươi có hiểu không?”. Lúc này tôi ngớ người ra, người phụ nữ hiện đang quỳ trước mắt tôi lại có thể biết cả đến giấc mộng sáng nay của tôi, mặc dù rằng chuyện nằm mơ tôi chưa từng kể với ai, ngay cả là mẹ tôi cũng thế. Tôi chỉ là nhất thời muốn đi miếu để dạo chơi mà thôi, đây quả thật là một chuyện không thể nào tin nổi. Sau đó bà ấy lại hỏi tôi những câu mà tôi nếu như không trả lời là “đúng” thì cũng chỉ trả lời là “Phải rồi”, bởi lẽ tất cả những gì bà ấy nói đều hoàn toàn chính xác, không có gì sai lệch cả.
“Bồ Tát mong rằng ngươi có thể giúp Bồ Tát hành thiện, truyền đạo giải mê, phát dương tinh thần của nhà Phật, đề cao cái Thiện, đẩy lùi cái Ác, người đời hiện nay tính tình rất là xấu xa, có một số người bất chánh cố ý khoác lên mình tấm áo Thần phật nhưng lại làm ra những chuyện thương hại trời đất, giúp người xem tướng, mưu tài đoạt sắc, miệng cười tươi như hoa sen nhưng lại buông lời yêu ma mị chúng, chánh đạo trầm luân, tà đạo hưng khởi. Sau này, trọng trách của ngươi rất lớn, Bồ tát đã nhìn thấy thiện tâm, hành vi chính trực của ngươi, do vậy muốn ngươi hãy giúp trời hành đạo.”
“Tôi? Tôi không biết gì cả đâu.”
“Trước mắt thì ngươi không biết gì cả, nhưng chỉ cần ngươi quỳ xuống thì có thể biết tất cả, ta không lừa gạt ngươi đâu, nào đến đây quỳ bên cạnh ta, chắp 2 tay lại.”
Tôi học theo dáng vẻ của bà ấy, quỳ xuống trước mặt Bồ Tát, 2 tay chắp lại. Lúc bấy giờ, trong miếu có rất nhiều người, có cả trụ trì Thích Huệ Linh và mẹ tôi đang đứng phía sau tôi, tôi vừa nhắm hai mắt lại thì chuyện kỳ lạ đã xảy ra, khi mắt tôi vừa nhắm lại thì trước mắt bỗng nhiên xuất hiện một luồng hào quang, trong luồng hào quang đó có ba vị Bồ Tát đang ngồi trên tòa sen, kim thân bảy sắc, quang hoa chói lọi, tôi nói thầm đây không phải là mơ, không phải là mơ, mà là thật sự nhìn thấy giữa thanh thiên bạch nhật, vị Bồ Tát ở giữa mở miệng nói: “nhất tâm học Phật”, hai vị Bồ Tát ở hai bên cùng nói: “nhất tâm học pháp”, “nhất tâm hướng thiện”. Nói xong , tức thì biến mất. Tiếp đó từ trên không trung bay xuống hai giải lụa đỏ với ánh vàng rực rỡ, trên giải lụa viết hai chữ vàng rất lớn, “Trung nghĩa”, bên tai không biết từ đâu truyền đến: “Nay Ngọc đế đặc biệt ban tặng cho ngươi 2 chữ “Trung Nghĩa”, đây cũng chính là nguyên tắc xử thế làm người suốt đời của ngươi, phàm làm chuyện gì cũng nên hỏi tâm mình có nên làm hay không nên làm, ngưỡng mặt lên không hổ với trời, cúi mặt không thẹn với đất, tự do tự tại, trường tồn vĩnh viễn cùng trời đất.”
Chữ trên giải lụa tôi tận mắt nhìn thấy, tuyệt không có chút nào hư ảo.
“Ngươi nhìn thấy rồi chứ?” Người phụ nữ ấy hỏi tôi
“Nhìn thấy rồi, cũng nghe thấy rồi, thế nhưng chuyện này làm sao có thể chứ?”
“Trên đời này có rất nhiều chuyện mà ngươi không thể nào ngờ được. Hôm nay ngươi cũng xem như là đã mở rộng chút ít rồi, từ từ rồi người cũng sẽ hiểu được thế giới kỳ lạ trong cõi mênh mông kia. Ngươi từ nay sẽ trở thành một người khác với các kẻ phàm phu bình thường, nhìn thấy những điều mà người ta không nhìn thấy, nghe được những điều mà người thường không nghe thấy, cảm nhận được những gì mà người khác không thể cảm nhận được.” Người phụ nữ áo xanh đó nói : “Thần minh rồi sẽ từ từ chỉ điểm cho ngươi.”
Chuyện trong ngôi miếu ấy, tôi không tin là có thật, tuy nhiên sự việc lại khiến tôi không thể không tin
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Câu chuyện trong miếu .
Ở trong miếu, người phụ nữ áo xanh đó đã kể cho tôi một câu chuyện như sau
Ở đường Hoa Liên Trung Sơn, có một người họ Lý, tên là Thiên Tứ, anh ta làm nghề tạc tượng và quét vôi ở miếu, chẳng hạn như là sơn lại những con rồng trên nóc miếu. Anh ta không tin thần thánh, không có tín ngưỡng. Có một lần anh ta đến làm việc tại miếu Dao Trì Thánh Mẫu của phân đường Thạch Bích thuộc Hoa Liên Từ Huệ Đường, công việc sau khi hoàn tất, anh ta đi tham quan khắp nơi trong miếu, khi anh ta đi đến trước một pho tượng Thánh Mẫu, không biết vì nguyên nhân gì chắp tay lại, cúi đầu khẽ xá, cái xá này chỉ là khẻ cúi người mà thôi
Khi anh ta vừa cúi đầu xuống, bỗng nhiên không thể nào ngẩng đầu lên được nữa, cảm thấy đầu mình bỗng dưng nặng tựa ngàn cân, đè nặng đến anh ta bật kêu thất thanh. Trụ trì và các chấp sự trong miếu vội vàng chạy đến hỏi nguyên nhân, sau khi mọi người hiểu rõ nguyên do bèn vội vã quỳ xuống cầu xin thần minh tha thứ cho anh ta, lúc bấy giờ người phụ nữ mặc áo xanh (tức là người phụ nữ kể chuyện) cũng có mặt ở đó, bà ấy lập tức cầu xin thần thánh chỉ bảo. Thần thánh chỉ thị như sau: “Người này không tin thần thánh, nhưng lại có duyên với thần thánh, ta muốn hắn hiểu được rằng trong thiên hạ có thần thánh tồn tại, muốn hắn dập đầu bái lạy thần thánh 12 cái, thì ta sẽ tha cho hắn đứng dậy.” Kể ra cũng thật kỳ quái, sau khi Lý Thiên Tứ dập đầu lạy 12 cái xong thì đã có thể ngẩng đầu lên.
Lý Thiên Tứ luôn miệng kêu: “Hây! Quả nhiên là có thật!”. Từ đó về sau, người thợ sơn này không dám không tin thần thánh nữa, khi có thời gian rãnh anh ta thường đến làm việc trong miếu, gặp người khác anh ta thường kể về những chuyện bản thân anh ta đã gặp trong quá khứ.
Hãy quay trở lại người phụ nữ áo xanh kia, bà ấy thuộc Dao trì phái của Đạo giáo, là đạo sĩ phân đường Thạch Bích của Từ Huệ đường. Nếu tính ra thì việc học đạo của tôi cũng bắt nguồn chính từ bà ấy, trước khi tôi gặp bà ấy thì tôi là tín đồ của Cơ đốc giáo, sau khi gặp bà ấy thì niềm tin về đạo gia của tôi đã dần dần gia tăng. Người phụ nữ này có đôi mắt âm dương, có thể đoán mệnh cho người, không cần nói dĩ nhiên là linh nghiệm như thần rồi, ngay cả đến tên riêng của ông bà nội người khác, bà ấy cũng có thể biết được, thần quỷ đều là bạn tốt của bà ấy, bà ấy quả thật là một nhân vật rất đổi kỳ quái trong thế gian này.
Khi cúng tế tổ tiên, nếu như các bạn mời bà ấy đến nhà, ông bà tổ tiên của bạn lúc chết mặc đồ như thế nào? Dáng vẻ trông ra sao? Trên tay đeo nhẫn gì? Có đặc trưng gì? Tổ tiên có căn dặn gì? Bà ấy đều có thể nói ra hết tất cả, linh nghiệm đến khiến người ta phải há hốc cả mồm, chuyện của tổ tiên người ngoài làm sao có thể biết được chứ? Hơn nữa khi tổ tiên qua đời thì thầy của tôi (chính là người phụ nữ áo xanh ấy) vẫn còn chưa sinh ra đời nữa. Những chuyện trải qua trong suốt cuộc đời bà ấy đủ làm cho rất nhiều người văn minh hiện đại lắc đầu, muốn tin nhưng thiên hạ làm gì có chuyện như thế chứ, còn nếu như không tin thì sự thật lại hiển hiện ngay trước mắt, thật khiến người ta khó có thể không tin!
Gặp những chuyện như thế này, kỳ quái như thế, tôi còn có thể nói được gì? Tuy vậy chuyện càng kỳ quái hơn nữa cũng đã xảy ra.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ Thần toán)
Vân du tiên giới
Buổi tối hôm đó khi tôi đến miếu để dạo chơi, tôi trở về chổ của mình để ngủ, lúc đó tôi chỉ mới 25 tuổi, vẫn còn độc thân, một mình sống trong 1 căn phòng đơn, tôi suy nghĩ về chuyện đã xảy ra lúc ban ngày, nằm ở trên giường, nên không thể lập tức chìm vào giấc ngủ được, bỗng nhiên tôi ngửi thấy mùi đàn hương ngào ngạt, hai mắt vừa nhắm lại, mơ mơ màng màng thấy trước mắt mình xuất hiện một vầng hào quang, vầng hào quang này trong sáng như gương vậy, chung quanh vầng hào quang lấp lánh ánh vàng ẩn hiện. Lúc này đây thân thể tôi tựa hồ như nhẹ nhàng bay lên, bay vào trong vầng hào quang ấy, bên tai chỉ nghe thấy tiếng gió thổi vù vù, tựa hồ như đã bay rất xa rất xa vậy, lúc đó tôi cảm thấy bản thân mình như đã đến một thế giới khác vậy.
Trong sự mờ ảo mơ màng kia tôi mơ hồ cảm nhận được nơi đây chính là cảnh tiên hư không, tôi đã được một lực lượng nào đó dẫn dắt đi vào nơi tiên giới này. Nơi đó tôi đã gặp rất nhiều vị Bồ Tát, họ đều gật đầu chào với tôi, nhưng tôi không quen biết với vị nào cả. Tôi trông thấy một đóa hoa sen to như cái bánh xe vậy, hoa sen chia thành rất nhiều màu sắc, trên hoa sen mỗi vị trí đều có một đồng tử đang đứng, trong tay mỗi đồng tử đều cầm những bông sen với màu sắc khác nhau. Tôi nhìn thấy từ không trung có bậc thang hạ xuống, bốn bên đều là Kim Giáp thần, khói hương lan tỏa khắp nơi. Tôi nhìn thấy lầu các, chạm trổ cực kỳ tinh xảo, kim ngân lưu ly lấp lánh khắp nơi. Tôi nhìn thấy 2 cây trụ dựng đứng trong trời mây, có người nói bên tai tôi rằng, một cây trụ là Côn Lôn Sơn, còn một cây là Tu Di Sơn. Lúc này đây tôi đã bước vào một ngôi chùa lớn trong một ngọn núi nào đó, hốt nghe bên tai có người nói với tôi rằng: “Vị này chính là xxx, tiền thân của ngươi, nếu như ngươi không tin thì khi tỉnh lại có thể tra ở kinh sách, trang 89, trong đó có tên họ tiền thân của ngươi. Thiên cơ về nguồn gốc của ngươi chớ nên để tiết lộ, nếu như bị lộ ra, tất sẽ bị trời phạt”.
Tôi ghi nhận lời căn dặn, xin hãy bỏ qua cho tôi không thể tiết lộ danh tính kiếp trước của tôi được, bởi lẽ thật sự không thể nào hé lộ thiên cơ được. Tôi sau đó còn đi chu du qua nhiều nơi nữa, gần như là gặp qua những gì chưa từng gặp, nghe qua những gì mà bản thân chưa từng nghe. Lúc tỉnh dậy thì đã vào 7 giờ sáng.
Dựa theo chuyến vân du trong đêm vừa rồi, tôi chạy đến hiệu sách Thụy Thành, nơi chuyên bán các kinh sách Phật điển ở Đài Trung, theo lời thần minh chỉ điểm tôi đã tìm được quyển kinh sách đó, vội vã lật đến trang 89 xem, tôi giật mình thất kinh, quả nhiên là có ghi tên họ của xxx, tôi đứng lặng người ra, vui mừng lẫn lộn, ngày nay tôi đã ấn chứng được, quả nhiên không sai chút nào cả! Con người há có thể không luân hồi sao? Tôi có thể phủ nhận chuyến vân du đêm qua là giả tạo sao? Từ đó về sau tôi đã tin vào thuyết luân hồi quả báo, viết đến đây tôi vẫn cảm thán cho bản thân đã trải qua những chuyện thật không bình thường. Thế là tôi nảy sinh ý niệm, kiếp này không tu hành thì còn đợi đến bao giờ nữa? Tôi đã mua rất nhiều kinh điển Đạo giáo, cũng mua rất nhiều kinh điển Phật giáo, lúc đó tôi vẫn chưa phân biệt được đâu là Đạo, đâu là Phật? Đạo giáo và Phật giáo khác biệt ở chổ nào?
Thẳng thắn mà nói rằng kể từ sau lần tôi đi vân du chốn tiên giới ấy, tôi thật sự rất muốn đi lại một lần nữa, tôi thật sự rất muốn xem lại một lần nữa, cho dù là chỉ là khoảng 10 phút thôi cũng đủ, tuy nhiên chỉ có lần đó duy nhất mà thôi, về sau tôi rất muốn đi nữa nhưng vẫn không xuất hiện, tôi cũng cầu nguyện với thần minh nhưng không có hồi âm, dường như trong cuộc đời này tôi chỉ có thể đi một lần mà thôi, không thể nào đi được lần thứ hai nữa.
Chuyện vân du tiên giới này tôi đã từng kể cho một người xuất gia nghe, người này sau khi nghe xong nói với người khác rằng: “Lư Thắng Ngạn nói chuyện hoang đường.”
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh Cơ Thần Toán)
Vị thầy ẩn hình
Sau đó hai ngày, có một đêm khi tôi đang ngủ, đột nhiên nghe thấy có người gọi tên tôi, tôi bật mình ngồi dậy, đã trải qua mấy lần rồi nên tôi nghĩ rằng chẳng lẽ lại có chuyện gì khác chăng, tôi nhìn quanh khắp phòng, không có đến nửa bóng người, nhìn ra ngoài cửa sổ, vầng trăng đang treo lơ lửng trên cao, mượn ánh trăng sáng tôi nhìn đồng hồ đeo tay thì thấy đang đúng vào lúc 1h đêm, tôi khoác lên mình một cái áo khoác rồi bước xuống giường, mở đèn sáng lên, ánh đèn chiếu sáng đến nhức cả mắt.
“Thắng Ngạn, đứng nguyên tại chổ không cử động, ta phụng chỉ truyền cho ngươi đạo pháp, ngươi chắp 2 tay lại, ghi nhớ thầm lấy các bước chân, phải chú tâm nhớ kỹ đấy”. Trong phòng không có người nào, nhưng tôi không có chút nào sợ hãi cả, bởi vì người đó chỉ đến để truyền dạy đạo pháp cho tôi mà thôi, tôi nhắm hai mắt lại, chắp tay lại, nói cũng thật kỳ quái, tôi không chủ ý nhấc chân lên, nhưng lại có một lực lượng kỳ bí nào đó buộc tôi nhấc chân lên, thậm chí tôi muốn đặt chân xuống nhưng vẫn không thể nào đặt xuống được, chân cứ theo một trình tự nào đó, bước ra những bộ pháp rất đổi kỳ quặc, giả như lúc đó bên ngoài có người nào nhìn thấy ắt hẳn sẽ cho rằng Lư Thắng Ngạn tôi chắc là điên rồi, tôi đã điên thật sao? Tất nhiên là không rồi, thật sự là có một Linh lực nào đó đã nhấc chân tôi lên, tôi luyện tập hết lần này đến lần khác, dụng tâm ghi nhớ lấy các bước chân.
“Đây là bộ pháp gì? Có công dụng ra sao?”
“Đây chính là Tham Tinh Bái Đẩu bộ pháp, dùng vào khi bái tế, mời gọi thần linh, niệm chú khẩu quyết, chớ có xem thường công dụng của nó, bộ pháp này đã thất truyền cả ngàn năm rồi! Nếu không phải lúc cần thiết, tuyệt đối không được tùy ý sử dụng”.
“Nếu vậy lúc bình thường tôi mời gọi thần linh thì dùng pháp gì?”
“Thắng Ngạn, ngươi chỉ cần mở miệng hô rằng: Đệ tử Tam Thanh giáo hạ liên sinh, phụng tiên thiên vô cực chính pháp, thỉnh mời vị thần nào đó giáng hạ là được. Tương lai khi thời cơ đến ta sẽ chỉ điểm ngươi nên bái vị này làm thầy, vị này hiện đang ẩn cư ở Liên Đầu Sơn, có duyên thầy trò với ngươi, vị này hiện đã chứng được Lục Giáp Thiên Thư phù lục, tương lại ngươi ắt sẽ được Lục Giáp thần ấn, đắc được Lục Giáp bí thuật, đến lúc đó tự khắc sẽ linh nghiệm.
“Những lời này giống như thần thoại vậy”. Tôi trong lòng có chút hồ nghi
“Thần thoại hay không phải thần thoại, ngươi đừng để tâm đến, hôm nay ta phụng chỉ truyền dạy đạo pháp cho ngươi, kỳ ngộ của ngươi vốn đã là thần thoại rồi đấy.”
“Xin hỏi người tôn tính đại danh là gì?”
“Không có nơi đến, đi không có bóng hình, không có nơi xuất phát, lại không có nơi đi, ta vốn dĩ vô danh tính, hay ngươi gọi ta là Linh sư vậy!”
Vị Linh sư này tôi không nhìn thấy được, nhưng vị này thường xuyên ở bên tôi, nửa đêm hôm giục tôi thức giấc, truyền pháp cho tôi, tôi xem ông ấy như người thầy chỉ bảo học trò, tuy vậy ông ấy chỉ xem tôi như anh em mà thôi, tôi có tâm sự gì đều kể hết cho ông ấy nghe, đêm khuya thanh vắng tôi một mình trò chuyện với ông ấy, mặc dù tôi không nhìn thấy được, tuy nhiên vẫn cảm nhận được sự tồn tại của ông ấy, ông ấy dạy tôi luyện “Thủ pháp”, tay tôi tự động hóa thành rất nhiều hình tượng, như Quan âm Thủ, Di Đà ấn, Liên Hoa ấn, Độ chúng sinh ấn, Ngũ lôi ấn, Chưởng tâm lôi, Đại Phiên Thiên ấn, Mầu Ni ấn, Kiếm ấn, Thiên vương ấn v.v…, ông ấy đều truyền dạy hết cho tôi, hơn nữa đến thủ pháp “Diệm khẩu hóa thực” của nhà Phật cũng truyền dạy tất cả cho tôi. (Sau này tôi chứng minh được, thủ pháp đả tọa hóa thực của các hòa thượng trong tiết Trung Nguyên và thủ pháp của Linh Sư truyền dạy cho tôi tựa hồ là giống nhau, tuy nhiên chỉ pháp của tôi lại không giống như thủ pháp của các hòa thượng, nguyên nhân là thủ pháp của tôi là do Linh Sư truyền dạy, còn các hòa thượng bình thượng thì là do sư đồ qua các đời truyền dạy cho nhau.)
“Linh sư, đời người quý ở chổ nào thế?” Tôi thử hỏi.
“Thân người khó cầu, quý ở tu hành.”
“Nên tu hành thế nào? Đạo như thế nào là Đắc?”
“Đại đạo tu hành lập pháp cũng có rất nhiều, tùy theo khí chất khác nhau của mỗi người mà hành vi cũng khác nhau. Do đó tu đạo mở ra cánh cửa phương tiện, mở ra con đường để nương nhờ, ta đã xét thấu đạo ngôn của Ngọc Thanh Thánh giới, đều thuộc về tiên thiên đại đạo. Không nói tất cả chư pháp, cho nên người theo đạo khó tìm được bậc thang tu tập bồi dưỡng. Thượng Thanh chân giới, pháp phẩm tổng cộng mở ra 18 cửa, cung cấp cho mọi người các nấc tu tập, tu đạo thành chân chia thành 7 đẳng. Còn về pháp phẩm của Thái Thanh tiên giới thì lại mở ra 20 cửa, tu đạo thành chân có 9 đẳng. Thắng Ngạn, ngươi nên biết rằng ngươi chân tu, công có 3 đẳng, tức là Sơ Thừa, Trung Thừa, Thượng Thừa, như Lý Lương Phong lấy chiếm mà đắc đạo, Nghiêm Quân Bình lấy sao cùng đăng tiên, Hoàng Thừa Sự lấy cứu tế chúng sinh mà được tôn kính ở Tử phủ, Trương Đạo Lăng lấy độ cái chết mà được liệt vào Đan Thiên. Hành tuy là không giống nhau, tuy nhiên lại cùng một đạo, hành chỉ cần là chánh thì tất cả đều là hợp lẽ vậy!”
“Linh đầu, người chứng đạo gì thế?”
“Mọi người đều gọi ta là Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, ta lấy pháp lập đạo, cho nên là Thượng thừa Thần tiên.”
Linh sư phụng chỉ truyền dạy đạo pháp cho tôi, khi thì gián đoạn, lúc lại liên tục, tôi thu được rất nhiều điều bổ ích, còn về bấm quyết niệm chú thì một lần truyền cho một pháp, tôi từ một tín đồ Cơ đốc chỉ biết đọc thuộc thầm “Tân Cựu ước toàn thư”, bỗng chớp mắt thay đổi thành người học đạo dưới Tam Thanh Giáo, điều này khi lúc tôi rửa tội cũng không thể nào ngờ tới được.
“Linh sư, Cơ đốc như thế nào?”
“Cơ Đốc cũng là cứu chủ của một phương, về pháp tuy là không cùng, nhưng lý của nó lại là một, độ hóa người Tây Dương nhất định phải là Giêsu, cũng như công đức độ hóa người Đông phương là của Thích giáo và Tam thanh thôi.”
“Thì ra là như thế, như thế thì sẽ không còn xung đột nữa rồi.”
“Cơ đốc là Thượng đế (phụ), Giêsu (tử), thánh linh, cả ba vị là một thể; đạo là Thượng thanh, Ngọc thanh, Thái thanh, cả ba vị là một thể; Phật là Báo thân, ứng thân, pháp thân, 3 vị là một thể, đạo là một hình dạng nhưng chia thành vô số pháp môn!”
Nhân duyên thờ phượng Quan Thế Âm Bồ Tát
Lúc trước khi tôi chưa theo thờ Phật, mặc dù mẹ tôi có đi lễ bái, nhưng trong nhà vẫn không có pho tượng Phật nào, mẹ tôi chỉ thờ cúng tổ tiên mà thôi, người nhà cũng không ngờ rằng, trong tương lai không xa thì trong nhà lại trở thành một đại phật đường, hơn nữa lại xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn ngủi chỉ có mấy năm mà thôi. Việc tôi tu tập “Đạo pháp” là chuyện bí mật, không có ai biết cả, tất nhiên là cả đồng nghiệp và người nhà đều không biết, đây chính là lời dặn của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh, chỉ đặt một cái Pháp hiệu cho tôi là “Liên Sinh”.
“Linh Sư, tôi có thể thờ tượng Phật lễ bái chư Phật, Tiên, Thánh, Thần chăng?”
“Có thể, ở đây ẩn chứa một nhân duyên lớn. Không giấu gì ngươi, nhà của ngươi sau này sẽ trở thành một Đại Phật đường!”
“Nên thờ phượng vị Bồ Tát nào là tốt nhất?”
“Chỉ cần vui vẻ là được rồi.” Linh sư không trực tiếp trả lời tôi.
“Có thể thờ cúng thần tượng của Linh sư không?” Tôi nghĩ, ông ấy là vị thầy ẩn hình của tôi, tôi đương nhiên nên thờ cúng ông ấy.
“Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh, người thế gian không biết được chân diện mục của ta, trong Hoàng Đình Kinh đã ẩn giấu đi danh tính, trong Thiên địa lại che giấu đi thân tướng, trong sơn hải lại ẩn đi hình tích, ngày nay chẳng có người nào biết được ta, ngươi có thể thờ phượng ta được như thế nào chứ? Ta tính vốn lười nhác, chỉ quen rong chơi đó đây, ngươi không cần thờ phượng ta, ngươi nên thờ phượng thần phật khác vậy.”
“Thờ phượng Bồ Tát chẳng hay có công đức chăng?”
“Phật dạy rằng: nuôi ăn trăm người ác chi bằng nuôi ăn một người thiện, nuôi ăn ngàn người thiện chi bằng nuôi ăn một người thọ trì ngũ giới, nuôi ăn vạn người thọ trì ngũ giới chi bằng nuôi ăn một Tu Đà Hoàn. Nuôi ăn trăm vạn Tu Đà Hoàn chi bằng nuôi ăn một Ty Đà Hàm, nuôi ăn thiên vạn Ty Đà Hàm chi bằng nuôi ăn một A Na Hàm, nuôi ăn trăm triệu A Na hàm chi bằng nuôi ăn một A La Hán, nuôi ăn thập ức A La Hán chi bằng nuôi ăn một Tịch Chi Phật, nuôi ăn bách ức Tịch Chi Phật chi bằng nuôi ăn một Tam thế chư phật, nuôi ăn thiên ức Tam thế chư phật chi bằng nuôi ăn một người vô trú vô tu vô chứng. Liên Sinh nuôi ăn chính là thờ phượng, ngươi có hiểu chăng?”
“Thưa, hiểu rõ.” Tôi cung kính trả lời.
Có một lần, tôi đến một dãy lầu bách hóa ở Đài Trung, ở một tiệm bán đồ sứ ở tầng hai, bỗng nhiên nhìn thấy một pho tượng Quan Thế Âm Bồ tát rất ư là đặc biệt, pho tượng Quan Thế Âm này có màu xanh nhạt, hơi xám, tướng mạo trang nghiêm, ngồi trên một tòa sen, tượng cao chừng 8 tấc, tôi vừa nhìn thấy trong lòng đã cảm thấy yêu thích, bèn hỏi giá tiền, ông chủ tiệm bán đồ sứ ấy trả lời: “Pho tượng Quan Thế Âm này là của người khác từng thờ phượng qua, do bởi vì trên tay Bồ Tát có cầm tịnh bình, nhưng tịnh bình đã bị vỡ, chủ nhân cho là điềm bất tường cho nên đã nhờ tôi bán giùm, ông ấy nói rằng chỉ cần có người đồng ý mua thì giá tiền rất rẻ, chỉ tính 15 đồng thôi!”
“15 đồng à, thật rẻ quá đi.” Tôi không chút do dự lập tức mua ngay pho tượng, tôi mang pho tượng về căn phòng riêng của mình, đặt trên bàn sách của tôi, tiện thể cũng mua luôn một lư hương nhỏ đặt trước tượng Bồ Tát, buổi tối tôi thắp một cây nhang cắm vào, trong lòng cảm thấy rất thư thái.
Đêm đó, trong lúc mơ mơ màng màng, tôi nhìn thấy giữa đại dương mênh mông bát ngát, từ từ nổi lên một đóa hoa sen thật xinh đẹp, trên hoa sen có Quan Thế Âm Bồ tát đang ngồi với pháp tướng thật trang nghiêm, từ xa tiến đến gần, Bồ Tát diện mạo với nét tươi cười, trên không trung mây màu từng vầng quây tụ, trong chân mây là Hộ Pháp Kim Giáp Thần tay cầm Giáng Ma chữ đang đứng sừng sững, về sau tôi mới biết rằng là pháp tướng của Vi Đà Hộ Pháp Tôn Thiên Bồ tát, tướng mạo đường đường, uy phong lẫm lẫm, Vi Đà Tôn giả đứng trong không trung nói lớn rằng: “Liên Sinh, ta phụng pháp chỉ của Bồ Tát, Phật đường ở nhà ngươi tên hiệu là: “Từ Huệ Lôi Tạng tự”, hãy ghi nhớ kỹ, ghi nhớ kỹ.” Câu nói vừa dứt thì không thấy Vi Đà Bồ tát và Quan Âm Bồ tát nữa, tôi lúc đó cũng liền tỉnh dậy, dần dần hồi tưởng lại những tình cảnh trong mộng, lại nhìn đến pho tượng Bồ Tát vừa mới thờ cúng hôm nay, điều khiến tôi giật mình kinh sợ đó chính là Quan Thế Âm Bồ Tát tôi nhìn thấy trong mộng và Quan Thế Âm Bồ tát mà tôi thờ phượng có diện mạo hoàn toàn giống nhau. Tôi liền ngồi dậy, cung kính trước mặt Bồ tát dập đầu ba lạy, trong khi tôi đang bái lạy thì trong phòng tràn ngập mùi gỗ đàn hương, thì ra là Linh Sư đã đến.
“Linh sư, tôi làm có đúng chăng?”
“Liên Sinh, ngươi hôm nay thờ phượng Quan Thế Âm Bồ Tát, ngày sau Bồ Tát sẽ vì mối nhân duyên này mà sẽ cứu cho ngươi một mạng.”
“Cứu cho tôi một mạng?”
“Đúng vậy, thời cơ chưa đến, không tiện nói trước.”
Lời của Linh Sư quả nhiên ứng nghiệm, chuyện này sẽ thuật lại ở chương sau, thật khiến người ta không rét mà run vậy.
Trong khoảng thời gian tôi thờ phượng Quan Thế Âm Bồ tát, chủ quản của đơn vị mà tôi đang phục vụ là Trang đội trưởng đã từng mời cha mẹ của tôi đến đồn hỏi chuyện.
“Lư tiên sinh à, ông hãy xem con của ông kìa, hành vi của anh ta thật là kỳ quặc, lại đi thờ phượng Bồ tát ở trong phòng, không biết là có vấn đề gì chăng?” Trang đội trưởng thắc mắc hỏi.
“Đại khái là chẳng có gì đâu! Nó thật lòng tín ngưỡng, lời nói cũng rất tỉnh táo, không biết chuyện như thế có ảnh hưởng chi đến đơn vị mình hay chăng?” Cha tôi đáp lời.
“Không có chi cả, tuy nhiên tôi cảm thấy anh ta có gì đó không bình thường, có chút kỳ quái, anh ta bói rằng tôi vào trung tuần tháng 7 sẽ được điều đến Đài Bắc, anh ta đã học bốc quẻ vào lúc nào chứ? Từ nay đến trung tuần tháng 7 vẫn còn đến nửa năm đấy!”
“Bốc quẻ? Chuyện này tôi cũng không biết nữa!” Cha tôi trả lời.
Sự thật đã chứng minh, Trang đội trưởng vào ngày 17 tháng 7 đã vinh hạnh được điều đến Đài Bắc, về sau khi gặp người khác anh ta đều kể rằng thần toán của Lư Thắng Ngạn vừa chuẩn lại vừa linh. Tên họ đầy đủ của Trang đội trưởng là Trang Minh Thạch, là người ở Khê Hồ, Đài Loan. Tôi đã bói toán bát quái cho Trang đội trưởng, Bát quái là do Linh sư truyền dạy cho tôi. Linh sư nói rằng: “Đạo ở sau khi thái cực đã phân chia, lưỡng nghi đã ổn định, tứ tượng hạp tịch, bát quái đã phân biệt, cửu cung đã thành hình. Thiên, Địa, Lôi, Phong, Trạch, Thủy, Hỏa, Sơn, ẩn chứa trong tám tám sáu mươi bốn quẻ là tất cả các huyền cơ và biến hóa, ngươi nếu như học biết được thì có thể thấy trước được Nhân, Sự, Địa, Vật, tuy là chưa chắc đã thành tiên, nhưng so với Địa tiên thì cũng không có khác biệt gì!”
“Linh sư, nếu như có người không tin thì sao?’
“Ây cha, là những người bạc phúc, đời này kiếp trước, nhân duyên cực mỏng, là những người có căn cơ về tin đạo không thâm sâu, hạng người phẩm chất thấp kém, vô luận là không gặp được kỳ duyên này hay có được lương nhân kia thì tuy là cùng nghe lấy một chánh pháp, nhưng lại dấy lên nghi hoặc, tất sẽ nảy sinh tâm chướng ngại, không chịu thành tâm thờ phượng, sẽ dẫn đến khó tránh khỏi sanh lão bệnh tử, từ đó mà trầm luân trong niềm vui, nỗi khổ, mãi không thể thoát khỏi, lương hảo cũng có thể là bi thương. Liên Sinh, nếu như là những người như thế thì ngươi cũng khó có thể mà cứu độ, hãy để cho họ tự sinh tự diệt vậy!”
Học đạo ở Liên Đầu Sơn
Theo sự chỉ dẫn của Linh sư, tôi đã bái Thanh Chân Đạo trưởng ở Liên Đầu Sơn làm thầy, Đạo gia có một dạng nghi thức quy y gọi là “Quá Công đức”, thế là dưới sự dẫn dắt của Thanh Chân đạo trưởng, tôi đã được quá công đức và chính thức trở thành một đạo gia, có lẽ quý độc giả cảm thấy kỳ quặc, ở Đài Loan núi cao sông lớn đâu có ít, thế nhưng tại sao lại không có ngọn núi nào tên là Liên Đầu sơn, thật ra thì Liên Đầu sơn này chỉ là tên gọi khác của một ngọn núi nằm trong một tòa đại sơn mà thôi, kể ra thì người biết đến cũng không nhiều.
Thanh Chân đạo trưởng là người Đại lục, đã hơn tám mươi tuổi, thuở còn trẻ học đạo ở Thanh Thành sơn, tục gia là họ Trương, cùng họ với Trương Thiên Sư, sau khi đến Đài Loan chỉ ẩn cư ở trong núi mà thôi, chỉ dựng một ngôi nhà tranh ở trên núi, với vài mảnh ruộng, trong nhà tranh có tượng thờ Tam Thanh. Theo lời Linh Sư căn dặn: “Thanh Chân đạo trưởng đã không phải là cốt phàm tục, người đời không biết được diện mạo thật của ông ấy, ông ấy đã chân tu dưỡng tính 50 năm rồi, về Linh quyết sớm đã thông hiểu, có thuật xuất thần vào ban đêm, ngươi bái ông ấy làm thầy quyết không có gì sai sót, ông ấy tuy rằng không thích thu nhận đồ đệ, nhưng nếu ngươi đến thì ông ấy không thể không thu nhận, Lục Giáp thần thuật của ông ấy nếu như truyền thụ lại thì ngươi sẽ có rất nhiều ích lợi.”
Lần đầu tiên gặp Thanh Chân đạo trưởng, ông ấy khẽ mở mắt hỏi: “Đến đây có chuyện gì?”
“Theo sự chỉ bảo của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh, Liên sinh đến đây để cầu minh sư.’ Tôi liền quỳ xuống dập đầu bái lạy.
“Bát tự của ngươi thế nào?”
“Thưa, sinh vào giờ Ngọ, ngày 18 tháng 5 năm Ất Dậu.”
Vị Thanh Chân Đạo trưởng ấy nghe xong giật mình thất kinh, ngập ngừng nói: “Thì ra ngươi và tổ sư Trương Thiên Sư sinh cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng, đứng dậy, đứng dậy, mau đứng dậy, đừng lạy ta nữa, ta nhận được ngươi rồi, ta nhận được ngươi rồi.”
Nói ra cũng thật kỳ quái, dường như tôi và Thanh Chân đạo trưởng đã gặp mặt qua, tôi đã suy nghĩ rất lâu, đột nhiên tỉnh ngộ, Thanh Chân đạo trưởng há chẳng phải là vị đạo trưởng có hẹn với tôi ở trong mơ lần đầu hay sao? Đạo trưởng đã từng dùng phất trần đánh vào đầu tôi, bây giờ Thanh Chân đạo trưởng cũng có một cây phất trần, tôi kể cho ông ấy nghe giấc mộng kỳ lạ của tôi, ông ấy chỉ cười ha hả, không nói gì cả.
Đạo trưởng truyền thụ đạo pháp cho tôi, đặc biệt chú trọng về phương diện Phù chú đan đỉnh, thuật Phù lục của tôi phần lớn đều do ông ấy truyền thụ, thần chú là do “Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh” truyền thụ, Đan Đỉnh thuật và Cố Bổn Phản Nguyên có liên quan với nhau, đều là bí thuật trong Cửu Chuyển Huyền Công đại pháp, Thanh Chân đạo trưởng đã dạy cho tôi một câu khẩu quyết: “Đại đạo điên đảo điên, hữu nhân điên đắc chuyển, tiện thị Đại La Tiên.” Ông ấy nói: “Liên Sinh, Cố Bổn chính là trở về diện mạo ban đầu, tinh khí thần bị phân tán ở đâu thì sẽ thu hồi từ đó, chuyện thoát vỏ phi thăng tuyệt đối không phải là mê tín, cũng không phải là chuyện không có thể, xem ra thì có vẻ thần thoại nhưng kỳ thực không phải là giả, kẻ phàm phu làm sao có thể hiểu được chứ?”
