Thần bàn linh nghiệm
Dùng một tờ giấy viết đầy một loạt các chữ trên đó, trải phẳng trên bàn, và sau đó dùng một chiếc đĩa sành, đĩa vàng, đĩa bạc hoặc đĩa đồng cũng được, vẽ đầu mũi tên lên trên chiếc đĩa, sau đó ba người mỗi người giơ ra một cánh tay, ấn nhẹ lên thành đĩa, trong lòng ba người tự cung kính niệm: “Thỉnh linh giáng xuống, chỉ điểm sự việc”, một lúc sau chiếc đĩa tự xoay chuyển, tự chuyển động tới lui, và tay của mỗi người chỉ đặt nhẹ ở xung quanh chiếc đĩa, chứ không đẩy động chiếc đĩa, đây là một loại thực nghiệm của linh lực, nếu hỏi về sự việc trong quá khứ, sẽ chính xác trăm phần trăm.
Cũng có một phương pháp thực nghiệm linh lực mà con người có thể thực nghiệm, dùng một tấm giấy Thiên tự văn trải phẳng trên bàn, dùng một đồng tiền, góc khuyết thay thế cho đầu mũi tên, cũng dùng tay ấn nhẹ lên đồng tiền, niệm thầm “Thỉnh linh”, khi linh giáng, đồng tiền chuyển động như bay, muốn hỏi việc gì, nó cũng có thể trả lời từng việc một, tay chỉ nhẹ nhàng đặt trên đồng tiền, ngón tay di chuyển theo đồng tiền, di chuyên tới lui thần tốc, muốn hỏi việc gì, chỉ cần trong lòng nghĩ là được, không cần phải nói ra! Cũng có thể một người đứng bên cạnh hỏi, một người dùng tay đặt nhẹ lên đồng tiền vàng, người ấn đồng tiền không biết người hỏi hỏi việc gì, linh nghiệm dị thường.
Chỉ cần theo nguyên tắc này, ví dụ như bàn, ghế, bút chì, đũa đều có thể đủ để gọi linh, nhưng gọi linh có một vài điều kiện cần phải chú ý, đó là kinh nghiệm bấy lâu của cá nhân tôi.
Thứ nhất, những đồ vật dùng để gọi linh nhất định phải vô cùng sạch sẽ, muốn gọi linh lên thân thì bản thân người đó phải Chay tắm chính là ý này, chiếc đĩa nhất thiết phải là đĩa mới vừa mua, đĩa cũ gọi linh không lên, những đồ vật khác cũng vậy, đừng chơi cầu cơ hoặc trên giường hoặc những nơi dơ bẩn như nhà xí, chiếc giường ngủ của người là vật ô uế nhất, ở nơi ô uế “cầu cơ”, thì chỉ có quỷ linh ô uế mới có thể tiếp cận được, tôi không phải nói ở những nơi ô uế thì “Không thể cầu cơ”, mà là bản thân những linh được gọi lên là những linh có vấn đề, cũng có thể là quỷ, cũng có thể là mị, tốt nhất là nên cầu cơ là ở trước Thần Phật, Thần Phật có lẽ sẽ cảm động mà giáng xuống! Có số quỷ thần giáng xuống, nếu bạn hỏi người đó là ai? Nói không chừng người đó chính là ông cố đã mất rất lâu của chúng ta.
Thứ hai, đĩa dùng để “Cầu cơ” khi mua về phải qua “Lửa vàng”, chiếc đĩa đã qua “Lửa vàng” chính là chứng tỏ sự sạch sẽ, “Lửa vàng” là cái gì? Cái gọi là “Lửa vàng” chính là “Giấy vàng châm lửa đốt cháy” và chiếc đĩa được cầm trên tay, lay hơi vài lần một cách nhanh chóng trên ngọn lửa, chiếc đĩa đã qua “Lửa vàng” như thế, nhất định có thể gọi linh, điều này tuyệt đối không phải nói khoát, thử thì sẽ biết ngay, một người muốn lên đồng, cũng phải qua “Lửa vàng”, nhưng nhất định phải bắt quyết và niệm chú, phải do người am hiểu thực hiện, nếu không bị đốt chết rồi thì thứ cho Lư Thắng Ngạn tôi không chịu trách nhiệm.
Thứ ba, thời gian “Cầu cơ” cũng rất quan trọng, cố nhiên lúc nào cũng có thể gọi linh, nhưng nếu ở nơi đông người ồn ào, luôn luôn có linh cảm thì cũng sẽ mất đi, chiếc đĩa chuyển động rất chậm, như bị mệt rã rời vậy, “Cầu cơ” tốt nhất nên vào nửa đêm, bốn bề không một tiếng động, chiếc đĩa chạy xoằn soạt trên giấy, tốc độ nhanh đến nỗi đôi lúc ngón tay không theo không kịp, tôi có một người bạn, “cầu cơ” một mình vào lúc nửa đêm, cầu đến sau cùng, tay không chạm vào chiếc đĩa, chiếc đĩa tự nhiên tự động quay tít lên, vào đêm khuya linh khí nặng, có thể thấy bình thường, nếu như không thể vào đêm khuya, tốt nhất là nên vào buổi tối, tuyệt đối không được xem đó như trò đùa, nếu không kết quả cầu được sẽ không linh nghiệm, vậy thì đừng có trách “Linh” trên trời.
Thứ tư, “Cầu cơ” quan trọng nhất là phải chân thành, tuy đây là một loại thực nghiệm, nhưng, đừng có xem như trò đùa trẻ con, nếu bạn hỏi đùa như trò chơi con nít, thì bạn sẽ nhận được câu trả lời như trò đùa trẻ con, đôi bên không được thiết lập trên mối quan hệ tin tưởng, như thế thì sẽ giống như đang chơi trò chơi trẻ con. Tôi cảm thấy cầu cơ ở trước mặt Thần Phật là phương pháp tốt nhất, những chỉ thị của Thần thánh sẽ không có khả năng hảo huyền, những quỷ linh khác cũng có hiện tượng tín khẩu khai hà, sự thật hoặc giả của linh có thể biết biết được bằng cách quan sát, nhưng với một số người “cầu cơ” thông thường, luôn luôn bị quỷ linh lừa gạt nếu tin là thật, vậy thì sẽ tệ vô cùng. Tác giả luôn cầu cơ trong Phật đường của mình, hỏi việc một cách thành thật, Thần thánh giáng xuống, trước tiên báo danh tánh của bản thân, tôi dùng lễ cung kính, mỗi lần hỏi đều sẽ trả lời, có không biết cũng nói không biết, linh nghiệm dị thường.
Nhớ có một lần, “Cầu cơ” trong nhà của bạn, khi đĩa chuyển động chúng tôi hỏi: “Thần linh là thần thánh phương nào?”
Trả lời: “Quỷ”. Mọi người vừa nghe là quỷ, đều giật thót cả tim, nhất là hai cô gái đang tham gia, sợ đến nỗi la toáng lên, tôi bảo họ đừng sợ, kẻ đến tự xưng là quỷ, vậy thì chắc là đúng rồi, vì chỉ có quỷ giả làm Thần, chứ không có Thần nào tự xưng là quỷ cả.
“Ngươi đã là quỷ thì xin hỏi là từ đâu đến?”
Chiếc đĩa đó đảo một vòng lớn, đầu mũi tên chỉ vào hai chữ “Việt Nam”.
“Xin hỏi lúc sinh tiền ngươi làm nghề gì?”
“Quân nhân”.