Tôi tu tập đạo pháp, nhưng không phải suốt năm suốt tháng đều ở trong Liên Đầu Sơn, mà chỉ khi có thời gian rãnh rỗi mới đi mà thôi, tôi là một người trong trần thế, không có cách nào toàn tâm toàn ý chú tâm đến phương diện này, mặc dù thế nhưng tôi rất chăm chỉ tu tập, Thanh Chân đạo trưởng khích lệ tôi nhất định phải cố gắng học tập ứng dụng, để tương lai trở thành người cứu độ chúng sinh, xóa bỏ các kẻ tà ác, bàng môn tả đạo cố ý huyễn hoặc thần thánh, mượn tiếng thần phật để lừa tiền gạt sắc, ngoài ra để phòng ngừa Ma pháp tà thuật đã truyền thụ cho tôi Kim Cương Bất Hoại Hộ Thân Thần chú và giải thích rất nhiều đạo pháp cho tôi.
Thầy tôi nói rằng: “Cứu độ thiên hạ chúng sinh, cần phải phát đại từ bi lúc này, tuyên truyền chánh giáo. Để khắp thiên hạ và cả trong thế giới vị lai, đều được giáo pháp lưu truyền khắp nơi, giúp cho chúng sinh nhìn thấy được những gì chưa thấy, nghe thấy được những gì chưa nghe thấy, khắp 3 ngàn đại thiên thế giới và chư chúng sinh. Những bậc thánh hiền sẽ nhờ vào truyền pháp của ngươi mà từ đó thấu hiểu được bản tính của mình, những kẻ ngu muội sẽ nhờ vào chánh pháp của ngươi mà được giác ngộ.” Còn nói thêm rằng: “Chính khí nếu như vẫn còn tồn tại trên đời này thì không cần phải suy nghĩ đến sự tồn tại của tà khí, bởi lẽ có sự tồn tại của tà khí tà pháp chính là lúc đó chính khí không được vững mạnh, tà khí sẽ thừa cơ hội xâm nhập vào, nếu như chính khí vận chuyển mạnh mẽ thì tà khí ắt sẽ bị bức lùi, phàm là người tu đạo đều nên có cách nghĩ như thế. Gọi là tu đạo tức là người sinh tồn bằng khí của đất trời, không thể có chính mà không có tà, mà làm cho tà khí bị tiêu tán, chính khí tồn tại mãi, để tu được chân đạo vô thượng tức là vô ngã hữu vi, không còn chịu vướng bận từ đấy nữa, đắc được pháp diên niên bất tử, như vậy thì có thể xem là đắc đạo rồi vậy.”
Thầy tôi hỏi: “Liên sinh, ngươi có muốn học biết thuật thần toán quá khứ vị lai hay không?”
“Rất muốn.”
“Hoàng Cực nhất kinh, ngươi nếu như nghiên cứu kỹ thì ta sẽ truyền dạy cho ngươi “Linh Cơ thần toán”, chuyện trong thiên hạ ngươi có thể nắm được trong lòng bàn tay.”
Thanh Chân đạo trưởng đã giúp tôi từ một kẻ có thân xác phàm tục, giúp tôi thức tỉnh “Linh Mệnh” vốn có ở bản thân, “Linh mệnh” vốn là có thật, chỉ có điều là bị phong kín trong nhục thể kể từ khi lọt lòng mẹ, cho nên đã trở thành một ‘Linh mệnh”chết, mãi cho đến khi nhục thể chết đi thì “Linh mệnh” mới hiện ra, “Linh mệnh” là có thật, nhục thể là giả, “Linh mệnh” này thường được người ta gọi là “Linh hồn”.
“Linh hồn” của một người nếu như tỉnh dậy thì nói ra rất là kỳ quái, người này sẽ dùng “linh hồn” của bản thân để có thể nhìn thấy một số thần thánh, người, ma quỷ ở “Linh giới”, có người chỉ có cảm giác, lại có người có thể tận mắt nhìn thấy (âm dương nhãn), có người có thể nghe thấy (Quỹ thần nhĩ), nếu như có thể ứng dụng linh hoạt “Linh hồn” thì có thể mượn được “linh” ở bên ngoài để dự đoán những chuyện sẽ xảy ra trong tương lai, hay trong quá khứ, loại ứng dụng linh cơ biết được quá khứ, vị lai này được gọi là Thần toán. Công dụng này hoàn toàn khác với các hình thức xếp bát tự, đoán mệnh tứ trụ, xem chỉ tay, xem tướng, sờ xương, kỳ môn độn giáp thông thường.
Người biết “Linh cơ thần toán” không có nhiều, bởi vì người học “Linh cơ thần toán” thì điều kiện đầu tiên cần có chính là – linh hồn phải còn sống. Những thường thức này, tôi sẽ giải thích rõ ở chương sau.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Lần đầu hiển thần thông
Vào năm 59 Dân Quốc, mồng 9 tháng Giêng Âm lịch, hôm đó đúng vào ngày sinh của Ngọc Hoàng Đại đế, Ngọc Hoàng Cung ở Đài Trung đã trình diễn hai vở kịch, trụ trì Ngọc Hoàng cung là Thích Tuệ Linh đã phát khởi cho thần tượng của Ngọc Hoàng Đại đế đi xuất tuần, thần tượng ở miếu lớn, miếu nhỏ khắp mọi nơi trong thành phố đều theo phụ trợ, quang cảnh vô cùng náo nhiệt, xe của thần tượng đi qua đến đâu, tiếng pháo nổ vang “ì đùng”, nhà nhà dâng hương nghênh đón và tiễn đưa, cũng có rất nhiều người thành tâm và tín đồ cầm nhang đi theo đuôi xe để ủng hộ, thần tượng với dáng vẻ trang nghiêm ngồi trong kiệu, được các tín đồ khiêng đi.
Ngọc Hoàng Đại đế sau khi xuất tuần trở về miếu, thần tượng đặt tại Trung đường trong miếu, bên trái là Đạo Đức Thiên tôn Thái Thượng Lão Quân, bên phải là Vô Cực Chí Tôn, Dao Trì Thánh Mẫu, người dâng hương trong miếu rất đông, cả một tòa miếu khói hương nghi ngút, khắp nơi đều là hương khói. Vào lúc mọi người đang thắp hương lễ bái thì đột nhiên có một người phụ nữ, y phục có phần không chỉnh tề đột nhiên miệng sùi bọt trắng, hai tay hươ loạn cả lên, quỳ trên mặt đất, liên tục kêu oan uổng với Ngọc Hoàng Đại đế, yêu cầu Ngọc Hoàng Đại đế đòi lại sinh mệnh của ai đó, trông dáng vẻ của người này thật giống như một kẻ mắc bệnh thần kinh vậy.
Do bởi sự xuất hiện đột ngột của người phụ nữ điên loạn này nên trong miếu trở nên hoảng loạn, mọi người vây lấy người phụ nữ điên này, trong khi bà ta vẫn tiếp tục liều mạng kêu gào: “Trả lại sinh mạng cho ta, ta cầu xin Ngọc Hoàng Đại đế trả lại sinh mạng cho ta, trả lại mạng cho ta! Ha ha! Ngươi hãm hại ta, ta bắt ngươi phải bồi thường, cầu xin thần minh, hãy để cho con siêu sinh! Trả lại mạng cho ta, nếu không thật sự nỗi oan này không thể nào tiêu thoát được, không thể tiêu thoát được! Ha ha! Hê hê! Khổ à! Mạng khổ à! Không tha cho ngươi, không thể nào tha cho ngươi được.” Người phụ nữ điên kia một lát lại khóc, một chốc lại cười, sau đó lại vỗ tay, rồi lại dập đầu lia lịa với thần tượng, đầu tóc rối tung, kêu thần khóc quỷ um cả lên.
Trụ trí Thích Tuệ Linh đứng bên cạnh bà ta ngẫn cả người ra, ông đã bẩm cáo qua với Ngọc Hoàng đại đế rồi, thế nhưng người phụ nữ điên loạn kia vẫn một mực kêu gào dưới đất, vẫn không hề tỉnh lại, không những thế mà người phụ nữ này còn có vẻ điên dại hơn hẳn đi, hươ tay hất đổ đi tất cả các hoa quả nhang đèn đang cúng trên bàn thờ rơi cả xuống đất loảng xoảng, trong đám đông có ai đó bước đến trước tóm lấy bà ta, nhưng không nắm chặt lấy, ngược lại bị bà ta cào cấu, đánh loạn trở lại, bị cào rách cả da, mọi người đều không có cách nào, lúc đó đều không biết nên làm sao thì mới ổn thỏa? Người trong miếu vốn dĩ rất đông, người bên ngoài miếu thì lại càng đông, xô đẩy chen lấn vào miếu để xem náo nhiệt, số người chen lấn ngày càng đông, nhưng vẫn không có ai có cách nào cả.
Lúc bấy giờ, trong đám đông bỗng có một người đàn ông vóc dáng cao lớn bước ra, có người nhận được người này liền kêu lên: “Tốt rồi, tốt rồi, pháp sư của Cửu Thiên Miếu đã đến rồi.” Thì ra người đó họ Tiền, là Thái tử nguyên soái Kê đồng của Cửu Thiên Miếu, chỉ thấy ông ta nhanh chân bước đến trước, trên tay bưng một chén nước, tay trái bắt lấy kiếm quyết, hé miệng hớp lấy một ngụm nước, hô lên một tiếng, phun ngụm nước ra, miệng hét lớn: “Hách hách dương dương, nhật xuất đông phương, khẩu thổ tam muội chân thủy, phổ tảo bất tường.” Tức thì thấy người phụ nữ điên loạn kia im lặng đi, hai mắt đứng tròng lại, hét lớn lên với Tiền đại pháp sư rằng: “Ngươi dám can thiệp vào chuyện của ta à.” Một tay liền chộp tới, sức lực mạnh mẽ vô cùng, Tiền đại pháp sư liên tiếp phun ra nhiều ngụm nước, nhưng chẳng gây ra được tác dụng gì cả, ngược lại bị người phụ nữ điên kia dùng tay cào bị thương vài nơi trên cơ thể, máu tươi tuôn cả ra, đại pháp sư vội vả vạch kiếm quyết lên, liên tục hét lớn: “Thái tử nguyên soái…lịnh, thái tử nguyên soái…lịnh.” Thế nhưng chỉ thấy người phụ nữ điên kia chỉ thêm phần điên loạn, hay tay hươ lên, mọi người xung quanh vây lấy thành vòng tròn lập tức giãn lùi ra sau, Tiền đại pháp sư miệng thở hồng hộc, ông ta tốn quá nhiều công sức nhưng chẳng mang lại hiệu quả gì, lắc đầu quay sang nói với trụ trì Thích Tuệ Linh rằng: “Ma quỷ trên người phụ nữ này, pháp lực quá lớn, tôi không phải là đối thủ.”
Lúc đó, tôi và mẹ tôi cũng đang vội vả đến xem cớ sự gì, tôi bèn nói với mẹ tôi rằng: “Chuyện này dễ giải quyết thôi, để con giải quyết vậy!” Lúc đó, tôi chỉ mới 26 tuổi mà thôi, mẹ tôi nghe tôi nói muốn đi ngăn cản người phụ nữ điên kia liền kinh hãi đến biến cả sắc mặt: “Con không thể đi được, nhất định là không được đi, không được đi.” Tuy nhiên do tôi đã có lòng tin là giải quyết được, nên bèn cởi áo khoác vest ra , bước đến trước mặt người phụ nữ, tôi chắp hai tay lại, niệm thầm Kim Cang Bất Hoại Hộ Thân thần chú.
“Ngươi là người nào, dám xen vào chuyện của ta?” Người phụ nữ điên hai tay xụi xuống, cất giọng bình tĩnh hỏi.
“Tôi kêu là Liên Sinh, là đồ đệ của Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, hôm nay đến để khuyên bà nên bỏ đi mối oan khiên này, oan gia nên giải chứ không nên kết, oan oan tương báo thì đến lúc nào mới kết thúc chứ, bà có thể yêu cầu Ngọc Hoàng đại đế báo thù nhưng như thế làm ảnh hưởng đến đại hội trong miếu đường.”
“Ta kiếp trước bị người phụ nữ này hãm hại, nay nhập vào thân xác ả, muốn cầu xin Ngọc Hoàng Đại đế trả thù, nay gặp lúc Ngọc Hoàng xuất tuần, cơ hội thật khó gặp vô cùng, chuyện này không thể dàn xếp được, ngươi đừng lo chuyện bao đồng nữa, ta kính trọng ngươi là đạo sĩ tu đạo, không tranh đấu với ngươi.”
“Bằng hữu! Ngươi thử nghĩ xem, nếu như ta có thể siêu độ cho ngươi thì ngươi có bằng lòng bỏ qua chuyện đấu tranh mà mãi mãi không có cách nào giải quyết này chăng?”
“Ngươi có thể sao?” Người phụ nữ điên loạn bật cười cuồng dại, mọi người xung quanh cũng lo sợ cho tôi đến toát cả mồ hôi.
Thế là tôi bèn thỉnh cầu “Địa Tạng Vương Bồ tát” làm chứng cho tôi, miệng niệm thầm Tiên Thiên Vô Cực Ban Nhược Siêu Độ đại pháp, di chuyển xung quanh theo phía trái thân hình người phụ nữ 33 vòng, sau đó lại theo phía phải di chuyển 33 vòng, tay bắt Độ vong hồn quyết, liên tục thay đổi thủ quyết, thuật này chính là do Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh dạy cho tôi, tôi lần đầu tiên sử dụng, không biết có công hiệu hay không. Đương nhiên, lòng bàn tay xuất mồ hôi, trong người tim đập thình thịch cả lên. Nhưng thật kỳ lạ thay, ngươi phụ nữ điên loạn kia đã từ từ hé mở cặp mắt giận dữ, hai tay cũng không còn hươ loạn cả lên, miệng cũng không còn gào thét, đợi sau khi tôi niệm xong, bà ta đã tỉnh người trở lại, oan hồn kia đã rời bỏ khỏi cơ thể của bà ta.
Sau khi bà ta tỉnh lại liền hét lên: “Tôi làm sao lại ở đây vậy?”
Xung quanh tiếng vỗ tay vang lên như sấm, đồng thời có rất nhiều ngươi vây xung quanh tôi hỏi: “Anh làm sao lại làm được như thế vậy.” Người phụ nữ kia theo lời kể của những người xung quanh nói: đã điên loạn cả 9 năm nay, bao nhiêu thầy thuốc đều bó tay, hôm nay là lần đầu tiên tỉnh lại, nhà ở gần miếu Thành Hoàng, lần này coi như là đã trị được hết bệnh điên rồi.
Lúc đó trong lòng tôi rất cảm kích Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh, nếu như không có Linh sư dạy bảo cho thì làm sao tôi có thể biết được “Tiên Thiên Vô Cực Ban Nhược Siêu độ đại pháp” chứ. Hơn nữa lần đầu tiên thực hiện lại có thể linh nghiệm như thế, tôi thật sự vui mừng vô kể, mẹ tôi cũng rất vui mừng cho tôi.
Tuy nhiên kể ra cũng thật là đáng tiếc, vị Tiền Đại pháp sư đó, mặt có vẻ không hài lòng nói: “Trận đấu pháp vừa rồi, chính là nhờ công lực thần thông của Thái tử nguyên soái, người đó chẳng qua là vuốt đuôi theo sau mà thôi, nhân cơ hội chiếm lấy tiện nghi thôi. Ây chà, chỉ có thể tùy tiện bắt cái thủ quyết là oan hồn đã rời khỏi rồi. Hứ! Còn không phải là Tam muội chân thủy của ta lợi hại sao chứ.”
Đương nhiên, tôi sẽ không tranh chấp những công lao vô nghĩa như vậy, tuy nhiên trong lòng tôi lại nảy sinh tâm trạng chán ghét với tính ham hư danh vô sĩ của con người. Thậm chí đồ đệ của Tiền Đại pháp sư đã tìm đến tôi hỏi rằng: “Tiểu tử, ngươi biết cái gì chứ? Hiểu được cái gì chứ? Chúng ta so tài thử xem nào.” Ây chà, thì ra lòng người có thể ô uế đến thế, cảm giác của tôi đối với con người càng cảm thấy thất vọng, tôi nghĩ đến thầy của tôi là Thanh Chân đạo trưởng, hiểu được cớ sao ông ấy lại một thân ẩn cư nơi chốn thâm sơn, lãng phí cả một thân tài năng, sao không đem ra cứu độ chúng sinh, cớ sao lại chỉ muốn ngộ được chân đạo, để tự bản thân hưởng lấy mà không đem đi độ chúng.
(Lư Thắng Ngạn Văn Tập 016 – Mạn đàm về Linh Cơ thần toán)
Đến Bành Hồ hỏi Thành hoàng
Nhận được chỉ định của đơn vị, tôi và đội phó đội Đo lường Ngụy Thanh Bình đáp chuyến bay của hãng hàng không Viễn Đông đi Bành Hồ để đo đạc ở một căn cứ, vợ của Ngụy Thanh Bình tên là Tiêu Phụng Hoàng là một người rất mực tin tưởng Quan Thế Âm Bồ tát, tuy nhiên Ngụy Thanh Bình lại là người chẳng tin gì cả, còn tôi thì trong đội đo lường ai cũng biết tôi là tin thần bái Phật. Lúc máy bay cất cánh, Ngụy Thanh Bình hiếu kỳ hỏi tôi: “Nghe nói anh rất tin Phật phài không?”
“Ừm, còn anh?”
“Tôi à? Tôi chẳng tin gì cả, tôi chỉ cho rằng làm người thì nên chính trực, nửa đêm có bị gõ cửa cũng chẳng sợ, chỉ cần không hổ thẹn với lương tâm là được rồi, lúc trước có người muốn truyền giáo cho tôi, tôi nghe qua mấy lần, chẳng qua chỉ là khuyên người ta tin vào đạo thì sẽ được cứu mà thôi, Cơ đốc giáo, Phật giáo tất cả đều như thế, vợ tôi muốn tôi lạy Quan Âm Bồ Tát, tôi tôi kính là được rồi, hà tất phải thắp nhang, dập đầu bái lạy chứ, phiền phức chết đi được.”
“Đội phó à, anh nói quả thật chẳng sai, mọi người nếu như đều giống như anh có thiện tâm như thế thì tốt quá đi, nhưng có lẽ có một số người có thể hiểu được chân linh của Bồ Tát đó.”
“Anh nói đến thần toán dự đoán tương lai à? Ha ha! Tôi nếu như không tận mắt nhìn thấy thì sẽ không tin đâu, nghe mọi người nói rằng anh biết “Linh cơ thần toán”, nhưng tôi vẫn cứ không tin, trừ phi anh biểu diễn cho tôi xem. Có lẽ anh cảm thấy tôi cố chấp, nhưng sự thật có thể chứng minh tất cả, giả sử như anh thật sự có thể dự đoán chính xác, nói không chừng tôi sẽ trở thành tín đồ phật pháp hết lòng tin tưởng thì sao.”
Máy bay cất cánh ở phi trường Thủy Nam, bay đến bầu trời phi trường Mã Công ở Bành Hồ, cũng chỉ là võn vẹn trong khoảng thời gian ngắn ngũi 30 phút mà thôi, máy bay lượn trên không trung ở sân bay Mã công, gió cát ở Bành Hồ lớn quá, tôi từ trên máy bay nhìn xuống, nhìn thấy biển xanh thẳm, từng con sóng trắng xóa vỗ vào bờ cát, cảnh sắc thật là tuyệt đẹp. Không lâu sau, máy bay đã đáp xuống đường băng, tối hôm đó, tôi và đội phó ở tại khách sạn Văn Thạch, khách sạn Văn Thạch này cũng không thể xem là một khách sạn nhỏ, gió biển thổi lồng lộng, theo lời chàng thanh niên giữ cửa thì ở Bành Hồ tựa như ngày nào cũng như thế cả, đặc sản địa phương có đậu phộng, đậu phộng ở Bành Hồ đặc biệt lớn, khô mực, văn thạch v.v…Tôi và đội phó đi dạo ở Bành Hồ vài vòng, đội phó trước đây từng đến qua Bành Hồ, ngay cả vợ của anh ta cũng đã ở qua Bành Hồ, vợ anh ta từng đến cầu nguyện ở Đình Quan Âm Bành Hồ, bởi vì năm đó sức khỏe của cô ấy không được tốt.
Sau khi trở về khách sạn, mới đến 9h, đi ngủ thì còn quá sớm, đi chơi thì lại không có chổ nào để đi cả, lúc này đội phó Ngụy thò tay vào túi lấy ra một nắm đồng xu lẻ (loại đồng xu 1 tệ), nắm lại trong tay đưa ra trước mặt tôi nói: “Để tôi thử xem Linh cơ thần toán của anh có chính xác không nhé? Anh đoán thử xem, trong tay tôi có mấy đồng xu nè? Nếu đoán trúng tôi sẽ tin Phật, nếu đoán không trúng thì anh mời tôi đi xem phim ở rạp hát Long Cung, thế nào, thử không?”
Đột nhiên lại bị thử dò như thế, tôi rất là kinh ngạc, tôi không thích những người thử dò thần linh với cách thức khinh miệt như thế, nhưng lại không thể không ứng phó với những trường hợp thăm dò như thế, tôi tĩnh tâm lại, vận hành “Linh mệnh” vẫn còn sống kia ra, chấp tay lại, mặc niệm: “Đệ tử Liên Sinh, nay vâng theo Tiên Thiên Vô Cực Chánh pháp lệnh, cung thỉnh chư thiên thần thánh quá vãng, có chuyện muốn tương cầu, xin cầu giáng linh.” Tôi trong lòng cung kính mời gọi nhiều lần, không lâu sau quả nhiên giữa chừng không có một vị thần giáng xuống, tuy nhiên chỉ thấy y phục tươi sáng, sắc tường muôn đạo, người vận long bào, đầu đội mũ ô sa, tướng mạo đường đường, đương nhiên tuy là thần tiên giáng hạ từ không trung nhưng đội phó với đôi mắt phàm thì tất nhiên không thể nhìn thấy được, còn tôi trong lúc đó thì những thần quỷ thông thường thì đều có thể nhìn thấy được, trừ những Tiên phật ở cảnh trời vô sắc trở lên thì tôi nhìn không thấy được, chẳng hạn như Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh, tôi nhìn không thấy vậy. Có thần chức ty vẫn có thể nhìn thấy được.
“Bản thần là Thành Hoàng Bành hồ, chẳng hay pháp sư dùng chánh pháp tương thỉnh có chuyện gì căn dặn hay không?”
“Phiền đến Thành hoàng như thế, quả thật trong lòng rất bất an, do bởi đội phó kia nắm chặt bàn tay muốn thử tôi, tôi muốn trả lời cho đặng việc, muốn làm phiền ngài chẳng hay có được chăng?” Tôi trong lòng cho rằng chuyện vặt vãnh nhỏ bé này mà phải làm phiền đến tôn thần Thành Hoàng thì nhất định sẽ khiến cho ông ấy trách cứ mình một phen rồi.”
“Trẻ con! Trẻ con! Pháp sư làm sao lại có thể hồ đồ thế?”
“Thành Hoàng à, nếu như có thể trả lời chính xác thì có thể chỉ dẫn cho một người tin Phật, công đức không phải là nhỏ, không phải là trẻ con đâu, chỉ dám cầu xin lần này thôi, lần sau không dám nữa đâu.” Tôi đáp lời một cách cung kính
“Có 14 đồng.” Thần Hoàng khẽ chớp lên rồi biến mất.
Tôi đáp rằng: “Có 14 đồng xu 1 tệ.”
Ngụy Thanh Bình xòe tay ra đếm từng đồng từng đồng, ngay cả bản thân anh ta cũng không biết là có bao nhiêu, khi đếm đến đồng thứ 13, trên tay vẫn còn một đồng, đây không phải là vừa tròn 14 đồng sao? Đội phó nhìn tôi nói: “Kỳ quặc, thật sự có thể chính xác như thế sao?” Anh ta nói: “Hôm nay tôi đã nói ra tất sẽ làm theo, tôi tin rồi, đợi khi nào chúng ta có thời gian, tôi sẽ dẫn anh đi bái lạy khắp các chùa miếu ở Bành Hồ, đồng thời tôi sẽ thay vợ tôi đi trả nguyện mà cô ấy đã từng thề nguyện.”
Đội phó Ngụy quả nhiên là người giữ chữ tín, sau khi chúng tôi kết thúc công việc, anh ta dẫn tôi đi tham bái tất cả các chùa miếu ở Bành Hồ, bao gồm có: Quan Âm đình, Nam Bình Cung, Hải Linh cung, Thánh Mẫu miếu, Thông Lương Khương phủ Vương Gia miếu, Âm Dương miếu, Hứa Chân Quân miếu, Bảo Linh cung, sau cùng là đến Thành Hoàng miếu, vừa đúng lúc trong miếu Thành hoàng có người đến tụng kinh, Thành Hoàng Bành Hồ ngồi trên thần án cao ở bên trên, nhìn thấy chúng tôi hai người bước vào liền vội vã bước xuống, nói: “Thì ra ngài là Liên sinh, đệ tử của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh, chẳng trách ngài dùng pháp chú chiêu thỉnh là Tiên Thiên Vô Cực Chính pháp, thất kính thất kính.”
“Không dám, không dám, lần trước nhờ được giúp đỡ, hôm nay tôi đặc biệt đến để cảm tạ, nay đội phó của tôi đã quy y Phật môn, tương lai nếu như thành Phật, thì ngài chính là một đại công thần vậy!”
“Nào dám, nào dám.” Thành hoàng rất là khách sáo với chúng tôi, tôi nhìn thấy những tiểu quỷ ở hai bên đều nhìn tôi chớp mắt.
Sau khi Ngụy Thanh Bình trở về Đài Trung đã hoàn toàn thay đổi so với trước đây, hết lòng sùng kính Phật giáo, đã in hàng ngàn quyển “Bạch Y Quan Âm thần chú”, sau đó in thêm ngàn quyển “Lăng Nghiêm chú”, tặng miễn phí cho mọi người xem, trong nhà thờ cúng thần tượng của Quan Thế Âm Bồ tát, do chính tác giả đã khai quang điểm nhãn, anh ta sinh được 3 con trai, vợ có mang muốn cầu xin một con gái, quả nhiên sau đó đã sinh được một thiên kim phúc đức viên mãn, anh ta rất đỗi vui mừng, sức khỏe của vợ anh ta cũng ngày một tốt hơn, tín ngưỡng của anh ta lại còn cao hơn cả vợ mình.
Ngụy Thanh Bình hết lòng tin tưởng Phật giáo như thế, tất nhiên có liên quan đến “Linh cơ thần toán” của tôi, đồng thời tôi cũng hướng dẫn cách cho anh ta đả tọa, đánh thức “Linh mệnh” trong cơ thể, đến nay thì Ngụy đội phó cũng đã có được một ít thần thông, khi anh ta đi công tác bên ngoài đã từng gặp qua Thổ Địa công công báo cáo với anh ta tình hình ở nhà, cũng linh nghiệm vô cùng. Các bạn nếu như không tin có thể đến Nam Môn Kiều ở Đài Trung, gần đài phát thanh nông dân, hỏi tìm Ngụy Thanh Bình, nhà của Ngụy đội phó ở gần đấy, chỉ cần hỏi là lập tức sẽ biết được chân giả ngay, còn nếu vẫn cứ chưa tin, vẫn xem quyển sách này là quyển truyện thần thoại, thì tôi cũng chẳng có cách gì, thật sự chẳng có cách nào cả.
Ở phương Bắc của Trúc Nam, gần với Hương Sơn, có một ngọn núi kêu là Tiêm Bút sơn, trên Tiêm Bút sơn có khoảng 50 hộ gia đình sinh sống, đa phần đều sinh sống dựa vào những sản phẩm trong rừng núi, tôi đã từng đến nơi này để đo đạc. Lúc đó tôi có dẫn theo một người cấp dưới, người này họ Huỳnh tên là Xuân Phong, tôi và người thuộc cấp họ Hoàng này trú tạm trong lô cốt quân sự của bộ đội biên phòng biển, chúng tôi và những đồng bào trong núi rất quen thuộc. Người dân ở đây mỗi lần làm lễ Bái bái, luôn cảm thấy việc mời được khách đến rất là vinh hạnh, ở trong núi thì chỉ có những bộ đội biên phòng miền biển mà thôi.
Lần đó là Lễ khánh thành Bái bái của miếu Uất đại nhân, kết quả là tôi và anh Huỳnh Xuân Phong kia bị kéo đi làm khách tham dự, nhà trên núi mời khách, mặt bằng thật là lớn vô cùng, thật là nhìn khiếp người, có nhà mời đến 30 mấy bàn, ít nhất là 5 bàn, thịt cá ê hề, trong tiệc rượu mọi người nói chuyện cuộc sống, chủ nhà rất mực hiếu khách, liên tiếp mời chúng tôi uống rượu, kính rượu. Trong tiệc bỗng nhiên có ông lão cất tiếng than thở: “Phong thủy của ngọn núi vốn là rất tốt, chỉ tiếc là…”
“Chỉ đáng tiếc là thân rồng bị chia cắt thành 2 đoạn.” Tôi tiếp theo lời.
Ông lão đó giương hai mắt kinh ngạc nhìn tôi nói: “Chàng thanh niên, cậu cũng hiểu địa lý nữa à?”
Tôi chỉ những chổ trũng ở phía trước núi nói: “Huyệt này tên gọi là ‘Song Long triều dương’, theo lý mà nói thì ở xưa sẽ xuất hiện một vương công quý nhân từ nhị phẩm trở lên, thế nhưng, do công ty gạch ngói đào đất để làm gạch nên đã phá đi địa lý nhân kiệt cực tốt ở đây, về sau nhận thấy đất ở đấy không thích hợp để làm ngói đỏ, ngày nay mới để lại những hố sâu lớn như thế, đúng chứ? Do bởi long huyệt bị phá vỡ, khí thế tiêu mất, ngày nay trên núi mới dựng lên miếu Uất đại nhân , ngôi miếu này vừa đúng nằm trên con đường mà khí thế đã bị tiêu mất, muốn mượn linh lực của miếu này để ngăn chặn lấy chân khí long huyệt đang bị tán thất kia, tôi cho rằng mục đích của lễ hội Bái bái của chúng ta hôm nay chính là ở đây rồi.”
Ông lão nói: “Bội phục, bội phục, lão đệ, cậu là môn hạ của ai thế? Tôi học địa lý đã 40 năm, xuất thân từ Tam Nguyên đường Phúc Kiến, có thể biết được khí địa linh của đất này chỉ có mỗi mình lão phu mà thôi, thật không ngờ huyền cơ trong việc xây dựng ngôi miếu Uất Đại nhân này, cậu cũng có thể nhìn ra được, quả thật là không đơn giản, nói cho lão biết nào, cậu là môn đệ của ai thế?”
“Dạy địa lý cho tôi là Thanh Chân đạo trưởng, là đạo nhân học đạo ở Thanh Thành sơn.” Tôi đáp.
“Thanh Chân đạo trưởng? Chưa từng nghe qua.” Ông lão lắc đầu.
“Thanh Chân đạo trưởng chỉ là một người tu đạo yên tĩnh mà thôi, chưa từng giúp người ta xem địa lý phong thủy, cho nên không có ai biết cả.” Tôi giải thích thay cho sư phụ.
“Thế này vậy! Cậu giúp tôi xem thử coi ngôi miếu Uất đại nhân này xây dựng như thế nào?” Ông lão không chờ tôi phân giải gì đã lôi tôi đến trước miếu xem xét, Huỳnh Xuân Phong và một vài người cũng theo sau. Tôi xem xét tỉ mĩ trước miếu, sau miếu, ngôi miếu này không lớn, chỉ lớn bằng khoảng 5 lần Thổ địa miếu mà thôi, kim thân của Uất đại nhân chỉ cao có 8 tấc, ngoài ra còn thờ 2 vị thần không biết là danh tính gì, còn Uất đại nhân là người như thế nào? Tôi cũng chẳng biết, tuy nhiên sau khi xem xong tôi nói rằng: “Bát quái kim lô treo ngược, cửa miếu cách ba, trụ miếu có 7 cột, ngũ doanh đương đạo (ngũ doanh tức là Ngũ doanh binh mã), tôi nghĩ đây chắc là muốn mượn linh uy của Ngũ doanh binh mã, cộng với toàn số uy lực của 7 thần trụ trong miếu, mở ra Thượng Trung Hạ ba cửa, lấy hồ lô bát quái treo ngược để hút toàn bộ địa linh đã mất trở lại.”
Ông lão ấy lúc bấy giờ kinh ngạc quá đỗi, không thốt được lời nào cả, mãi một lúc sau mới nói: “Lẽ nào toàn bộ Địa Linh kinh, cậu đều đã học hết cả sao?”
“Cai gì là Địa Linh kinh chứ?” Tôi thực sự không biết.
“Địa linh kinh là Thiên hạ chi bảo, mỗi một người thầy nghiên cứu về địa lý đều mong ước học được những tri thức ghi chép trong bộ sách này, lão đã bán đi tất cả ruộng vườn mới học được chút ít tri thức ở Phúc Kiến Tam Nguyên đường, Thanh Chân Đạo trưởng là nhân vật thế nào vậy? Ông ấy lại có thể truyền những bí thuật bất truyền trong thiên hạ lại cho cậu thế, cậu đóng cho ông ấy bao nhiêu học phí vậy?”
“Không tốn đồng xu nào cả.”
“Cậu gạt người.”
“Không gạt ông đâu. Thật đấy.” Tôi đáp lời một cách thành khẩn.
“Vậy cậu xem thử coi, ngôi miếu Uất đại nhân này chừng nào linh lực sẽ tăng lên? Gần xa đều biết đến.”
Sau khi nhìn Bát quái đồ trên Miếu đường, tôi trả lời: “Không quá 12 năm.”
“Lão đệ, lão phục ngươi rồi, đúng vậy, lão đang xếp 12 cung trên bát quái. Cậu nếu như giúp người ta xem địa lý phong thủy, chỉ cần tìm được một người chủ biết xem hàng thật thì cả đời cậu ăn ở không cần phải lo nghĩ nữa, đồng thời còn có thể phát đại tài nữa, lão xem cậu tuổi vẫn còn trẻ thế này, ánh mắt lại lanh lợi sắc bén, trong tương lai không xa nhất định sẽ có thành tựu lớn, điều này là nhất định rồi.”
“Xin hỏi lão tiên sinh đây, Uất đại nhân là nhân vật như thế nào vậy?” Tôi cảm thấy kỳ quặc, vì sao mà tượng kim thân của Uất đại nhân ở trên thượng tọa mà lại không có tiên linh giáng xuống trên kim thân.
“Cậu có nhìn ra chăng? Chổ này không tiện nói.” Ông lão kéo lấy tay tôi, kéo tôi vào trong cánh rừng gần đó.
“Thì ra là thế.” Tôi gật gật đầu, im lặng không nói gì.
Ông lão đó lấy bát tự niên canh của mình chiếu theo quẻ đồ bài xếp trong miếu, lấy lông tóc, móng tay cho vào bên trong kim thân của pho tượng Uất đại nhân đó, sinh mệnh của ông lão sẽ kết thúc trong 12 năm tới, ông tự mình tính toán sẽ không sống qua được 12 năm nữa, sau khi chết, hồn phách có thể ký gửi bên trong miếu, nương dựa vào kim thân được người muôn đời nhang khói thờ phượng, trở thành thần tiên Uất đại nhân hiển hách uy linh ở trên Tiêm Bút sơn.
Đây là một loại Kỳ môn độn linh pháp, sư phụ Thanh Chân đạo trưởng đã có truyền thụ qua, tuy nhiên quý độc giả thân mến tuyệt đối chớ nên xem đó là trò chơi, cho dù có biết được nguyên lý bên trong nhưng nếu không biết phương pháp, nếu như thử làm thì sinh mệnh sẽ bị “thu ngắn”, đến lúc đó thì chớ có mà trách tôi.
Hãy nói về tôi đến đo đạc những hố sâu trên núi đó, sau khi bày xong bản đo đạc, bắc luôn cả thiết bị cân bằng, Huỳnh Xuân Phong nâng thước đo lên, chuẩn bị theo đường núi đi xuống những hố sâu kia, tôi chỉ cần đo xem những hố kia rốt cuộc là sâu bao nhiêu? Khi Huỳnh Xuân Phong cầm thước đo chuẩn bị đi xuống thì tôi hét bảo anh ta ngừng lại.
“Đợi đã, những hố sâu này không dễ đi xuống đâu, đợi tôi tính toán lại cái đã.”
“Anh dùng linh cơ thần toán à?” Huỳnh Xuân Phong hỏi.