“Ngươi là quân nhân Việt Nam?” “Phải”. Sau khi chỉ vào chữ “Phải” xong, chiếc đĩa lại chạy vài vòng, tìm đến chữ “Chiến tranh”, chỉ vào đó, lại chạy đến hai chữ “thân vong”, dùng đầu mũi tên chỉ vào đó. Thế là chúng tôi biết được anh ta là anh hùng chết trong chiến tranh.
Bạn bè lại hỏi: “Ngươi hiện nay đang trú thân ở đâu?”. Chiếc đĩa lại chỉ ra hai chữ: “Hư không.”
Lúc này có một cô gái cũng mạnh dạn cất tiếng hỏi: “Ngươi là người Việt Nam, vậy cớ sao lại biết được chữ Trung Quốc thế?” Chiếc đĩa ấy chuyển động trên mặt giấy rất lâu, sau đó từng chữ ghép lại với nhau thì hợp thành một câu nói: “Linh giới huyền diệu, khó lòng tưởng tượng, thông linh thần quỷ, không gì không thông suốt.” Câu nói này tựa hồ như thông mà lại không phải thông, nhưng lại có thể biểu đạt ra ý tứ của hồn quỷ, thật là quá có ý nghĩa rồi vậy!
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Sơ đàm về mệnh vận
Những người xem tướng thích nói về vận mạng, người bình thường cũng rất có hứng thú với việc bói toán, đương nhiên có số người tỏ ra không tin vào số mạng, nhưng khi gặp phải những khó khăn nguy hiểm trong cuộc sống, con người thường than trời trách đất, và thường xuyên trách số mạng mình không được tốt, có số người trời sinh số tốt, từ khi sinh ra đến lúc chết đi, đều trải qua trong những ngày tháng không cần lo nghĩ, nhưng lại có số người vừa sinh ra thì đã rơi vào sự khó khăn nghèo túng của gia đình, từ nhỏ thất học, không có được môi trường và nền giáo dục tốt, tuổi còn nhỏ thì đã phải quần quật với cuộc sống, đó không phải là số mạng đó sao? Không phải là vận mạng hay sao? Ai có thể nói đó không phải là số mạng trời định?
Tôi từng thấy qua những bệnh nhân mang trong mình các chứng bệnh nan y nằm trên giường thở hổn hển nói rằng: “Tại sao ông trời lại không thương xót cho tôi, tôi có làm sai việc gì đâu, tuổi tác tôi còn nhỏ, lòng dạ tôi không xấu, ông trời, ông tại sao lại để cho người xấu tiếp tục sống, mà lại khiến cho người vô tội phải thân mang tuyệt chứng, tôi đâu có làm gì sai! Tại sao lại giày vò tôi như thế? Đó là số mạng, khẳng địng là số mạng, mạng của tôi thật khổ.” Chứng ung thư cướp đi mạng sống của bạn tôi, lúc chết cũng rất đau khổ, hai mắt trơ ra, xuôi tay mà đi, đi thật xa thật xa, trên thế gian đã không còn nghe thấy tiếng anh ta nữa, đó chính là cuộc đời của một người bạn cũ, anh ta chỉ mới sống được có 24 tuổi, bạn có thể nói đó không phải là vận mạng hay sao?
Thanh Y phu nhân kể cho tôi nghe về một câu chuyện như sau:
Cho đến nay, tôi chỉ biết tên riêng của Thanh Y phu nhân là “Cơ Ó”, tên thật của phu nhân là gì tôi vẫn không hỏi, phu nhân cũng không nói với tôi, phu nhân là người xã Phú Lí huyện Hoa Liên, cha là một nhân viên kiểm nghiệm của Phòng công tác thường trực trong xã, là một quan chức nhỏ về mặt kiểm nghiệm y tế, người chất phác, nhưng không tin chuyện quỷ thần, bình sinh chưa tin ngưỡng qua bất kỳ tôn giáo nào, bản thân “Cơ Ó” ra đời, không nhận được nền giáo dục tốt, tuy nhiên kỳ lạ nhất là, trong số các anh chị em của có phu nhân là có mắt âm dương bẩm sinh, lúc nhỏ gia đình Thanh Y phu nhân vốn không giàu có, thị trấn xã Phú Lí là đất núi, gánh nước giặt giũ và làm việc nhà, “Cơ Ó” là chị cả nên phải đến con suối trong thung lũng để gánh nước và thị trấn xã Phú Lí có một ngôi miếu Thành Hoàng, Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường trong miếu thích đùa với “Cơ Ó”, Hắc Bạch nhị âm tướng, một người ở phía trước, một người ở phía sau, cùng nhau nô đùa trên con đường núi mà “Cơ Ó” đi gánh nước.
Phu nhân kể với tôi: “Hắc Bạch Vô Thường rất nghịch ngợm, luôn cố ý làm lật thùng nước của tôi.”
“Vậy là khi phu nhân còn rất nhỏ tuổi đã có thể nhìn thấy quỷ thần rồi?”
“Từ khi biết chuyện, là tôi đã nhìn thấy được, nhưng khi kể với mẹ, bà chỉ cười, kể với cha, cha lại cho rằng con nít nói chuyện ma quỷ không đáng tin, sau đó còn tưởng rằng tôi có bệnh thần kinh nữa! Nếu tôi nói nhìn thấy cái gì, ông ta lại chửi tôi bị bệnh thần kinh nữa rồi, đầu óc của đứa nhỏ này có vấn đề rồi.”
“Thấy thường rồi thì cũng không còn đáng sợ nữa, nhất là họ đều là bạn chơi đùa bạn tốt của tôi.”
Như những việc nhìn thấy Hắc Vô Thường, Bạch Vô Thường như thế, trước khi tôi đắc được “Hoạt Linh”, tôi vẫn không dám tin, cho dù là kể sống động như thật như thế nào đi nữa, tôi cũng sẽ cho rằng đó là câu chuyện bịa đặt, cho nên cha mẹ của phu nhân không tin con gái mình thật sự nhìn thấy gì, cũng là chuyện không trách được! Tất cả những người trên thế gian, có mấy ai thật sự có thể mở to mắt nhìn thấy được sự tồn tại của “Linh khí”.
“Cơ Ó” ngày một lớn lên, tin và cung phụng Dao Trì Thánh Mẫu Thiên Tôn Kim Mẫu rất ưu ái cô bé “Cơ Ó” có đôi mắt âm dương bẩm sinh này, luôn dắt cô bé đến một số linh giới và dạy cho “Thuật gọi hồn”, Điều này cũng là lí do tại sao các đạo hữu Phái Dao Trì của Đạo Giáo trong toàn tỉnh đều biết đến một người con gái giỏi giang này, không những mắt thấy tai nghe, mà còn biết các dị thuật khác, chỉ một câu thuật ngữ của người hiện đại thôi, phu nhân chính là một “Siêu nhân”.
Tuổi của cha “Cơ Ó” ngày một cao, có một lần bệnh nằm liệt giường, bệnh tình ngày càng trầm trọng, luôn nói mê lúc nửa đêm, luôn luôn khiến cho người chăm sóc ông ta sợ đến nỗi không biết phải làm sao, thế là “Cơ Ó” xung phong ở cùng với cha trong đêm, đêm đó gió thổi rất to, cửa sổ cũng vỗ “cách cách”, bốn bề tối đen như mực, ánh sáng lập lòe, chính ngay vào lúc nửa đêm 2 giờ, có rất nhiều tiếng bước chân đi đến ngoài cửa, “Cơ Ó” không hề sợ hãi, mở rộng cửa chính, bên ngoài có rất nhiều người, nam có nữ có, già có trẻ có, “Cơ Ó” hỏi: “Các người là ai”?