“Thử xem sao.” Tôi liền vận dụng “Linh mệnh”, giương dài góc tiếp xúc của Linh mệnh ra, tôi tính ra được 63m, từ hố sâu cho đến đỉnh núi là 63m, nhưng sau đó tôi lại sợ không chuẩn xác, liền bảo Huỳnh Xuân Phong đi xuống, tôi dùng thiết bị đo đạc canh thật chuẩn thước đo, dùng cách tính “Cụ môn thị cự” tính ra được 65m, sâu hơn 2m, kỳ quái đo đạc bằng linh giác lần này lại có thể sai lệch đến 2m sao?”
Một lúc sau, Huỳnh Xuân Phong từ dưới núi chạy lên, anh ta vừa lên đến đã thở hồng hộc, nói: “Ở dưới đáy hố không có bằng phẵng, tôi đứng ở chổ thấp nhất, khoảng cách của nơi thấp nhất với mặt đất tương đối bằng phẵng là 2m.”
Tôi nói: “Cám ơn cậu, tôi biết rồi.”
Huỳnh Xuân Phong là người đo đạc chung ăn ý nhất với tôi, anh ta đầu óc thông minh, sức khỏe lại tốt. Hiện giờ anh ta đã không còn làm ở đơn vị đo đạc nữa, anh ta mở tiệm bán đèn Mỹ thuật Kiều Lệ ở Đài Trung, tên tiệm “Kiều Lệ” là do tôi đặt cho anh ta, đèn mỹ thuật lắp đặt trong nhà cũng đều là tôi nhờ anh ta đến lắp đặt, nếu quý độc giả cần chứng thực thì có thể đến tìm anh ta.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh Cơ thần toán)
Nét cười khó quên của Lục Giáp Nương nương
Công việc đo đạc luôn phải đi đây đi đó, tuy nhiên điều khiến tôi khó quên nhất chính là nét cười của Lục Giáp Nương Nương, Lục Giáp ở huyện Đài Nam, gần với hồ thủy lợi Ô Sơn Đầu (hồ San Hô) nổi tiếng khắp toàn tỉnh, lúc bấy giờ, tôi, Trương Anh Cao và Huỳnh Đại Phúc, ba người theo phân công đến đo đạc ở Lục Giáp, khi tôi đến Lục Giáp cả Linh sư cũng theo tôi, mỗi buổi tôi, người đều truyền thụ đạo pháp cho tôi, tôi nhớ mùa đông năm ấy, thời tiết rất lạnh, nửa đêm Linh sư lay gọi tôi dậy, bảo tôi đến một khu nghĩa địa hoang vắng để nghe Linh sư truyền dạy, tác giả vốn dĩ bản tính rất gan dạ, nếu như đổi là một người khác, chi e rằng lúc đó sẽ sợ chết khiếp mất.
Mùa đông sao trên trời tỏa sáng lunh linh, trong khu nghĩa địa bia mộ màu trắng ngả nghiêng la liệt, tiếng côn trùng kêu rả rích, nhất là vào mùa đông, đêm xuống đều có sương mù mỏng bao phủ, Linh sư truyền cho tôi thuật “Chiêu hồn” đại pháp, Chiêu hồn đại pháp chính là pháp thuật dựa vào thần lực của Ấn chú để xua đuổi đi âm linh. Linh sư bảo rằng: “Thuật này tuy không phải là dành cho danh môn chính phái tu tập, tuy nhiên nếu như muốn tuyên truyền chính pháp chính giáo thì cần phải hiểu rõ được hết tất cả các dạng thức thần thuật như thế”.
Linh sư nói: “Đại trí tuệ tâm phải bao dung tất cả thiên hạ chi lý, quang minh không thể thâm sâu ẩn tàng, lớn đến vô cùng, tà thuật cũng không dám khinh khi, về sau có thể nghe được chánh giáo.”, người còn nói: “Liên sinh, trong tương lai ngươi cũng sẽ tu tập Phật giáo, tức là cả Cơ Đốc, Đạo, Phật, cả 3 giáo ngươi đều đã có trải qua, do vậy sẽ không gặp tình trạng chỉ biết đạo này mà không tường pháp kia, thiên thượng địa hạ duy ngã độc tôn vậy.”
Có một đêm nọ khi tôi đang dạo chơi ở trên đường Lục Giáp, đồng hành với tôi còn có Huỳnh Đại Phúc, Huỳnh Đại Phúc là người Tú Thủy ở Bành Hóa, chúng tôi cùng vào một tiệm cắt tóc bên đường để cắt tóc, ở phía trước chợ rau Lục Giáp có một ngôi miếu không lớn lắm, tôi và Huỳnh Đại Phúc cùng đi vào, trước miếu có treo một tấm bảng: “Niệm Phật Đoàn Hội Phật Giáo Lục Giáp”, tiếng tụng kinh vọng ra từ dãy phòng phía tả ở trong miếu.
Tôi chắp tay lại, cung kính cúi người trước tượng Bồ Tát ở chánh điện, khi ngẩng đầu lên chợt thấy mây màu cuồn cuộn giữa chừng không, một vị nữ thần với khuôn mặt tươi cười đang từ không trung giáng hạ, chân đạp trên hoa sen bảy sắc, tổng cộng có hai đóa, trên đầu đội mão cửu long, thân vận y phục màu sắc, nương nương với gương mặt tươi cười đang đứng trước mặt tôi.
Bồ Tát mở miệng: “Đến Lục Giáp rồi, Liên Sinh chẳng hay vẫn khỏe chứ?”
“Bồ Tát nhận được tôi?”
“Ta từng vân du qua miền Trung, đến qua Ngọc Hoàng cung và cung đường mà ngươi thờ phượng thần vị, ngươi quên rồi à?”
Trên thực tế, tôi quả là không thể nhớ nhiều như thế, thần tiên ở trên trời dưới đất này thật sự là nhiều vô cùng, vị nào cùng có nơi chốn, ngài nào cũng có chức danh, giữa thần minh qua lại với nhau, quả thật là tôi quen biết rất nhiều, có một vài thần minh thậm chí còn kết nghĩa bạn bè vong niên với tôi nữa, nhưng Lục Giáp Nương Nương đã đến qua nhà tôi chưa, tôi thực sự không thể nhớ được, lúc đó nhà tôi đã thờ phượng mấy vị Bồ Tát rồi, hiện đã trở thành một Phật đường nhỏ.
“Xin Bồ Tát lượng thứ, quả thật không thể nhớ được.”
“Nhớ không được cũng chẳng sao, Liên Sinh, ta có chuyện muốn thương lượng.”
“Xin Bồ Tát nói rõ.”
“Trụ trì miếu này hiện đang lâm trọng bệnh, ta muốn nhờ ngươi viết cho một đạo Kim Đan phù để chữa trị, chẳng hay ngươi có đồng ý chăng?”
“Bồ Tát đã căn dặn Liên Sinh không dám không tuân theo, nhưng chỉ sợ chúng nhân không tin thì làm sao.”
“Họ sẽ tin thôi, đệ tử ở đây tâm địa thuần khiết, bản tính lại thiện lương, trụ trị ngọa bệnh đã hai tháng nay, đến hôm nay bệnh kiếp vừa đúng đã hết, ngươi nên cấp tốc họa phù, sau đó giao cho đệ tử tụng kinh ở phòng phía tả, ngày mai ngươi hãy trở lại, ắt có linh dị.” Bồ Tát nói xong, tức thì biến mất. Thế là tôi cũng chẳng khách khí gì nữa, liền vẽ phù kết ấn ở ngay trên thần án. Tôi và Huỳnh Đại Phúc bước vào trong dãy phòng phía tả, bên trong có một ông lão đang dạy cho mấy người phụ nữ tụng kinh, tôi nói rõ nguyên nhân đến với ông lão, ông lão chẳng nói gì cả, còn mấy người phụ nữ kia đều nhìn tôi với ánh mắt kỳ quặc, trong số đó có một người hỏi tôi: “Ông là đồng bóng ở nơi nào đến vậy?”
“Tôi đến từ Đài Trung, không phải là người lên đồng bóng, ngày mai tôi sẽ trở lại nữa, Bồ Tát đã căn dặn thế.” Tôi đáp.
“Đạo phù đó, cậu hãy để lại đây, tối mai cậu hãy trở lại đi!” Ông lão hươ hươ tay, tôi và Huỳnh Đại Phúc quay trở ra, Huỳnh Đại Phúc nói rằng: “Bọn họ dường như không tin lắm, anh hà tất phải lo chuyện không đâu.”
“Cậu thử nghĩ xem, chúng ta không thể trách bọn họ không tin, lúc trước nếu như tôi không nhờ người phụ nữ áo xanh kia khai thị, cũng không được Linh sư chỉ bảo, kể cả chưa nhận Thanh Chân Đạo trưởng làm thầy thì tôi há có thể có được cảm ứng linh dị như thế này chứ? Nếu như lúc trước có người nói với tôi như thế thì tôi chẳng những không tin mà còn mắng họ là nói tầm xàm, mê tín, nói chuyện hoang đường trong thời đại khoa học, người tin thần thánh như bọn họ còn không tin thì huống hồ gì là những người không tin thần thánh chứ.”
Tối ngày hôm sau, tôi và Huỳnh Đại Phúc vội vội vàng vàng chạy đến miếu Nương nương, vừa vào cổng miếu thì trụ trì và một vài phụ nữ đã ra đón, trụ trì miếu nói: “Đạo phù đó của cậu cực kỳ linh ứng, hai tháng lâm trọng bệnh, chỉ trong chốc lát đã khỏi giống như đã vứt đi gánh nặng vậy, hôm nay tôi có thể bước xuống giường được, tinh thần đã dần dần hồi phục, cám ơn Bồ Tát đã phù hộ, cám ơn cậu rất nhiều.” Tôi vừa nghe Trụ trì nói bệnh đã khỏi, trong lòng cũng đã trút được gánh nặng, tôi liền hướng về Bồ Tát bái lạy vài cái, đang chuẩ bị rời khỏi.
“Tiên sinh, chẳng hay người có thể giúp tiểu nhi vẽ một đạo phù chăng? Tiểu nhi bị bệnh cứ sốt hoài, uống thuốc thì có đỡ đôi chút, nhưng nếu không uống thuốc thì nhiệt độ lại tăng trở lại, xin nhờ tiên sinh người giúp cho một đạo phù có được không?”
Một trong những người phụ nữ ở đó đã yêu cầu tôi như thế.
“Tôi cũng xin một đạo vậy, mẹ tôi bị ho suốt vẫn không khỏi.”
“Tiên sinh, làm ơn hãy cho tôi một đạo với.”
Huỳnh Đại Phúc nhân lúc ấy liền tuyên dương tôi linh nghiệm ra sao, chuẩn xác thế nào, hù dọa đến nỗi các phụ nữ có trong miếu đều trợn cả mắt lên. Tôi quỳ xuống trước mắt Bồ Tát, Bồ Tát lại hiện ra với nét mặt tươi cười, chỉ là lần này hiển hiện không được rõ ràng như lần trước, giọng Bồ Tát nho nhỏ truyền đến bên tai tôi: “Liên Sinh, lúc bận rộn thì hãy bận rộn đi, ta sẽ trợ giúp cho ngươi, đừng sợ.”
Tôi cầm bút chu sa lên, bắt đầu viết phù niệm chú, mỗi người được chia lấy một tờ, nói ra cũng thật kỳ quái, chỉ cần uống lấy một đạo phù thì những người bệnh nhẹ lập tức bình phục ngay, còn những ai bệnh nặng thì cũng đã có khởi sắc, thậm chí ngay cả một bà lão đã nằm trên giường bệnh nửa năm không thể đi lại được, sau khi uống xong một đạo phù thì đã có thể xuống được giường. Tối hôm sau nữa, tôi và Huỳnh Đại Phúc đến miếu Nương nương, người ở miếu đông vô số kể, đến nỗi gần như đè bẹp cả cửa miếu, mọi người truyền tai nhau, ở miếu Nương Nương có một vị thần tiên trẻ tuổi đến, chỉ cần vẽ một đạo phù, trăm kiểu đều linh nghiệm cả, làm cả Lục Giáp đều vang động lên cả.
Thế là tôi vận dụng Thông linh thuật của “Linh Cơ thần toán” giúp rất nhiều người giải quyết vấn đề, dùng phù chú chữa bệnh cho mọi người, mỗi đêm đều bận rộn đến 12h, trụ trì miếu muốn nhờ xe taxi đưa tôi về chổ ở nhưng tôi từ chối, người đến nhờ tôi trị bệnh mang đến rất nhiều bao lì xì nhưng tôi đều từ chối tất cả, tôi vốn dĩ không lấy của ai một đồng xu nào cả, cũng không nhận người ta chiêu đãi. Đối với tiền, tôi lạnh nhạt thế nhưng không phải là tôi chẳng cần tiền, mà là tôi chỉ thay thần thánh cứu người, không nên lấy tiền tài của người, nếu lấy tiền tài của người thì còn có thể xem là thay thần thánh cứu người sao?
Nguyên nhân tôi căm ghét những kẻ “lừa thần dối thánh” chính là ở đây, những kẻ ấy gặp lì xì là lấy ngay, hơn nữa lại càng nhiều càng tốt, những kẻ ấy là những hạng tà ác, ý nghĩa thật sự của việc thay mặt thần thánh làm việc chính là hành thiện cứu người, chứ không phải là “mua thần bán thánh”, không phải là “huyễn hoặc mê tín”, có người bảo tôi là thầy kê đồng, tôi nói tôi không phải là thầy kê đồng, bởi vì Kê đồng chính là người Trung gian của Linh, là Linh đồng giúp cho Linh của Thần Quỷ nương thân vào, còn tôi thì không phải như thế, tôi không phải là Kê đồng.
“Tiên sinh, nếu người không nhận lì xì của tôi thì chính là xem thường tôi vậy.”
“Xin lỗi, tôi chỉ là giúp Lục Giáp Nương Nương cứu người cứu đời mà thôi, nếu như nhận lấy lì xì của mọi người thì làm sao có thể xem như là giúp đỡ Nương nương chứ hả?”
Lần đầu tiên tôi gặp phải vấn đề khó khăn này, mọi người đều muốn đưa tiền cho tôi, tôi phải làm thế nào chứ? Tôi vốn chỉ một tấm lòng thiện tâm giúp người, tôi cảm thấy như thế là vui vẻ nhất, tuy nhiên mọi người lại vô cùng thực tế, họ cho rằng nếu như đã nhờ người làm giúp việc gì thì nhất định phải trả thù lao. Hai vị phó tướng của Lục Giáp Nương Nương là Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ đã trở thành bạn tốt nhất của tôi, mãi cho đến khi tôi rời khỏi Lục Giáp, mỗi ngày đều có cả trăm người đến tìm tôi, tôi đến Lâm Phụng Doanh đón xe, ở trạm xe có đến hơn hai trăm người đến đưa tiễn, điều khiến tôi khó quên nhất chính là nét cười của Lục Giáp Nương nương. Quý độc giả, nếu như có đến Lục Giáp xin hãy đến thăm viếng Miếu Nương Nương, các bạn nhất định sẽ thấy được khuôn mặt tươi cười của Lục Giáp Nương nương trên điện thờ.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016- Mạn đàm về Linh Cơ thần toán)
Đàm đạo ở Phụng Lâm Cung
Lâm Phụng Cung là một thôn nhỏ ở hẽm nhỏ Phụng Bỉ Đầu thuộc Cao Hùng, Phụng Bỉ Đầu ở gần sát biển, gần đó là căn cứ huấn luyện người nhái (đội Thành Công), tôi rất yêu biển, mỗi buổi hoàng hôn tôi thường hay thả bước bên bờ biển Phụng Bỉ Đầu, ngồi xuống trên những con thuyền vỡ trên bãi cát, trời và biển nối thành một dãy, tiếng sóng vỗ rì rào, biển luôn nhấp nhô không ngừng, lòng của tôi giống như một con thuyền nhỏ trên biển vậy, lúc thì nhô lên khi thì hụp xuống, cũng giống như trong luồng ánh sáng chớp hiện vậy, sẽ cảm nhận được cái đẹp thê lương của cuộc đời, cuộc đời vốn dĩ là trồi sụt, đong đưa, không có ngơi nghỉ hay dừng lại, còn một kẻ đi đó đây để đo đạc như tôi thì cũng như đang trôi dạt trong dòng đời, trôi dạt.
Cũng không nhớ rõ là lần hoàng hôn thứ mấy rồi, tôi đang ngưỡng mặt nhìn ánh chiều vàng trên bầu trời kia, tâm hồn đang phiêu diêu theo mặt biển mênh mông kia, vầng dương đang từ từ lặn xuống, biến cả mặt biển thành một dãy lụa hồng, sau đó không lâu, sắc trời đã bắt đầu tối, gió thổi vi vu, tiếng sóng xô bờ rào rạt, bờ biển chìm dần vào đêm dường như chỉ còn lại một mình tôi trên cõi đời vậy.
Vào lúc tôi đang định rời khỏi thì thấy trên mặt biển có ánh đèn đang chao đưa, ánh đèn ấy thoắt có thoắt không, khi thì bên đông, lúc lại bên tây. Khi đã đến gần, tôi nhìn thấy đằng sau ánh đèn có một cỗ thần kiệu, trước kiệu có 2 viên phó tướng.
Viên phó tướng đạp sóng lướt đi, tôi nhìn thấy trên đầu kiệu có viết mấy hàng chữ: “Phụng Lâm Cung Thiên Thượng Thánh Mẫu”, Thần kiệu và thần tướng chỉ hiện hiện trong chốc lát, không lâu sau liền biến mất.
Ngày hôm sau, tôi liền hỏi những người ở đó: “Gần đây có nơi nào là Phụng Lâm Cung không?” Người ấy nói: “Có đấy! Chính là Miếu Nương Nương ở trong thôn này.”Tối hôm đó tôi đi vào trong thôn, tìm đến Phụng Lâm Cung. Hiện tại tôi đã có thói quen thăm bái thần thánh, mỗi khi đến một nơi, gặp chùa lễ phật, gặp miếu lễ thần, ngay cả đến thăm miếu Thổ địa cũng chắp tay, có khi gặp đúng lúc Thổ Địa công ở trong miếu, ông ấy cũng ngẩng đầu chào với tôi! Tôi cảm thấy tôi tôn kính thần thánh, thần thánh nhất định sẽ giúp đỡ tôi.
Ở Phụng Lâm Cung, thắp lấy nén nhang, đảnh lễ với Thiên Thượng Thánh Mẫu xong, Thánh Mẫu liền hỏi: “Đạo sĩ trước mặt kia, chẳng hay ngươi đã chứng được Lục Giáp Thần Linh Thính Âm thuật chưa vậy?”
“Chính là tôi muốn hỏi đạo ở Bồ tát nên mới đến đây.”
“Muốn hỏi đạo gì?”
Tôi đáp: “Đạo Dưỡng sinh.”
Thiên Thượng Thánh Mẫu đáp rằng: “Lấy ẩm thực mà nói vậy! Ngũ vị chính là mặn, đắng, chua, cay, ngọt, ngũ vị này chính là mật phương điều tiết khí âm dương trở thành Thiên địa huyền công, trong cuộc sống hàng ngày không thể thiếu được, tuy nhiên cũng cần có tiết chế, thì mới có lợi mà không có hại, nếu như không tiết chế, tức sẽ thương tổn ngũ hành, tất nhiên sẽ sinh bệnh. Ngũ vị nếu ít tức thì dưỡng mệnh, nếu nhiều ắt sẽ tổn thân, người thượng cổ, hỏa tế chưa vượng nên hưởng thọ cao. Toại Nhân Thị đầu tiên khai sáng ra lửa nấu ăn, đến nay người đa phần yểu mệnh vì bệnh, con người nếu như tham ăn hỗn tạp tất sẽ nuôi dưỡng lục tình, lục tình sinh tất sẽ tiêu diệt linh căn.”
“Xin đa tạ Thánh Mẫu đã dạy bảo.” Tôi cung kính đáp tạ.
Thánh Mẫu lại nói tiếp: “Người thời nay nói về đạo dưỡng sinh, thật là không đúng! Đàn ông đàn bà ngày nay sinh ra lúc mạt kiếp, mê mê đắm đắm, không có được minh sư chỉ dẫn chổ ngu muội, không biết thân thiện với giáo pháp để khai sáng tâm tính, ngày thường nói chuyện dưỡng sinh, chẳng qua chỉ là tẩm bổ, tạo ra vô số tội nghiệp, gây ra một số tạp niệm vọng tưởng, như thế thì tội nghiệp còn chưa xóa bỏ được, huống chi có thể bàn đến dưỡng sinh chứ?”
“Bồ Tát dạy thật chí phải, đệ tử xin nhớ lời dạy.”
“À, đúng rồi, chưa hỏi qua ngươi tu đạo ở đâu? Chỉ thấy trên mặt ngươi có hiện linh quang, tam quang cùng phát, biết được ngươi vẫn đang tu đạo, công đức tùy thần ở hai bên, vì thế cho nên mới hỏi.”
“Thưa Bồ tát, đệ tử là Liên Sinh, lúc đầu theo Cơ đốc giáo, về sau nhận được pháp chỉ của Dao Trì Thánh Mẫu, theo Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh tu đạo, về sau lại nhận Thanh Chân đạo trưởng làm thầy, hiện nay đến Phụng Bỉ Đầu để đo đạc, hôm qua trông thấy Thánh Mẫu xuất tuần trên mặt biển, vì thế hôm nay đến tham bái.”
“Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh? Ta không biết người này, Thanh Chân đạo trưởng thì đã từng nghe qua, là đạo sĩ thanh tịnh vô vi, như thế tốt lắm, tốt lắm.”
“Thưa Bồ Tát, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh không phải là người, mà là một đạo khí chân linh, tôi xem ông ấy là Linh sư, là Thiên Tiên của cảnh trời vô sắc, chưa từng được Ngọc đế sắc phong, vì thế nên gọi là Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh.”
“Thì ra là thế, nếu vậy thật đã quá thất kính rồi, Liên Sinh nếu như ngươi có rãnh thì hoan nghênh ngươi thường xuyên đến đây chơi.”
“Xin cảm ơn.”
Sau này, khi nhà tôi chính thức thờ phượng Dao Trì Thánh Mẫu Thiên Tôn đã từng phát phi phù “ Phật điệp khắp mười phương”, Phụng Lâm Cung Thiên Thượng Thánh Mẫu ở hẽm nhỏ trên cũng đến viếng thăm, trên đây chính là mối nhân duyên gặp nhau giữa tôi và Thiên Thượng Thánh Mẫu.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 - Mạn đàm về Linh Cơ thần toán)
Thuyết giáo ở Củng An cung
Tôi có một người bạn thân tên là Hồ Thần Hùng, anh ta cư ngụ tại Thảo Đốn. Có một lần nọ tôi đến thăm anh ta, trên đường đi qua Củng An cung, tôi nhìn vào trong cung thì thấy trên điện thờ có ba pho thần tượng, một pho tượng mặt đỏ, một pho mặt xanh, còn lại một pho thì mặt đen, bên trên có treo một mảnh vải buồm, trên có viết rằng: “Tam Phủ Vương Gia”. Khi đến nhà của người bạn, tôi hỏi: “Ông Hồ nè, ở Miếu Tam Phủ Vương Gia thờ phụng 3 vị thần nào thế, ông có biết không vậy?”, Hồ Thần Hùng nói: “Nghe mọi người nói là Trương, Lý, Mạc Tam Thiên Tuế, nghe nói là rất linh ứng đấy, nhưng mà tôi chưa có đến qua, cũng không rõ cho lắm. Sao thế? Ông có hứng thú muốn đến đó à?”
“Cũng không biết là nguyên nhân gì nữa, tôi càng ngày càng thích đi bái viếng thần thánh, hễ cứ gặp chùa, miếu, quan, đường gì là tôi đều vào cả, lạy vái cái cũng được, tùy hỉ cho vui cũng được, nếu mà không vào thì trong lòng cứ cảm thấy khó chịu.”
“Thắng Ngạn, tôi có nghe mọi người nói về ông rồi, đều nói là anh rất linh, thật sự là có thần thánh hay không? Mỗi một ngôi chùa, miếu, quan, đường đều có thần thánh tồn tại hay chăng?” Hồ Thần Hùng hỏi tôi.
“Ông Hồ à, điều này thì không nhất định đâu, tôi từng có đến một ngôi chùa ở miền Trung, ngôi chùa này thờ Phật Thích Ca, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Vi đà và Già Lam Tôn Giả, thần tượng dáng vẻ vô cùng trang nghiêm, tôi trông thấy các pho tượng Phật, Bồ Tát ấy có dáng vẻ trang nghiêm thì trong lòng cảm thấy rất là vui mừng. lập tức cúi đầu đảnh lễ, đột nhiên từ dưới bệ thần chui ra một vị Thổ Địa Công Công. Thổ địa này râu tóc bạc phơ, nói với tôi rằng: “Xin đừng lạy, xin đừng lạy.” Tôi cảm thấy rất là nghi hoặc bèn hỏi: “Thổ Địa Bồ Tát, vì sao lại không nên lạy vậy?”. Thổ Địa thở ra một hơi dài rồi đáp: “Tôi là Thổ Địa ở đây, ngôi chùa này cách đây 40 năm do một vị pháp sư xx tiếp quản, ông pháp sư này làm người gian tà, môn hạ đệ tử sinh hoạt suy đồi, sớm đã bại hoại thanh quy, thân tuy là vào Sa Môn, nhưng lòng lại không phải ở Sa Môn. Đã 40 năm nay Linh Quang Phật tổ chưa từng giá lâm đến chùa này, Hộ pháp Vi Đà và Già Lam Tôn Giả vốn định ra tay trừng phạt nhưng do nhân duyên tiền kiếp của trụ trì chùa, thiện công vẫn còn, ác nghiệp tuy nhiều, nhưng báo ứng lại ở sau 50 năm. Hộ Pháp Vi Đà và Già Lam Tôn Giả sớm đã rời bỏ, trong chùa không còn Phật linh, cũng không có Hộ Pháp, sớm đã trở thành Kim thân giả tướng rồi, yêu ma quỷ quái thường hay lui tới, ni cô hòa thượng ở trong chùa đều là phàm thai, gõ chuông thì cứ gõ chuông, đánh trống thì cứ lo đánh trống, bọn họ đều không hề biết rằng đã 40 năm nay, Linh quang Phật Tổ chưa từng giáng hạ đến chùa này bao giờ.” Tôi nói: “Thì ra là như thế.” Thổ địa Bồ Tát lắc đầu, chớp mắt đã biến mất. Tôi đi khắp nơi một vòng, phát hiện ra ngôi chùa này được xây dựng rất tốt, tuy nhiên quả thật là dường như không cảm nhận được chút xíu linh khí nào cả, lời của Thổ Địa Bồ Tát quả nhiên không sai, tôi thật đau lòng thay cho Hòa thượng và ni cô ở chùa này.”
“Thật sự có chuyện như thế! Thật là quá y thần kỳ, đợi một lát nữa tôi sẽ dẫn ông đến miếu Tam Phủ Vương Gia, ông xem thử coi có thần linh cư ngụ không.”
Tôi và Hồ Thần Hùng đến thăm miếu, nhà của Hồ Thần Hùng ở gần miếu, chấp sự của miếu này với anh ta cũng có quen biết chào hỏi với nhau. Hồ Thần Hùng kể với người chấp sự miếu về những chuyện linh dị của tôi, nhưng người chấp sự chỉ cười tỏ vẽ không tin: “Ô, thật sự như vậy sao?”
Tôi vận dụng thuật “Linh Cơ Thần Toán” nói chuyện với thần linh được một lát, rồi bảo: “Tiên sinh, cung này có sáu vị Kê Đồng, đất hưng khởi nổi danh của Trương, Lý, Mạc Tam Thiên Tuế là ở An Tây Phủ Đài Nam, hiện nay quý cung gặp chuyện nhân sự nhiễu loạn, giữa Kê đồng và người đương sự thường hay có tranh chấp về tiền bạc, trong số đó có một vị Kê đồng không giữ thần quy, ăn nhậu nói chuyện hàm hồ, Mạc Phủ Thiên Tuế hiện nay linh quang đang xuất tuần ở một thôn nọ để chữa bệnh cho người, trong số các vị Kê đồng có một người đang bị bệnh, không biết là có những chuyện như thế này chăng?”
Người chấp sự nghe xong giật mình thất kinh, trong miếu cũng đang có 3 vị Kê đồng đang tán chuyện phiếm với nhau, nghe tôi nói như thế tất cả đều lặng cả người đi, có một vị Kê đồng của Tam Phủ Thiên Tuế nói với tôi: “Tiên sinh, lời người nói quả thật đúng hoàn toàn, thần minh có yêu cầu gì với bọn chúng tôi không vậy? Làm thế nào thì mới có thể giúp cung này hưng thịnh trở lại?”
Tôi đáp: “Ý của thần linh, quý tại hòa khí, giữa người và người với nhau nếu giữ được hòa khí, cung này ắt sẽ hưng thịnh, người ta không phải vì linh cảm của thần thánh mà bái lạy thần thánh, cũng không phải vì tiền bạc mà bái lạy, điều trân quý ở thân con người là quý ở chổ biết tu tập, tự tìm hiểu sai lầm của bản thân, không nhất thiết phải cầu thần thánh, đời người không phải chỉ mưu toan ăn mặc, thân nhà no ấm, thất tình lục dục tùy ý buông lõng, tinh thần hao mòn, thì làm sao có thể là người tu đạo được chứ, bái thần tu đạo cũng vẫn chỉ trả lại bản lai diện mục của ta mà thôi!”
Tôi và người chấp sự, cùng với các Kê đồng đàm đạo rất vui vẻ, tôi dạy cho các Kê đồng ấy một loại Linh thuật, gọi là “Thất Bộ tống hồn pháp”, bọn họ đều hết mực vui mừng, đến mãi khi tận hứng mới giải tán. Khi tôi một mình đón xe buýt trở về đơn vị đo đạc ở Đài Trung, tôi âm thầm cảm nhận được dường như có một linh khí đang bám theo tôi, tôi lên xe, nó cũng lên xe, tôi xuống xe, nó cũng xuống xe, tôi trở về đội đo đạc, khi vào đến Ký túc xá, thắp một nén nhang, cắm vào trong lư hương, phía trên lư hương hiện ra một vị Bồ Tát với khuôn mặt đỏ, thì ra là Trương Phủ Thiên Tuế ở Củng An cung. Trương Phủ Thiên Tuế chắp tay về phía tôi, nói: “Ta là Trương Phủ Thiên Tuế, thấy ngươi có thể thông linh, nên theo ngươi đến đây để biết ngươi xuất thân thế nào?”
“Bồ Tát không biết?”
“Thật sự không biết.”
“Tôi là môn hạ của Tam Sơn Cửu Hần Tiên sinh, tên gọi là Liên Sinh, tôi chỉ yêu thích tu đạo, không yêu thích thứ khác, cũng không thích giúp người hỏi chuyện. Giúp người hỏi chuyện chỉ là phương cách thấp kém để độ chúng, tôi trước tiên tu tập cho bản thân, chứng ngộ được huyền cơ, sau đó sẽ dùng bút trong tay tôi, khuyên bảo mọi người tu thiện hành công đức, nếu như độ người như thế sẽ giúp được càng nhiều người quy y phật, quy y Pháp, quy y Tăng hơn. Như thế sẽ có thể bất sinh bất diệt, tự tính thông lưu, đạo đức viên mãn, thiên trường địa cửu.”
Trương Phủ Thiên Tuế nghe xong sắc mặt biến đổi, nói: “Liên Sinh nói thật chẳng sai, hỏi chuyện quả thật là phương pháp để độ chúng, tuy nhiên sẽ khó tránh khỏi nhầm người ngộ mình. Sau này nếu như có chuyện gì cần tiểu thần giúp đỡ, thì lúc đó hãy thắp một nén nhang, hướng về phương của tôi, niệm tên cung của tôi, tôi tức thì sẽ đến tương trợ.”
“Đa tạ Bồ Tát.”
“Thôi tôi đi đây.” Trương Thiên Tuế từ từ biến mất.
“Tiễn Bồ Tát.” Tôi chắp tay.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh Cơ Thần toán)
Ghi chép về Quan Âm Bồ Tát xả thân cứu kiếp nạn
Vào khoảng 12 năm trước, tôi 18 tuổi, lúc đó nhà tôi ở Cao Hùng, tôi đi học công chức ở Cao Hùng. Có một tối nọ, tôi và bạn học Huỳnh Tín Thanh cùng đi dạo chơi chợ đêm ở phía sau rạp hát Vạn Long, gian hàng bày bán ở chợ đêm rất nhiều, nối tiếp nhau đến cả hai cây số, có hàng bán đồ ăn, cũng có hàng biểu diễn quyền cước bán thuốc cao, hàng bán quần áo, hàng hóa thường ngày cũng rất nhiều, mọi người cùng chen vai thích cách đi chợ, náo nhiệt vô cùng. Chợ đêm đèn hoa rực rỡ chính là nơi để đi tiêu khiển vui nhất.
Dạo bước đi xem đây đó, chúng tôi đi qua một gian hàng bói toán, gian hàng này đặt ở đầu một hẽm nhỏ , việc làm ăn bói toán có vẽ không được tốt lắm, có một ông lão ngồi ngẩn ra ở một góc, khi nhìn thấy hai người chúng tôi bèn gọi: “Chàng trai trẻ, để lão đoán mệnh cho hai người, không lấy tiền đâu, Văn Vương quẻ của lão chỉ cần đoán một cái là có thể biết được cát hung họa phúc liền, chàng trai trẻ không có tiền cũng không sao cả, lão xem cho hai người hoàn toàn là xem tặng thôi!”. Chúng tôi vừa nghe nói là không cần trả tiền, trong lòng liền muốn xem thử thế nào, bèn bước qua. Chúng tôi để ông lão thầy bói đoán mệnh chẳng có bao lâu thì tự nhiên xung quanh gian hàng bói toán có rất nhiều người vây lấy.
Ông lão mặc dù tuổi tác đã cao, nhưng ánh mắt vẫn sáng rực. Ông lão trước tiên xem tướng cho Huỳnh Tín Thanh, sau đó lại xem chỉ tay của cậu ta, hỏi họ tên Huỳnh Tín Thanh, bảo Huỳnh Tín Thanh bốc lấy một quẻ, phía trước quẻ Văn vương có bày một cái lư hương, trong lư có thắp nhang, khói nhang nhẹ nhàng bay lên không, ông lão xem quẻ, rồi lại nhìn Huỳnh Tín Thanh, nói: “Cậu là người Khách Gia ở Mỹ Nông đúng không?”. Huỳnh Tín Thanh đáp: “Đúng vậy.”
Ông lão nói: “Chiếu theo tướng của cậu mà nói thì, đường học trung bình, trí tuệ bình bình; còn căn cứ theo chỉ tay của cậu thì cuộc sống khúc chiết, lúc còn trẻ đã vất vả, theo quẻ Văn Vương mà cậu bốc được thì cuộc đời cậu nên làm công chức là cuộc sống tốt nhất, lục thân trong nhà không thể nương tựa, cần phải dựa vào bản thân từ hai bàn tay trắng để lập nghiệp, quý nhân ở phương Bắc. Phong thủy trong nhà (mộ phần) đã từng bị xáo động một lần, cậu có biết không?” “Biết” Huỳnh Tín Thanh đáp lời, “đầu năm nay mới tìm phong thủy lại để cải táng ông bà nội.”
“Giả như tôi suy đoán không sai thì phong thủy hiện nay là do anh trai cậu chọn, anh ta đã đặt lịnh phù “Kim Bảo nhập đại phòng” vào trong phong thủy, làm cho trên trán cậu xuất hiện khí sắc bần hàn, tương lai thật khổ cho cậu, chàng trai trẻ, cuộc đời của cậu tuy là tiền đồ phẳng lặng, nhưng cơ hội phát tài thật là mơ hồ vô định.”
“Đúng vậy, phong thủy là do anh trai tôi chọn.” Huỳnh Tín Thanh xác nhận. Những người xem xung quanh đều nói, bói thật là chuẩn xác.
Ông lão xoay sang người có vóc dáng gầy gò là tôi, tôi lúc ấy vừa ốm lại vừa lùn, ông lão kéo tôi lại gần, xem tướng tôi tỉ mĩ, rồi chỉ tay, cũng bảo tôi rút một quẻ như Huỳnh Tín Thanh, ông ấy xem quẻ xong , đầu mày khẽ nhíu lại, lắc đầu một lượt rồi hỏi: “Cậu là con trưởng à?”. Tôi đáp: “Đúng vậy.”
Ông lão bảo: “Tướng diện của cậu rất phức tạp, điều này biểu hiện sự phát triển trong tương lai của cậu không có một định số nào cả, tính cách kỳ lạ, phải xem tạo hóa của cậu nữa, về chỉ tay thì lại càng khiến người ta cảm thấy kỳ quặc, kim khố đầy ắp, xem ra là tướng phú quý, nhưng lại kèm theo đường bút văn dài đã xung phá đi kim khố, lão nghĩ rằng tương lai những gì cậu học nhưng lại không ứng dụng được, trước mắt thì gia đạo bình bình, cậu cũng là dạng người tay trắng khởi nghiệp, còn về quẻ Văn Vương tôi nói ra thì cậu đừng có giật mình.”
“Ông nói đi! Đừng lo không có đâu.” Tôi lớn tiếng đảm bảo.
“Trong quẻ Văn Vương hiển thị, người này là thiên thần cách, thiên thần cách thì quyết không sai rồi, nhưng nếu như phối hợp với tướng người của cậu thì vào năm 28 tuổi sẽ xuất hiện chuyện kỳ lạ, sinh mệnh có một đại kiếp lớn, nhất định phải vong thân, cậu nên cầu thần lạy Phật thật nhiều vào!”
“Nhưng tôi là tín đồ Cơ Đốc giáo mà!” Tôi nói. Lúc đó, tôi đã được rửa tội ở Giáo hội Trưởng Lão Cơ Đốc Tân Hưng, chính thức trở thành tín đồ Cơ Đốc giáo, giáo đường ở gần bên chợ đêm.
“Tín đồ Cơ đốc giáo? Vậy thì tôi hết cách rồi.” Ông lão đáp. Những người vây xung quanh cất tiếng thở dài: “Ai cha! Thằng nhỏ này xem ra diện mạo thanh tú, làm sao lại yểu mệnh thế chứ.” Tiếp đó có rất nhiều người nhờ ông lão xem bói, nói cũng kỳ quái, ông lão xem bói, chúng tôi hai người đứng bên cạnh lắng nghe, nói chuẩn xác vô cùng. Tuy nhiên, càng nói chuẩn thì trong lòng tôi càng để lại một cái khúc mắc lớn, trong lòng cảm thấy khó chịu vô cùng.”
Năm Dân quốc 60, tôi 27 tuổi, sang năm là tôi 28 tuổi, tôi chưa từng quên đi chuyện xem bói vào 10 năm trước. Có một đêm nọ, tôi hỏi Linh Sư: “Linh sư, ngày trước ông thầy bói toán nói như thế, không biết là sự tình thực giả thế nào, nếu giả sử là thật thì mạng con sắp chấm dứt rồi.”
“Liên Sinh, học thuật đoán mệnh, thật sự không thể coi thường, Tứ Trụ Suy Mệnh, Hoàng Cực Suy Số, Viên Thiên Cương Xứng lượng, Văn Vương Bát quẻ đều không thể đánh giá tùy tiện được. Tuy nhiên thiên số còn có thể thay đổi được thì huống hồ chỉ là vận mệnh của một con người nhỏ nhoi, 28 tuổi bị yểu mệnh, quả thật là bói rất chuẩn xác, tuy nhiên Văn Vương quẻ lại không thể đoán ra được trong tuệ mệnh của ngươi sớm đã bắc được một cây cầu cứu mệnh, cây cầu này được bắc vào rất đúng lúc, ngươi không nhớ rằng lúc ngươi thờ phượng Quan Thế Âm Bồ Tát, ta đã từng nói qua là ngươi thờ phượng Bồ tát, Bồ Tát nhất định sẽ cứu cho ngươi một mạng, thờ phượng Bồ Tát là công đức vô cùng lớn đấy!”
Vào khoảng gần Giáng sinh năm Dân quốc 60, một buổi trưa khi tôi đang ở nhà ăn cơm, lúc đó tôi vẫn chưa ăn chay, vẫn cứ nào thịt nào cá nuốt vào bụng thôi, bỗng nhiên tôi thấy đầu mình choáng váng, trong bụng mọi thứ như đảo lộn, tất cả thịt cá vừa ăn vào đều bị nôn thốc nôn tháo ra cả, cơm cháo văng đầy cả trên mặt đất, mùi vị thật khó ngửi vô cùng, khi tất cả những gì trong bụng đều bị tôi nôn cả ra ngoài thì lúc đó tôi mới hết nôn, người nhà tưởng là tôi bi bệnh, sờ đầu xem thử thì không thấy sốt, bác sỹ kiểm tra bảo sức khỏe tốt vô cùng! Làm gì có bệnh chứ, thật là kỳ quái vô cùng! Tối hôm đó ăn cơm, mẹ tôi nấu món “đầu cá chưng cách thủy”, đây là món mà tôi trước giờ thích ăn nhất, tôi vừa và được được miếng cơm, uống một ít nước canh cá, được một lúc thì cái bệnh hồi lúc trưa lại trở lại, lại nôn mửa ra đầy cả đất, lần này nôn đến mắt hoa cả lên thấy cả trăng sao, đầu óc say xẩm, cơ hồ đứng không vững, nôn xong, sắc mặt xanh như tàu lá chuối, thật không biết làm sao mới phải đây?
Sau cùng tôi phát giác ra là chỉ có ăn chay thì tôi mới không bị nôn mửa, nếu như có dính đến một chút xíu đồ ăn mặn thì lập tức sẽ nôn ồng ộc ra cả, thật khổ vô cùng. Có lẽ quý độc giả cho rằng đây chỉ là tác dụng tâm lý, nhưng bản thân tôi lại cho rằng không phải tác dụng tâm lý, bởi vì từ sau khi tôi ăn chay, có một lần em gái tôi là Lư Ngọc Ý lấy món cá hồi trưa ăn còn dư đặt lên trên mặt cơm tối để hâm lại cho nóng, tôi không biết chuyện này nên đã ăn đến cơm. Sau khi ăn xong thì lại nôn tất cả ra, xem xét kỹ lại thì ra cả để hâm nóng trên mặt cơm trong chốc lát cũng không được, thế là từ đó tôi chỉ có ăn chay mà thôi, hễ mà cứ dính đến chút xíu đồ ăn mặn là tôi lại bị nôn thốc nôn tháo cả ra, ước tính tôi nôn có đến trên mười lần, thật khổ cực không thể tả.
Tôi hỏi Linh Sư: “Điều này là vì sao?”
Linh Sư nói: “Thiện tai diệu pháp, lấy mệnh làm mệnh, tự nhiên tiêu diệt, đại kiếp trong mệnh.”
Tôi ăn chay trong suốt khoảng thời gian từ tháng 12 năm 60 Dân quốc cho đến tháng 12 năm 61, đến một ngày nào đó của tháng 12 năm 61, em gái tôi Lư Ngọc Ý lấy dầu đã từng chiên lạp xưởng qua đem đi xào rau, tôi ăn vào nhưng lần này lại không bị nôn mửa, hơn nữa cũng không có hiện tượng đầu óc say xẩm, kỳ quái! Thật là kỳ quái! Chỉ một khoảng thời gian, cũng trùng hợp là vừa tròn một năm.
Tôi hỏi Linh Sư: “Đây là vì sao?”
Linh Sư bảo rằng: “Thời gian đã qua, kiếp số đã tan, lấy mệnh làm mệnh, nhân duyên liễu kết, lúc trước ngươi ăn chay là do thần phật ép ngươi phải làm như thế, ngày ngày đều có giới thần giám sát ngươi, ngày nay đại công đã hoàn thành, giới thần đã đi khỏi, thì ngươi trở về với bản thân trước đây, chay hay mặn? Không phải cưỡng cầu, ngươi cứ tự nhiên thôi! Ngươi nếu như không tin thì trở về Phật đường xem lại tượng Quan Thế Âm Bồ Tát mà ngươi thờ phượng đó, ngươi ắt sẽ hiểu rõ thôi.”
Nghe Linh sư nói như thế, tôi chăm chú nhìn kỹ Quan Thế Âm Bồ Tát, tượng sứ Quan Thế Âm Bồ Tát từ đầu cho đến chân xuất hiện vết nứt, vết nứt tạo thành hình mạng lưới, trải khắp cả toàn thân tượng, điều này hoàn toàn khác biệt với tượng Quan Thế Âm mà tôi đã thờ phượng cách đây 3 năm, khuôn mặt từ bi của Bồ Tát bây giờ bị nứt cả, từ đầu đến chân không có chổ nào hoàn chỉnh cả, đây là do nguyên nhân vì sao chứ?
Sau này tôi mới biết được, khi tôi 28 tuổi, sinh mệnh phải nên liễu kết, tai ương giáng xuống đã bị xóa bỏ, thời gian tôi ăn chay một năm, dựa vào công đức ăn chay không sát sinh của tôi và thêm vào sự thay thế xả thân của Quan Thế Âm Bồ Tát đã cứu cho tôi một mạng, tôi thờ phượng người mà người nay lại bị nứt vỡ như thế (vô duyên vô cớ toàn thân tượng bị nứt vỡ), Bồ Tát vĩ đại như thế, tôi thật chẳng biết làm sao báo đáp trong muôn một cho người cả. Hiện giờ pho tượng Quan Thế Âm Bồ Tát đó tôi vẫn tiếp tục thờ phượng, người chính là vị Bồ Tát vĩ đại nhất trong Lôi Tạng tự của tôi.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh Cơ Thần toán)
Viếng thăm Chu Phỉ Cư sĩ
Chu Phỉ Cư sĩ là tổng biên tập của tờ Nguyệt san Bồ đề Phật giáo, trong tư tưởng nhỏ bé của tôi thì người này đã có thể làm tổng biên tập của một tờ Nguyệt San về Phật giáo thì nhất định phải là một đại sư về Phật học và Linh học rồi, do bởi hoàn cảnh của tôi đặc biệt cho nên nếu như tôi có thể nhận được một vài điểm giáo về đạo pháp từ Chu cư sĩ thì nói không chừng về phương diện tu tập Linh học của tôi có thể có được một bước tiến khác. Thế là tôi theo địa chỉ tìm đến nơi ở của Chu cư sĩ, ông ấy lúc đó đang cư ngụ gần ở Gia Chức Đài Trung, tôi lên lầu và trực tiếp nói rõ ý định đến của mình.
Vợ chồng Chu cư sĩ đều giật mình kinh ngạc, liên tục lắc đầu bảo: “Thiên hạ làm gì có chuyện như thế chứ, làm gì có chứ?”. Vợ của Chu Cư sĩ liên tục niệm Đại Bi chú cho tôi, tôi bảo: “Chu phu nhân à, tôi mỗi ngày cũng đều có tụng Đại Bi chú.”
“A! Thật à.” Sắc diện của Chu phu nhân có vẽ rất bối rối, theo Chu phu nhân bảo, Lư Thắng Ngạn tôi nếu như không phải là thần kinh có vấn đề thì cũng là bị ma nhập rồi, Đại Bi chú là Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà La Ni chú, dùng để khử tà trục ma, có công hiệu vô cùng, pháp lực của thần chú này lớn vô cùng, thế nhưng họ Lư tôi lại biết được Đại Bi chú, thậm chí có thể đọc xuôi, đọc ngược đều được cả, thuộc nằm lòng, giống như là Lăng Nghiêm chú là chú chính trong Phật môn, tôi cũng đã sớm thuộc nằm lòng, sáng sớm mỗi ngày lúc 4h thì Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh đều thúc giục tôi thức dậy, quỳ xuống tụng niệm Lăng Nghiêm chú.
Chu cư sĩ trầm ngâm không nói gì, mãi một hồi lầu mới nói rằng: “Đại khái là cậu đã bị vướng vào tâm ma rồi! Tâm ma thì không có thuốc gì chữa được đâu.”
Tôi nói: “Là người học đạo, cũng giống như một khúc gỗ nổi trên mặt nước vậy, thuận theo dòng chảy, không chạm với hai bờ, không bị quỷ thần che giấu, không bị dòng chảy giữ lại, cũng không bị hủ bại thì khúc gỗ này nhất định sẽ có thể ra biển lớn, người học đạo không bị tình cảm vướng bận, cũng không bị tà chúng quấy nhiễu, thanh tịnh vô vi, như vậy có thể không đắc đạo sao? Câu này là do Phật nói, ngày nay tôi có thể tinh tiến như thế, gặp được kỳ duyên, chẳng lẽ thật sự là do tâm ma sao?”
Hai vợ chồng Chu cư sĩ ngẩn cả người ra nhìn tôi, không đáp được lời nào cả, Chu Phỉ nói: “Lư tiên sinh, xin lượng thứ cho chúng tôi kiến thức không đủ, tuy nhiên ông có thể đi tìm thầy của chúng tôi là Lý Bỉnh Nam cư sĩ, chúng tôi đều là học trò của ông ấy, thời gian ông ấy theo phật đã rất lâu rồi, kiến thức rất rộng rãi, có lẽ ông ấy có thể giải đáp được vấn đề của ông cũng nên , cảnh ngộ của ông thật sự quá kỳ quái đi, tuy nhiên nói cho cùng thì Phật Đạo cũng có chổ khác nhau, thầy Lý là đại sư Phật học, ông tìm ông ấy là đúng rồi.”
“Cám ơn Cư sĩ đã chỉ bảo, xin ghi tạc trong lòng.” Tôi bái lạy tượng Phật và tượng Địa Tạng Vương do Chu cư sĩ thờ phượng xong liền từ giã. Trong lòng tôi tràn ngập nghi vấn, lẽ thật sự do tâm ma tác quái chăng? Trong lúc trong lòng tôi ngổn ngang thắc mắc thì trước mắt tôi bỗng xuất hiện một vầng sáng, ánh sáng chói lòa bốn phía, giữa vầng sáng có một vị Bồ Tát đang ngồi, đầu đội mão Ngũ phật kim, Bồ Tát nói: “Ta là Cửu Hoa Sơn Phân Linh Địa tạng Vương Bồ tát, thấy ngươi trong lòng nghi hoặc nên đến cho biết, tâm tính không biến dị, ấy tức là tu hành, không có sở cầu gì, tức là nơi an thân lập mệnh, mỗi ý niệm đều không quên bản thân là Phật tổ. Liên Sinh, Phật loại chính là dị loại, dị loại chính là phật loại, nhập vào dị loại sẽ có chướng ngại, nhập Phật loại thì càng có chướng ngại. Nhất thiết phải nhớ kỹ, nhớ kỹ, chớ quên, chớ quên. Từ nay về sau là thời gian thử tu tập của ngươi, ta đến cho biết, chớ nên nghi hoặc, chớ nên nghi hoặc.” Lời vừa dứt, đạo quang hoa đó vút lên không trung, trong chớp mắt đã không trông thấy nữa, lúc đó tôi đang đứng giữa đường, đứng ngay tại ngã tư đường, gió lạnh thổi vù vù, trong lòng tôi bỗng thấy giá lạnh.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh Cơ thần toán)
Viếng thăm Lý Bỉnh Nam cư sĩ
Trong giới Phật giáo thì danh tiếng của Lý Bỉnh Nam cư sĩ không kém dưới một vài đại hòa thượng đã xuất gia. Mỗi tuần vào thứ tư, ông đều giảng kinh ở thư viện Từ Quang, vào thứ năm ở Phật Giáo Thiện Quả Lâm của bệnh viện Bồ Đề, thầy Lý giảng A Di Đà Kinh rất nổi tiếng. Những người trẻ tuổi theo học Phật giáo tại Học viện Cao đẳng Phật Học ở miền Trung đều rất sùng kính Lý Bỉnh Nam cư sĩ, thầy Lý còn nhận dạy ở Viện Cao Đẳng, danh tiếng của ông ấy không một người học Phật giáo nào không biết.
Tuy nhiên tuổi tác của thầy Lý đã ngày càng cao. Lúc tôi đến viếng thăm ông ấy là vào một buổi chiều chạng vạng của mùa hạ, tôi tìm đến số 9, đường Chính Khí ở thành phố Đài Trung, Lý Bỉnh Nam cư sĩ ra mở cửa, tôi chắp tay chào ông ấy và niệm một câu Phật hiệu, ông ấy cũng đáp lại một câu Phật hiệu, chúng tôi ngồi ở phòng khách, tôi nói rõ bản thân đến muốn thỉnh giáo ông ấy. Thế là tôi kể từ đầu đến cuối những gì tôi đã trải qua, thỉnh giáo ông ấy rốt cuộc đây là chuyện thế nào?
“Trong thiên hạ lại có chuyện như thế sao?” Lý cư sĩ hỏi lại một cách nghi hoặc.
“Thật không có giả dối, chính xác là như thế.” Tôi trả lời chắc như đinh đóng cột.
Tôi cho rằng đó không phải là Thần mà là quỷ. Những thần thánh mà cậu nhắc đền gần như đều là Thần ở ngoại đạo, Phật mới là cứu cánh, cứu cánh và không phải cứu cánh chính là điểm khác biệt giữa Phật và Thần, giống như là Thổ địa công, Thành Hoàng gia nè, tôi không phải là không tin, mà căn bản là tôi chỉ có tin Phật, thần tiên ngoại đạo đều là chỉ hưởng thụ những báo đáp của thiên phúc mà thôi, bản thân của họ còn không thể bảo tồn thì làm sao có thể độ người chứ? Bản thân cậu nên thận trọng, thận trọng đấy, pháp thuật của Ma đạo tất nhiên là lợi hại rồi, nhưng tà thì không thể thắng chánh được, chỉ có chánh kỳ niệm thì mới được xem là chánh niệm, chính thực biết được chánh pháp.”
“Thế tại sao Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh lại dạy tôi lạy Phật niệm Phật chứ. Niệm Phật lạy Phật như thế há chẳng phải gây ra bất lợi đối với bản thân Ma đạo sao?” Do bởi tôi đã từng trải qua những cảnh ngộ như thế, đương nhiên chẳng thể trong chốc lát có thể tin tưởng lời của Lý cư sĩ được.
“Cậu không biết rằng niệm Phật cũng sẽ gặp ma sao?”
“Sao chứ? Niệm Phật cũng gặp ma nữa à, thế thì bảo người ta niệm Phật, bảo người ta mặc niệm, đây rốt cuộc là như thế nào?”
“Điều này trước mắt có lẽ nhất thời cậu sẽ không thể hiểu được, tóm lại tốt nhất là cậu nên vứt bỏ đi sự quấy nhiễu của họ, nên cố gắng xem một số kinh Phật, sống một cuộc sống của người bình thường, nếu không sẽ lấy mê mà dẫn mê, đến cuối cùng thì vẫn chỉ là mê, cậu không nên nghe theo họ nữa, nếu không họ sẽ hút lấy tinh hoa thân thể của cậu, sức khỏe của cậu sẽ ngày càng sa sút, đến cuối cùng không chống đỡ nổi sẽ chết đi đấy, đến lúc đó thì đừng có trách là Lý Bỉnh Nam tôi không có khuyến cáo trước nhé.”
“Chậm đã, Lý cư sĩ à, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh đối với tôi trước giờ chưa từng có ác ý, những Bồ tát mà tôi từng gặp đều có diện mạo hiền từ, không có chút hành vi hung ác nào cả, họ dạy tôi phải nên quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, bảo tôi nhất tâm hướng Phật, nhất tâm hướng Pháp, nhất tâm hướng thiện, chẳng lẽ tất cả những điều này đều sai sao? Hơn nữa về sức khỏe tôi chưa từng cảm thấy có gì không tốt, ngược lại thấy thân thể ngày càng khỏe mạnh, không có chổ nào thấy không khỏe cả!”
“Ô!” thầy Lý nói: “Điều này thì tôi cũng không hiểu nữa.” Ông ấy lấy ra một quyển “Phật học Khái luận” từ tủ sách ra đưa cho tôi, hỏi tôi: “Lần sau Liên Xã Phật giáo làm lễ quy y cho giáo đồ Phật giáo, cậu cũng nên quy y đi! Cậu bình thường xem sách gì?”
“Tôi thích xem Viên Ngộ Khắc Cần về các tông phái như Triệu châu, Vân môn, Vĩnh Minh Tuyết Đậu, cũng xem một ít Bảo điền thiền kinh như Truyền đăng lục, Ngũ đăng hội nguyên, Lục Tổ Thiền kinh v.v…, còn về kinh Phật thì xem hết tất cả.” Tôi thật sự rất thích xem sách kinh, trong nhà sách kinh chất cao như núi.
“Phật học Khái luận tuy chỉ là thứ hơi thô thiển, tuy nhiên nếu cậu xem thì cũng chẳng có hại gì.” Lý Cư sĩ nghe tôi nói xem qua nhiều kinh sách thế, trên mặt không tránh khỏi có nét giật mình, rất hiển nhiên rồi, quyển “Phật học Khái luận” này rất là đơn giản.
Tôi cáo từ Lý cư sĩ trở về nhà, tối hôm đó Linh sư lại đến, Linh sư nói: “Lời của Lý cư sĩ, ngươi nghĩ như thế nào?”
“Linh sư, người biết à?”
“Làm sao không biết chứ, ta ở bên cạnh ngươi mà, ta nhìn thấy Lý cư sĩ, nhưng tuệ nhãn của Lý cư sĩ lại không nhìn thấy pháp thân Vô sắc giới của Tam Sơn Cửu Hầu ta đây.”
“Những gì Lý cư sĩ nói, Linh sư có cảm nghĩ như thế nào?”
“Phật là vô thượng, Đạo là vô cực, hồng hoa thanh diệp và bạch ngẫu vốn là cùng chung một nhà. Thật là tội nghiệp thay! Mọi người đều không biết nghiệp báo tiền thân, cho rằng bị ngũ uẩn vây khổn, cho rằng là Thiên ma ngoại đạo, ra khỏi Thiên ma ngoại đạo lại bị Phật pháp vây chặt, nhập Phật pháp tức là vây khổn Phật pháp, kiến thức quá thiển cận, lấy mê dẫn mê, lại nói ra những đạo lý kinh thiên động địa. Tiếc thay, tiếc thay! Trải qua trăm cay ngàn đắng, đến lúc lại do bởi chấp chước, chấp chước phật pháp, mà quên đi bản thân là một chữ Phật!” Linh sư nói xong câu trên thì không nghe thấy tăm tích gì nữa.
Về sau, tác giả viếng thăm qua rất nhiều cao tăng Phật pháp, tính ra có Thánh Ấn, Sám Vân, Chấn Quang, Nam Kinh v.v… trong đó duy chỉ có Chấn Quang Pháp sư là có đôi chút tin tưởng, còn các pháp sư khác thì đều nói rằng: “Không thể tin được.”
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Quy y và nhận Bồ tát giới
Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, đây chính là Tam quy y, quy y Tam bảo, cúng dường Tam Bảo, đây chính là một quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của tín đồ Phật giáo, chúng sinh học Phật là để thành Phật, mà để thành Phật thì nhất định phải quy y, tác giả theo chỉ dạy của Linh Sư đã quy y theo Ấn Thuận đại pháp sư ở Liên Xá Phật giáo tại Đài Trung, pháp danh là Tuệ Ngạn, hai chữ Tuệ Ngạn này là do Lý Bỉnh Nam cư sĩ chọn cho, mẹ tôi hôm đó cũng quy y, pháp hiệu của bà là Tuệ Uẩn. Lúc đó trong nhà đặt một cái Phật đường nhỏ, ban đầu cũng đầy đủ quy mô, thờ phượng Đạo gia Dao Trì phái, Dao Trì Thánh Mẫu Đại Thiên Tôn làm thần chủ, lại thờ cúng thêm giáo chủ Phật giáo là Bổn Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật làm chủ, còn thờ cúng cả Địa tạng Vương Bồ Tát làm chủ, ngoài ra còn thờ cả Quan Thế Âm Bồ tát và các đại Bồ tát khác, mẹ tôi và tôi sớm tối đều dâng hương và trà thơm. Vào mồng 1 và 15 hay là ngày trai tịnh Quan Âm, chúng tôi lạy Phật tụng kinh, kinh chú do một vị sư phụ Tỳ khưu ni Thượng Lâm ở Từ Minh tự truyền thụ cho, còn lại đều là do trụ trì Thiện Tứ Pháp sư, người sáng lập Từ Âm tự truyền thụ cho.
Thầy quy y của tác giả là Thượng Ấn Hạ Thuận là Đại sư Thái Hư, một phái của nhất mạch tổ truyền Ấn Quang pháp sư, thuộc Tịnh Thổ tông phái, niệm Phật Pháp môn, sùng kính Di Đà kinh, Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông chương, Vãng Sanh luận. Ba bộ kinh luân này đều là bảo điển của Tịnh Thổ tông. Mẹ và tôi học kinh sám hối và chú ngữ, hoặc là xướng hay là niệm. Người khác thì học một tháng, tôi và mẹ tôi chỉ học có một tuần, người khác học một tuần thì chúng tôi chỉ học có một ngày. Nói chung là vừa học thì đã hiểu, một khi hiểu rồi thì ghi nhớ rất kỹ, tựa hồ như kiếp trước đã từng học qua rồi vậy, khó khăn hơn là chú ngữ, dài hơn cũng là chú ngữ, nhưng chúng tôi đều đã học thuộc nằm lòng.
Năm 61 Dân quốc (tức năm 1972) là kỷ niệm 220 năm ngày thành lập Nam Đầu Bích Sơn tự (tính từ năm 17 Càn Long), trụ trì Nam Đầu Bích Sơn tự Như Học pháp sư phát tâm truyền thụ Hộ quốc thiên Phật giới hội, mời các đại đức cao tăng trong và ngoài nước đảm nhận các chức sự giới đàn. Vào ngày 17 tháng 4 (Âm lịch là mồng 4 tháng 3) khai đường truyền giới. Tác giả biết rằng: giới giả là căn bản xuất thiện diệt ác, là hạt giống siêu phàm nhập thánh, duy chỉ có thọ trì Như Lai Thánh giới, quả năng là sinh tử sự đại, siêng năng cầu chân đạo ắt sẽ chứng được Bồ tát đạo, do đó vui vẻ bước đến thọ giới.
Trong thời gian thọ giới, tôi đã ý thức một cách sâu sắc lời khai thị của Giới sư. Đắc giới hòa thượng Tuệ Tam lão pháp sư nói: “Giới Hòa thượng sẽ truyền thụ pháp giới cho các người, Yết ma hòa thượng là người tác pháp, tác pháp chính là sám hối tất cả tội nghiệp, Truyền thụ hòa thượng là người truyền dạy cho các người về nghi biểu trang nghiêm, dạy cho các người chiếu theo pháp để hành. Các người đã thọ Bồ Tát giới thì phải phát Bồ Đề tâm. Bồ tát chính là lấy cái lợi của mình để làm lợi người, lấy làm lợi cho người làm tông chỉ. Tiểu Thừa Phật pháp A La Hán lấy tự lợi làm tông chỉ, lợi cho người chính là cứu độ tất cả chúng sinh, tu lục độ vạn pháp.” Yết ma hòa thượng Hiền Đốn lão pháp sư khai thị: “Các vị cần biết những tội nghiệp tạo ra từ kiếp vô thủy cho đến nay là gì không? Tâm có 3 loại tội nghiệp, thân có 3 loại tội nghiệp, khẩu có 4 loại tội nghiệp. 3 loại tội nghiệp của tâm, thứ nhất chính là lòng tham, trong kinh nói rằng, người có lòng tham khi chết đi sẽ xuống địa ngục làm ngạ quỷ; thứ hai là lòng thù hận, người có lòng thù hận khi chết đi sẽ bị đọa xuống địa ngục; thứ ba là có tâm ngu si tức là không biết phân biệt đúng sai, tự mình làm tự mình chịu, khi chết đi sẽ bị đày làm súc sinh. Còn tam nghiệp của thân, thứ nhất là sát nghiệp, không thể được nghe đạo lý của Phật tổ; thứ hai là đạo nghiệp, những kẻ trộm cắp không được nghe đạo lý của Phật tổ; thứ ba là dâm, người phạm tội này sẽ không được nghe chánh pháp của Phật tổ. Khẩu có 4 loại tội nghiệp chính là ác khẩu, hai lưỡi, vọng ngôn, dùng lời xảo trá. Mười loại tội nghiệp trên chính là thập ác đầu, nếu như thập ác này có thể sửa đổi, người sửa đổi sẽ thành thập thiện.”
Kinh nói rằng: “Tội từ tâm khởi sẽ sinh tâm hối, khi tâm nếu như diệt được thì tội cũng sẽ tiêu tan theo, tâm vong tội diệt cả hai đều không, đây mới gọi là chân sám hối.” Do vậy tên của giới trường gọi là Sám Hối đường. Nhục thể của các vị là do cha mẹ sinh ra, thân Phật Bồ Tát trong tương lai là do dựa vào giới sư sinh ra, người đắc giới phải buông bỏ tất cả vạn duyên gia sự, chuyên tâm lễ phật hối, học tập giới pháp, đến thời khắc thành công sẽ được thành Phật.”
Truyền thụ hòa thượng Giác Quang lão pháp su khai thị: “Cái gọi là Tam thiên uy nghi, bát vạn tế hành có thể khái quát nói chung như thế này, không đi, ở, ngồi, nằm bốn loại uy nghi. Đi phải như gió, đứng phải như tùng, ngồi phải trên nhỏ dưới thô, vững chải ổn định, không lay không lắc, trang nghiêm phóng khoáng. Còn về nằm chính là ngủ, khi ngủ thân phải cong như cung, nằm nghiêng phải cát tường.”
Tác giả tiếp theo phát mười bốn đại nguyện, mười bốn đại nguyện này chính là vô cùng tận. 1) Thường nên niệm Phật, thân cận với tri thức thiện. 2) Phải nên xa rời các tri thức ác. 3) Những nhân duyên dẫn đến mất mạng, không phạm giới. 4) Phải thường tụng niệm Đại thừa kinh luật, tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của nó. 5) Phải thường cùng Vô thượng Bồ đề, sinh tín tâm. 6) nếu nhìn thấy chúng sinh khổ não phải cứu vớt. 7) Phải nên tùy theo khả năng mà cúng dường Tam bảo. 8) Phải hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính sư trưởng, đồng nghiệp. 9) không được lười biếng, siêng năng cầu Phật đạo. 10) Chúng sinh phàm trần cuộc sống khổ não phải có lòng chế phục. 11) Nguyện độ vô biên cho chúng sinh. 12) Thề nguyện cắt đứt khổ não vô biên cho chúng sinh. 13) Thề nguyện học vô lượng pháp môn. 14) Thề nguyện thành Vô thượng phật đạo. Phát nguyện xong, ba vị thầy đều quỳ trước mặt Phật, niệm lớn: “Kính gửi mười phương, vô cùng vô tận, trong chư thế giới, chư phật Bồ tát. Hôm nay Bích Sơn Nham tự, trấn Sơn Đầu, huyện Nam Đầu, tỉnh Đài Loan, hiện có Lư Thắng Ngạn Bồ Tát ở chổ Tuệ tam Bồ Tát tôi đây, vừa rồi đã đọc xong ba lần thụ trì Bồ Tát giới, có tôi làm chứng. Nay khẩn thỉnh mười phương, vô cùng vô tận, trong chư thế giới, chư phật Bồ Tát, đệ nhất chân thánh, tất cả các nơi, cung kính thỉnh mời cùng chứng kiến Lư Thắng Ngạn thọ trì Bồ tát giới, cùng nhau làm chứng. Khẩn thỉnh từ bi! Khẩn thỉnh đại từ bi!”
Khi ba vị thầy niệm xong đoạn văn trên, tôi nghe thấy trên không trung có tiếng sấm nổ vang, giống như tiếng sư tử gầm, chấn động cả trời đất, tôi xoay đầu nhìn những người khác thì thấy tất cả bọn họ đều không có cử động gì, tựa hồ như chẳng nghe thấy chi hết. Tiếng sấm vang dứt thì có âm thanh như tiếng nhạc, tiếng hát rằng: “Giới như minh nhật nguyệt, diệc như anh lạc châu, vi trần Bồ tát chúng, do thị thành chánh giác. Chúng sinh thụ Phật giới, tức nhập chư Phật vị, vị đồng đại giác dĩ, chân thị chư phật tử.”
Trong khoảng thời gian thụ giới, tôi nhìn thấy pháp sư truyền thụ U Minh giới, đây chính là Bồ tát thụ tân giới phải báo đáp ân tình thân thuộc, thay cho cha mẹ quyến thuộc đã mất cầu xin truyền thụ U Minh giới. Buổi tối chư vị pháp sư đăng tọa, số người sống thụ giới cũng đã gần đông đủ bèn mời ba vị pháp sư chiêu gọi linh hồn người đã mất nhập đàn. Những người thay mặt đều cầm linh bài người đã mất cùng nhau quỳ dài lên phía trên, tất cả cùng đồng thanh thay mặt người chết xin thọ giới, Giới Hòa thượng Từ Duẫn ô thước dẫn đạo vong linh nói: “Chúng linh hồn nghe đây, kinh Phạn Võng có nói, người nào thọ trì Bồ Tát giới thì dù là Quốc vương, vương tử, bá quan, tể tướng, tỳ khưu, tỳ khưu ni, thập bát Phạn vương, lục dục thiên tử, thứ dân huỳnh môn, dâm nam dâm nữ, nô lệ, bát bộ quỷ thần, Kim cương thần, súc sinh biến hóa thành người nếu như hiểu giải được lời pháp sư thì đều được thọ giới, đều là thân thanh tịnh nhất, đây chính là phật giáo từ bi bình đẳng, phổ tế tam giới chúng sinh…..”
Lúc truyền thụ U Minh giới, tác giả liền khai mở “Linh cơ” giương mắt nhìn thử, chỉ thấy phía trước Bích Sơn Nham tự là đại dương mênh mông, ba đào sóng vỗ, từng cơn nối tiếp từng cơn, trong sóng vỗ cuồn cuồn ấy thấy ẩn ẩn hiện hiện một bầy u linh, hình dạng của các u linh đều khác nhau, kỳ hình quái trạng đều có đủ, cảnh tượng này cả đời tôi chưa từng gặp qua bao giờ, bầy u linh này theo từng con sóng ồ ạt như ong vỡ tổ kéo về phía bậc thang của Phật tự, hướng về Phật Bồ Tát và tam vị pháp sư trong điện chắp tay đảnh lễ, trong số u linh có người không đầu, có kẻ không tay, thậm chí có cả ba đầu sáu tay, tất cả đều đến tham gia U minh hội. Tôi nhìn qua một lượt, cảm thấy chẳng qua cũng chỉ có thế mà thôi, bèn thu “linh cơ” lại và giương mắt nhìn, phía trước tự hoàn toàn trống không, những vật phẩm cúng kiến và bàn cúng được sắp thành hai dãy, pháp khí kêu leng keng, chúng tỳ khưu, tỳ khưu ni, cao tăng đều đang tụng niệm Phạn ngữ.
Trong câu chuyện này, tôi thuật lại một câu chuyện nhỏ, trong số những người thọ giới có một người họ Chu tên là Tâm Di, 51 tuổi, là người Giang Âm ở tình Giang Tô, bái nhận Nam đình Pháp sư làm thầy, pháp hiệu kêu là Trứ Quan Nhẫn, anh ta kể với tôi về chuyện xin đi Malaixiya, nhưng nộp hồ sơ xin phép đã lâu mà vẫn chưa có kết quả, hiện đang rất gấp rồi, cho nên đến nay vẫn chưa đi được. Tôi cười với anh ta và nói: “Tôi bói cho anh một quẻ xem thế nào nhé?”
“Anh biết bói toán à?” Anh ta lắc đầu ra vẻ không tin.
“Thì thử là biết liền.” Tôi dẫn anh ta đến Trung Liệt từ gần đó, nơi đó rất vắng vẻ, tôi nhặt lấy 12 viên đá, thổi vào số đá ba ngụm hơi, niệm thầm kinh chú và niên canh bát tự của Chu Tâm Di, tôi cầm lấy đá và ném lên, đá rơi xuống như mưa, tôi đếm số đá bị phân tán, tổng cộng có 7 viên, còn lại 5 viên thì khoảng cách tương đối gần, sau đó tôi bảo Chu Tâm di nhặt lấy một viên cho tôi, anh ta khom người nhặt, không ngờ lại nhặt lấy một viên ở góc. Tôi nói: “Vận số của anh thật là tốt, tháng 7 năm nay nhất định sẽ thành công, đến tháng 7 anh sẽ có thể đến Malaixiya rồi.”
“Diễn Bồi Pháp sư ở Malaixiya, tôi đến đó thì có thể ở gần ông ấy rồi.” Chu Tâm Di bảo.
Thọ giới được một tháng sau thì Chu Tâm Di chạy đến nhà tôi, vừa gặp tôi thì liền nhận tôi làm thầy, tôi hỏi: “Chuyện gì thế?”
“Chuẩn, thật chuẩn xác, quả nhiên là tháng 7 tôi có thể đi được rồi, tướng thuật của anh nên truyền dạy cho tôi vài chiêu đi.” Chu Tâm Di nói với giọng điệu kích động.
Tôi liền dạy cho anh ta một bộ tướng pháp thực dụng, anh ta cảm tạ rối rít rồi sau đó xuất ngoại.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Độ vong thuật
Một tối hôm nọ vào tháng 7 năm 61 Dân quốc, khi tôi vừa chìm vào giấc ngủ say thì chợt nghe thất ở góc nhà có âm thanh chi chi tra tra, giống như là tiếng quạ kêu, lại giống như tiếng côn trùng mùa thu kêu, chú ý nghe kỹ lại thì cảm giác như là tiếng một vài người nói chuyện với nhau, trong đó có người nói rằng: “Ây chà! Hôm nay còn ngồi xổm ở đây! Ngày mai thì có thể ăn no nê một bữa rồi.”