Trong đám đông có một ông cụ hỏi: “Con là Cơ Ó phải không? Ta là bác Bình nhà kế bên đây! Mất năm ngoái đấy, ba của con dương khí sắp tận rồi, chúng tôi đến rước ông ấy.”
“Không được, không ai được rước đi cả, tôi không để các người vào trong.” Cô bé dang rộng hai tay, ngăn lấy những vong linh đó, cứ như thế bệnh của thân phụ cô bé lại duy trì được ba ngày, đến buổi tối ngày thứ ba, một vị tướng quân của miếu Thành Hoàng đến gõ cửa, vị tướng đó cắm đầy những lá cờ trên lưng, tướng quân nói: “Cha của con đáng lẽ ra đã được những âm linh dẫn đi vào 3 hôm trước, nhưng do con cản lại, trì trệ mất 3 ngày, âm linh không giao phó được với Thành Hoàng, Thành Hoàng lệnh cho ta dẫn người đi, con không được cản trở nữa.” Nhưng Cơ Ó vì yêu cha mà lòng đau như cắt, không nhẫn tâm để vị tướng đó dẫn đi, nắm lấy lá bùa linh mà Dao Trì Kim Mẫu ban cho trên tay, nhất thời muôn ngàn luồng ánh sáng cát tường phát ra, vị tướng quân của Thành Hoàng cũng không thể tiến lên phía trước, chỉ có thể trở về phục lệnh, “Cơ Ó” không biết trời cao đất dày, đuổi đến miếu Thành Hoàng, cùng lí luận với Hắc Bạch tướng quân trong miếu, đánh vào mông của các vị tôn Thần tướng, ngay đến Thành Hoàng Bồ Tát cũng giận đến nỗi méo cả đầu, mặt mày rầu rĩ, đúng vào lúc này, trên không trung mây lành kéo đến, hương hoa khắp nơi, thì ra là Dao Trì Kim Mẫu giá đáo, Thành Hoàng ra miếu cung nghênh, Kim Mẫu nói với “Cơ Ó”: “Con ngoan, tấm lòng hiếu thảo của con thật là khiến người cảm động, nhưng Thành Hoàng là y chỉ làm việc, cha của con thọ tận, phải vào âm giới, nay con mau chóng may áo “Thanh Y” của ta, Thanh Y đại diện cho môn nhân của ta, mau mau mặc cho ông ta, nếu ông ta mặc lên áo Thanh Y, tự nhiên sẽ do ta xử trí, sẽ không phải đến cõi âm chịu khổ.”
“Cơ Ó” nghe nói như thế, mới miễn cưỡng gật đầu đồng ý, khi mặc áo Thanh Y cho cha, chỉ thấy một con thuyền từ trên không trung hạ xuống, chở cha của cô bé đi.
Câu chuyện này là do Thanh Y phu nhân chính miệng kể cho tôi nghe, từ trong câu chuyện này, chúng ta có thể hiểu được, sống và chết đều có định số, và số mệnh chính là ẩn chứa bên trong sự sống chết, sống chết cũng đều là mạng, là số, muốn siêu thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử, duy chỉ có tu luyện linh, có thể tự chủ không trở ngại, và tự chủ không trở ngại cũng chính là Đại Bồ Tát không chịu sự gò bó của sự sống và cái chết.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Trợ duyên của Chánh pháp
Rất nhiều Đại sư Phật học hoặc những đại hòa thượng đã xuất gia, họ luôn xem thường Thiên nhân chi đạo, không tin chuyện quỷ thần, mà cho rằng đó chẳng qua là phương thuật của Thiên ma ngoại đạo mà thôi. Họ tự cho rằng Phật giáo mới là chính phái, Phật Pháp Tăng là Tam Bảo, tu hành theo chính đạo, không nên tu luyện Thiên ma ngoại đạo, nhưng mà họ không hiểu rằng, sự trợ duyên của chính pháp, hoàn toàn phải dựa vào Thiên ma ngoại đạo, nếu không có phép thuật thần thông của Thiên ma ngoại đạo, thì người quy y Phật môn chính pháp, nhân số sẽ giảm đi rất nhiều phần trăm, điều đó là không thể nghi ngờ, cho nên nếu không có Thiên ma ngoại đạo, thì sao lại có sự vĩnh trú của chính pháp?
Trong 10 đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, Đại đệ tử thứ nhất Xá Lợi Phất, đại đệ tử thứ hai Mộc Kiền Liên, một người là Thiên Nhãn đệ nhất, một người là Thần Thông đệ nhất, hai vị đại đệ tử này đều là học giả ngoại đạo hoặc xuất thân lãng tụ, đến cuối cùng khi phụng hành Phật pháp trở thành sự trợ duyên của chính pháp, cho nên Những Đại sư Phật học và Tỳ Kheo xuất gia ngày nay, không được xem thường sức mạnh ngoại đạo, không tu thì được, nhưng không thể phỉ báng ngông cuồng, có rất nhiều người cho rằng xuất gia quy y cửa Phật thì còn vĩ đại hơn thiên thần, vĩ đại hơn cả Ngọc Hoàng Đại Đế, sao họ không suy nghĩ lại, Phật tổ cũng phải rất khách khí với Thiên Đế, một kẻ xuất gia chưa ra gì thì sao lại dám xem thường Thiên Đế? Thiên Đế xem ngươi như kiến cỏ, và ngươi còn không nhìn thấy Thiên Đế nữa là! Đừng nói là không nhìn thấy Thiên Đế, có khi cả thổ địa công công còn chưa nhìn thấy nữa? Cố nhiên chưa nhìn thấy Thổ địa công công, chưa nhìn thấy Thiên Đế thì bằng cớ gì dám nói còn vĩ đại hơn Thổ địa công, vĩ đại hơn Thiên Đế?
Cứ cho rằng người xuất gia vĩ đại hơn Thổ địa công công đi, và người xuất gia đi ngang qua miếu của Thổ địa công công, Thổ địa công công thấy người xuất gia đến, đứng trước cửa miếu cung nghênh đón tiếp, người xuất gia chẳng lẽ một chút cũng không đếm xỉa đến hay sao? Tự cho rằng mình vĩ đại, thật ra thật là nhỏ bé, e rằng ngay cả người nhà của Thổ địa công công cũng chưa nhìn thấy qua! Chẳng trách “Sói đêm tự đại”, người hành giả học Phật, thiên ma ngoại đạo có thể không tu. Nhưng đối cới những vị thần tiên dưới Thiên Đế không thể không tôn kính, nhất ít sự tu hành kiếp trước của thần tiên còn to càng lớn hơn ngươi.
Quan thế âm Bồ Tát biến hóa ra muôn hình vạn trạng để cứu thế, Bồ Tát có thể hóa thân thành nam thành nữ, hóa thân thành quỷ sai thành quỷ vương, hóa thân thành người mà không phải người, v.v…, những chúng sinh mà Bồ Tát độ trì không phân biệt người hay ta, Bồ Tát có thể hóa thành Thiên Đế, cũng có thể hóa thành Thổ Địa công công, mà người xuất gia không tôn kính Thổ Địa công công, không phải đã bất kính với Quan thế âm Bồ Tát hay sao, cho nên nên lấy người đắc độ thiên ma ngoại đạo, Quan thế âm Bồ Tát nhất thiết phải hóa thân đạo thân của thiên ma ngoại đạo để độ họ, điều này là không có gì để nghi ngờ.
Có một lần, trò chuyện với với một vị hòa thượng, vị tỳ kheo đó lại nhắc đến vấn đề cũ.
“Người xuất gia còn vĩ đại hơn Thổ địa công công.” Vị Tỳ kheo đó nói.
“Ngài nghe ai nói thế? Từ Ân Pháp sư, ai nói với ngài thế.” Tôi hỏi ông ta.
“Sao? Ai cũng nói như thế cả, không đúng sao?”
“Tôi nghe Phật nói Đạo hợp với chân thì thiện, chí hợp với đạo thì lớn, Phật Thích Ca Mâu Ni chưa từng nói, ngưới xuất gia lớn hơn Thổ địa công công vậy!”
Từ Ân hòa thượng đỏ mặt nói: “Chính Pháp cao hơn nhiều so với Thiên Tiên ngoại đạo.”
“Không sai, Thiên Tiên ngoại đạo thấp hơn một chút so với Chính Pháp, nhưng sao ngài lại biết, sau khi họ trở thành Thiên Tiên thì đã thỏa mãn mà không cầu Chính Pháp nữa? Huống hồ đạo của Thiên Tiên so với quả của người lại cao hơn nhiều vậy.”
Từ Ân hòa thượng nghe tôi giải thích như thế, từ đó ông ta biết được, mặc dù Chính Pháp ở trên cao, nhưng vẫn không được xem thường Thiên đạo.
Tác giả của tác phẩm “Tạo hóa thông” Nguyễn Ấn Trường cho rằng: “Nghiêm quân bình tương tự, hạ đãi linh bài, lắc xăm, mao chiêm, cốt bốc, tinh thành sở cảm, loại hữu túc bằng, đây là Hạ thừa của Đạo. Thối địa vận thủ lạc thư cửu số, bốc quân cơ trọng kỳ môn cửu tinh, nghiệm nhân sự thượng lụa nhâm thập nhị thần tướng, đây là Trung thừa của Đạo. Nhược phu trắc thế giới đại vận, duy hoàng cực dịch tượng dữ dại ất lí số, năng thối kỳ thường, chu thiên túc diệu hành độ năng quan kỳ biến, đây là Thượng thừa của Đạo.” Đoạn này của Nguyễn Ấn Trường, đã nói ra hết những lời trong lòng của tôi, Phật chia làm Tam thừa, ý nghĩa trong đó chính là ở đây.
Hôm nay, bất kể là lên đồng cũng được, phi loan cũng được, Viên quang cũng được, càng có người sáng tạo lụa giáo hợp nhất, ngũ giáo hợp nhất, thậm chí vạn giáo đồng minh, Thiên hạ vạn giáo đồng minh, Thiên cung thọ mạng, Di Lặc hạ sinh, chỉ cần hành pháp không sai lệch, không hẳn không phải là sự trợ duyên của Chính Pháp, cho nên “Theo Bồ Đề tâm, tất cả ngoại Đạo đều là Chính Pháp.” Nhưng, nếu là mượn Thần Phật để lừa tiền, điên đảo chúng sinh, thừa hành dị pháp, thậm chí mê tín ăn nói ngông cuồng, đó chính là đã đi vào ma đạo thật sự.
Pháp mà tác giả học, không những tôn sùng Tiểu thừa chi đạo, cũng tôn sùng Đại thừa chi đạo, vả lại mục tiêu cuối cùng cũng vẫn là tâm yếu Chính Pháp của sinh tử viên đầu, Tôi do có được sự trợ duyên của “Linh Cơ Thần Toán”, hướng dẫn mọi người quy về Phật giáo, hôm nay Phật giáo chỉ là giảng kinh, thuyết pháp, vốn không có những thuật biến hóa thần kỳ, vả lại không biết những phép chiêu hồn khu linh, không biế “Quy y Đại Đạo”, chỉ biết tụng kinh lễ Phật mà thôi, cách làm này nếu không phải ngoại đạo tương trợ, không thể nào có được tu tích tốt như thế, ngày nay có nhiều người tin Phật, trong quá khứ là tính đồ trong cung miếu, trong mười người đã có hết tám người sau ngoại đạo mới cầu Chính Pháp vậy, vì thế sự trợ duyên của Chính Pháp, người xuất gia không được xem nhẹ, cũng không thể không tôn kính, đừng nói là mở miệng là phỉ báng.
Theo như tôi được biết, một số người xuất gia tại sao lại tỏ vẻ tôn kính nhưng lại tránh xa Quỷ thần chi linh, nguyên nhân chính là Quỷ linh luôn luôn giả dạng thành một vị Đại Tiên nào đó, và còn đàm huyền luận cơ, nói năng lảm nhảm một hồi, người xuất gia không biết đâu mới là Thần Tiên? Người nào là do quỷ quái giả dạng? Vì không có cách nào để phân biệt, cho nên mới thà rằng tất cả đều không tin, tác giả từng xem lên đồng viết chữ ở một Thần đàng nọ, Linh đó tự xưng là Lữ Đồng Tân tổ sư hạ giáng, nhưng tôi vận linh nhãn vừa nhìn thì đã biết không phải Lữ Đồng Tân tổ sư, mà là một cô hồn dã quỷ rất có linh khí, đương nhiên là khi quỷ linh giảng kinh chẳng qua chỉ là phương pháp tu luyện của Quỷ linh tinh khí mà thôi, cho nên Phận Thánh và phàm phu vốn dĩ bình đẳng chẳng khác nhau là mấy, chỉ là tu luyện rồi ngộ khác nhau mà thôi, trên thì là Phật, dưới thì là phàm, Thiên Tiên ngoại đạo trở thành nhịp cầu nối giữa Phật và phàm, đó phải xem khả năng lĩnh ngộ của bạn, khả năng tu luyện, còn nhân quả kiếp trước càng quan trọng hơn. Thiên Tiên ngoại đạo không thể quy y, nhưng phải tôn kính, đó là những lời hôm nay tôi nói với một số người xuất gia và những người tu luyện Phật giáo, giả thử hôm nay tôi nói Quan Thế Âm Bồ Tát đã từng nhỏ xuống đầu tôi vài giọt Cam Lộ từ trên không trung, và làm cho mọi bệnh đau của tôi hoàn toàn bình phục, thân thể khỏe khoắn, bạn có tin hay không? Điều này có thể khả năng đấy, vì Quan Thế Âm Bồ Tát không nơi nào là không hiện thân được! (Phụ ký: Tác giả từng khuyên người khác cúng dường tượng Phật, khuyên người niệm Phật, khuyên người theo đuổi Chính pháp Phật môn, tại sao những người này lại tin Phật một cách thành khẩn không nghi ngờ, đều là do Linh Cơ Thần Toán của tôi, tôi đoán ra được bí mật của họ, họ vì thế mà bỏ xuống mọi việc trần tục, toàn tâm toàn lực phụng sự Phật pháp).