“Ngày mai pháp hội Siêu độ ở Pháp Hoằng tự, không biết mời vị pháp sư nào làm chủ đàn nhỉ? Pháp sư nếu như không đủ tư cách thì hắn ta chẳng thể nào giải tỏa nổi xiềng xích trên tay ta đâu.” Đến lúc này tôi nghe được âm thanh xích sắt va đập vào nhau. Ngoài ra có một người chợt nói: “Nhỏ tiếng một chút, đừng đánh thức người ta dậy chứ.”
Hôm sau tỉnh dậy, tôi dò xem trong danh bạ điện thoại, gọi điện đến Pháp Hoằng Tự nói: “Xin hỏi quý tự phải chăng hôm nay có mở pháp hội siêu độ? “Đúng vậy, ông có phảo muốn ghi tên cho tổ tiên người thân không? Muốn ghi danh thì nhanh lên nào! Sơ văn của Pháp hội sắp sửa bắt đầu viết rồi.” Tôi nói cám ơn rồi sau đó gác máy. Từ chuyện này tôi hiểu ra được vong linh đích thực là có tồn tại.
Buổi chiều hôm đó tôi vội vã đến Pháp Hoằng tự, vị pháp sư đầu đội mão Ngũ Phật đang tọa định, đứng hai bên là các tỳ khưu tay cầm pháp khí, tiếng tụng kinh vang vọng. Pháp sư lấy tay tạo dáng thí phóng diễm khẩu, cũng chính là thủ quyết độ vong (Linh Sư đã từng truyền dạy cho tôi trong đêm), tôi vận dụng linh cơ vào hai mắt, nhìn thấy một làn sóng người ào ạt đến từ khắp mọi nơi, cảnh tượng cũng giống như tôi đã từng nhìn thấy ở Bích Sơn Nham, có hai quỷ tay cầm một cây tre xuyên qua sợi dây trong cái túi gạo, nhấc lên rồi bỏ chạy, tình cảnh này trông rất là đặc biệt, thì ra là cái túi chưa động đậy, hai quỷ đã nhấc lấy linh khí của túi gạo đi rồi, tôi nhận ra điều mà các vong linh gọi là ăn no nê một bữa không phải là ăn uống các gà vịt thịt cá hữu hình mà chỉ là cướp đi cái gọi là “linh” của gà vịt thịt cá mà thôi, thứ mà họ ăn là khí vô hình, còn người sống như chúng ta thì ăn những thứ hữu hình, hiện tượng này cho thấy những thực vật mà người sống chúng ta ăn cũng có chứa một “linh khí” đặc biệt ở bên trong.
Có lẽ độc giả xem đến đây sẽ cảm thấy kỳ quái, Lư Thắng Ngạn có đôi mắt âm dương à? Thật ra không phải thế, tôi không có mắt âm dương, phương pháp để tôi nhìn thấy vong linh gọi là “Khởi âm nhãn pháp”, là một dạng vận dụng trong linh, một vài pháp sư trung tọa nếu như không nhìn thấy vong linh được thì cũng không có cách nào để giúp các vong hồn giải tỏa đi các xiềng xích ở trên người cả.
Đang vào lúc xem náo nhiệt thì bỗng nhiên trước mắt tôi có một đen ngồi xổm, làm tôi giật cả mình, bóng đen ấy nói: “Thiện nhân, xin làm ơn hãy giúp tôi cởi bỏ những xiềng xích này.” “Ngươi vì sao lại không đi cầu cứu pháp sư mà lại đến đây cầu xin tôi chứ?”
“Pháp sư cũng đã niệm chú rồi, thủ pháp cũng đã thi triển rồi, mồ hôi đầm đìa thế kia, nhưng xiềng xích ở trên tay tôi vẫn không chút động đậy, Pháp sư phất tay áo, tôi đứng không vững nên bị thổi bay qua một bên, tôi đã cầu xin Phổ độ công - Giám phổ quỷ vương, quỷ lắc đầu rồi chỉ điểm cho tôi tìm người đứng một bên, mặc áo sơ mi trắng, có lẽ người đó có thể giúp ngươi giải tỏa được xiềng xích trên tay, vì thế tôi đến đây để cầu xin ngài.”
“Cũng được, để tôi thử xem sao.” Đã trải qua mấy lần kinh nghiệm nên tôi đã can đảm hơn hẳn, đối diện với quỷ vật nhưng không có chút sợ hãi chi cả. Vốn dĩ mà, quỷ là quỷ, người là người, quỷ không hại người, người cũng chẳng hại quỷ thì chẳng có chi đáng sợ cả, đây chính là bình thường không làm chuyện hổ thẹn thì nữa đêm có bị gõ cửa cũng không kinh sợ.
Tôi niệm thầm ba lần Vãng sanh tịnh thổ Đà la ni chú, quỷ vật lắc lắc đầu, xiềng xích trên tay hắn vẫn còn như nguyên, thế là tôi niệm thầm trong miệng: “Đệ tử Liên Sinh, phụng Tiên Thiên Vô Cực chánh pháp nhờ Lục Giáp lục đinh chi thần, Thiên du thập nhị khê nữ, Na diên thiên nữ, Thống nhiếp thần binh tam viên đại tướng…”. Tôi lúc đó chắp hai tay lại nhưng bàn tay lại bỗng nhiên kết thành hình ấn trạng, thủ pháp đánh từ trên đánh xuống một cách tự nhiên. Chỉ nghe leng keng một tiếng, hai tay của quỷ vật ấy đã có thể rời ra, bóng đen phủ phục người trên đất liên tiếp dập đầu cảm tạ, rồi đột nhiên lao về phía đàn tế lôi đến rất nhiều bóng quỷ tay bị xiềng xích chặt, xem ra cũng đến trên hai mấy người, lần này phiền phức lớn rồi, tôi liên tiếp niệm chú, liên tục bắt thủ pháp, tuần tự từng quỷ vật tiếp thụ lấy chú ngữ và thủ pháp, rồi lần lượt vui mừng dập đầu lạy tạ rồi ra đi. Lúc đó, tôi đứng bất động, tay thì liên tục kết ấn, liên tục huy động thủ pháp đã thu hút rất nhiều người bàng quang xung quanh, có lẽ người khác sẽ cho rằng chàng trai trẻ này đột nhiên nổi cơn điên chăng! Họ làm sao có thể hiểu được tôi đang giúp cho biết bao là quỷ vật kia giải tỏa xiềng xích chứ! Mọi người cười tôi, mặc cho bọn họ cười chê! Có ai có thể hiểu được chứ? Pháp sư ngồi trên đài kia chỉ có dáng vẻ trong phim ảnh mà thôi. Tất nhiên là có những pháp sư với thực học, thật sự thông hiểu đạo pháp tồn tại, tuy nhiên những kẻ hoàn toàn không có kiến thức cũng không hề ít, những kẻ này phải chăng đã thiếu nợ các vong linh kia rất nhiều? Điều này chẳng thể nào biết được.
Tôi nhìn thấy quỷ vật thật sự là quá nhiều rồi, có người hỏi tôi, quỷ có hình dáng như thế nào? Tôi đáp: “Hình dạng của con người đều khác nhau, quỷ vật cũng thế thôi, nhân chi bất đồng, các như kì diện, nhi quỷ chi bất đồng, diệc như kì diện, hữu diện thiện giả, diệc hữu diện ác giả.” Có người vẽ quỷ, có lưỡi thật dài, đầu tóc rũ rượi, mặt xanh nanh trắng. Người này vẽ chỉ là quỷ giả mà thôi, quỷ thật thì hoàn toàn giống người, cũng có thiếu nữ yểu điệu, thân sĩ nho nhã, tác giả cho rằng chuyện kết bạn với quỷ cũng chẳng phải là chuyện đáng sợ gì, tuy nhiên nếu kết bạn với người, lòng người cách một lớp da bụng, tri nhân tri diện bất tri tâm, con người mới thật đáng sợ!”
Lúc đó, trong nhà tôi đã thờ cúng hai mươi vị Phật Bồ Tát, do bởi ở trong nhà tự thờ phượng nên người biết đến không có nhiều. Có một lần khi tôi thắp nhanh lễ bái thì bỗng nhiên trong không trung có một đóa hoa sen từ giáng hạ xuống, trên hoa sen có một vị Bồ Tát với vạn ánh tường quang tỏa sáng đang ngồi, trên đầu đội Ngũ Phật kim quán, trước ngực đeo chuỗi ngọc, nét mặt như trăng rằm, tay trái cầm tích trượng, diện mục từ bi, Bồ tát mở miệng: “Liên Sinh, ta là U Minh giáo chủ Địa tạng vương Bồ Tát, phật đường vì sao lại không làm pháp hội siêu độ?”
“Tôi có thể sao? Không được đâu, chỉ sợ người đời cười chê thôi Bồ tát! Diệm khẩu hóa thực là chuyện của nhà chùa, tôi chỉ là một Ưu Bà tắc tại gia đã thụ Bồ Tát giới nếu như chiếm giữ cao vị Trung tôn thì chỉ sợ là vượt quá quy củ của tổ sư trong giáo rồi, chi bằng chúng ta mời một vị cao tăng trấn giữ Trung tôn, còn tôi chỉ đứng hầu bên cạnh, không biết có được hay chăng?”
“Liên sinh, Thập pháp giới ngươi cho rằng ở chổ nào? Thập pháp giới tức là Vô pháp giới, thế giới không không động động, ngươi đến lúc này còn tranh luận chuyện được làm chủ hay không được làm chủ sao?”
“Thưa Bồ tát, Phật đường là ở nhà làm sao làm Pháp hội chứ? Còn phải xin phép lập chổ thì mới được xem là hợp pháp.”
“Vậy thì nên làm sớm đi.”
“Nhập đạo hay là nhập Phật?” ( ý chỉ nhập giáo hội Phật, trở thành đoàn thể Phật giáo, hay là nhập giáo hội Đạo, trở thành đoàn thể Đạo giáo.)
“Đạo của Lão tử, không phải là đạo của ta, huyền của Lão tử, không phải là huyền của ta, thiên thượng địa hạ, bình thường của Phật gia, huyền luận của Phật gia đều là do con người khác nhau mà trở nên khác nhau, nhập Đạo và nhập Phật có khác nhau chăng? Đạo có thể diệt, Phật cũng có thể diệt, bản thân hãy tự hiểu, tự hiểu lấy.” Lời dứt, Địa tạng Vương Bồ Tát mĩm cười rồi biến mất.
Thế là tôi đại diện tham gia vào Trung Hoa Đạo giáo hội, trở thành một hội viên của đoàn thể Đạo giáo hội, cá nhân nhận được hội viên đạo sĩ Trung Hoa đạo giáo hội, còn Phật giáo hội thì cấp cho tôi một giấy chứng nhân hội viên Phật giáo, Phật giáo Trung Quốc gửi đến cho tôi một tờ Giới điệp đã thọ qua Bồ Tát giới. Như vậy cả Phật và Đạo tôi cùng tu tập cả hai, đã chính thức trở thành người trải qua cả tam giáo, Cơ đốc giáo thì đã được rửa tội, Đạo giáo thì đã qua công đức, Phật giáo đã thọ giới, tuy nhiên tôi vẫn cho rằng tổ chức của Phật giáo tương đối hoàn thiện hơn, kinh điển hoàn chỉnh, lễ nghi rõ ràng, tư tưởng của tôi có phần hơi nghiêng về tư tưởng Phật gia hơn.
Pháp hội lần đầu tại Lôi Tạng Tự
Pháp hội lần đầu của Lôi Tạng tự được tổ chức vào ngày 18 tháng 7 âm lịch, trước khi tổ chức chúng tôi không có thông báo cho bất kỳ người nào, tuy nhiên kỳ lạ thay có rất nhiều người mà trước đây chưa từng quen biết nghe được thông tin nên đã tìm tới, tất cả đều đến để tham gia lễ hội Phổ độ. Trong gian Phật đường bé nhỏ, người đến tham dự đông vô cùng, cơ hồ đến nước chảy cũng không lọt, mọi người đều thành kính lễ bái chư Phật, chư Bồ Tát, tụng kinh thì chỉ có một mình tôi tụng mà thôi, sau khi tôi đã hóa sơ văn thì ngồi nghiêm trang tỉnh lặng bắt đầu tụng niệm kinh điển, trước tiên tôi tụng “A Di Đà kinh”, niệm “ Vãng sanh chú”, lại tụng tiếp một quyển kinh dài là “Địa Tạng Bồ Tát Bổn nguyện kinh”, sau đó lại niệm “Kim Quang Minh kinh, Tề Thiên Khoa Nghi”, rồi lại tụng thêm một quyển “Kim Cương Kinh”, tụng niệm nhiều kinh văn như thế tất nhiên là sẽ rất mệt, tuy nhiên tôi chỉ đọc liền một hơi mà không hề dừng lại, tốc độ trầm ổn nhẹ nhàng, thanh âm như thể hành vân lưu thủy, tựa hồ như không phải tôi tụng mà là do chư Phật Bồ Tát tụng niệm, từng câu từng chữ nghe rõ ràng mồn một.
Tiếp theo đó tôi cũng học theo hòa thượng Trung tôn, lần lượt thi triển tất cả các thủ pháp mà Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh đã truyền dạy, nhiều người nhìn thấy tôi thủ pháp tôi thực hiện đều tỏ vẻ thất kinh, muốn hỏi tôi “kiểu tay” như thế học hỏi từ ai? Là vị hòa thượng nào truyền thụ cho? Họ cảm thấy kỳ quặc vô cùng. Có người hỏi tôi: “Những thứ này là do ông bỏ tiền ra học được à?” Tôi chỉ cười mà không trả lời.
Lúc làm pháp hôi, tôi có một cảm giác vô cùng kỳ lạ, dường như trong gian Phật đường có rất nhiều linh khí vậy, có một cảm giác trang nghiêm đang dâng lên từ trong lòng, cứ dần dần lan rộng ra, hóa thành muôn ngàn đóa hoa sen, hoa trời muôn đóa ngào ngạt rơi xuống từ trong không trung, khi tôi đã hóa xong Sơ văn, thì nhìn thấy một vị quan trời mình mặc áo đỏ, đầu đội mũ ô sa, dùng tay ấn xuống, sau đó truyền khắp thập phương thế giới, pháp hội lần đầu tiên ở Lôi Tạng tự Từ Huệ Đài Trung, quang cảnh trước đây chưa từng có, Địa tạng vương Bồ tát dùng tích trượng mở cửa địa ngục, dẫn dắt các u linh linh giới cùng tắm gội Pháp vũ, tiếng pháp khí kêu leng keng đây đó, Phạn ngữ cũng được xướng tụng, đốt giấy vàng mã, cảnh tượng thật là náo nhiệt vô cùng. Trong tình cảnh ấy đã xuất hiện rất nhiều chuyện kỳ lạ và tôi đã ghi chép lại như sau:
Thứ nhất: có một người tên là Dương Liêu Bích Đào cư ngụ gần trường Sư Phạm Đài Trung đột nhiện nhìn thấy được cậu em trai đã mất lúc còn trẻ, vào thời quân Nhật chiếm đóng, em trai của bà ấy bị quân Nhật bắt đi làm lính và đã chết trong một trận chiến ở Đông Nam Á. Bà ấy nói: “Em trai của tôi do một vị Thổ Địa Công công dẫn tới, khi vừa bước chân qua ngưỡng cửa, khi nó nhìn tôi thì tôi đã nhận ra nó, thật sự đó là em trai tôi, tôi nhìn thấy rất rõ, nó thật sự là em trai tôi!”
Thứ hai: bà chủ cửa hàng thực phẩm Vĩnh Long, họ Lý, sống tại đường Lực hành ở Đài Trung, bà có đứa con mất lúc 8 tuổi, bà nhìn thấy một đóa hoa sen càng nở càng lớn, có Địa Tạng Vương Bồ Tát đang tọa định ở trên, tích trượng trong tay người khẽ rung, rồi nói: “Đi đi, người đó là mẹ của ngươi.” Đứa bé 8 tuổi từ trên tòa sen trèo xuống ôm lấy chân bà chủ họ Lý khóc ròng lên, cả hai mẹ con ôm nhau khóc, cảnh tượng thật bi thảm vô cùng, sau đó bà chủ Lý hỏi những người xung quanh: “Các người thật sự không nhìn thấy con trai của tôi sao?”, những người xung quanh đều trả lời: “Chỉ nhìn thấy hai tay bà như dáng vẻ đang ôm bồng, rồi la trời khóc đất, chẳng biết là có chuyện gì nữa.”
Thứ ba: sống tại đường Mỹ Thôn ở Đài Trung có một bà họ Liêu, bà ấy nói: “Chỉ nhìn thấy trước mặt là một luồng ánh sáng, tôi cứ bước từng bước về phía trước, vượt qua núi vượt qua đèo, cứ đi mãi, sau đó đến một nơi phong cảnh rất là đẹp, cỏ thơm trông như ngọc, trăm hoa đua nở, trong rừng tiếng chim muông kêu gọi, có rất nhiều tiên nữ đang chơi đùa, nơi đó là một nơi vô cùng xinh đẹp.” Thưa các bạn, nơi mà bà ấy nhìn thấy ở nơi nào? Chẳng ai biết được.
Thứ tư: cô Trần Thu Lan sống ở hẽm Đông, đường Đông, cô ấy ngồi đằng sau tôi, hai mắt vừa nhắm lại, trong mơ mơ hồ hồ lại đến một nơi trời u đất ám, nơi đó mùi hôi thối vô cùng, thật khiến người ta phải nôn mửa, cô ấy mở mắt nhìn thì nhìn thấy một hồ máu đang lan rộng ra, bên trong hồ có rất nhiều người phụ nữ nửa chìm nửa nổi, khi nhìn thấy cô Trần đi lại gần đều lớn tiếng kêu cứu, cô ấy cảm thấy rất khiếp sợ, cho nên đã tìm về đường cũ, đi trở về, sau khi tỉnh lại, cô ấy nói: “Chân tê hết cả lên.”
Thứ năm: Có một thanh niên tên Khưu Văn Bân lần đầu tiên anh ta tham dự Pháp hội, anh ta cũng ngồi ở phía sau tôi, hai mắt vừa nhắm lại thì lại gặp rất nhiều người lạ, người nào cũng giơ tay ra xin tiền anh ta, những người ấy nói: “Chàng thanh niên, ngươi kiếp trước thiếu nợ, kiếp này không thể tha cho ngươi được.” Nhưng nhìn mặt của những người đó thì trong đời anh ta chưa từng gặp qua bao giờ cả, những người này đã gặp qua anh ta ở nơi nào chứ? Anh ta không tin vào thuyết Luân Hồi, cũng không tin cả chuyện quỷ thần, nhưng những người ấy đòi nợ anh ta, anh ta trông thấy rất rõ ràng, từng câu từng chữ đều nghe rõ, lần này anh ta đã có hơi tin tưởng rồi, anh ta phát nguyện kiếp này sẽ làm nhiều chuyện thiện để bù đắp lại số nợ mà anh ta đã thiếu ở kiếp trước.
Thứ sáu: Chuyện kỳ lạ thật là nhiều vô kể, kể ra không hết.
Từ sự thành công của lần pháp hội này, bước đầu đã tạo dựng cơ sở cho các lần pháp hội sau trong tương lai. Cứ mỗi lần tổ chức pháp hội là chuyện kỳ quái nảy sinh nhiều vô kể, thật không thể nào tưởng tượng nổi, buổi sáng vẫn còn sống nhưng chiều thì đã chết rồi, sinh mệnh chỉ ngắn ngũi có vài chục năm thôi, trong chuyến đi của đời người ngắn ngũi kia nếu như không tìm kiếm chân lý, không theo đuổi đại đạo bất sinh bất diệt thì cuộc sống còn có giá trị gì nữa chứ? Những gì tôi kể bên trên, mỗi câu đều chân thật, không dám có chút giả dối, quý bạn đọc nếu xem như là chuyện thần thoại, tôi cũng không dám miễn cưỡng, ngày nay là thời đại khoa học, thuyết luân hồi báo ứng, thiên đường địa ngục, linh hồn số mạng dường như tất cả đều bị xem là mê tín, nhất là về phương diện tôn giáo, tín ngưỡng nếu như hơi quá thành kính thì sẽ bị chê cười là “người mê tín”, cũng giống như tôi đây, mọi người xem tôi như thế nào? Tự mình nói chuyện, thần kinh thất thường, quái vật, kẻ không có tri thức, bề ngoài tôi trông cô độc không ai tương trợ như thế, tuy nhiên nội tâm tôi hoàn toàn cảm thấy rất đầy đủ, tôi căm ghét sự giả tạo, nói lời giả dối; cảm nhận chân thực của tôi lại bị người ta chế giễu: “Tác dụng tâm lý.” Thật khiến tôi đau lòng quá đỗi, ngoài ta tôi cũng muốn thanh minh một chút rằng, tôi không phải là đề xướng “mê tín”, tôi rất ghét các thầy kê đồng hại người, căm ghét những kẻ mạo danh thần thánh hại người, lừa tiền gạt của người khác, dâm hại phụ nữ, đây không phải là cái sai của thần phật mà là cái sai của “người”, nhân tâm quá đỗi đen tối đã làm hỏng đi danh dự của thần Phật, làm cho thần Phật phải mang tiếng xấu, những hạng người như thế phải bị đày xuống địa ngục, mãi mãi không được siêu sinh.
Những điều tôi viết bên trên đều là những trải nghiệm linh dị hoàn toàn chân thực của bản thân, đương nhiên vẫn còn có rất nhiều điều chưa viết ra, chỉ sợ là viết ra thì số trang sẽ quá nhiều. cho nên chỉ viết đến đây thôi, bây giờ tôi sẽ viết ra những “nghiên cứu” về thế giới vô hình, đây cũng chính là “tâm đắc” của tôi, những điều quan trọng về “Linh cơ thần toán” của tôi đều ở cả đây, các bạn làm thế nào để tiếp cận với “thế giới linh dị”? Làm thế nào dựa vào linh để học tập “ngũ thuật”? “Thông linh” như thế nào? Làm thế nào để “thần toán”? làm thế nào để “bốc quẻ đoán mệnh” cho người? Linh hồn là gì? Kê đồng được hình thành như thế nào? Tất cả đều sẽ được giải đáp hết, đương nhiên tất cả những điều này đều là do tôi tận mắt chứng kiến, chính tai nghe thấy, những chỉ thị có được từ linh giới, những chỉ dạy của ân sư Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh cũng có không ít, những linh thuật này tin rằng không có ai có thể biết được, quyển sách này cũng có thể xem là rất hiếm có.
(Lư Thắng Ngạn Văn Tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Linh là gì?
Linh hồn là gì? Vấn đề này chính là câu đố chưa có lời giải trong cả triệu năm nay, không có ai có thể thuyết giải được một cách tường tận cả, nhìn không thấy, sờ không được, tựa như có mà cũng dường như không, có rồi, đối với người sống chẳng có ảnh hưởng gì, không có, càng không đáng để nghiên cứu.
Không đáng để nghiên cứu sao? Người hiếu kỳ thì ở đâu cũng có cả, tuy nhiên đều không được vào kỳ môn, linh hồn thật sự không thể nhìn thấy và sờ mó được sao? Tôi cho rằng quan niệm này chính là “không biết mà lại cho rằng biết”. Tôi ngay bây giờ có thể vỗ ngực mạnh dạn nói với các độc giả rằng: “Bạn chính là linh hồn.” Linh hồn là gì chứ? Bạn chính là linh hồn à? Linh hồn của mình sao mình lại không biết, không hiểu được, tại sao bản thân mình lại là linh hồn chứ? Linh hồn ẩn nấp ở đâu chứ?
Trong Địa Tạng Bồ Tát Bổn nguyện kinh có một đoạn ghi rằng: Thánh nữ hỏi Vô Độc quỷ vương: “Địa ngục ở đâu?” Vô Độc đáp rằng: “Trong ba cái biển đó đều là địa ngục, nhiều đến số trăm nghìn, mỗi ngục đều khác nhau.” Thánh Nữ lại hỏi quỷ vương: “Mẹ tôi chết cho đến nay vẫn chưa lâu, chẳng hay hồn thần hiện đang ở nơi nào?” Trong kinh văn, hồn thần mà Thánh Nữ nói đến đương nhiên chính là linh hồn, điều này cho thấy, con người sau khi chết đi thì linh hồn vẫn còn tồn tại, thế nhưng tại sao khi con người còn sống lại không nhìn thấy hồn thần của mình chứ?
Tôi nói: “Khi con người mới sinh ra, bản thân của hồn thần đã bị lớp vỏ nhân dạng bên ngoài bao bọc lấy, đã mất đi tác dụng của thần thức, con người sống trong thế giới hữu hình, tất cả đều lấy hữu hình làm căn cứ, hồn thần lúc đó có thể nói là đã chết rồi, linh hồn mặc dù vẫn còn tồn tại bên trong cơ thể con người nhưng lại mất đi tác dụng của thần thức, thì cũng được xem như là không có, cho nên mọi người cho cái giả lại là thật. cho rằng nhục thể của mình chính là tự ngã thật sự của mình, linh hồn đã chết rồi, không có tăm tích gì cả, mãi cho đến một ngày nọ khi nằm xuống, khi nhục thể chết đi thì thần chức mới dần dần hồi phục, linh hồn lại sống trở lại, đạo lý về sinh tử luân hồi quan chính là ở đây, sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh, mãi mãi nối tiếp, ngày hôm nay những người tu đạo học Phật tu tập không phải là đạo trường sinh của nhục thể mà chính là tu tập đại đạo sinh tử của hồn thần.”
Có lẽ cũng có người cho rằng, hồn thần là đã chết, cho nên người ta không thể nào cảm nhận được hồn thần trên cơ thể mình. Lời nói này nêu ra nghi ngờ là hoàn toàn có căn cứ, tuy nhiên hãy thử nghĩ xem, giả sử như con người tồn tại trên thế giới này khi mà nhục thể vẫn chưa nằm xuống mà “linh hồn” lại tỉnh dậy, xin hỏi thì thế giới đó sẽ trở thành như thế nào? Rất nhiều người sẽ không thể nào hiểu được cảnh giới này, bởi vì chỉ có những người đã đạt đến cảnh giới người và thần hợp nhất thì mới có đủ tư cách để nói “linh là gì?”, mới có thể sử dụng “linh cơ” để làm thần toán, đây mới chính là điều kỳ diệu!
Theo như tôi được biết, linh hồn tồn tại rất là nhiều, trong rừng núi, dưới biển hồ, trong nhà ở hay âm trạch (mộ địa), thậm chí ngay cả ở nơi đường phố náo nhiệt, nhục thể trên cơ thể con người lớn thì có thể nghiêng lệch đất, nhỏ thì có thể ẩn thân trong một hạt cát, hạt bụi, giọt nước nhỏ xíu kia, về chủng loại linh hồn thì cũng có rất nhiều, có Phật linh, thần linh, nhân linh, quỷ linh, mị linh v.v…, đây là dựa theo sự quan sát của tôi, chứ không phải đến từ bất cứ tư liệu nào khác. Nhưng vấn đề quan trọng nhất, linh là gì? Tôi cho rằng linh là một loại “khí”, một thứ “sức mạnh”, một loại “biến hóa”. Thành phần cấu tạo của nó như thế nào? Tôi cảm giác nó giống như “điện”, cũng giống như một dạng “tia bức xạ” vậy, mặc dù là có tồn tại thật nhưng nếu như phân tích thành phần của nó thì thật sự rất khó khăn. (Tác giả tuy là có biết sự tồn tại của linh hồn nhưng lại không phải là nhà khoa học cho nên không thể phân tích thành phần của nó.)
Theo lý mà nói thế giới hữu hình chính là thế giới giữa con người và vạn vật, còn thế giới vô hình chính là thế giới của linh, linh có thể biết được thế giới hữu hình, nhưng con người của thế giới vô hình lại rất khó biết được thế giới vô hình, đây cũng chính là linh học mà con người ngày nay đang nghiên cứu, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có lời giải, thậm chí có người có ẩn chứa “linh thể” và có sự đi lại giao tiếp với “linh giới”, nhưng đều bị coi là thần kinh thất thường, tác dụng tâm lý, tinh thần sai lạc. Thể của linh giới thật sự chỉ có thể hiểu được mà thôi chứ không thể dùng ngôn từ để nói rõ, giải thích bằng chữ nghĩa không thể nào nói ra được sự huyền diệu chân cơ của nó, hãy để cho những ai có hứng thú tự mình đi tìm hiểu “linh giới” vậy.
“Linh giới” và người trong thế giới hữu hình của chúng ta không những chỉ là hàng xóm với nhau mà còn có mối quan hệ thân thiết nữa, chúng ta đến từ “linh giới” và cũng sẽ trở về “linh giới”, đồng thời con người và linh suy cho cùng thì cũng sinh sống cùng nhau thì làm sao có thể nói là không có liên quan chứ? Chúng ta nếu như vận dụng sức mạnh của “linh giới” thì có thể có rất nhiều thành tựu lớn, có lẽ mọi người sẽ không tin, nhưng thôi cứ nghe như thế, cứ tin như thế, còn tin hay không thì tùy các bạn, tôi sẽ từ từ kể ra sau đây.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Tác tuế và tà tuế của Linh
Trong Địa Tạng Bồ Tát Bổn nguyện kinh, Như lai khen ngợi Phẩm Đệ Lục có nói: “Như có người nam, người nữ nào đau bệnh nằm liệt mãi trên giường gối, cầu sống hay muốn chết cũng đều không được, hoặc đêm nằm chiêm bao thấy quỉ dữ cho đến kẻ thân thích trong nhà, hoặc thấy đi trên đường nguy hiểm hoặc bị bóng đè, hoặc cùng đi với quỷ thần, trải qua nhiều tháng nhiều năm, đến đỗi thành bịnh lao, bịnh bại... Trong giấc ngủ kêu réo thê thảm sầu khổ. Ðây đều bị nơi nghiệp đạo luận đối chưa quyết định là khinh hay trọng, nên hoặc là khó chết, hoặc là khó lành. Mắt phàm tục của kẻ nam, người nữ không thể biện rõ việc đó.”
Trong đoạn văn trên của Địa tạng kinh đã chỉ rõ ra rằng linh của quỷ thần có thể ảnh hưởng đến sức khỏe thân thể của con người, “hoặc là bị bóng đè, hoặc cùng đi với quỷ thần”, hàm ý muốn chỉ ở đây chính là linh của quỷ thần đã âm thầm tác tuế ở đây, vì thế không thể xem thường hành vi của “linh” được. Theo trải nghiệm của tác giả thì linh cũng có chia ra thiện ác, cũng giống như người vậy, người cũng chia ra người lành kẻ ác, ác thì có thể giúp người làm ác, linh giới cũng có chiến tranh, hoàn toàn giống như trong thế giới hữu hình vậy.
Khi chưa nói đến chủ đề của bài viết này, tôi sẽ dẫn ra một ví dụ thực tiễn để làm chứng:
Có một ngày nọ, trong lúc tác giả đang tụng Kim cương kinh ở trong Phật đường thì có một thanh niên lạ mặt hỏi đích danh muốn tìm tôi, người thanh niên này trạc chừng 30 tuổi, hai mắt sáng rực có thần, mặt vuông tai lớn, thân hình cao lớn, toát ra một khí khái hùng dũng, người thanh niên đi thẳng vào vấn đề: “Lư tiên sinh, chị của tôi ở bệnh viện Bồ đề ở Đài Trung vẫn thường nghe giảng kinh ở Thiện Quả Lâm. Ở Thiện Quả Lâm có một vị Trang cư sĩ, ông ấy có kể về những sự tích linh dị của ông nên chị tôi muốn tôi đến bái phỏng ông, có lẽ ông sẽ giúp đỡ tôi được đôi chút. Tôi họ Kha dạy học ở trường trung học xx tại Đào Viên.”
“Có chuyện gì cần tôi giúp đỡ sao?” Tôi hỏi một cách hiếu kỳ, người thanh niên trước mặt tôi hình dáng khỏe mạnh, trông không có vẻ gì là bệnh hoạn cả.
“Tiên sinh đừng trông thấy tôi hình dáng mạnh khỏe, thật ra tôi đã xem qua rất nhiều bác sỹ nhưng không có ai cho rằng tôi bị bệnh cả, cũng đã kiểm tra não rồi, hoàn toàn bình thường, các bộ phận khắp cơ thể đều đã kiểm tra qua nhưng đều không có gì lạ cả, tuy nhiên tôi lại bệnh khổ vô cùng, cũng dám lập gia đình, bạn gái tôi muốn tôi kết hôn với cô ấy, nhưng vì bản thân tôi biết mình bị bệnh nên không dám nhận lời, chỉ có thể gắng gượng chịu đau đớn, sống một kiếp sống cô độc mà thôi.” Dáng vẻ chàng thanh niên trông thật thảm hại, nước mắt đau thương tuôn rơi lã chả.
“Rốt cuộc là chuyện như thế nào?”
Thế là anh ta kể đầu đuôi câu chuyện cho tôi nghe. Vào khoảng 5 năm trước, khi anh ta đang giảng bài ở trên lớp thì đột nhiên cảm giác như có âm thanh của một đàn ong bay đến, từ xa rồi đến gần, thế là đầu của anh ta cũng cảm thấy đau từng hồi, cảm giác đau nhức và đầu choáng mắt hoa ngày càng tăng đến nỗi anh ta không thể nào gắng gượng được nữa, hậu quả là anh ta đã xỉu trên bục giảng, các học sinh nhìn thầy đều hoảng sợ, nhưng chỉ cách 15 phút sau thì thầy giáo Kha của chúng đã hồi tỉnh lại, cảm giác đau nhức và đầu choáng mắt hoa ấy cũng chấm dứt. Bản thân anh ta cũng chẳng hiểu tại sao, bác sỹ trong trường học kiểm tra sức khỏe cho anh ta cũng không hiểu nguyên nhân. Với một người thân thể cường tráng như thầy giáo Kha, lúc bình thường ngay cả đến cảm mạo cũng không bị, sắc mặt hồng hào thế kia, không có hiện tượng thiếu máu thì làm sao có thể ngất xỉu được chứ?
Ngất xỉu lần đầu thầy Kha cũng không để ý lắm, tuy nhiên sau đó số lần ngất xỉu ngày càng tăng, mỗi lần trước khi bị xỉu anh ta đều có dự cảm trước, do bởi tiếng ong kêu từ xa đến gần, sau đó là âm thanh lớn lên, rồi đầu óc cảm thấy rất đau, sau khi ngất xỉu khoảng chừng 5 phút thì hồi tỉnh trở lại. Sau đó cứ mỗi lần tiếng ong vang lên từ xa đến gần là anh ta lập tức bỏ phấn xuống, chạy về ký túc xá của trường, nằm đợi ngất xỉu, sau đó 5 phút lại quay trở lại lớp học giảng bài. Trong 5 năm này anh ta đã tìm khắp các thầy thuốc đông tây y, uống thuốc, châm cứu, trị liệu bằng điện đều hoàn toàn không có công hiệu. Các bác sỹ đều nói: “Đây chỉ là do lao lực, thần kinh quá mẫn cảm, tác dụng tâm lý, không nên suy nghĩ đến nó thì sẽ khỏi thôi.” Cũng có thầy Đông y bảo: “đây là hiện tượng dê điên và heo cái điên, không có cách nào chữa trị cả, phài tìm chuyên khoa thần kinh thôi.” Bác sỹ chuyên khoa thần kinh nói: “Không tìm được căn nguyên bệnh, sóng não rất bình thường.” Tuy nhiên khi anh ta xỉu trước mặt bác sỹ thì bác sỹ cũng bó tay đành chịu, chứng bệnh như thế khiến cho tất cả bác sỹ đều trố mắt ngớ người không biết nói gì.”
Lúc này tôi liền đi lại kệ sách và lấy xuống quyển Địa Tạng Bồ Tát Bổn nguyện kinh, lật đến Như Lai khen ngợi Phẩm Đệ Lục và mời anh ta đọc đoạn văn đã viết bên trên, anh ta hỏi: “Tiên sinh muốn nói là tôi đã bị linh hồn quấy phá ư?”
“Đúng vậy, đương nhiên người thời bây giờ sẽ chẳng tin những chuyện như thế này, tuy nhiên căn cứ theo lập trường mà tôi đã gặp qua linh dị thì tôi không thể không nói như thế, khoa học có thể chứng minh trong vũ trụ có rất nhiều tia bức xạ tồn tại, tần số của Điện đài có thể truyền đi khắp thế giới, sự tồn tại của linh mặc dù là chưa thể chứng minh được nhưng cũng không thể phủ định hoàn toàn sự tồn tại của nó. Lúc mà nhân loại chưa phát hiện ra tia bức xạ thì tia bức xạ đã tồn tại rồi, tivi có thể truyền đi là nhờ vào tần số trùng, bạn thử nghĩ về sự hiện diện của tần số xem, có thể nhìn thấy được, nghe thấy được, sờ mó được hay không? Nhà khoa học nghiên cứu khoa học tất nhiên là chuyện đúng đắn, khoa học mỗi ngày một tiến bộ nhưng khoa học không thể phủ nhận tất cả sự thật được.”
“Ông nói không sai, nhưng có thể trị dứt được bệnh của tôi không?
“Để tôi thử xem, cũng hy vọng là tôi có được năng lực đó.”
Khi tôi và anh ta đang nói về những chuyện thần kỳ của “linh giới” thì anh ta đột nhiên kêu lên: “đến rồi, đến rồi, tiếng ong kêu lại đến nữa rồi.” Tôi nhìn thấy anh ta lấy hai tay bịt kín lỗ tai lại, hai mắt trợn trắng, thân hình đang ngồi trên ghế salon từ từ nghiêng qua, cả thân người từ trên ghế salon bỗng đổ nhào xuống nền gạch, miệng thì đang la sảng những tiếng gì đấy mà người nghe chẳng hiểu gì cả, tôi cúi đầu xuống nghe thử xem anh ta kêu gào những gì? Kết quả phát giác ra phát âm của anh ta nghe có âm giọng của phụ nữ.
Lúc đó, tôi bỗng nhiên nhớ đến Linh sư Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh có truyền dạy cho một câu chú, là Trấn Ma Tổng Chú, kêu tên là “Đại Phạm Thiên Kim Cang chú”, thế là tôi dùng ngón tay cái ấn chặt lấy chổ Thần khiếu của thầy giao Kha, niệm thầm Đại Phạm Thiên Kim Cang chú, chú rằng: “Ám khiết lâm chỉ ngâm tức mễ tốc si luật lịnh cương.”
Câu chú trên, tôi niệm thầm đến bảy lần, dùng ngón tay cái vẽ lên “giáp thủy” tại chổ thần khiếu của anh ta tổng cộng 6 lần, lúc này thì thấy miệng của thầy giáo Kha khẽ he mở và rồi nghe thấy giọng nói yểu điệu của một cô gái vang lên: “Tiên sinh, xin hãy thả tôi ra, tiên sinh, xin hãy thả tôi ra.”
“Hừm, cô là ai? Tại sao lại theo quấy thầy giáo Kha? Thành thật khai ra thì sẽ ta sẽ thả cho cô ra.”
Hồn nữ ấy mượn miệng của thầy giáo Kha nói: “Năm năm trước, thầy giáo Kha sống ở bên cạnh nhà tôi, tôi bị bệnh chết đi, lúc đem đi chôn, thầy giáo Kha đi ngang qua trước cửa nhà tôi, anh ta nhìn thấy hình của tôi đã thốt lên một câu tội nghiệp, anh ta đã tội nghiệp tôi, tôi lại không có chổ để về cho nên chỉ có thể tìm thầy giáo Kha thôi.”
“Cô năm đó bao nhiêu tuổi? Tên họ là gì?”
“19 tuổi. Tên là Trần Hương Lan.”
“Bây giờ cô đã không có nơi để về, hay là để ta niệm Thu Hồn chú, thu lấy hồn phách của cô gửi nhờ vào trên miếng gỗ Chương Liễu để giúp ta thông báo tin tức hành thiên lý, trong tương lai khi công đức viên mãn, ta sẽ giúp cô chuyển thế làm người hoặc là độ lên Thiên Tào có được không?”
“Được thì có được đấy, nhưng thầy Kha…”
“Thầy Kha và cô không thù không oán, anh ta chẳng qua chỉ cảm thấy tội nghiệp cho cô, cô lại tưởng là thật, cô nếu như muốn tốt cho anh ta thì nên gấp gấp từ bỏ anh ta, đây mới chính là biện pháp tốt nhất, cô nếu như cứ mê muội theo anh ta thì đừng trách ta dùng Ngũ Lôi Thủ Ấn đánh cô thành tro bụi, về sau mãi không được siêu sinh đấy.”
“Tiên sinh, tôi bằng lòng người dùng gỗ Chương Liễu làm thế thân cho tôi và giúp mật truyền tin tức ngàn dặm nhưng không được dùng khóa xích tôi lại.”
Thế là tôi bèn niệm Thu Hồn Chân Ngôn, lấy một miếng gỗ Liễu để lên chỗ Thần Khiếu của thầy giáo Kha, tụng: “Liễu Linh Liễu nương, sinh ra bên cạnh cổ mộ nơi hoang sơn, hôm nay tôi mời bà làm Thần tướng, tránh khỏi phải chịu gió sương nơi hoang dã, tứ thời bát tiết đều cúng bái bà, canh thơm mỗi ngày đều dành cho bà uống trước, gấp gấp hiển dương, nhật xuất đông phương, thần phủ nhất đoạn, sớm rời khỏi nơi này, đệ tử Liên Sinh phụng Tiên Thiên Vô Cực Chánh Pháp gấp gấp thu hồn luật lịnh cương.” Tôi niệm chú tổng cộng ba lần, lấy miếng gỗ liễu xuống, đặt dưới đáy tượng Phật trong Phật đường, một nơi mà người bình thường không thể nhìn thấy.
Thầy giáo Kha tỉnh lại, tôi bảo: “Anh về Đào Viên đi thôi! Lần này anh đã khỏi hoàn toàn rồi.” Thầy giáo Kha lắc đầu không tin.
“5 năm trước hàng xóm của anh có một cô gái tên là Trần Hương Lan? 19 tuổi.”
“Có đấy! Nhưng cô ấy đã chết rồi, cô ấy xinh đẹp lắm, cô ấy có liên quan đến tôi hả? Đúng rồi, ông làm sao mà biết được cô ấy thế?” Anh ta hỏi tôi.
Tôi đem đầu đuôi câu chuyện kể lại cho thầy giáo Kha nghe, anh ta bán tín bán nghi rời khỏi. Được mấy tuần sau, anh gửi thơ đến, anh ta kể rằng: “Kể từ sau ngày hôm đó, tôi không còn nghe thấy tiếng ong kêu nữa, cũng không có những cơn đau đầu nữa, cũng không có choáng váng hoa mắt, đã thấy lại được tương lai tươi sáng tốt đẹp rồi. Đây đúng là thần tích, Lư tiên sinh, suốt đời này tôi sẽ cảm ơn ông, nhân gian quả thật có thế giới của linh dị.”
Tôi không có trả lời thư, bởi vì Trần Hương Lan hiện nay đang ở trong Phật đường của tôi, cô ấy tuy là một quỷ hồn, nhưng bản tính không xấu, linh tính ngày càng tăng tiến, đã giúp cho tôi rất nhiều việc.
Từ trong câu chuyện trên có thể thấy được lực lượng tác tuế của linh quả thật không thể xem thường được, nó có thể ảnh hưởng đến động cơ hành vi của một con người, vong hồn của một nhà khoa học thậm chí có thể giúp đỡ cho các nhà khoa học còn sống, khơi gợi linh cơ phát minh, loại tác dụng này chính là giác quan thứ 6 tiềm ý thức. Dựa theo câu chuyện chân thật mà tôi nghiên cứu trên đây, tần số của vong hồn Trần Hương Lan và tần số của thầy Kha gần nhauu, có thể cảm ứng lẫn nhau, do bởi ý thức về thầy Kha tội nghiệp Trần Hương Lan tồn tại trong vô hình biến thành vong linh của Trần Hương Lan tìm đến thầy Kha, thầy Kha cũng giống như một cái radio thu được tần số từ đài phát thanh của Trần Hương Lan vậy.
Nói về sự tác tuế quấy phá của Linh, đạo lý cũng tương đối đầy đủ rồi, nhưng khác biệt ở chỗ nhân quả báo ứng, ân oán kiếp trước, kiếp này báo, cũng còn có một thứ mà thông thường gọi là xung sát, chuyện của thầy Kha bên trên chính là “phạm âm”, chịu sự quấy nhiễu của âm linh. Chuyện kể bên trên hoàn toàn có bằng cớ chân thực, nếu như có người không tin thì tôi cũng không có cách nào hết, thiên hạ rộng lớn thế kia, chuyện kì lạ chi mà chẳng có, những chuyện tôi gặp phải, kỳ quái hơn câu chuyện bên trên cả trăm lần cũng còn có nữa.
(Lư Thắng Ngạn Văn Tập 016 – Mạn đàm về Linh Cơ thần toán)
Khởi động Chân Linh nguyên thủy
Trên mỗi con người, đều có một khí “linh” hoàn toàn chân thực, chỉ đáng tiếc là đã bị chết đi, không thể động được, là một “tử linh” không có tác dụng gì cả, tuy nhiên nếu như có một ngày có thể thức tỉnh chân linh về nguyên bản , thì lúc này đây cả nhục thể và linh cùng sống, người sở hữu “hoạt linh” này không phải là trên đời này không có, không những có mà là còn có rất nhiều nữa. Ở nước ngoài chúng ta thường nghe nói đến “linh mai” chính là người cho quỷ thần nương thân vào, ở nơi chúng ta thường gọi là Kê đồng, kê đồng cũng có thể cho quỷ thần nương thân vào để nói chuyện, hơn nữa chúng ta có thể mượn “Linh mai” và “Kê đồng” để hỏi chuyện quỷ thần hoặc là đoán mệnh trong tương lai, những nhóm nhỏ người này chính là người có “hoạt linh”.
Tuy nhiên sự hiển hiện của “Linh mai” và “Kê đồng” khi cho linh nương nhờ vào thì chúng ta có thể hiểu rằng đây chẳng qua chỉ là một vật mượn để con người và linh giới có thể giao thông với nhau mà thôi, cũng giống như là một trạm chuyển phát vậy, “Linh mai” và “Kê đồng” vốn không hiểu đạo vận dụng linh, chỉ biết đưa cơ thể cho linh giới mượn sử dụng mà thôi, “linh thể” của những người này và tần số của linh giới gần sát nhau, cũng chính là linh tính có thể tiếp thu và truyền thụ với nhau, cũng đồng nghĩa là có thể sinh ra tác dụng cộng hưởng, đây cũng chính là ứng dụng bước đầu của “hoạt linh”.
Thông thường thì người ta cho rằng “Kê đồng” chỉ là giả dạng mà thôi, giả thần giả quỷ để hù dọa người ta mà thôi, điều này cũng có thể, do bởi linh nương nhờ vào cơ thể thì có trọng có khinh, nếu nương vào mà nặng quá thì bản thân của kê đồng sẽ có tình trạng hôn mê, khi tỉnh lại anh ta mở miệng nói những gì nhưng bản thân lại không biết được, còn nếu như linh nhẹ hơn chút thì bản thân người làm Kê đồng có thể hiểu được, kê đồng bởi vì muốn thỏa mãn những dục vọng con người nên đã tạo ra những trò lừa tiền gạt sắc, đây cũng chính là nguyên nhân chính vì sao người ta lại không tin vào kê đồng. Tác giả do có nghiên cứu về Linh học, thân gặp kỳ duyên, đã đi khắp thiên nam địa bắc, nhìn thấy 10 kẻ làm kê đồng thì đã có 8 người dựa vào các trò lừa đảo trên để kiếm cơm, hơn nữa họ còn lợi dụng những khả năng trời cho bản thân mình để làm chuyện gian trá, lừa các nam nữ thiện lương vào tròng, hại đến người ta mất tiền tài lại thiệt thân, linh giới chịu xấu hổ, thần linh bị bôi nhọ, đồng thời làm liên lụy đến cả những kê đồng có “hoạt linh” chân chính. Tôi cho rằng kê đồng có rất nhiều, nhưng tính người vốn dĩ gian tà, bọn họ đa phần đều xem đây là một công cụ để kiếm tiền. Than ôi, than ôi!
Ngoài Kê đồng ra thì số người luyện linh và vận dụng linh thì vốn rất ít, gọi là luyện linh chính là phản bổn quy chân mà những người tu đạo thường gọi, tìm về một “chân ngã”, mục tiêu cuối cùng của tu đạo có thể nói chính là “thoát vỏ phi thăng của hoạt linh”, nhập vào thanh tịnh giới, vào cõi trời đất bất sinh bất diệt, người tu đạo tu tập một thứ linh tính hoạt bát, chân thuần. Còn về thuật vận linh hay còn gọi là “Thông linh chi thuật” thì không cần sử dụng phương pháp thay mượn, sử dụng linh trên cơ thể mình vận dụng vào trong hư không để giao tiếp với các thần tiên trong linh giới, pháp thuật diệu kỳ này gọi là Thông linh thần thuật, hoạt linh trên cơ thể và hoạt linh ở bên ngoài cơ thể giao tiếp lẫn nhau, rồi sau đó hiểu được một vài ý nghĩa của thần linh, cảnh giới này vượt qua phương pháp thay mượn của kê đồng rất là nhiều, bản thân sẽ rất là tỉnh táo và cũng không chịu sự ảnh hưởng quấy nhiễu của linh ngoại giới, có thể tự chủ được linh trên cơ thể mình, muốn qua đông thì qua đông, muốn sang tây thì sang tây, tự do tự tại, khoái lạc vô cùng.
Luyện linh đến cảnh giới thượng thừa nhất thì có thể luyện thành thiên nhãn thông, vận linh vào hai mắt, có thể trực tiếp nhìn vào linh giới.
Thiên nhãn thông nhắc đến ở đây không phải là Âm Dương nhãn, nhưng cũng tương tự như Âm Dương Nhãn. Âm Dương nhãn đa phần đều do trời sinh, mắt của những người này có thể phát sáng trong đêm, cũng giống như mắt của loài chó vậy; nếu như vận dụng linh vào hai tai thì có thể chứng được Thiên nhĩ thông. Thiên nhĩ thông có thể trực tiếp nghe được những đối thoại của thế giới vô hình. Tác giả ở đoạn trên có nhắc đến người phụ nữ áo xanh, bà ấy sống ở Hoa Liên, tu đạo ở phân đường Thạch Bích thuộc Từ Huệ đường, người này đã chứng được Thiên Nhĩ thông, có thể trực tiếp nói chuyện với quỷ thần. Trong những người mà tôi quen biết ngoại trừ thầy tôi là Thanh Chân Đạo trưởng và người phụ nữ áo xanh ra thì thật khó tìm ra ai khác có thể chứng được Thiên Nhĩ thông, cũng có lẽ là có nhưng thứ cho tác giả không được biết. Nếu như vận dụng linh ra ngoại thể để tìm hiểu quá khứ vị lai, hoặc là những gì người khác suy nghĩ, đây chính là vận dụng “Tha tâm thông”. Còn về “Túc mệnh thông” (nhân quả của bốn kiếp trước sau), “thần túc thông” (chu du bốn phương, linh giới đi lại tự do), “lậu tận thông” (bất sinh bất diệt, vô sinh vô tử), sáu loại thần thông đều có thể từ tu tập “chân linh” để chứng được, nếu tu được sáu loại thần thông trên sẽ trở thành Đại La Kim Tiên, Vô thượng đẳng giác Như Lai Phật rồi.
Còn về từ một người bình thường không có “hoạt linh” làm thế nào để vận dụng nó trở thành “hoạt linh”, phát khởi chân linh nguyên thủy, chỗ kỳ diệu cùa nó ở nằm ở cơ duyên của tâm, điều này vô cùng quan trọng. Sau đây tôi sẽ dẫn chứng một sự thật về khởi phát hoạt linh, số người mà tác giả đã khởi linh ước có đến hàng trăm hay hàng ngàn người, do bởi số người quá nhiều nên cũng không nhớ được tổng cộng là có bao nhiêu người nữa. Ích lợi của việc khởi linh có rất nhiều, xin sẽ giải thích rõ ở phần sau.
Thái Văn Minh là một kỹ sư tốt nghiệp đại học, nhỏ hơn tác giả 2 tuổi, là người ở Đài Bắc, anh ta là bạn học thời gian sau của tôi, không có theo tín ngưỡng nào cả, đối với linh học thì càng không có hứng thú gì cả, thân thể khỏe mạnh, bản tính thiện lương chân thật. Do các bạn học ở trường đều đồn là: Lư Thắng Ngạn có bản lĩnh thấu trời hiểu đất, anh ta cũng nghe được một hai gì đó, tuy nhiên tỏ vẻ phản đối hay tán đồng gì cả, anh ta cho rằng là tin đồn thì không đủ để tin tưởng, đồng thời trong lòng anh ta cũng cho rằng Lư Thắng Ngạn nhất định là một kẻ quái lạ, hoặc giả là loại người thần kinh không bình thường. Không lâu sau thì Thái Văn Minh tốt nghiệp, trùng hợp là anh ta lại làm cùng một cơ quan với tôi.
Có một buổi chiều nọ, Thái Văn Minh nói với tôi: “Lão Lư nè, tôi thấy con người anh cũng chẳng có thần bí gì cả.”
“Thần bí? Tại sao phải thần bí? Tôi chỉ là một người bình thường mà, cần gì phải chứng tỏ bản thân khác người chứ?” Tôi mĩm cười trả lời.
“Tôi nghe người ta nói, anh biết thuật thần toán, dự đoán được tương lai, hiểu trời thông đất, có thể nói chuyện được với thần linh. Tuy nhiên từ trước đến giờ tôi đều không tin, hơn nữa Khổng Tử cũng không nói về quái, lực, loạn, thần, linh hồn những thứ đại loại như thế nếu như không phải tôi cảm nhận được thì tôi tuyệt đối không bao giờ tin cả, muốn tôi tin thì trừ phi phải để tôi nhìn thấy, nhất là không phải nhìn thấy trong mơ đấy nhé, mà phải là có ý thức rõ ràng kìa.”
“Anh muốn biết à?”
“Muốn.”
“Biện pháp duy nhất chính là khởi động chân linh nguyên thủy của anh, dùng hoạt linh của anh để tiếp xúc với linh giới, như thế mới có thể sản sinh được cộng hưởng và cảm ứng, nếu như chỉ dùng nhục thể để tiếp xúc với linh giới thì chẳng khác gì trèo cây tìm cá cả. Tôi thường cười những người nghiên cứu khoa học, còn chưa có được linh thể, chỉ dùng nhục thể hữu hình để tiếp xúc với linh giới, như thế có thể được sao? Nếu muốn khám phá linh giới thì nhất định phải có linh thể, đây chính là điều kiện quan trọng nhất.”
“Người nào cũng có thể sao?” Thái Văn Minh hỏi.
“Đều có thể.” Tôi trả lời một cách khẳng định.
Tôi dẫn Thái Văn Minh đến thư phòng của tôi, tôi viết một đạo phù lục, ý của đạo phù này là: “Ám phụng Ngọc Hoàng Chí tôn sắc lệnh, tứ phương thần tướng giúp trợ khởi động linh, cấp cấp như thượng thanh chính pháp luật lịnh.” Đưa đạo phù cho Thái Văn Minh uống xong, tôi dùng tay kết Ngũ Lôi Ấn, liên tiếp vỗ xuống Thiên linh anh ta 5 cái, Thái Văn Minh ngồi xuống trên ghế, hai mắt nhắm chặt lại, hai tay chắp lại, hai chân chạm đất, miệng ngậm kín lại, tôi dạy cho anh ta niệm thầm 4 chữ “Dao Trì Thánh Mẫu”, do bởi tôi thờ Tây Phương Thánh Mẫu làm chủ thần, niệm “Dao Trì Thánh Mẫu” có tác dụng thu tâm, cũng giống như Tịnh Thổ tông niệm phật, cũng có tác dụng thấy tâm. Trước khi tiến hành Thái Văn Minh sẽ phải tắm gội sạch sẽ, thân tâm đã sạch, chỉ cầu “tử linh” thức dậy mà thôi. Sau khi Thái Văn Minh đã uống xong đạo “Khởi linh phù” của tác giả xong đã bắt đầu có tác dụng, tứ phương thần tướng đã tiếp được ý chỉ, vội vội vàng vàng tề tựu đến, từ từ dẫn động linh thể của anh ta, khoảng chừng 20 phút, thì nhìn thấy tay của Thái Văn Minh khẽ giơ ra, tựa hồ như có một hấp lực cực mạnh, hút lấy tay anh ta giơ cao qua khỏi đầu, lúc này Thái Văn Minh kêu lớn thất thanh: “Lão Lư, lão Lư, tay của tôi không thu về được nữa.” Tôi bảo anh ta đừng quá căng thẳng, tôi đứng phía sau Thái Văn Minh, dùng niệm lực của tôi khống chế lấy linh lực của anh ta, tôi muốn phân tách hai tay của anh ta ra, quả nhiên hai tay của anh ta tách ra, tay trái xoay lấy một vòng, quả nhiên tay trái anh ta liền xoay một vòng, tôi muốn anh ta vỗ tay ba lượt, quả nhiên sau đó anh ta vỗ tay liền ba lượt, ý niệm của tôi muốn anh ta chắp hai tay lại, thế là hai tay anh ta tự nhiên chắp lại, lúc này Thái Văn Minh lại la lớn: “Lão Lư, lão Lư, trước mắt tôi xuất hiện một vị thần Kim Cương, lão Lư, lão Lư hai mắt của tôi mở ra không được.”
‘Thật sự không thể mở ra được à?”
“Thật sự mà.”
“Thôi được rồi, anh lễ bái với Kim thần 5 lượt đi thì mắt có thể mở ra được đấy.” Anh ta liền làm theo lời tôi, quả nhiên hai mắt đã có thể mở ra, anh ta đứng lên, kể lại đầu đuôi câu chuyện cho tôi nghe, anh liên tục kêu quái lạ, quái lạ! Tay không phải là cố ý cử động, nhưng tựa hồ như có hấp lực hút đi vậy, hai mắt muốn mở ra nhưng mí mắt lại không nghe lời, trong mông lung lại trông thấy Kim Cương thần, tất cả những sự việc trên đều biết được rất rõ trong trạng thái tỉnh táo, không phải là mộng ảo gì cả. Từ đây thì linh ở bên trong cơ thể của Thái Văn Minh đã thức tỉnh, tuy nhiên Thái Văn Minh lại không có kinh nghiệm luyện linh, linh mặc dù đã thức tỉnh nhưng đối với anh ta cũng chẳng có ích lợi nhiều, trình độ của anh ta chỉ là khi vào nhà có người chết thì cảm nhận được âm khí của người âm, khi bước vào một căn phòng có thể cảm nhận được sống ở căn phòng này có bình an hay không mà thôi.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Chân linh ở nhất tâm, nhất niệm bất khởi
Một người muốn học biết được “hoạt linh”, thật sự thì cũng chẳng khó khăn gì hoàn toàn dựa vào niệm lực của bản thân để thôi thúc cũng không phải là không được, nhưng quan trọng nhất là ở nhất tâm bất động, nhất niệm bất khởi, thân tại cũng như thân bất tại, niệm tồn cũng như niệm bất tồn. Trong cõi minh minh kia, có được tướng linh cơ thì trong một sát na có thể xung phá được tất cả các cửa ải khó khăn, như thế một con đường lớn rực rỡ xán lạn sẽ hiện ra trước mắt, sẽ nương theo thần thức của bản thân để đi tới, sau một tiếng “sấm sét” nổ vang, đột nhiên sẽ ngộ được chân tướng của trời đất, điều này không chừng cũng có thể xảy ra.
Ngày nay nếu như có người nào muốn biết được “chân linh” của bản thân, tôi có thể dạy cho họ theo cách thức sau:
Thứ nhất, chuẩn bị một căn phòng sạch sẽ, thư phòng cũng được, nói chung là một căn phòng không bị người ngoài quấy rầy, một cái ghế để thay thế cho đả tọa (ngồi kiểu già phu), người bình thường nếu ngồi kiểu già phu tương đối khó khăn, đơn bàn hay song bàn đều không thể ngồi lâu, người theo Phật hay Đạo thì thắp lên một cây nhang, ngồi trong thời gian một cây nhang, chắp hai tay lại, đặt tự nhiên trước ngực, tín đồ theo Cơ đốc giáo thì có thể không cần thắp nhang, tin Phật thì niệm 4 chữ “A Di Đà Phật”, tin Đạo thì niệm 4 chữ “Dao Trì Thánh Mẫu”, tin Chúa Giêsu thì niệm 4 chữ “ Giê su Cơ đốc”, tuy nhiên cách 5 phút thì phải niệm thêm giúp ngã chân linh thức tỉnh, nhanh giúp ngã chân linh thức tỉnh.
Thứ hai, do bởi linh tính của mỗi người khác nhau, thời gian dài ngắn khác nhau, cho nên sự thức tỉnh của linh cũng dài ngắn khác nhau, có người chỉ cần ngồi một lần thì đã thành công, nhưng cũng có người nhất thiết phải ngồi trên 3 lần. Nếu như có người tu đạo trợ giúp thì tỉ lệ thành công sẽ nhanh hơn, nhưng cũng chớ nên nản lòng. Có một người phụ nữ trên 40 tuổi đã liên tục ngồi đến 7 lần, chứng được Thiên Nhãn thần thông, hiệu quả thật khó mà tưởng tượng.
Thứ ba, đạo lý của khởi linh và đạo lý của tọa thiền cũng tương thông với nhau, hoàn toàn chỉ nói đến một chữ “tâm”, “nhất tâm bất động, chư pháp vô tính, nhân vô tính cố, tất giai thành Phật.” Chớ nên xem thường tĩnh tọa như thế quá đơn giản, ngồi tĩnh tọa, mặc thủ thần cung, đèn tâm điểm sáng, há có mấy đạt đến cảnh giới đó chứ, đại đa số con người đều bận rộn suốt cả cuộc đời, có lúc nào tĩnh tâm lại, ngồi xuống trong khoảng thời gian nửa giờ đồng hồ chứ? Người có thể thật sự tĩnh tâm ngồi trong nửa giờ đồng hồ thì tất không phải là phàm phu rồi.
Thứ tư, xin tất cả những ai muốn học tập cách khởi linh nhất thiết phải lưu ý, vào lúc minh quang phổ chiếu thì cũng là lúc tâm của bản thân đã hoàn toàn tịch diệt bất động, ta đã thật sự tự do tự tại là ta, vạn ban đều bất khởi, ta đã là người chủ trì của tâm tính rồi.
Thứ năm, xin những người tu tập hãy chú ý, phàm là tự tâm hiểu rõ, tính sẽ hóa thiên vạn, tay chân tự nhiên thông thoáng, tay hươ chân nhảy.Tôi không nói rõ ở đây, hãy để hãy để bản thân các bạn tự cảm thấy linh lực tự nhiên đang trào dâng trong cơ thể của các bạn vậy.
Lực lượng của khởi linh, đắc được từ bản thân, nhưng cũng đừng ngại mượn trợ lực từ bên ngoài. Sau khi khởi linh xong cho đến luyện linh thành công là cả một quãng đường dài, đây chính là khởi linh thì dễ nhưng luyện linh thì lại khó. Khi tu tập đến thời khắc sau cùng sẽ nghe thấy tiếng sấm nổ trên không trung, bản thân sẽ bắt chéo hai chân đả tọa, linh sẽ vận đến thiên linh xuất ra khiếu thông, tiếng sấm và linh lực của bản thân sẽ tiếp ứng với nhau, lúc này đây sẽ có tam quang đồng hiện, đã đến thời điểm thoát vỏ phi thăng rồi, nhục thể tuy là vẫn nơi nhà tranh vách đất, tuy nhiên linh đã chu du ra ngoài tứ hải hư không rồi, đây chính là thời khắc tráng lệ vĩ đại vô cùng, chân lý bất sinh diệt cũng chứng được từ đây.
Linh nếu như thức tỉnh lại được thì chỗ ích lợi có nhiều vô kể, hãy nghe tôi kể ra đây.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 - Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Tối hạ thừa là kê đồng
Tôi không phủ nhận là tôi đã từng huấn luyện qua một vài người làm Kê đồng. Chẳng hạn như Kê đồng của Tô Vương gia ở Cảnh Phúc cung, kê đồng Thái tử Nguyên soái của Tam Nguyên đường, kê đồng Cửu Thiên Huyền Nữ ở Bảo Thiên cung, kê đồng Thái Ất chân nhân ở Thái Ất cung, kê đồng Thiên Thượng Thánh mẫu ở Trấn Hải cung, kê đồng Tam sơn quốc vương của Tam Sơn cung, kê đồng Tế Công hoạt phật ở Bát Cảnh cung, kê đồng Quan Âm Bồ tát của Thiên Đức đường, kê đồng Bát Quái Chân nhân ở Tổ Sư đường, kê đồng Lữ Động Tân tổ sư của Trấn Nam cung … tất cả những kê đồng này đều là tôi một tay đào tạo ra.
Gọi là Kê đồng, chính là người lấy thân xác cho quỷ thần nương nhờ, người hiển hiện linh uy của quỷ thần. Tuy chỉ là phương pháp thông linh hạ đẳng, nhưng tính ra cũng là một phần của “Thần toán”, bởi lẽ linh nương vào thân của kê đồng, cũng là để suy đoán tương lai, mệnh vận, sự nghiệp, gia đạo, sức khỏe cho người mà thôi, kê đồng cao minh hơn thì có thể hỏi được chuyện nhân quả của kiếp trước (Thám hoa nghiệp), Quan lạc âm, hỏi chuyện của âm gian. Những suy đoán thật là linh dị vô cùng. Do vậy rất nhiều người mặc dù không tin nhưng lại rất có hứng thú với chuyện kê đồng mượn thân.
Có một số kê đồng mở miệng có thể nói ra được tên họ của người đến, muốn hỏi chuyện gì cũng được, người đến không cần phải nói ra chuyện gì bản thân cần hỏi, về cái chết của người hỏi chuyện đều có thể nói ra rành mạch, chỉ dựa vào mỗi điểm này thôi đã có thể mê hoặc được rất nhiều người rồi. Tuy nhiên cũng có lúc trả lời không chính xác, tôi cũng biết “thần cũng không phải là toàn năng”, thần minh chẳng qua là năng lực cao hơn người phàm một chút mà thôi, đây chính là nguyên nhân mà thần minh không thể tin tưởng hoàn toàn được. “Chức ty của thần minh có chia ra lớn nhỏ khác nhau, năng lực cũng có cao thấp khác nhau, nếu như hỏi chuyện ra ngoài phạm vi năng lực của họ thì thần minh cũng chẳng thể nào làm được.” Theo như tôi được biết, thần linh có nhiều vô cùng, hỏi mười chuyện thì đáp đến 8 chuyện là chuẩn xác, tuy nhiên vẫn có hai chuyện là đáp chưa chuẩn, cho nên cũng không thể ỷ lại hoàn toàn vào thần thánh. Chuyện trong thiên địa, vạn biến vạn hóa, sức của con người luôn có thể thay đổi mệnh vận của bản thân, sức mạnh của thần minh là hữu hạn, cầu phúc cũng được, cầu xin bảo hộ cũng có thể, tuy nhiên không nên toàn tâm toàn lực ỷ lại vào thần linh, nếu như chúng ta hoàn toàn tin vào thần thánh thì chúng ta đã rơi vào cảnh giới mê hoặc vậy.
Ở đây, tôi xin nhấn mạnh thuyết thiên nhân hợp nhất, trời đến giúp chúng ta thì chúng ta cũng cần phải nỗ lực phối hợp với trời, cho dù là trời đã giúp ta nhưng nếu như ta không có chút tinh thần tích cực cầu tiến thì cũng sẽ chẳng có giúp ích được chi cả. Ví dụ như: có người muốn thi đại học, cầu thần lạy Phật, thần Phật cũng hứa sẽ giúp đỡ, tuy nhiên bản thân người đó lại không nỗ lực, vậy thì há có thể thi đỗ đại học chứ? Thi đỗ đại học được mới là chuyện lạ, thần Phật giúp người cốt ở có được sự an tịnh trong tâm hồn, thân thể được mạnh khỏe, đọc sách có thể thông suốt trăm điều, còn nếu như bản thân không cố gắng thì cầu xin thần Phật giúp đỡ cũng chỉ như là bỏ gốc đi mà tìm ngọn vậy, vốn dĩ điểm xuất phát đã có sai lầm rồi. Hiện nay ở nước ngoài gọi là vu thuật phù thủy gì đó, đây chỉ là những pháp sư sử dụng phương thuật mượn linh để trị bệnh mà thôi, kê đồng của nước ta và phù thủy của nước ngoài thực chất khác biệt không lớn, tuy là phương pháp có sai khác nhưng bản chất thật ra cũng chỉ là mượn linh để làm việc, trị bệnh mà thôi.
Bản chất của các kê đồng vốn dĩ không xấu, tuy nhiên đến cuối cùng thì cứ biến đổi dần dần, thay đổi đi tính chất, bị những cám dỗ vật chất trong xã hội làm cho ánh mắt của kê đồng hoang loạn cả lên, thừa cơ hội mà làm tiền những người hỏi chuyện, hầu kiếm được lỳ xì thật cao, vào miếu mua vàng mã cũng đòi tiền, hỏi chuyện cũng phải trả tiền, lạy thần càng phải cần tiền, làm chuyện gì cũng cần tiền. Chữ “tiền” này đã làm cho thần minh chân linh rời khỏi mà tà ma sẽ nhân cơ hồi mà đột nhập vào, rồi từ đó những kẻ “giả tạo thần thánh” đã xuất hiện. Những kê đồng thông thường không có luyện linh cũng chẳng có bản lĩnh để phân biệt chính tà, thiện ác bất phân, trắng đen chẳng tường, rốt cuộc là thần hay là ma, bản thân cũng chẳng thể phan biệt được, đây cũng chính là nỗi đau thương của những “linh mai kê đồng”. Có một kê đồng là người Đại Lâm ở huyện Gia Nghĩa, ông ta đã từng giả truyền ý thần để lừa tiền của các tín đồ, đến nhà của tín đồ ăn uống ngủ nghĩ miễn phí, hơn nữa còn lớn tiếng bảo ở nhà tín đồ này mở tịnh thất tu luyện, kết quả là đã dụ dỗ con gái của tín đồ này, những hành vi lừa tiền gạt sắc này của các Kê đồng thật là một con sâu độc trong giới Kê đồng vậy. Kê đồng này cũng là một trong như học trò của tôi, lúc trước hắn với diện mạo chân thật thành kính đến tìm tôi, tôi nhất thời sơ ý đã bị hắn qua mặt. Thế là sau đó hắn đã mượn dáng vẽ kê đồng gọi hồn để làm ra những chuyện thương thiên hại lý, làm cho thần linh xấu hổ, bôi nhọ thần thánh, thật đúng là kẻ bại hoại của linh giới, một con sâu độc, khả ố vô cùng, sử dụng linh để làm công cụ để lừa gạt chúng sinh.
Sự việc trên sau khi xảy ra thì có một người trung niên với bộ dạng công nhân đã đến tìm tôi nói: “Tiên sinh, nghe nói ông có năng lực biến tôi trở thành kê đồng.”
“Có chuyện gì không?” Tôi không kìm được đã hỏi.
“Tôi rất có hứng thú trở thành một kê đồng, xã hội ngày nay người nhiều việc ít, công việc thật không dễ tìm chút nào, tiền lương mỗi tháng cũng chỉ có vài ngàn mà thôi. Nếu như tôi có thể làm Kê đồng, giúp người ta làm việc thì cũng có thể kiếm được ít tiền, hơn nữa lại được nhiều người kính trọng, đối đãi tôi giống như thần thánh vậy, bản thân cao hứng muốn thế nào thì được thế đó, như vậy há chẳng phải rất thú vị sao? Tôi tin rằng tôi có thể nhanh chóng luyện thành công, tôi rất có lòng tin như thế.”
“Xin lỗi, tôi từ hôm nay đã không nhận chỉ dạy kê đồng nữa rồi.” Tôi nói với vẻ không vui.
“Tại sao thế? Tôi sẽ không đối xử tệ với thầy đâu, mỗi tháng tôi sẽ trả tiền cho thầy mà!” Anh ta lớn tiếng nói không chút ngại ngùng.
“Anh xin hãy thôi đi, người có tâm thuật bất chính làm đồng, tôi đã không thể nào chịu đựng nỗi nữa rồi.”
Người trung niên ấy tựa hồ như không hiểu ý của tôi, lại nói: “Tôi đóng tiền trước nhé, sau này sẽ theo tháng đóng tiếp.”
“Xin lỗi, tôi đã quyết định không đào tạo kê đồng nữa rồi, xin anh hãy về thôi.” Tôi sầu khổ quay mặt đi, liên tiếp xua tay.
Người đó giận dữ bỏ đi.
Với những Linh mai kê đồng bây giờ tôi lại càng thất vọng hơn, bọn họ đã làm mọi người có một quan niệm rằng: “hoàn toàn không có tri thức, mê tín vô tri, chỉ chuyên lừa tiền gạt sắc, là những kẻ giả dạng thần thánh để ăn cơm.” Thương thay, thương thay! Nghiên cứu linh học cho đến nay thật sự là đau lòng quá đỗi, đau lòng quá đỗi đi.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Bí thuật thần toán bốc quẻ
Bát quái là những phù hiệu ghi hình được phát minh từ thời Phục Hy, bát quái chính là Càn, Khôn, Chấn, Tốn, Khảm, Li, Cấn, Đoài. Về sau mới biến hóa thành 64 quẻ, chuyên dùng để bói cát hung họa phúc, chính là khởi nguồn của Hán tự, bên trong lại có biến quẻ, dù là những chuyện đã quyết định nhưng lại vẫn có thể thay đổi. Bát quái có phù hiệu của Bát quái, đó chính là Càn Tam Liên, Đoài Thượng Khuyết, Li Trung Hư, Chấn Ngưỡng Vu, Tốn Hạ Đoản, Khảm Trung Mãn, Cấn Phúc Uyển, Khôn Lục Đoạn. Tượng hình giải là: Thiên, Địa lôi, phong, trạch, thủy, hỏa, sơn.