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Pháp yếu mật chú
Thông thường mà nói, những chú ngữ nhà Phật công khai ra là rất nhiều, cũng vô cùng linh dị, có “Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm Thần Chú”, chú là Phật Thích Ca Mâu Ni từ trong nhục kế tỏa ra ánh sáng Bách Bảo, trong ánh sáng tỏa ra tòa Bảo Liên ngàn lá, có hóa Như Lai ngồi giữa tòa Bảo Liên Hoa, đỉnh đầu phát ra mười đạo Bách Bảo Kim Quang, từng luồng ánh sáng đều hiện ra, Thập Hằng Hà Sa, Kim Cang Mật, Kính Sơn Trì Chữ, Phiên Hư không giới, Đại Chú được tuyên ra dưới bảo tướng như thế. Ngoài ra có Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Chú, tục gọi là Đại Bi Chú, lại có “Như Ý Bảo Luân Vương Đà La Ni Chú”, “Tiêu Tai Cát Tường Thần Chú”, “Công Đức Bảo Sơn Thần Chú”, “Chuẩn Đề Thần Chú”, “Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Đà La Ni Chú”, “Dược Sư Quán Đỉnh Chân Ngôn”, “Quán Âm Linh Cảm Chân Ngôn”, “Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn”, “Võng Sinh Tịnh Thổ Thần Chú”, “Thông Thiên Như Ý Chú”, “Thiện Nữ Thiên Chú”, mười chú này, chính là Thập Tiểu Chú
Chú ngữ của Đạo gia, thì càng nhiều hơn, tính ra có “Thỉnh Tiên Tổng Chú”, “Quy Y Chân Ngôn”, “Đại Minh Lục Tự Chú”, “Hòa Hợp Chú”, “Chiêu Thổ Địa Chú”, “Thông Thiên Như Ý Chú”, “Pháp Bảo Phù Chú”, “Hỗn Thiên Chú”, “Truy Hồn Chú”, “Ngũ Quỷ Hỗn Thiên Chú”, “Huyền Nữ Chú”, “Kim Quang Chú”, “Thái Dương Thái Âm Chú”, “Ngũ Phương Lôi Điện Chú”, v.v… những Chú trên đều là công khai, còn có rất nhiều Mật Chú không công khai ra, đa số đều là chọn người để truyền thụ, nếu truyền cho kẻ xấu, luôn luôn bị kẻ xấu lợi dụng những chú ngữ nàu để làm việc xấu, vậy thì vô cùng tai hại.
Chú ngữ còn gọi là Chân ngôn, đều là đạo hạnh cả đời tu trì của Thánh Thần Tiên Phật mà ngưng tụ thành một câu nói, y theo câu nói này tu niệm, thì là một cách có thể độ mình độ người, người tu mật chú, có một vài điều nhất thiết phải chú ý, đây là điều vô cùng quan trọng.
Thứ nhất, giữa chú không được tham nhiều, giữ một chú lâu dài là chính. Ngày nay thông thường mọi người giữ chú, niệm chú luôn luôn tham nhiều, muốn họ giữ chú, thì họ lại thuộc lòng mỗi một loại chú, mỗi một loại chú cũng đều cảm thấy quan trọng, cũng mỗi một chú đều niệm, niệm chú chỉ nên niệm nhỏ trong miệng, không được xuất ra từ miệng, tai nghe được, in vào tim, niệm chú như thế thì giống như mục đồng hát bài ca sơn dã, cũng giống như ca sĩ hát những bài ca thịnh hành, hoàn toàn không có chút hiệu nghiệm nào cả. Mật chú tổng cộng có tám vạn bốn nghìn, muốn thuộc lòng hết, thật không dễ chút nào! Cho nên giữ chú nếu giữ một chú, về lâu về dài, chú này trở thành tâm chú, tâm niệm vừa động, chú ngữ ba la mật, tâm chính là tất cả mọi pháp giới, thành Tiên thành Phật cũng tại nơi tâm niệm thôi!
Tác giả giữ Chân ngôn Thất Phật Diệt Tội của nhà Phật: “Li Bà Li Bà Đế. Cầu Kha Cầu Kha Đế. Đà La Ni Đế. Ni Kha La Đế. Tỳ Lê Ni Đế. Ma Kha Da Đế. Chân Lăng Càn Đế. Sa Bà Kha.” Chú này chỉ có 7 câu, dễ niệm, không chỉ diệt tội, còn có đại công đức, Thất Phật hộ trì, mọi đẳng cấp thần thông diệu pháp không ngừng tuôn ra từ trong lời Chân ngôn này, Chân ngôn này tôi giữ đã rất lâu, không biết đã niệm biết bao nhiêu vạn lần rồi! Tâm niệm vừa động, không cần đợi linh cảm. Đạo gia thì tôi giữ Lục Giáp Thần Chú tổng cộng chia làm: Lục Giáp Dương Thần Chú, Lục Đinh Âm Thần Chú, theo chú này lâu dài thì hành pháp tự có thần thông không phải nghi ngờ.
Thứ hai, giữ chú không được niệm sai. Luôn luôn có số người tuy rằng giữ chú, nhưng lại niệm sai một chữ trong chú ngữ, ví dụ:
Có một cụ bà 50 mấy tuổi thường đến cúng bái tại Phật đường của tôi, cụ niệm sai mấy chữ đầu trong Quan Thế Âm Linh Cảm Chân Ngôn là: “Yêm, Ma Ni Như Mị Hồng” niệm thành “Yêm, Ma Ni Như Mị Ngưu”, “Hồng” biến thành “Ngưu”, bà cụ này trồng cây ăn trái trong Vụ Phong Lục Cổ, mỗi ngày lên núi xuống núi cũng đều niệm chú ngữ, cứ như thế niệm không ngừng suốt mười năm ròng, nói ra thì kỳ lạ, từ chân núi đi lên đến núi phải đi qua một lòng một con sông hẹp và dài, mỗi lần cụ niệm động “Yêm, Ma Ni Như Mị Ngưu” toàn độ đá ở dưới lòng sông đều nhảy tưng tưng, cứ mỗi lần cụ niệm nhảy một lần, niệm hai lần thì nhảy hai lần, lần đầu tiên làm cho cụ sợ đến nỗi ngây cả người, sau này quen dần thành thói quen, cụ cũng không còn sợ nữa. Cho đến một hôm cụ kể với tôi, tôi suy đoán cặn kẽ thì ra là niệm sai lời chú, lời chú không bình thường, niệm lâu rồi, tự nhiên sẽ sản sinh những hiện tượng dị thường, nhất là cụ bà dùng tâm chăm chỉ niệm, chú lực của cụ bà thậm chí có thể khu động các viên đá!
Tôi và cụ vào trong núi Lục Cổ, tôi bảo cụ niệm “Yêm, Ma Ni Như Mị Ngưu”, và sau đó bảo cụ lệnh cho những viên đá chất thành đống về phía đông, cụ làm theo lời của tôi, kết quả là những viên đá đều chạy về hướng đông tập trung lại, cụ lại niệm, những viên đá toàn bộ chạy về phía tây, tôi lại chỉ cho cụ niệm “Hông”, lúc này những viên đá không chút động đậy, điều này đã chứng minh, giữ một thần chú, công lực vô cùng, lại niệm sai một chữ, chỉ có thể khu động những viên đá. Cho nên những người niệm chú nhất định không thể niệm sai, điều này vô cùng quan trọng, vô cùng quan trọng.
Thứ ba, vô trú vô niệm, chí đại chí cương. Kim Cang kinh có câu: “Ứng vô sở trú nhi sinh kỳ tâm”. Đây là tâm yếu giữ chú của Vô Thượng Pháp Môn, cũng chính là Tâm tức chú, chú tức tâm, tâm động tức chú động, lúc nào cũng niệm, nơi nào cũng niệm, vì lúc nào cũng niệm, luôn luôn chuyển động Chân ngôn, như tình trạng nhất tâm bất động, đó chính là đã vào trong Tam Muội Kim Cang Đại Định, chí đại chí cương trở thành Kim Cang bất hoại chi thể, điều này thật thần diệu biết bao.
Tác giả cho rằng giữ chú tức là giữ công phu giới tu, cũng chính là bí phương nhanh chóng do mê nhập ngộ, người muốn khởi linh nếu có thần chú gia trì, công lực tự nhiên đại tiến, thật không tầm thường, mạc đẳng nhàn thị chi, khởi linh chi đạo cũng ở trong lời chú, từ một người phàm phu trở thành “Linh động”, cũng là dựa vào đại lực của khẩu niệm tâm ấn của bốn chữ “Dao Trì Kim Mẫu” mới có thể thành công.
Mật Tông Pháp Môn, Diệu Tí Bồ Tát hỏi kinh rằng: “Người tu hành nếu muốn giữ tụng cho nhanh biết người thành tựu địa nghĩa. Toàn bộ nghi pháp không được khuyết phạm một chút nào, làm cho mọi ma chướng được lợi. Là người tu hành cũ, khi người giữ tụng, trường kỳ không ngừng, kiến cho quán tưởng, chân ngôn, tự chủng, nhất nhất tinh thục, sự sự tương ứng, mới thành du gia vô tác diệu hành. Lại có người giữ tụng, bất đắc tâm duyên dị cảnh, dữ nhân tạp ngữ, tụng nhược gián đoạn, tất địa bất thành. Lại tụng bất y nghi pháp, hoặc không giữ giới, hoặc không thanh tịnh, phi duy pháp bất thành tựu, diệc đương chiêu tổn.”
Thiện giới kinh rằng: “Thụ trì thần chú, năm điều không được làm: 1. Ăn thịt, 2. Uống rượu, 3. Ngũ tân, 4. Dâm sự, 5. Ăn uống ở nhà không trong sạch.” Nếu giữ được năm giới luật này, thần chú gia trì, tìm độc trừ ma đều làm được cả, niệm tâm chuyển động, có lợi ích to lớn, ác thần độc bệnh, đều có thể giải trừ.
Tiên thiên vô cực chính pháp của Tam Sơn Cửa Hầu tiên sinh truyền thụ cho tác giả, chính pháp này tức là chính chú, nếu thành tâm giữ chính chú, trời cao tất sẽ cảm động, khi có Thần trực nhật Công Tào hạ giáng, cho nên người thụ trì Tiên thiên vô cực chính pháp nhất định phải cung kính cung thỉnh, chưa đến lúc cần thiết, không được tùy ý niệm động, đây là Đại La Thiên Chú của Đạo gia Tiên thiên vô cực phụng thỉnh Thiên Tiên Địa Tiên Tản Tiên Quỷ Tiên Kim Tiên.
Thậm chí những thần lai vãng nghe được lời tuyên chú này, thì không thể không giáng xuống, có thể so sánh với Bí lệnh của Cửa Lão Tiên Đô Phủ, đây chính là Dao Trì Mật lệnh thông hành trong trời đất tam giới, Tam Sơn Cửa Hầu tiên sinh truyền thụ bí lệnh này cho bao nhiêu người? Tôi không được biết, nhưng người biết thì là người biết, không biết là không biết, tuyệt đối không thể truyền thụ bí lệnh bừa bãi.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Viết về sự tích Thông linh Thần toán
Tiền thế nhân quả diệu kỳ
Đêm giao thừa, mọi người trong nhà đang vây quần bên mâm cơm, ngoài cửa sổ gió rét hiu hiu, cơm nước còn đang ăn nửa chừng, bỗng người bạn thân Tạ Xuân Hùng xộc vào với dáng vẻ khẩn trương: “Lão Lư, ông phải mau cứu người, mau cứu người, cháu gái của tôi sắp mất mạng rồi.” Trên tay anh ta ôm một tượng Bồ Tát Vi Đà, Tạ Xuân Hùng là tín sĩ của xã Giáo Liên Phật giáo Đài Trung, một giáo đồ Đạo Phật thành khẩn, trong nhà lễ Phật, con người nhiệt thành.
“Người ở dâu?”
“Nó giờ đang ở phòng bố đạo Vụ Phong, tín đồ phòng bố đạo Vụ Phong đang niệm Phật cho nó.” Thế là tôi không hỏi có việc gì nữa, khoác lên một tấm áo ngoài, lễ vái Phật Tổ, leo lên chiếc taxi đang đợi ngoài cửa, trên đường đi Tạ Xuân Hùng kể cho tôi nghe câu chuyện như sau:
Cháu gái anh ta tên Lưu Mẫn Ngọc, sinh viên năm thứ ba Trường Đại học Sư Phạm, học tập và đạo đức đều thuộc loại ưu, tướng mạo cũng rất thanh tú, nhưng hai năm trước đột nhiên thần kinh thất thường, nói năng lảm nhảm, ngủ một hơi bốn năm ngày không ăn uống, nhà trường thông báo đến phụ huynh của cháu là ông Lưu Đạt đón về nhà chăm sóc, các bác sĩ trong bệnh viện tâm thần sau khi kiểm tra sóng não nói rằng: “Không có bệnh, bị có dị trạng”.
Các bác sĩ tâm thần đành chịu bó tay, ngay cả những bác sĩ nước ngoài cũng được mời đến, và cũng cùng một câu nói: “Không có bệnh”. Cha của Mẫn Ngọc là một thương gia lớn trong giới thương mại ở miền trung, vì muốn cứu người con gái yêu của mình, không biết đã tốn biết bao nhiêu tiền bạc, toàn bộ bác sĩ đều chữa trị không được, chỉ còn cách cầu cứu đến thần linh.
Thầy đồng của miếu Vương gia công trong Phố Lí: “Lưu Nữ phạm quan mộc sát, nhất thiết phải cải nguy tế sát, đồng thời nhất định phải ở lại trong miếu bốn mươi chín ngày, mới có hiệu lực”. Thế nhưng Mẫn Ngọc ở trong miếu, cả ngày hôn mê, lúc tỉnh dậy còn nói năng bừa bãi càng dữ hơn, sau cùng chữa trị vô hiệu, Vương gia công thần thông pháp lực không đủ, ngay cả vị đồng bóng đó cũng lắc đầu than thở vô phương. Lại đến miếu Ngũ Vương miếu của Đài Nam Quan Miếu thỉnh thần điều trị, cúng bái Ngọc Hoàng Đại Đế, đốt hết cả một xe giấy tiền vàng mã, kết quả lúc thì tốt lúc thì xấu, khi tốt thì lúc tỉnh lúc mê, khi xấu thì sức lực mạnh vô cùng, mười người cũng bắt không không nổi, lúc khóc lúc cười, nhảy nhót lung tung, ở Ngũ Vương miếu điều trị nửa năm trời, kết quả vô hiệu. Rồi sau đó Từ Vân Tự cầu cứu hòa thượng trụ trì, hòa thượng này tự xưng có thể dùng quạt quét tan yêu ma quỷ quái, ma mị yêu tinh, thấy liền bỏ chạy, kết quả là sau hai tháng điều trị, hòa thượng nói: “Đây là do bị Lí Ngư Tinh theo tác quái, xem tôi thu thập yêu tinh.” Kết quả là hòa thượng niệm Đại Bi Chú, dùng nước phép và quạt đánh lên người của Lưu Mẫn Ngọc, không những vô hiệu, hòa thượng còn làm ra vẻ tức giận: “Hừm! Thiện tai! Thiện tai! Lý Ngư Tinh này thần thông quảng đại, pháp lực của ta không đủ, thật hổ thẹn, thật hổ thẹn, ông đi mời cao nhân khác đi! Tôi đã đủ phiền lắm rồi.” Ông Lưu Đạt dẫn theo con gái yêu đến cầu cứu thầy đồng ở Miếu Vương Mẫu Ngô Khê, thầy đồng dùng bùa dán đầy lên người của Mẫn Ngọc, và ba buổi không cho ăn bữa nào, chỉ được uống nước phép mà thầy đồng vẽ ra, cứ như vậy suốt ba ngày, Mẫn Ngọc bị sốt cao, sắc mặt chuyển đen, nhãn cầu chuyển sang trắng, đồng thời lảm nhảm không ngừng, tình trạng cực kỳ nghiêm trọng, bệnh chưa được chữa khỏi mà bị chết vì đói đã thấy ngay trước mắt, thầy đồng cũng hết cách. Lại đưa về Bệnh viện tâm thần để trị liệu bằng điện.