Trước đây khi Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh truyền thụ pháp bốc quẻ cho tác giả, trước tiên rửa tay sạch sẽ thắp nhang, sau đó niệm “bái thỉnh Bát quái tổ sư gia, Phục Hy, Văn Vương, Chu công, Khổng tử, Ngũ đại thánh hiền, Quỷ cốc tiên sư, Bài quẻ đồng tử, Thành quẻ lang quân, đệ tử Tam Thanh giáo là Liên sinh, hôm nay phụng Tiên Thiên Vô Cực Chánh Pháp cung thỉnh, bẩm truyền Trực Nhật công tào cùng tất cả các thần tiên trong không trung, do gặp chuyện chưa thể quyết được, nay kính cẩn lòng thành xin bốc một quẻ trong tám tám sáu mươi bốn quẻ, cầu xin linh đoán cát hung họa phước.” Dùng ba đồng tiền đặt trong hộp quẻ, lần lượt tung lên không trung, mặt chính là dương, mặt trái thì là âm, trước tiên cầu hạ quẻ, tiếp đó cầu thượng quẻ, thượng hạ hợp lại thì sẽ được một quẻ trong tám tám sáu mươi bốn quẻ.
Cách bói bằng quẻ gạo thì càng đơn giản hơn, đặt một mâm gạo trước mặt Phật, đốt nhang cầu nguyện, dùng hai đầu ngón tay gắp lấy gạo nếu như lấy được một hạt thì tức là quẻ Càn, bốc được 3 hạt tức là quẻ Li, nếu vượt qua 8 hạt, chẳng hạn như là 10 hạt thì lấy trừ cho 8 còn 2, tức là Đoài. Bốc xong lần thứ nhất thì bốc tiếp lần thứ hai, nếu vượt quá 8 hạt thì lại trừ cho 8, lần thứ hai nếu như bốc được 5 hạt tức là quẻ Tốn, rồi sau đó thượng hạ đảo lại, giả định như là lần thứ nhất bốc được 3 hạt, lần thứ hai bốc được 5 hạt thì sẽ trở thành “quẻ Phong Hỏa gia nhân”.
Ngoài ra còn có quẻ cờ, có thể sử dụng cờ tướng hay cờ vây đều được, cách bốc quẻ so với bốc quẻ gạo cũng không có khác biệt nhiều, điểm bất đồng lớn nhất của quẻ cờ là ở cờ tướng, khi lấy cờ tướng ra thì phải căn cứ theo tướng sĩ tượng, xe pháo mã tốt để từ đó suy đoán sự nghiệp, thành bại cát hung. Hiện nay tác giả còn học biết được bốc quẻ đá, quẻ hoa, quẻ sao, bói mộng, đoán chữ v.v…. Tất cả những quẻ bói bên trên và cách bốc quẻ đều là một phần của linh học, gọi là “chiêm”, tức là mời những thần linh ẩn thân trong thế giới hư không đến thi triển pháp lực vô hình, mượn linh cơ nhất điểm để suy đoán tiền đồ trong tương lai, diễn thuật của Bát quái chính là diệu thuật thượng thừa trong Kinh Dịch, thực sự có khả năng suy đoán được những chuyện trong tương lai, không thể nào xem thường được!
Bất luận là bốc quẻ, bói gạo, bói cờ ... đều cần phải lưu ý một vài điều như sau:
Thứ nhất, chọn lựa thời gian. Tác giả biết rất rõ thời khắc lúc cả trời đất đều thanh tịnh, không phải vào lúc giữa trưa, cũng chẳng phải vào giờ Tý nửa đêm mà chính là vào lúc sáng sớm khoảng 4h sáng, lúc này tất cả đều đang chìm trong giấc ngủ say. Những khí ô trọc suốt cả ngày náo động kia vào lúc này đây cũng đã lắng hạ xuống, đến 6h sáng thì phụ nữ trong nhà đã thức dậy nhuốm lửa nấu cháo rồi, khí tanh tưởi kia lại tràn ngập lại trong bầu không khí! Vì thế nhà Phật tụng niệm Lăng Nghiêm kinh đều là vào lúc 4h sáng, 4h sáng sớm này chính la thời khắc tốt nhất để bốc quẻ, là thời khắc cả trời đất đều thanh tịnh, vạn động đều ngừng lại, chỉ còn có ánh sao le lói. Lúc này người bốc quẻ thượng thể thiên tâm, trút hết tất cả các nghi sự trong lòng ra, linh cơ nhất động, vạn pháp quy tâm, cát hung suy đoán, muốn biết được chuyện trên trời dưới đất thì há có khó khăn gì chứ.
Thứ ba, phải lựa chọn địa điểm. Địa điểm bốc quẻ, tốt nhất là ở ngoài trời, nếu trong nhà thì ở phía trước bàn thờ là tốt nhất, nếu như không có bàn thờ thì ở trong thư phòng đối diện với cửa sổ bên ngoài cũng được, tuyệt đối không được ở trong phong ngủ, nhà ăn, nhà vệ sinh.
Thứ tư, về phương diện trình bày. Có một cặp nến, gió lớn cũng không bị tắt; trà thơm chuẩn bị 3 chung, lư hương, tam quả hay ngũ quả đều được, hộp quẻ …
Tác giả có lần theo yêu cầu của một người, bốc giúp xem bệnh tình mẹ của anh ta có thể khỏi được không? Thế là vào ban đêm tôi đã chuẩn bị mọi thứ, đến gần 4h thì đồng hồ báo thức kêu vang, tôi thức dậy, đi ra ngoài phòng, thắp nhang lên và cầu khấn với bề trên, sau đó cắm nhang vào lư hương, vận dụng chân linh trong cơ thể thì phát hiện có một bóng đen đang phủ phục dưới bàn, đột nhiên nhìn thấy tôi giật mình đánh thót, vội hỏi: “Dưới bàn là người nào?”
“Vong nữ là Tưởng Bích Châu.” Tôi vừa nghe thấy là Tưởng Bích Châu, chính là đối tượng mà tôi muốn bốc quẻ tối nay!
“Bà đã chết vào khi nào vậy? Đến đây có chuyện gì?”
“Tối nay vào lúc 2h thì tôi đã tắt thở, thần hồn rời khỏi thân xác, đang lúc vô vô định định thì nghe thấy có người gọi tên tôi cho nên tôi theo tiếng gọi mà tìm đến, nhưng nhìn thấy trên bàn có đặt một cái Bát quái kính, trong kính hào quang tỏa sáng, nên không dám nhìn thẳng, vì thế phải ẩn thân dưới bàn, không biết pháp sư làm sao mà biết được ngày sinh, tên họ của tôi thế?”
“Theo lời yêu cầu của người nhà bà muốn biết tình trạng sức khỏe của bà có thể mạnh khỏe không? Bây giờ thì không cần hỏi nữa rồi, bà mau đi đi! Có lẽ người nhà đang mời tăng đạo đến tụng kinh lễ phật cho bà đấy.”
Vong hồn ấy liền nhẹ nhàng rời khỏi bàn và biến mất ở phía tường vây.
Ngày hôm sau, tôi hỏi người nhà của bà ấy, quả nhiên là bà ấy đã chết lúc 2h sáng, không chút sai lệch nào cả.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh Cơ thần toán)
Phù kê thuật Thiên nhân hợp nhất
Người sống trong tỉnh nhất định sẽ thường xuyên nhìn thấy Thánh giáo ở trong tỉnh, còn gọi là Ân Chủ miếu, Quan đế miếu thờ phượng Quan Phu tử, đa phần đều có biểu diễn phù kê. Kê sinh biểu diễn phù kê một người đơn lẻ có, hai người cũng có. Phía trước mặt kê sinh đặt một mâm cát trắng, kê sinh cầm chặt lấy công cụ viết chữ là gỗ đào hình chữ V trong tay, có một đôi Loan sinh tụng kinh để mời gọi thần linh, thần linh sẽ nương vào trên thanh gỗ đào, kê sinh sẽ dùng tay đặt trên cát trắng viết chữ. Lúc thần tiên giáng hạ thì đại đa số đều khai báo danh tính, rồi sau đó sẽ chỉ bảo sự việc, hoặc là thơ hoặc là từ, có lúc lại là lời nói, vô cùng kỳ quặc. Những Kê sinh và Loan sinh thông thường sẽ rất cung kính với thần linh giáng kê trong thế giới vô hình, lễ tiết gì đều rất chu đáo.
Tác giả đã từng đọc qua một số bài thơ từ phù kê mà ra, trong đó có một vài bài cảm thấy rất hay và đã ghi chép ra nội dung như sau: “Huyền diệu lý tàng nhật nguyệt biên, thiên tâm bất khúc công vô biên, thượng nhân chí thiện liễu nhân quả, đế đức công cao, chính khí miên. Đây là bài thơ do Huyền Thiên Thượng đế giáng hạ: Thiên địa nhân gian tam nhật tài, thượng thương hạ giới âm dương đài, thánh chân tiên phật bằng công đức, mẫu tử nhi tôn nhất hệ tài. Đây là thơ của Thiên Thượng Thánh Mẫu: Phúc tinh củng chiếu dụ nhân thiên, đức hậu công cao tiêu bỉ tiên, chính khí trung tâm vô sai tác, thần chi hà hộ lạc an nhiên. Đây là thơ của Phúc Đức Chính khí thần: Nhân giả lạc vô tai, nghĩa đương hưu luận tài, cổ nhân trọng hô đức, phật tử tòng tây lai. Đây là thơ của Nhân nghĩa cổ phật: Thanh bất nhiễm trần ai, thủy quang minh kính đài, tổ thành thiên thượng Phật, sư trọng thiện căn tài. Trong số đó có một bài phú của Tế Công Hoạt phật, nghe thật giống một câu chuyện: “đầu đội mũ bẹp, quần áo vá trăm mảnh, dáng hình nhếch nhác vô cùng, lúc say lúc đảo, phải hồ lô trái thì quạt rách, nhìn trước trông sau, đường trần trăm nẻo, hành tẩu khắp nơi, cứu độ phàm nhân, hóa giải phiền não thế nhân, nói rằng ta đây lưu luyến, xin đừng trách giả điên, thân có say sưa nhưng lòng không để ý, trên đường bán quan huyền, hang cùng ngõ tận đều đi khắp, không ngại gian khó, chỉ một con đường Linh sơn, tam bảo ca rằng có duyên, mãi mãi đại đạo miễn luân hồi, tiêu dao tự tại thiên ngoại thiên.”
Nhưng cũng có thần linh giáng hạ để chỉ thị chúng sinh: “Chúng nhân chớ có sân si, mỗi người nên giữ trên dưới, ngồi đi đều nên quy cũ, nói chuyện phải nhỏ nhẹ, đi đứng không quanh quẹo, vào giới phải tuân thủ chặt chẽ, gặp người trên phải hữu lễ, sai tạp chớ nên phạm phải, nghe kinh giảng thuyết pháp, khi giữ chớ diên trì.”
Thơ từ do các phù kê giáng hạ, có bài thì cấu tứ rất tốt, nhưng cũng có bài lại rất sơ sài cẩu thả, điều kỳ quái hơn nữa là bản thân của kê sinh vốn không biết Anh văn hay Nhật văn, không hiểu 希伯來, lạ có một điều là ngay cả Cơ Đốc Giê su cũng biết giáng kê, Thiên Chiếu Đai thần của Nhật bản cũng viết thơ Nhật Bản, điều này bên trong nhất định có chổ kỳ diệu của nó, nếu không thì làm sao những kê sinh với trình độ tri thức không cao lại có thể bỗng nhiên lại biết thi biết phú chứ. Khoảng chừng 10 năm trước, tôi ở Tổ Sư miếu ở Cao Hùng có gặp người biểu diễn phù kê. Tay phù kê đó hai tay rung động, hươ cả trên dưới, từng chữ từng chữ viết ra, nhanh chóng vô cùng không chút sai sót, tư tưởng có mẫn tiệp thế nào thì cũng đến thế mà thôi, một tay viết chữ trên cát, long phi phụng vũ như thế, quả thật chẳng đơn giản chút nào! Lúc đó tôi không có tin tưởng phù kê, nhưng nhìn những người ấy thành kính vô cùng, cũng không giống là diễn kịch gạt người.
Ngày nay tôi biết được phù kê cũng là một dạng của thần toán, quý độc giả chớ nên cảm thấy kỳ lạ, gọi là phù kê chẳng qua chỉ là một phương pháp mời gọi thần linh trong hư không vô hình giáng bút chỉ thị sự việc mà thôi, lấy thanh gỗ đào làm bút, viết chữ thay vì lời nói, xua cái ác mà hoằng dương cái thiện, tạo ra sự giao tiếp giữa người và thần. Ở Đài Trung tôi đã xem qua phù kê ở Thánh Hiền đường, Thánh Minh cung, Tỉnh Tu cung, phù kê ở Huệ Đức cung Thảo Đồn tôi cũng đã xem qua, cả Kê sinh và Loan sinh đều mặc trường bào, những phù kê nổi tiếng có Viên Lâm Khuyến Hóa đường, Bành Hồ Tín Thiện đường v.v… Thuật Phù kê vốn đã có từ rất lâu đời ở Trung Quốc đại lục rồi, linh và không linh mỗi người đều có nói từ. Đa phần các kê sinh và các Loan sinh đều đem Khổng Tử, Lão tử, Thích Ca, tam giáo đều hợp lại thành một để nói. Quy luật của Loan đường rất là nghiêm ngặt, các Loan sinh nếu như có làm sai có khi bị phạt quỳ trong thời gian một nén nhang, rất nhiều kinh điển đạo giáo không phải là do Tổ sư đạo giáo truyền thụ mà được thông qua các chữ viết trên thanh gỗ đào để biên tập thành kinh điển, những loại kinh điển này hiện nay rất phổ biến.
Các bạn nói không tin nhưng lại có chuyện rất trùng hợp xảy ra. Chuyện này đích thân tôi đã trải qua, có một lần nọ tôi đến Đài Bắc, phong cảnh nối liền một dãy xinh đẹp vô cùng, nhìn phía trước thấy có một ngôi chùa có treo một tấm biển, bên trên có viết “Tam Giáo Tổng đàn”. Tôi liền mạnh dạn bước vào, lúc đó tôi đã có thói quen gặp chùa miếu đều vào lễ bái, trong miếu các loan sinh đang rất bận rộn, có người lo việc dâng trà thơm, có người tụng kinh, có người thì làm phù kê, lại có xướng tự nữa, tuy là đều rất bận rộn nhưng lại vô cùng yên lặng, bên trong cũng đang có rất nhiều tín đồ, đa phần là đều đến hỏi chuyện, xin chỉ điểm.
Lúc này đây bỗng nhiên cây gỗ đào dừng lại nửa chừng không, liên tiếp múa lên, các loan sinh đều không biết nguyên cớ vì sao? Có một vài người liền quỳ xuống cầu xin chỉ thị, tiếp đó thanh gỗ đào lại điểm xuống hai lượt, rồi viết lên cát dòng chữ lớn: “Hôm nay có Liên sinh là đệ tử của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh ở Lôi Tạng tự Từ Huệ đường Đài Trung đến đây, Liên sinh đã thông khiếu, hôm nay đã đến đây nên lấy lễ để nghênh đón.” Các loan sinh thấy thế liền vội hỏi: Liên sinh ở Lôi tạng tự Từ Huệ đường Đài Trung là vị nào thế? Mọi người đều nhìn nhau, tôi nghe thấy gọi tên mình cũng giật mình, tôi bèn nói với người hỏi: Chính là tôi đây. Trụ trì của Tam Giáo Tổng đàn rất khách khí mời tôi ngồi, dâng trà thơm lên, làm tôi cảm thấy rất ái ngại, tín đồ lúc đó rất đông, nhưng duy chỉ có tôi là được tiếp đãi đặc biệt như thế, cảm thấy rất ngại ngùng.
“Tiên sinh là Liên sinh ở Lôi Tạng tự Từ Huệ đường Đài Trung à? Đệ tử của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh?” Trụ trì hỏi tôi.
“Đúng vậy.”
“Vậy chủ thần ở chùa của tiên sinh trụ trì ắt là Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh rồi?”
“Điều này thì không phải, chủ thần là Vô cực Dao Trì Thánh Mẫu Thiên tôn, Bản Sư Thích Ca Mâu ni phật, U linh Giáo chủ Địa Tạng Vương Bồ tát.”
“Ô! Thế Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh là thần thánh nào thế? Vì sao mà tôi theo thần thánh bao lâu nay vẫn chưa từng nghe qua thế?” Trụ trì lại hỏi tiếp.
“Nói thật ra thì ngay cả bản thân tôi cũng không rõ nữa, chỉ biết là Thánh linh của Vô sắc giới mà thôi.” Tôi thành thật nói ra tôi cũng không biết, tiếp đó tôi lại hỏi: “Vừa rồi vị thần thánh mới giáng kê đó đã biết ân sư, như vậy nhất định là biết được lai lịch của ân sư rồi, hay là chúng ta hãy thử hỏi xem sao.”
Thần thánh giáng kê là Lư Sơn Đạo Viện Hứa Chân quân, tương truyền là sư phụ của Lâm Thủy Phu nhân Trần Tĩnh Cô, tôi thắp nhang cầu nguyện xong, Hứa Chân Quân giáng chữ trên mâm cát như sau: “sáng sớm dạo bước Kim Liên trì, cửu phẩm Liên hoa sinh, thần thông quán thiên địa, linh khí khắp cửu châu, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh chính là Bất sinh bất diệt vô câu vô thúc Vô thượng Tiêu dao chí tôn, chưa được Ngọc đế phong thần, đức sánh ngang trời đất, ẩn thân nơi sa trần trời xanh, xuyên núi xuyên hồ, vô hình vô ảnh, đạo pháp vô cùng, ngay cả Hứa Chân Quân ta cũng chẳng biết được lai lịch thật sự của vị này nữa, ngay cả đến Ngũ lão tôn giả của Đạo giáo là Đông Hoa đế quân, Dao Trì Thánh Mẫu, Huỳnh Lão, Thủy Tinh tử, Hỏa Tinh tử khi gặp mặt cũng phải lễ độ ba phần. Ây! Tu đạo cốt chỉ cầu đạo quả, hành đạo tại tâm, thành đạo cũng tại tâm, trong bùn sinh hoa sen, khổ tu mới là nhân thượng nhân.”
Trụ trì Tam Giáo Tổng đàn nói: “Ui cha! Thì ra lai lịch của thầy tiên sinh lại vĩ đại thế, vậy ông là học trò của ngài ấy nhất định cũng rất là bất phàm rồi.”
“Không dám, không dám, tiểu sinh thật sự chẳng biết gì cả, chỉ biết lễ Phật tọa thiền mà thôi.”
Tôi ở Tam Giáo tổng đàn nhìn các Kê sinh đang nâng bút, những Loan sinh đều dùng ánh mắt kỳ dị nhìn tôi, khu vực gần kê bàn vốn dĩ không dành cho những người bàng quan vô sự, tuy nhiên Lư Sơn phái Hứa Chân Quân lại kêu tôi đến bên Thiên bàn nói rằng: “Âm khí chưa trừ chướng ngại vẫn còn nhiều, tu dưỡng ngày sau chú ý bồi dưỡng thiện công cao, tam tào phổ độ ứng vào thiên vận, giác ngộ đạo lý, tìm tòi lẽ chân chớ nên lười biếng.” Lại bảo rằng: “Đại đức công cao nên cần phòng ma, tâm kiên định bất biến hiển thần quang, do bởi chính tà là do tâm biện giải, liên hoa chuyển thế đời đời.”
Khi tôi rời khỏi Tam Liên Giáo thì có một người đuổi theo, thở hồng hộc nói: “Tiên sinh, xin đợi một chút.” Anh ta nói: “Hiện giờ tôi vâng mệnh tọa cấm (quan), ý của đạo tổ muốn sau 49 ngày sẽ huấn luyện tôi trở thành Kê sinh, nhưng tôi ban ngày thì tụng kinh, ban đêm thì đả tọa, từ ngày thứ nhất đến ngày thứ sáu cũng không có cảm ứng gì. Đến ngày thứ bảy, lúc tôi vừa mới đả tọa thì mơ hồ nhìn thấy ở cửa có một vị Kim Giáp Thần, tôi nhìn về phía sau thì thấy có một người là tôi nữa, phía trước cũng có một người là tôi, bên trái cũng có một người, bên phải cũng có một người, còn tôi thì đang đứng giữa trung tâm, trên không trung có tiếng người hỏi tôi, ai là tôi? Tôi trả lời không biết. Kết quả là ngày hôm sau, đạo tổ truyền chỉ thị, tôi không đủ tiêu chuẩn để làm kê sinh, nên mở quan thả ra, hiện giờ tôi chỉ có thể làm Loan sinh, xin hỏi tiên sinh, tôi đã sai ở chổ nào?”
Tôi nói với anh ta bằng một câu nói trong Tâm Đăng Lục: “Rời ngã biết ngã là sơ yếu, do ngã mà gia dĩ dùng ngã là trung yếu, lấy ngã bảo ngã, tức có tưởng tượng quang ảnh, lòng nghĩ muốn rời bỏ, rời bỏ mà không quên thượng yếu. Anh có hiểu lời của tôi không?”
Anh ta gật gật đầu, vui mừng liền nói: “Thì ra là thế, thì ra là thế.”
Theo như tôi được biết, làm Liên sinh thì những người thông thường đều có thể làm được, chỉ cần có lòng mộ đạo là có thể tham gia được. Tuy nhiên Kê sinh thì phải được huấn luyện từ Loan sinh, nhân quả kiếp trước của kê sinh tất nhiên là rất tốt, hướng đạo tâm kiên, trí tuệ tương đối cao, hơn nữa quan trọng hơn hết chính là linh trong cơ thể phải hoạt bát, sáng suốt, đây chính là điều kiện quan trọng nhất của kê sinh phù kê, linh trong không trung phải mượn linh của thế giới hữu hình mới có thể biểu hiện ra được, đây chính là đạo lý mượn vật dùng vật , cho nên tôi nói đây chính là một phương pháp Thiên Nhân hợp nhất, đây là hoàn toàn có thật, không phải giả dối. Còn về tính chính xác thì lại là một phương diện khác, nhưng chuyện linh ẩn nương vào thanh gỗ đào là hoàn toàn xác thực.
Nhà Phật thì không tin Kê đồng, bốc quẻ, phù kê, nhưng cũng không phản đối rõ rệt, phật thì thuận theo tự nhiên. Thật ra thì Đạo cũng thuận theo tự nhiên, tuy nhiên nếu có những biểu hiện quá tĩnh mịch, không có linh dị thì làm sao có thế hấp dẫn chúng sinh hướng Phật, hướng Đạo chứ?
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về linh cơ thần toán)
Truyền kỳ về Lộ thủy hình nộm
Những nhà bói toán dựa vào gì để có thể suy đoán mệnh vận cho người? Có vài người thì thông qua xem chỉ tay, xem tướng hay sờ xương cốt, cũng có một số người thì vận dụng đạo cụ như bốc quẻ, xem bài, xem tướng tinh…, ở nước ngoài thì có người xem quả cầu thủy tinh, có người bói Tây, cũng có người xem tướng mệnh bằng triết học. Trong số đó có loại tướng thuật mà tôi cho rằng rất thần kỳ và linh nghiệm, đó chính là đoán mệnh bằng Lộ thủy hình nộm.
Hiện nay có tất cả bao nhiêu người biết dùng Lộ thủy hình nộm? Xin thứ cho tôi vẫn chưa thể thống kê hết được. Tôi thật sự đã gặp qua một thầy bói toán hai mắt nhắm chặt, ông ta không cần xem chỉ tay, cũng chẳng cần xem tướng, trong miệng chỉ lẩm bẩm những kinh văn gì đó mà chúng ta không hiểu được, thầy bói toán thắp lấy một cây nhang trên bàn thờ thần, bàn thờ ấy dùng vải đỏ hay vải vàng quấn chặt lại không nhìn biết được là vật gì cả, bạn nói ra họ tên, chổ ở, ngày tháng năm sinh, lúc đó thầy bói toán lập tức sẽ có thể nói ra bạn có bao nhiêu anh chị em, bạn đứng thứ mấy, hiện đang làm nghề nghiệp gì, hôm trước bạn đã làm chuyện gì, bạn đang làm việc ở đâu, trong lòng bạn hiện đang có những nghi nan gì, từ khi bạn sinh ra đến nay đã xảy ra những chuyện lớn gì, tất cả đều có thể tính ra được, những năng lực này khiến người đi xem bói phải trợn mắt há hốc cả ra.
Tiếp theo sau, thầy bói sẽ nói về tương lai của bạn, làm nghề gì sẽ thành công, tiền đồ thăng quan phát tài, có những kiếp nạn gì không? Vận thành công như thế nào? Vận gia đình ra sao? Có một vài thấy bói Lộ Thủy hình nôm càng giỏi hơn, người xem chưa nói ra họ tên chổ ở thì ông ta đã đưa cho một tờ giấy, bên trên viết rõ bạn tên là gì? Bao nhiêu tuổi? Làm nghề gì? Làm bạn vừa nhìn đã khâm phục vô cùng, sau đó thầy bói toán sẽ mở miệng nói: “Giá tiền xem bói cũng có chia ra, người phú quý thì sẽ lấy tiền nhiều, còn người nghèo khó thì lấy ít đi, tôi xem mệnh của tiên sinh đây phú quy` trên thiên vạn, do vậy bói một mệnh phải là 3000, không biết ngài có bằng lòng chăng?” Thông thường thì những ai đi xem bói mà gặp được những thầy bói chưa bốc đã biết như thế đều rất tâm phục khẩu phục, lập tức ngoan ngoãn móc hầu bao.
Bói toán bằng Lộ Thủy hình nộm, đoán quá khứ thì chuẩn xác vô cùng, tuy nhiên nếu đoán tương lai thì không nhất định, tôi viết truyện này không phải cốt ý chê bai gì Lộ Thủy hình nộm, mà vì bói toán bằng Lộ Thủy hình nộm cũng chính là một phần của Linh cơ thần toán, cho nên không thể nào không công khai bí mật bên trong được, bài viết này chính là một báo cáo bí mật cả ngàn năm mới gặp được, cam đoan rằng trước đây chưa từng có.
Sử dụng Lộ Thủy hình nộm để suy đoán mệnh vận cho người trước tiên cần thờ phượng một pho Lộ Thủy hình nộm, vì sao lại gọi là Lộ Thủy hình nộm, bởi vì mỗi buổi sáng sớm đều phải đặt hình nộm ngoài trời để hứng lấy khí của sương mai, trước khi mặt trời mọc lên, phải thỉnh hình nộm ra ngoài, đến trước khi mặt trời chuẩn bị mọc phải thỉnh trở lại vào phòng. Do bởi hình nộm này ngấm lấy khí của sương mai cho nên gọi là “Lộ thủy hình nộm”, rất nhiều người biết trò này nhưng làm không biết cách tiến hành ra sao. Hãy nghe tôi thuật lại tỉ mĩ như sau:
Phàm là những người luyện “Lộ Thủy hình nộm” cần phải chọn lựa ngày lành, lấy một đoạn cây liễu bên bờ sông nước chảy về Đông, nhờ thợ mộc đẽo thành hình nộm, dài 2 tấc 6 phân để chỉ âm số, mắt mày cần phải rõ ràng, thất khiếu linh lung, tả thủ khắc dương ấn, hữu thủ khắc âm phù, đầu búi hai búi tóc, dáng vẻ như đồng tử, trên thân vận nhiễu y, dùng chu sa, sữa của phụ nữ phối hợp với nhau viết lên tâm, can, tỳ, phế ở trên giấy vàng, móc lấy một cái lỗ ở trung tâm của hình nộm, cuộn lại nhét vào trong bụng, sau đó lại dùng máu mào gà hoặc là máu rùa trét lên trên miệng của hình nộm, chờ đợi nhà hàng xóm, kế bên hay biết chắc có đồng tử nào chết sớm thì lấy ngày giờ chết của đồng tử này viết lên trên giấy vàng, dán vào phía sau của hình nộm, đợi ngày Giáp Tý Canh Thân Mậu thì cúng luyện trong tịnh thất, dùng gà ác, cá khô, hương quả để cúng. Vào sáng sớm mỗi ngày đều niệm 1 lần Tam Chú, kế đó niệm 49 lần Truy Hồn Hiện Hình chú, sau đó sẽ đốt một đạo phù, lễ bái với hình nộm, chẳng những vào buổi sáng phải làm như thế mà vào buổi trưa và buổi tối cũng phải theo lễ mà làm. Sau 21 ngày, cho đến khi hai lá cờ vàng treo bỗng nhiên hợp lại rồi lại tách ra thì đến bước này mới có thể xem là sắp thành công, lúc đó hồn phách của đồng tử chết kia mới nhập vào gỗ liễu! Sau đó 35 tiếp theo, khi tiểu đồng kia có thể hiện hình thì mới được xem là đại công cáo thành. Trong thời gian cúng luyện nhất thiết không để chó mèo, sản phụ, hiếu tử tiếp cận.
Truy Hồn Hiện hình chú như sau: “Hồn linh liễu linh, cửu khiếu đều thông suốt, ngoài có tứ tượng, trong có ngũ hành, ta là nhân đạo, người là mộc tinh, nay ta vâng sắc lệnh Ngọc đế cùng thông linh với người, sớm hiện chân hình, theo cùng tiếng hô của ta ủng hộ hình ta, rước thiện tống lộc, gặp ác trợ binh, hoặc lấy tài bảo, hoặc nhiếp hương canh, bệnh đến bệnh đi, chớ nên chậm trễ, tại gia xuất gia, đêm ngày tương thân, ngàn người khó gặp, vạn người khó tìm, chỗ nơi ta ở, tả hữu truy tầm, báo lên cát hung, đoán họa phúc của người, tốc tốc làm ngay. Ta phụng Đông Nhạc Đại đế quân….lịnh cương.”
Nếu như phương pháp này luyện thành công thì xem như có hồn linh của tiểu đồng theo sát bên thầy bói toán, lực lượng của linh giới có thể biết được quá khứ của người, bạn chưa bước vào cửa thì đồng linh sớm đã điều tra biết thân thế của bạn rõ ràng, trong khoảng thời gian một cây nhang, bệnh đến bệnh đi, suy đoán quá khứ của bản chính xác vô cùng. Lễ bái đối với linh đồng chỉ cần có nhang, trà, quả, đồ chay một mâm là được, buổi sáng mỗi ngày thấm lấy linh khí của sương trời để nuôi dưỡng âm linh, mượn linh để đoán mệnh, tiền tài cuồn cuộn đến. Tuy nhiên phải yêu cầu bản thân của người thầy đoán mệnh phải có được linh thể, chỉ khi có linh thể mới hiểu được linh đồng nói gì về bạn?
Linh pháp Lộ Thủy hình nộm cũng cần dùng giấy vàng, bịt kín lấy lỗ mũi của đồng tử thông minh lanh lợi vừa mới chết đi, trên giấy vàng viết ra ngày giờ chết của tiểu đồng. Cũng như hình nộm tiểu đồng bằng gỗ liễu chế tạo trước đây, lấy giấy vàng cuộn lại nhét vào trong gỗ, cách cúng luyện cũng là 21 ngày đến 35 ngày. Linh dị uy lực lớn vô cùng, thầy bói toán đoán mệnh nào có thể luyện được “Lộ Thủy Hình nộm” thì danh tiếng bói toán của họ sẽ nổi như cồn, mở miệng đoán trúng chuyện người há phải là chuyện khó khăn gì?
Ở Bảo đảo có một vị tiên đoán mệnh danh tiếng mọi người đều biết, đoán trúng đến có thể cưới được một vợ, hai lẻ, nhà cửa tiền tài vô kể, ra vào đều dùng xe con riêng để đi lại. Nhìn chung bói toán cũng là một ngành nghề do đó Cục Thuế vụ đã đặc biệt cử một nhân viên đến thu thuế của ông ta, bên hợp tác xã cũng cử một nhân viên đến mỗi ngày giúp anh ta thu giữ tiền bạc, thật sự tiền tài như sóng cuộn cuộn đến vậy. Căn cứ theo sự điều tra của tác giả thì vị tiên đoán mệnh ở trên khi còn học tiểu học thì bỗng nhiên gặp cảnh báo có không kích (Đài Loan thời máy bay Mỹ không kích quân Nhật chiếm đóng), thế là trường học ngừng dạy, vị tiên đoán mệnh này theo đường nhỏ trở về nhà, ven bên đường đất hoang dã, ông ta nhìn thấy xác một bé gái nhỏ chết bên khe nước, nhìn cảnh tượng thê thảm vô cùng, ông ta lúc đó trong lòng cảm thấy bất nhẫn nên đã nhặt lấy manh chiếu rách đắp lên thân thể của bé gái kia, rồi sau đó đi về nhà.
Không ngờ rằng tối hôm đó thân thể của ông ta lúc nóng lúc lạnh, giống như phát bạo bệnh vậy. Cũng do cơn bệnh này mà hai mắt của ông tiên đoán mệnh này dần dần mất đi ánh sáng, rồi sau cùng bị mù luôn, tay cũng có đôi chút run rẩy, lúc đó ông ta đã bắt đầu bói toán và đoán mệnh cho làng xóm xung quanh, nói ra cũng thật kỳ quái, hoàn toàn chính xác, do vậy danh tiếng ngày càng truyền xa, đến khi trưởng thành thì ông ta đã danh chính ngôn thuận xem bói cho mọi người, giọng nói của ông ta khi bói toán nhanh và có chút hơi run rẩy, hơn nữa không vẻ gì là trầm ngâm suy nghĩ cả, tay ông ta khẽ run rẩy lắc qua lắc lại. Người ở khắp nơi trong tỉnh đến xem bói giống như cá qua sông vậy, ai nấy đều phải xếp hàng lấy số thứ tự, những lúc quá đông còn phải ở khách sạn để chờ đợi, hơn nữa còn phải đợi đến ba ngày mới đến lượt.
Ông ta có thể bói toán từ trẻ nhỏ cho đến người già, đoán về chuyện quá khứ, thật khiến người ta tấm tắc khen ngợi, bởi vì không có chuyện gì mà nói ra không đúng cả, về tương lai tuy không biết là có chuẩn xác hay không? Nhưng trước mắt có thể đoán được như thế thì đủ để thu hút đến mê hoặc mọi người rồi. Tác giả cũng có một lần đi qua nơi này nên tiện thể cũng đi xem ông ta bói toán, lúc đó là lúc ông ta đang có rất đông khách, người chờ đợi để xem bói đông vô kể, kẻ đứng người ngồi, khi tôi đi vào thì cảm thấy nơi đây từng trận trận âm khí, đây là một loại tác dụng phản xạ rất rõ ràng của những người có “hoạt linh”, tôi nghi ngờ ông tiên đoán mệnh này sử dụng thuật “Âm hồn báo thiên lý”, thế là tôi chú ý đến cách bày xếp trong nhà, ở nội đường có một thần án, trên thần án có thờ cúng một vật được bao bọc lại bằng vải vải, chẳng biết đó là vật chi? Trên bàn hương khói suốt ngày không dứt, bên phải là linh vị của tổ tiên, nhưng lại không có thần vị! Tôi chăm chú nhìn vào trong thì nhìn thấy nhìn thấy một quang cảnh mờ ảo, có rất nhiều con nít chạy ra vào không ngớt, một chốc lại chạy ra ngoài, một chốc lại chạy vào trong, chạy đến bên tai của ông thầy bói toán kia nói thầm bên tai, giọng nói của trẻ con vang lên không dứt, tay của ông thầy bói toán cứ run rẩy không dứt, miệng cũng nói không dừng, tôi cuối cùng cũng đã hiểu, thì ra ông thấy bói toán này sử dụng bí thuật “Linh đồng báo thiên lý”, loại bí thuật này chỉ có những người thật sự hiểu rõ mới có thể nhìn ra được, người bình thường chỉ biết là bói rất chuẩn nhưng lại không biết là vì sao, thậm chí còn cho rằng ông thấy bói mù kia là nhân vật bán tiên là một thần tiên nào đấy nữa!
Theo như tôi được biết thì ông thấy bói mù kia bản lĩnh tự nhiên cao thâm là có được từ sự báo ân của nữ âm hồn, nữ âm hồn đêm đó đã giúp ông thầy bói toán ấy luyện thành linh thể, hơn nữa lại theo bên người ông ta, mượn vào phụ thể của ông thầy bói toán đó để sinh tồn, tuy nhiên ông ta lại không có cách nào để vận linh, mắt bị mù chính là hậu quả của việc không thể vận dụng linh, về sau nữ âm linh chủ động kêu gọi linh đồng, giúp ông ta làm việc, cũng xem như là bán mạng giúp ông ta kiếm tiền vậy, đây cũng chính là nhân quả báo ứng của ông thầy bói toán này.