TạXuân Hùng nói: “Những đền chùa cung miếu ở khắp nơi, đã được cầu trên trăm nhà, toàn bộ đều vô hiệu, ngay cả Đại sư Phật học Lý Bỉnh Nam, chúng tôi cũng có cầu qua ông ta, nhưng ông ta không lo được việc này, ông ta chỉ giảng kinh thuyết pháp, không chịu lo những việc như thế, cho nên tôi đột nhiên nghĩ đến anh, anh cũng có một chút linh lực, ngựa chết cũng chữa trị được như ngựa sống, lần này phải nhờ cả vào anh, nếu anh không cứu nó, nó sẽ bị mất mạng. Hôm nay nó nói có hai người muốn đến lấy mạng của nó.”
Đếnphòng bố đạo Vụ Phong, tôi hướng về phía Phật Tổ vái lạy, trên đại sảnh, rất nhiều vị Liên hữu bỏ cả ngày đoàn viên của đêm giao thừa, đến nơi đây niệm Phật cho một cô bé đang giành giật với cái chết, trong lòng tôi rất là cảm động, Lưu Mẫn Ngọc ngồi ở đại sảnh phòng bố đạo, tiếng nói chuyện sắc bén chẳng lẽ là có người muốn dẫn cô bé đi, cô bé không thể sống nữa sao, tướng quân Ngưu đầu Mã diện đến rồi và chỉ về phía những Liên hữu đang niệm Phật chửi lớn: “Chỉ biết niệm Phật thì có ích gì, tử thần vẫn sẽ bắt các người đi thôi.” Tôi gặp anh Lưu Đạt, cũng gặp gỡ mẹ đẻ của Mẫn Ngọc, tôi hỏi thăm tình trạng của Mẫn Ngọc, theo nghi thức Phật giáo cầu Đại Bi Thủy, cầu Đại Bi Chú cho Mẫn Ngọc, dùng chú rải khắp người Mẫn Ngọc, nó không một chút phản ứng.
Lúc này tôi nhờ Liên hữu niệm: “Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát”. Tôi đứng ở giữa đại sảnh, mắt nhìn về vị Địa Tạng Bồ Tát tay cầm thiếc trượng ngồi phía dưới thiền tọa của Phật Tổ, miệng cung niệm lời chú Tiên thiên vô cực Chính pháp, phụng thỉnh Địa Tạng Bồ Tát, tôi vận linh nhãn rất lâu, quả nhiên nhìn thấy dưới thiền tọa của Phật Tổ tách đôi ra, một vị Bồ Tát từ từ bay lên từ trong đất, đầu đội Ngũ Phật Kim Quán, thân khoác áo cà sa ngồi trên tòa sen bảo quang, tay cầm thiết trượng, Bồ Tát khẽ đưa mắt nhìn và nói: “Liên Sinh, người này có nhiều bệnh là do báo ứng của sự cuồng mê, ta là phân thân của Địa Tạng Bồ Tát tại phòng bố đạo Vụ Phong này, đã là như thế, trò gọi lên có việc gì!”
“Bồ Tát, cô bé đêm nay tất chết sao?” Tôi hỏi một cách khẩn thiết
“Không phải, đây là do sự tích tụ của chúng oán, không phải chết đi là xong việc, đó là những lời nói ngông cuồng khi bị sợ hãi, không thể xem là thật được.
“Bồ Tát, cô bé bị bệnh gì, con có thể cứu chữa được hay không?”
“Thức Thần triền oan, phải có đại lực mới có thể giải được”. Địa Tạng Bồ Tát nói dứt câu, thì kim thân cũng từ từ biến mất, thiện tọa tách ra làm đôi đó cũng khép trở lại, không để lại một kẽ nứt nào. Tôi nói với anh Lưu Đạt, con gái anh là Thức Thần triền quỷ, nếu không có đại lực thì không giải được, đôi chân mày của anh Lưu cau lại, tôi lại bảo anh ta con bé nói có người đêm nay sẽ lấy mạng cô bé, đó là lời nói nhảm. Sự thật đã chứng minh là đêm đó cô bé không có lìa khỏi thế gian, cách không lâu sau, lại đưa đến tịnh dưỡng ở miếu Quan công.
Vài hôm nay, vô chồng anh Lưu Đạt đến chỗ tôi: “Anh Lư, làm phiền anh tận tâm điều trị cho nó, nếu như trị không khỏi, chúng tôi cũng không cần đứa con gái này nữa, chúng tôi đã bỏ ra hết mọi tâm huyết, những điều có thể làm đều làm cả rồi, con đường nên đi thì cũng đi cả, hôm nay miếu Quan công ở Đài Nam cũng không giữ được nó tái phát khá nghiêm trọng, đêm nay chúng tôi đi xe đêm đến Đài Nam đón nó về, bảy giờ ngày mai, xin mời đến nhà, dùng pháp lực của anh để chữa trị cho nó, làm phiền làm phiền anh!”
“Tôi an ủi họ: “Thôi được, tôi sẽ cố hết sức, mọi việc đều nghe theo Phật vậy tin rằng pháp lực vô biên có thể trị liệu cho chứng cuồng mê của cô bé.” Đêm đó tôi đốt nhang cầu khấn cho việc này, và sau đó lên giường ngủ, nói ra thì cũng lạ, khi tôi đang trong lúc mơ màng sắp ngủ, nhìn thấy một cảnh tượng kỳ lạ, tôi nhìn thấy một cây cầu rất là dài trên cầu có sương mù, đó là một đêm khuya mờ ảo, có một người đàn ông ẵm một người con gái, trên thân người con gái ấy có cột một cục đá lớn, người đàn ông ném người con gái đó vào dòng nước đang chảy xiết, “Ùm” một tiếng nước bắn tung tóe, lúc này tôi dường như biến thành người con gái đó, đau khổ vì không thể hít thở được, tiếp đó thi người đàn ông đó, mang theo một thanh đao võ sĩ, đuổi giết một người đàn ông khác trong một con hẻm tối, chém đến cả người đẫm máu, sau đó mang thi thể của người đàn ông đó ném vào trong một hố tro lớn, tôi nhìn thấy thi thể của người đàn ông đó từ từ bị chôn vào trong đống tro, còn lại một cánh tay, sau cùng cả cánh tay không còn nhìn thấy nữa. Người đàn ông giết liền một lúc hai người đó quay mặt lại, tôi cảm thấy gương mặt của hắn ta càng biến càng giống Lưu Mẫn Ngọc, A! trong lòng tôi thất kinh, hắn ta chính là Lưu Mẫn Ngọc đây! Thấy đến đây, tôi giật mình tỉnh dậy, đưa tay lên nhìn đồng hồ, đã là 4 giờ sáng, tôi mặc áo ngồi dậy, rửa sơ mặt đi vào trong Phật đường, tôi đốt nhang và âm thầm xin Phật Tổ chỉ thị, rất nhanh: “Cái nhìn thấy trong mộng, là Nhân quả kiếp trước của Lưu Mẫn Ngọc, oan hồn tìm về báo thù, nhân quả theo lên mình, nếu muốn giải thoát nên giải oán kết.”