Trong số những người mà tác giả quen biết, có thanh niên họ Huỳnh, linh khiếu đặc biệt nhanh nhạy, đã từng nhận một ông thầy bói bài làm thầy, anh ta từng nói qua với tôi là ông thầy bói mù kia ắt là có gì cổ quái đó.
Tôi bảo: “Người quân tử không chặn đường tài lộ của người, hà tất phải đố kỵ chứ!”
Anh ta nói: “Mượn âm linh là bàng môn tả đạo, căn bản vốn không phải là cách kiếm tiền chân chính, tôi quyết phải đi phá ông ta mới được.”
“Hà tất phải thế chứ! Thế anh chuẩn bị dùng pháp gì để phá linh đồng của ông ta?”
“Tôi đến miếu Bách Tính công ở Vụ Phong, xin mượn dùng 12 cây nhanh dùng Chiêu Thỉnh Âm Hồn chú, đốt nhang thành tro, rồi sau đó đem đến chổ ông ta, nhân lúc mọi người không chú ý rãi tro ấy vào trong lư hương, lúc đó linh đồng của ông ta và Âm hồn của tôi sẽ đấu pháp, khi Âm hồn của tôi thắng được thì tất nhiên ông ta sẽ bị loạn cả lên và từ đó sẽ bói không chính xác nữa. Ha ha…!”
“Đợi đã, anh làm sao mà biết được Âm hồn của anh sẽ thắng được Linh đồng chứ?” Tôi hỏi.
“Lư Thắng Ngạn, anh là cao thủ mà, tôi dùng Ngũ Quỷ Hỗn Thiên Pháp, dùng 5 cái đầu lâu được thu lại vào canh 5, ngày Ngũ Quý, bên trên có viết họ tên của Ngũ quỷ, mỗi lần qua ngày quý sẽ đốt một đạo phù lịnh và cúng tế dưới bàn thờ Lục Giáp Thần, chân đạp hai chữ Khôi Cương, tả thủ lôi ấn, hữu thủ kiếm quyết, hớp lấy 5 ngụm Ngũ phương chân chí, niệm Hỗn Thiên chú 7 lần, đốt 5 đạo Ngũ quỷ phù, sau đó dùng giấy vàng và 12 cây nhang của âm hồn Bách tính công cùng hóa chung, bỏ vào trong lư hương của tên thầy bói kia, làm thế nào mà không thắng chứ?”
“Chiêu này quả nhiên tuyệt diệu, nhưng mà anh phá đi linh đồng không phải cũng làm tổn đi đức hạnh của mình sao?”
“Không thể lo nhiều như thế được, ông ta kiếm tiền đã kiếm cũng đủ rồi, đây chính là thế thiên hành đạo, để tránh cho hắn kiêu quá thôi!” Anh chàng họ Huỳnh này đúng là thanh niên khí thịnh vậy, anh ta cảm thấy bản thân có bản lĩnh, chỉ cần thấy gì không thuận mắt thì sẽ xốc tay vào để quản, tính tôi thì trung hậu, tuy là biết rõ có người dùng tà pháp, tuy nhiên cũng chỉ mắt nhắm mắt mở mà thôi. Cũng như ở Thánh đế miếu có một kê đồng hỏi chuyện cũng sử dụng “Lộ Thủy hình nộm” làm pháp bảo, chuyện này cũng chỉ có mình tôi biết, nhưng tôi cũng không có nói ra.
Chàng thanh niên họ Huỳnh trên quả nhiên phá được thuật linh đồng của ông thầy bói mù, từ đó thuật bói toán của ông ta không còn linh nghiệm nữa, ngày nay thì danh tiếng đã không còn được như xưa nữa, kiếm tiền cũng đã ít đi, dần dần khách đến xem cũng vắng đi, thật là tội nghiệp thay!
Tôi nghe nói có người nói: “ông ta đã đi xuống dốc rồi, xem bói cũng có thời vận xem bói mà.”
Có người nói: “Làm thế nào ấy nhỉ, chỉ toàn là nói lung tung thôi, chẳng có chuyện nào chuẩn xác cả.”
Lại có người nói: “Tiền kiếm cũng đủ rồi, nên nghỉ ngơi thôi.”
Mọi người đều không biết tại sao, chỉ có mỗi mình tôi thấu hiểu sự tình.
Tam Sơn Cửu hầu tiên sinh từng nói qua với tôi: “Tam Hoàng, Phục Nghi, Thần Nông, Hoàng đế, Chu Dịch Văn vương, Chu công, Đại thánh Khổng tử, Thánh Nhân Võ lược Thành Vương, Quỷ Cốc Tiên sư, Huỳnh Thạch công, Tôn Võ tử tiên sinh, Viên Thiên Cương, Lý Thuần Phong tiên, Trương Tử Phòng, Tôn Tẫn tiên sinh, Thanh Ngưu Cao sĩ Đông Phương Sóc, Ma Y Quách Phác, Lâm Linh Tố, Đông Hoa Đế quân, Thiệu Khang Tiết, Ôn Châu Lư tiên sinh, Y Xuyên Trình tiên sinh, Lục Đinh Nhĩ báo pháp truyền trước truyền sau của những vị này là tương đối chính phái, còn Âm Linh nhĩ báo pháp là tà phái, Liên sinh ngươi phải nhớ kỹ, nhớ kỹ lấy.
Thông linh thần toán kiêm đàm tâm thông
Trong sách Diễn Nghĩa thời cô đại và trong các điển tịch của Đạo gia thường nhắc đến “tâm huyết lai hồ”, bốn chữ này cũng giống như linh cảm thứ 6 tự nhiên mà đến vậy. Tuy nhiên, tôi cho rằng, đó không phải là “Tâm huyết lai hồ”, cũng không phải là “giác quan thứ sáu”, mà chính là “cảm ứng linh mẫn” đặc biệt có ở “Linh”. Linh nếu như đã được thức tỉnh thì không những có thể cảm ứng được linh lực của thế giới hư không, mà thậm chí còn cảm ứng được linh lực của bạn bè thân thích nữa, tần số truyền ra khi bạn bè gặp nạn cũng có thể đột nhiên cảm nhận được, điều này xem ra rất thần kỳ phải không, nhưng lại được xem một vấn đè khác.
Tác giả phát hiện trong không trung tồn tại hai loại lực lượng, một lực lượng là niệm lực, còn một loại là linh lực. Căn cứ theo lực lượng của bản thân chúng ta và thế giới bên ngoài để chia ra thì một loại gọi là Tự lực còn một loại là Tha lực. Niệm lực thì luôn là do tự lực sinh ra, do niệm lực tiếp nhận được linh lực (tự lực) của bản thân để sau đó tự lực và tha lực giao thông lẫn nhau, sản sinh ra một ý niệm mới, ý niệm này có thể xem là kết quả của “tâm thông”, tuy tôi viết ra đây có vẽ như là rất phức tạp, nhưng sự việc phát sinh chỉ là trong nháy mắt mà thôi, giống như là điện xẹt vậy, vừa ấn vào công tắc điện thì đèn đã sáng lên trong vòng một giây vậy.
Gọi là niệm lực, tôi cảm giác giống như là công tác điện của máy cassette vậy, chúng ta nghĩ thầm đến một chuyện nào đó, tập trung lực lượng tinh thần lại, kết quả là có được hiệu quả suy đoán đúng như chúng ta mong muốn, hơn nữa nếu niệm lực mạnh hơn thì các phản ứng tiếp nhận sẽ càng mạnh hơn mấy lần. Trước đây có người dùng niệm lực thí nghiệm, phát hiện ra tập trung niệm lực của nhiều người lại để cầu nguyện thì vấn đề khó khăn đến mấy cũng có thể giải quyết, hơn nữa sẽ có những kỳ tích bất ngờ xuất hiện. Cũng có người tay nắm tay, mọi người tập trung ý niệm trong đầu cùng muốn tờ giấy trước mặt nhẹ nhàng bay lên, kỳ lạ thay, tờ giấy kia thật sự bay lên thật. Loại lực lượng này giống như là ma sát sinh ra điện vậy, điện có thể hút các hoa giấy nhỏ bay lên đầy trời vậy, cho thấy điều này không phải hoàn toàn là vô căn cứ.
Tôi nói, do niệm lực thúc giục linh lực nảy sinh ra sự giao thông với thế giới bên ngoài, loại bản lĩnh dự đoán được tương lai này chính là “Thông linh thần toán”. Trong cõi mênh mông kia, có tồn tại một linh lực sung mãn trong khắp cả vũ trụ, chỉ cần người có “hoạt linh” muốn biết chuyện gì nêu lên để hỏi thì đều có thể trả lời, thượng thừa tâm pháp cao nhất của “Thông linh thần toán” chính là “như như tự đắc”, gọi là như như tự đắc chính là nói linh có thể xuất khiếu và tự chủ, trên thông đến thiên đình, dưới xuống tận địa phủ, ngũ hồ tứ hải, tam sơn ngũ nhạc mặc tình tiêu dao, đến cảnh giới lý tưởng nhất thậm chí có thể hóa thân ra bên ngoài thân xác nữa, một linh thân có thể hóa thành hai linh thân, thậm chí có thể thiên biến vạn hóa, tràn ngập giữa trời đất, đây chính là mức thượng thừa nhất. Còn về linh lực trung thừa thì có thể vận linh đắc được Thiên Nhãn thông, biết trời biết đất, trên hiểu thiên văn, dưới tường địa lí, nhìn thấy linh giới, chứng được Thiên Nhĩ thông sẽ nghe được những điều mà người thường không nghe được, nghe được quỷ thần nói chuyện, biết được chuyện của quỷ thần, chỉ có là linh lực vẫn chưa xuất khiếu được mà thôi! Ở mức hạ thừa thì linh mặc dù đã được thức tỉnh, nhưng lại không thể làm chủ được, không hiểu thuật luyện linh, do vậy mắt sẽ không nhìn thấy, tai cũng không nghe được, chỉ có thể vận dụng “tâm niệm” có được cảm ứng của tâm, không nên xem thường “tâm thông”, loại tâm thông này còn một số người vẫn chưa luyện được! “Tâm thông” là hoàn toàn loại bỏ đi quan niệm chủ kiến, yên tĩnh cầu nguyện sự chỉ thị của thần linh, nếu như trong tâm còn tồn tại chủ kiến thì “tâm thông” sẽ chịu sự ảnh hưởng của chủ kiến, như thế sẽ không còn chuẩn xác nữa.
Từng có một thanh niên được tôi luyện linh đến hỏi tôi: “Thầy ơi, linh của con đã được thức tỉnh rồi nhưng tại sao mắt con vẫn không nhìn thấy gì hết cả? Tai cũng chẳng nghe được gì? Đồng thời cũng không chứng được “tâm thông”, như vậy con học biết được hoạt linh thì có ích lợi gì chứ?”
Tôi nói với anh ta: “Linh được thức tỉnh chẳng qua chỉ là công phu bước đầu của tu đạo mà thôi, còn phải đả thông tất cả các bước khác thì mới được xem là thành công, tuy nhiên tôi có thể dạy một phương pháp ngoài nhãn thông, nhĩ thông, tâm thông ra, cũng linh nghiệm vô cùng, phương pháp này gọi là thủ thông.”
Thế là tôi bảo anh ta chắp hai tay lại, yên tĩnh ngồi đả tọa, trong lòng chỉ suy nghĩ một chuyện, không được có tạp niệm, loại phương pháp này chỉ sau khi thành kính cầu nguyện với các thần linh trong hư vô rồi mới thực hiện, cũng phải trải lòng ra, không thể có ý kiến chủ quan, khi đả tọa phải bẩm cáo tất cả mọi chuyện với linh giới, khẩn cầu thần linh cho chỉ thị qua kích thước lớn nhỏ của hoạt động bàn tay. Ví dụ như: sự việc nếu như thành công thì xin lắc động tay lớn một chút, sự việc nếu như thất bại thì run rẩy đôi cái là được; cát thì rung động nhiều, hung thì chỉ hơi máy động, linh trong không trung rất đơn giản chỉ điều khiển hai tay đang chắp lại kia là được (lúc này là động thái vi diệu của linh, chứ không phải ý niệm của bản thân muốn cử động tay), thì có thể cảm giác ra rất rõ ràng, đem kết quả dự đoán để ấn chứng sự thật, nếu quả nhiên phù hợp thì lúc này bạn đã lãnh hội được rồi, quả thật là có sự tồn tại của “thủ thông”.
“Thủ thông tuy là không được xem là diệu thuật thượng thừa trong linh thông, nhưng nếu như tu tập lâu ngày, cũng có thể đắc được chổ vi diệu của “tâm thông”, chớ nên xem nó chỉ là trò nhàn rỗi.
“Thưa thầy, thật sự là hữu hiệu chứ?”
“Thử xem thì biết.”
Cách được mấy ngày, chàng thanh niên ấy tươi cười chạy đến tìm tôi, anh ta bảo thật là kỳ quái, mọi người khảo anh ta dùng phương pháp ném xương, lấy tay che kín lại, từ số 1 đến số 6, bảo anh ta đoán một con số, thế là anh ta vận dụng thuật Thủ thông, liên tiếp đoán 5 lần, đều trúng cả 5, bạn bè không hiểu vì sao, lại ném tiếp 10 lần nữa, kết quả anh ta cũng đoán trúng tiếp 10 lần, không lần nào sai cả. Bạn bè giật cả mình, còn anh ta thì vui mừng lắm, đây chính là chứng minh tốt nhất cho linh lực rồi.
Thật ra mà nói, do bởi linh trên cơ thể tôi đã được thức tỉnh nên luôn có những bạn bè không thể nghĩ, không thể gặp từ hư vô đến tìm tôi, họ đều là đến rất bất ngờ, có lẽ lúc đó tôi đang viết văn chương, ông ta thấy tôi bận rộn, liền chui vào bên trong đầu tôi, làm cho đầu tôi tê đi, sau đó mới biết là có bạn bè trong hư không giới đến tìm. Có khi tôi hỏi họ, tìm tôi có chuyện gì? Có khi là họ muốn cảnh báo cho tôi một chuyện gì đó sắp phát sinh, có khi lại chẳng có chuyện gì nên đến tìm tôi. Bạn bè của tôi thật là nhiều vô kể! Cuộc sống tràn ngập ý nghĩa.
Viết đến đây, tôi nghĩ đến tại sao đa phần mọi người đều không tin có sự tồn tại của linh hồn, bởi vì họ không thể nhìn thấy, không thể nghe thấy, thậm chí cũng không cảm nhận được. Bởi vì chẳng có cách nào biết cả, nên họ cũng sẽ không tin. Ngoài ra cũng có rất nhiều người xuất gia Phật giáo (hòa thượng), đạo sĩ của Đạo gia, mục sư của Cơ đốc giáo, cha xứ của Thiên chúa giáo cũng phủ nhận sự tồn tại của “linh”, bọn họ nếu như phủ nhận sự tồn tại của “Linh” thì chẳng khác nào lấy tay tự tát miệng mình vậy, cũng đồng thời cho chúng ta biết rằng trong số các hòa thượng, đạo sĩ, mục sư, cha xứ này cũng có rất nhiều người chẳng thể nào gặp được người của linh giới. Nếu như những người theo tín ngưỡng, trụ trì kia mà do dự không tin những gì tôi nói là “chân tri chân kiến” thì thật khiến người ta quá đau lòng thay. Thương thay, thương thay!
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Thay thế Linh lực chính là bùa chú
Lần thứ hai gặp được người đã gợi mở cho tôi là Thanh Y phu nhân, cũng chính là ở Ngọc Hoàng Cung, bà vẫn luôn ở bên ngoài giúp người“Chiêu hồn”, đó là một buổi tối mùa thu năm 60, tôi khoác một chiếc áo khoác hai lớp, đi vội đến Ngọc Hoàng Cung, bên trong có ất nhiều người, khói nhang nghi ngút, Phu nhân vừa nhìn thấy tôi, liền bắt thật chặt tay tôi và hỏi ngay: “Dạo này khỏe không, dạo này khỏe không!” Tôi trả lời: “Rất khỏe”, những lời nói khác tôi nhất thời không nói thành lời, vì khó mà một lời có thể nói hết được.
Do trong ngoài cung đều có người, chúng tôi không tiện trò chuyện quá lâu, Thanh Y phu nhân bảo tôi ngồi chơi, bà lại đi làm công việc hỏi việc giúp người khác, tôi ngồi kế bên quan sát, những việc mà Phu nhân hỏi, chắc chắn khiến người khác tấm tắc không thôi, rất nhiều người thán phục tận đáy lòng, chính ngay trong cuộc hỏi việc này, đột nhiên Thanh Y phu nhân kêu lớn một tiếng, bật đứng dậy từ trên đệm ngồi, giơ tay bắt lấy vài nắm trong không gian, xòe bàn tay la lớn nói với mọi người xung quanh: “Kẻ nào thật là to gan, cố nhiên dám đốt bùa để làm hại già này, ta phụng ý chỉ của Dao Trì Thánh Mẫu đi khắp nơi để giúp người, không sợ bất cứ loại bùa phép nào.” Kế đó bà cúi xuống xem lòng bàn tay của mình và nói: “Người này tướng tá cao to mập mạp, trên cổ có quấn một cái khăn quàng, có ai biết người pháp sư như thế không?”
Xung quanh có vài người bước lên nhìn xem bàn tay phu nhân có bùa hay chăng, kết quả là họ rất thất vọng, vì trên lòng bàn tay trống không, có người nói: “Đâu có vật gì đâu!” Phu nhân nói: “Tại sao lại không có, rõ ràng có một đạo bùa trên tay ta, sao lại không có? Thắng Ngạn, ngươi qua đây, xem thử trên tay ta có vật gì hay không?” Tôi đứng dậy, mọi người nhường lối cho tôi, tôi vận linh nhãn nhìn thử; trên tay của Thanh Y phu nhân, quả thật có một đạo bùa đang lúc ẩn lúc hiện, đạo bùa đó dùng giấy đen và giấy trắng dán lại với nhau mà viết lên, linh lực của bùa dựa trên sự giãy giụa lúc ẩn lúc hiện đó.
Tôi nói: “Đó là một đạo bùa phép dùng giấy đen và giấy trắng dán chung với nhau, loại bùa này hình như không phải bùa phép của chánh phái”.
Thanh Y phu nhân cả mừng: “Thắng Ngạn, ngươi quả nhiên không tệ, ngươi đã nhìn thấy rồi.” Phu nhân dùng bàn tay còn lại áp lên đạo bùa đó, miệng hướng về phái đông hít một hơi, hô một tiếng: “Biến”. Rồi ngửa bàn tay ra, đạo bùa đó cố nhiên không còn nữa. Lúc này, trên gương mặt của trụ trì Ngọc Hoàng Cung Thích Tuệ Linh có chút bối rối, ông ta giải thích với chúng tôi như sau: tháng trước có một vị pháp sư Trương đến Ngọc Hoàng Cung, tướng tá cao to mập mạp, tự xưng là biết vấn thần, biết bốc quẻ, biết xem tướng và khí sắc, biết chọn ngày và địa lí, v.v…, thế là ông ta ở lại hậu viện của Ngọc Hoàng Cung, lúc nhàn rỗi xem tướng giúp người khác kiếm vài đồng bạc, số tiền kiếm được chia bốn sáu, pháp sư tự lấy sáu phần, và nhà chùa được bốn phần, vốn không có chuyện gì xảy ra. Nay Thanh Y phu nhân vừa là “Chiêu hồn”, vừa là vấn thần, thu hút hết tín chúng, khiến cho vị pháp sư họ Trương đó sinh lòng đố kỵ, từ đó sinh hận, thế là, vị pháp sư đó giở ra chiêu bùa chú này.
Thanh Y phu nhân nói: “Tối hôm đó, hắn viết đạo bùa này, nếu đổi lại là người khác thì đã chịu không nổi, may mà là ta, loại người này tâm thuật bất chánh, thật ra không nên để hắn học được bùa phép, lần sau nếu còn đốt bùa, nhất định không tha cho hắn, Thắng Ngạn, ngày mai ngươi lại đến đây một chuyến, nếu còn làm loạn, chúng ta sẽ cho hắn biết tay.”
Thanh Y phu nhân hỏi Thích Tuệ Linh: “Có phải hắn choàng một cái khăn trắng?”
“Hắn luôn choàng một cái khăn màu trắng.” Thích Tuệ Linh nói.
“Vậy là không sai rồi, nhất định là vị pháp sư họ Trương đó giở trò.”
Ngày hôm sau, tôi vội đến Ngọc Hoàng Cung, quả nhiên không sai, pháp sư họ Trương đó lần thứ nhất không thành công, lần làm phép thứ hai, hắn ta cũng đã thông minh ra, không vẽ bùa nữa, mà là niệm chú ngữ, chú của hắn cực kỳ ác độc, muốn là cho người ta kinh sợ phát điên, hắn cắt vài thứ người giấy rắn giấy, thổi chú ngữ, chuẩn bị dọa cho chúng tôi bị bệnh, Thanh Y phu nhân nhìn thấy, tôi cũng đã nhìn thấy, tôi nói để đó cho tôi! Tôi từ trong thối chú của hắn, biết được chú của hắn ta dùng chính là “Ngũ cung khu quỷ thuật”, niệm là: “Cổ miếu tinh thủy quái, Thụ mộc hoa tinh, Xà trùng hồ ly, tất cả mọi tà a yêu quái, biến hóa đa đoan, mê nhân thâm xí, hoặc xâm hoặc hại, nghe theo pháp lệnh của ta.” Thế là tôi không sợ cũng không vội à nhớ lại Huyền Nữ chú mà Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh đã truyền cho, chuyên phá thuật chú tà yêu, chân đạp chữ Đinh Bát, niệm rằng: “Khẩn thỉnh Nhị Nhất Chân Võ Thần, Cước đạp Thiên Quan cực biệt tinh, phi đầu tản phát vi Thượng tướng, đái đỉnh sâm la thất tọa tinh, dũng trấn bắc phương vi Thượng Đế, kiêm quản chư tiên quải giáp binh, tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, tiền Chu Duy, hậu Câu Trần, tọa quản thiên lí hư không nội, lập chiếu thập phương thế giới trung, vân đoạn hiển thánh, trước có cờ đen che nhật nguyệt, lôi áp trăm dao kiến trời minh, há miệng lang nha đạm thiết trụ, ủng thân tả hữu sát gian hồn, tiên sử hoàng phong xúy ác quỷ, hậu lấy điện lôi chấn thiên đình, sơn lâm hải quái toàn kinh tán, thiên ma vạn tà loạn phân phân, nay Liên Sinh thỉnh Ngọc Hoàng thân trả lệnh Thiên La Thần, Địa La Thần, niệm động thử thiên thanh địa ninh.” Tôi niệm xong Huyền Nữ Chú, tay đọ Lôi quyết, chỉ về phía trước, liền nghe một tiếng chấn động lớn, người giấy rắn giấy toàn bộ không thấy đâu nữa.
Đợi thêm một hồi, chỉ thấy một người vọt ra từ hậu viện Ngọc Hoàng Cung, tay hắn ôm đầu, luôn miệng kêu đau, vài ngày sau, liền thu dọn vật dụng, rời khỏi Ngọc Hoàng Cung, bỏ đi biệt tích, tôi và Thanh Y phu nhân lắc đầu than thở, không phải là chúng tôi ép buộc hắn ra đi, mà là hắn tự tìm lấy, học nghệ không tinh, không thể trách tôi được.
Từ trong câu chuyện có thật trên, tôi muốn bàn về thuật bùa chú, cái gọi là bùa, có sự khác nhau giữa chính và tà, tác dụng của bùa rất nhiều, ví dụ như: dùng bùa mời thần, dùng bùa giữ nhà, dùng bùa đuổi tà bắt ma, v.v… chủng loại của bùa nhiều vô cùng, bùa và chú là một biểu hiện vay mượn của linh lực, có ngưới nói: “Bùa tức là biểu hiện của một loại linh lực tập trung tinh thần của con người.” Câu nói này quả là rất hợp lí, viết bùa quan trọng nhất chính là dựa trên sự tập trung của nghị lực tinh thần, một lá bùa viết ra đại diện cho tinh thần của một con người, do tác dụng tinh thần, cảm gọi sự linh nghiệm.
Nhất là những người có “Hoạt linh”, vì viết bùa cần tập trung linh lực, nên càng có hiệu lực và hiệu quả tốt, có thể tưởng tượng ra, tập trung linh lực trên giấy, dùng viết viết bùa, như thế càng linh nghiệm hơn.
Còn về chú ngữ, chú ngữ cũng có nhiều loại, Mật tông Phật giáo hoặc những Tông phái khác đều có chú ngữ, như: Thập tiếu chú, Đại Bi chú, Vãng Sinh chú, Lăng Nghiêm chú, v.v…, chú ngữ của Đạo giáo cũng rất nhiều, có: Hương chú, Tâm chú, Tịnh Thiên Địa Thần chú, Kim Quang chú, Thỉnh Cửu Thiên chú, Tịnh thủy chú, Thư Phù chú, Đẩu Tinh chú, v.v…, những câu chú ngữ này nghe nói là do Chư Phật Bồ Tát từ bi chúng sinh, đem bí mật tu hành cả đời, chuyển thành vài câu mật chú, khiến cho người học sau có thể đạt được đại công đức từ mật chú, y chú tu trì, sớm đến được đất Phật, nên có cách nói là chú ngữ không giải thích được. Chú ngữ của Đạo gia, có số rất khó hiểu, nhưng so với Phạn ngữ của nhà Phật, thì dễ thuộc lòng hơn, niệm chú cũng là biểu hiện của một loại linh lực, về mặt này, bùa chú luôn được sử dụng chung với nhau.
Chủng loại của bùa cũng rất nhiều và rất rộng, nhưng chính thống nhất là Thiên Địa Nhân Tam Dương Khai Thái, gọi là đầu bùa, kế đó là Phụng tên của vị Tiên Phật nào đó, lệnh, tiếp theo vì mục đích gì, sau cùng mới là áp ấn, cái gọi là áp ấn giống như chúng ta đóng dấu vậy, đóng dấu rồi mới có hiệu lực, đồng thời vừa viết vừa phải niệm chú, khi viết đến chỗ áp ấn thì thổ khí ra tiếng đại diện cho uy lực của linh bùa, cách viết của bùa các một số rất lạ, không theo quy tắc, thậm chí chỉ toàn dựa trên linh cơ của một người cũng có thể viết ra được, bùa cũng không nhất định phải viết trên giấy, có số tùy ý viết trên không trung cũng vẫn có hiệu lực, nhưng, những người có linh lực càng thâm hậu mới có thể có được biểu hiện này. Bùa cũng là “Tấm Thiệp Thần”, vừa đốt bùa xong, đạo bùa này có thể lên Thiên Tào, vào địa phủ, thiệp thần bay khắp thập phương pháp giới, tất cả Tiên linh của giới hư không, toàn bộ đều biết mục đích của lá bùa này. Công dụng của bùa chú xem ra thật huyền diệu vô cùng, nhưng cũng chỉ là một phương thức vận dụng của linh lực.
Có người chuyên môn biết vẽ “Bùa hóa cốt”, xương cá mắc ở cổ họng, uống một đạo Bùa hóa cốt, thật sự có thể làm biến mất xương cá, đó chỉ là một kỹ xảo nhỏ của bùa, thật sự không đáng nhắc đến, trong trời đất, kỳ môn dị thuật không chỉ có một loại bùa chú mà thôi, bùa chú vốn là một trong những cách biểu hiện của linh lực, sự vĩ đại của linh lực, thì có gì mà không thể biểu hiện được? Tác giả từ Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh và Thanh Chân Đạo trưởng biết được rất nhiều loại thuật chú, nhưng, đa phần đều cực chính phái, đối với những kẻ dùng tà thuật làm cho người khác tạm thời mất đi cảm giác, để giật đi dây chuyền ví tiền thì căm ghét vô cùng, bản ý của bùa chú vốn là Thiện, lại để cho người khác dùng làm công cụ lừa gạt cướp giật, tiên thánh tiên hiền mà biết được, sẽ dằn vật vì hối hận.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Sơ đàm về Thiền cơ
Tạ Định Hoa và Từ Văn Chấn ở Đài Bắc cùng nhau đến nhà của tôi, không phải vì chuyện gì khác mà là hỏi tôi về thiền cơ. Tạ Định Hoa là người chấp bút của tạp chí Thần Quang vào thời kỳ đầu, bút danh là Hắc Mã Vương Tử, rất là tài hoa, có tác phẩm “Lời của một lữ khách”, Từ Văn Chấn học tại học viện Y Dược Trung Quốc, lúc nhàn rỗi cũng viết văn chương, từng xuất bản tác phẩm “Thủy Tinh Cung, Thủy Tinh Cung”, Tạ Định Hoa và Từ Văn Chấn do nghe người khác kể về tôi, nên mới quyết định đến nhà để tìm hiểm thêm.
“Thần là cái gì” Tạ Định Hoa hiếu kỳ hỏi.
“Tiên sinh hỏi tôi, xin hỏi là hỏi về vị nào?” Tôi hỏi lại.
“Thần có rất nhiều vị sao?”
“Vô số, vô số, không thể lượng, không thể đo đạc được.” Tôi trả lời.
“Tại sao không thấy được họ” Từ Văn Chấn hỏi.
“Thấy được tức là ngộ, không thấy tức là mê, trong trời đất người ngộ được ít, người mê nhiều, Thần vốn là Linh, Linh tức vô hình, phải dùng Linh để thấy được Linh, mới đến lúc thấy được.” Tôi trả lời.
“Lấy gì để làm bằng chứng?”
“Tôi”.
“Một người không đủ làm bằng, phải lấy bằng chứng ra chứ!”
“Tâm ngoại vô pháp, nếu nói trong lòng có pháp, tức là ngoại đạo, cái tôi biết đây là biết thật, không biết là không biết, biết là biết, thế gian không một vật chứng, còn có thể chứng được gặp Chư Phật Bồ Tát, ngoài một mình tôi ra, tâm vô nhị pháp, tâm tức là tôi, tôi nếu chưa đủ để làm bằng chứng, thì khắp hết thiên hạ cũng không một vật nào có thể làm bằng chứng được rồi.”
Hai người họ nhất thời cùng nhìn nhau, sau đó Tạ Định Hoa lại hỏi: “Tiên sinh đối với việc sinh tử có cách nhìn như thế nào?”
“Vô sinh tử”, tôi nói: “Sinh tức là sự mở đầu của tử, tử là sự kết thúc của sinh, tử cũng là sự mở đầu của sinh, và sinh tức là sự kết thúc của tử, nếu dùng vô lượng Phật nhãn để quan sát, thiên hạ vốn không có chúng sinh, mà không có chúng sinh thì làm gì có sinh tử?”
“Đó là luân hồi quan của Phật giáo phải không?”
“Đó là điều tự nhiên, tâm yếu viên đốn thượng thừa nhất, bỏ đi mọi sự kỳ lạ, quy nhập vào tự nhiên Đại ngã, Phật vốn không lạ khác biệt chỉ ở chỗ một cái là ngộ, còn một cái là mê, người mê có luân hồi, người ngộ là nhìn thấu cả vòng luân hồi đó, thì sao còn có luân hồi đây? Tôi nói luân hồi thật là là để đối phó với chúng sanh mê muội, cái gọi là Thiên, Nhân, A Tu La, Địa Ngục, Quỷ, Súc Sanh lục đạo chúng mê muội đó mới nằm trong vòng luân hồi, không thoát khỏi được con dường luân hồi.”
“Thiên đạo không phải chính là Thần sao?”
“Phải, Thiên đạo cũng tức là Thân đạo, và Thần là nhân duyên tịnh hóa cùa Linh, nhân duyên thiện công nhân duyên chính đạo, tuy có thiên phúc báo ứng, nhưng còn chưa đạt đến phúc đến tâm linh, cảnh giới của “ngộ” vì thế mà vẫn phải chịu sự luân hồi.”
“Vậy ngài có chịu sự luân hồi không?” Từ Văn Chấn đột nhiên hỏi.
“Chịu hay không chịu chỉ do tôi, nếu tôi nói ra ngài cũng không tin, chi bằng không nói”.
“Ngài cứ nói, tôi tin là được rồi.”
“Dựa vào sự phấn khởi của mình, muốn chịu thì chịu, muốn không chịu thì không chịu.” Câu trả lời của tôi vượt ngoài dự đoán của hai người họ, hai người họ cứ luôn có cảm giác kỳ lạ, câu trả lời của Lư Thắng Ngạn chính là khác với một số người! Thật ra đây không phải là khác, chỉ là câu trả lời buộc miệng nói ra mà thôi, trong những lời nói này hàm ẩn sự tồn tại của thiên cơ khác với những tiếng phàm trần, không tin, bạn tự ngẫm nghĩ ngẫm nghĩ kỹ.
“Tôi rất có hứng thú với Thiền cơ, không biết tiên sinh có thể dạy cho tôi hay không?” Từ Văn Chấn nói ra lai ý.
“Ngài muốn học thiền, tôi sẽ dạy ngài, Thiên long câu chỉ nhất chỉ thủ thiền, cả đời dùng không hết.”
“Cái gì gọi là Nhất chỉ thủ thiền?”
“Nhất chỉ chính là một cảnh giới, một giới chính là một huyền cơ, một huyền cơ thì có một số kiến địa, có được số kiến địa này, thì không phải cả đời người đều dùng không hết hay sao?”
“Lĩnh giáo, lĩnh giáo, thật là có lí” Từ Văn Chấn cả mừng nói.
“Theo ngài nói như thế, thì nếu ngài nhận cái gì là thần, vậy thì thần chính là cái đó rồi; Bái vật gì làm thần? thì thần chính là vật đó rồi.” Tạ Định Hoa hỏi.
“Nói như thế cũng gần đúng rồi.”
“Vậy, nếu nói nhận định đầu nhủ hoa của người phụ nữ là thần, vậy thì đầu nhủ hoa của người phụ nữ đó là thần hay sao?”
“Nói thật là cực đúng, nhưng ngài sẽ cho rằng như vậy hay sao?”
Tạ Định Hoa không còn lời gì để nói.
Tôi dẫn Tạ Định Hoa và Từ Văn Chấn tham quan Phật Đường của tôi, trong Phật Đường cung phụng Dao Trì Thánh Mẫu Thiên Tôn, Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Địa Tạng Vương Bồ Tát, lúc này, những người đến Phật đường lạy Phật cũng rất nhiều.
“Họ có thể hướng về tượng gỗ hành lễ bái lạy sao?” Tạ Định Hoa hỏi.
Tôi không có trả lời câu hỏi của Tạ Định Hoa, tôi hỏi lại: “Phật đường của tôi có trang nghiêm hay không?”
“Trang nghiêm” hai người họ nói.
“Vậy thì đúng rồi, họ là lễ bái sự trang nghiêm, trong lòng của họ, lạy thần cũng như thần ở trong lòng, đó là một loại tâm cảnh khác, hai người đều cảm thấy trang nghiêm, đương nhiên mọi chúng sinh đều nhất định sẽ cảm nhận được, ngài nói sự trang nghiêm có thật hay không, tự nhiên sẽ là thật vậy thì đây chính là sự tồn tại của Thiền cơ, đừng có xem thường loại cảm giác này của con người, nếu có thể thật sự hiểu rõ, mới là người thật sự ngộ.”
Tôi nhắc đến một đoạn trong Tâm Đăng Lục với hai người: “Đại Tuệ rằng, Bồ Tát mắt thấy Phật tính, cần phải nhìn thấy sự bắt đầu. Vị khách hỏi: Tính thì sao thấy được? Đại Tuệ rằng: Tính nếu chỉ dùng tâm để nhìn thì như ngồi trong hang tối, nếu có thể dùng mắt nhìn thấy, mới là nhìn thấy Tính ở chỗ viên mãn. Vì thế, Tính như Thái Hư, và thiên địa vạn vật đều xuất từ Thái Hư, Tính và Thái Hư, thiên địa vạn vật vốn cùng chung một thể.”
“Lư Thắng Ngạn, ngài cho rằng cái gì là Tính?” Tạ Định Hoa hỏi.
“Linh”.
“Linh là cái gì?”
“Bản tính nguyên thủy cùng với thiên địa vạn vật nhất thể”.
Tôi xem giúp những sự tao ngộ của Tạ Định Hoa trong quá khứ vị lai, tương lai cố nhiên chưa thể ấn chứng ngay được, nhưng sự tao ngộ trong quá khứ cứ linh nghiệm từng cái một, làm cho Tạ Định Hoa cảm thấy kinh ngạc vô cùng, vận mệnh trong cõi âm u, dường như là có định sẵn, hôm đó, hai người họ hỏi hết cả buổi chiều, và tôi cũng trả lời hết cả buổi chiều, đối với những việc này, mọi người ai cũng sẽ hiếu kỳ, vả lại những người hiểu biết không đến đầu đến đũa cũng nhiều nhất, những người hoàn toàn không hiểu chính là những ngu phu, ngu phụ đã chìm vào mê cảnh của xã hội, và có một số phần tử tri thức mở miệng là mê tín, ngậm miệng cũng mê tín, họ so với những ngu phu, ngu phụ đó có gì khác biệt chứ?
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)