7 giờ sáng, tôi vội đến nhà anh Lưu, Lưu Mẫn Ngọc nằm sấp ở trên giường, mắt nhắm lại, không nói lời nào, tôi nói cho họ nghe lời mộng thị của Bồ Tát đêm qua, họ không có lời gì để nói, thế là họ theo tôi về Phật đường của tôi, tôi lấy ra đĩa thần, để cho vợ chồng Lưu Đạt chạm vào, đĩa thần chỉ thị: “Kiếp trước của Lưu Mẫn Ngọc, đã giết một nam môt nữ, kiếp này chuyển sinh đầu thai thành nữ, oan hồn kêu oan, theo lệnh của Địa Tạng Vương, giữ âm lệnh tìm mạng sống của Lưu Mẫn Ngọc về, đồng thời bắt Lưu Mẫn Ngọc phải điên điên khùng khùng tám năm, mới có thể giải trừ oán khí đã giết một nam một nữ, người đàn ông bị giết họ Hoàng, người phụ nữ họ Lâm, nay do nhân quả báo ứng, vì thế nên các thần thánh trong đền chùa cung miếu cũng phải bó tay”. Đĩa thần chỉ thị rất rõ ràng, vợ chồng Lưu Đạt bốn mắt nhìn nhau, mẹ đẻ của Mẫn Ngọc thở dài một hơi nói: “Chẳng trách Mẫn Ngọc mỗi khi lên cơn, cũng đều kêu to họ Hoàng và họ Lâm tha mạng, đồng thời nói rằng kiếp trước đã giết người, kiếp này bị khùng điên là do báo ứng”.
Lưu Đạt họ đĩa thần: “Có hiệu lực không?”
Điã thần chuyển đến một câu thành ngữ: “Giải nút phải tìm người thắt nút”. Do đó tôi cung thỉnh Địa Tạng Bồ Tát dẫn oan hồn của họ Hoàng và họ Lâm giáng vào đĩa thần để chỉ thị, kết quả là hai oan hồn giáng xuống đĩa thần, ban đầu hai người họ không chịu nhường bộ một bước nào, nhất định phải giày vò Mẫn Ngọc cho đến chết mới thôi, về sau do vợ chồng Lưu Đạt van xin thống thiết, và nói rõ đạo lí “Oan gia nên giải không nên kết”, van nài hai hồn tha cho Lưu Mẫn Ngọc, sau cùng hai hồn đưa ra điều kiện: “Thứ nhất, tạo một kim thân Phật Bồ Tát, công đức chuyển cho hai oan hồn. Thứ hai, Địa Tạng Bồ Tát siêu độ pháp hội ba ngày, công đức chuyển cho hai hồn. Thứ ba, phát nguyện xây Phật tự, quyên tiền hương hỏa một trăm sáu mươi ngàn tệ, công đức chuyển cho hai hồn. Thứ tư, vào tháng 7 hàng năm làm lễ phổ độ vong hồn một lần, công đức chuyển cho hai hồn, liên tục trong 5 năm. Bồn điều kiện trên đều phải làm cả, Từ Huệ Lôi Tạng Tự Dao Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn, Tích Ca Mâu Ni Phật, Địa Tạng Vương Bồ Tát chứng giám, sau ba ngày Địa Tạng Pháp hội, giao về âm lệnh, là ngày trả lại sự tỉnh táo cho Lưu Mẫn Ngọc”.
Vợ chồng Lưu Đạt vì con gái yêu, quỳ xuống phát nguyện ngay đại sảnh, đồng ý sẽ làm đúng bốn điều kiện đưa ra. Địa Tạng Pháp Hội, sẽ do tác giả Tạ Xuân Hùng, bản thân Lưu Đạt, ngoài ra thỉnh hai vị nữ Liên hữu của Liên xã, tất cả năm người cùng tụng Địa Tạng Kinh, bái kim cang sám, tác giả đứng vào tôn vị trung tâm, niệm sơ hỏa hóa, bắt quyết hóa thực, mọi cái đều làm theo quy tắc của Phật môn, trong đó hóa thực được tôi dùng phương pháp của Tam Sơn Cửa Hầu tiên sinh truyền dạy.
Điều kiện đầu tiên dựng kim thân, ông Lưu đã mau mắn hoàn tất. Điều kiện thứ hai, đều được làm xong. Điều kiện thứ ba, Dung Lôi Tàng Tự sau này xây mở rộng xong mới bàn tiếp. Điều kiện thứ tư, cũng giống như điều kiện thứ ba, cần có thời gian, nhất định cũng đều làm được.
Nói thì cũng kỳ lạ, ngày thứ bảy sau ngày Địa Tạng Pháp Hội, Lưu Mẫn Ngọc dần dần phục hồi thần trí, trong khoảng thời gian một tháng, hoàn toàn khôi phục sức khỏe, gương mặt thanh tú, thần thái phấp phới, cô bé đến làm giáo viên thời vụ trong trường học, nhận được lương tháng thứ nhất, vui mừng hớn hở như con nít, vui đến nỗi muốn khóc, ở đó không lâu, cô bé sẽ trở về Trường Đại học Sư Phạm, tiếp tục hoàn tất việc học hành của mình, và về sau cũng giống như bao người khác, bước đi trên đại lộ quang minh của đời người. (Hậu ký: Nhân vật trong văn phẩm này hoàn toàn là sự thật, vì hôn nhân tương lai của Mẫn Ngọc, cho nên tên người được cố tình thay đổi, điều này mong độc giả lượng thứ).
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Ông già trồng cây quả
Một cô gái xinh đẹp dắt một ông cụ 63 tuổi đến tìm tôi, cô gái đó mới 18 tuổi, rất hoạt bát, da mặt đỏ như quả táo chín đỏ, thế nhưng ông ngoại của cô thì lại có màu da mặt xám như sắt, rất mệt mỏi, hai ông cháu trở thành một sự đối lập rất mạnh mẽ.
Cô gái nói: “Nghe người ta nói, Lư tiên sinh biết đoán số, thay người khác giải trừ nghi nạn, tôi dắt ông ngoại đến đây, vận số năm nay của ông ngoại năm nay không tốt, ngài có thể đoán xem ông khi nào mới khai vận không? Mong ngài có thể đoán ra, ông ngoại họ Quách, tên Như Phong, năm nay 63 tuổi, nhà chúng tôi ở Phong Nguyên, chúng tôi đã đón xe đi từ Phong Nguyên đến đây.” Cô gái đó rất biết ăn nói, nhưng ông ngoại cô thì chẳng nói câu nào cả.
Tôi đốt giùm họ 3 cây nhang, cô gái đón lấy nhang, vái vài cái rồi cắm nhang vào lư hương, tôi chắp tay cầu nguyện về chuyện này, trước mắt hiện ra một ngọn núi, ngọn núi này dường như là nơi trồng cây ăn quả, cho thấy rõ nơi này từng có người chăm sóc, tôi quay đầu hỏi ông cụ: “Tiên sinh là người trồng cây ăn quả trên núi phải không?” Ông cụ nghe tôi hỏi, liền ngớ người ra, sau đó khuôn mặt xám màu sắt đó miễn cưỡng hé ra một nụ cười: “Đúng vậy, trên núi tôi trồng không ít đu đủ, nhưng Ngài đoán thử xem trên người tôi có bệnh gì. Làm thế nào mới chữa khỏi bệnh? Nếu chữa hết bệnh, tôi nhất định báo đáp Ngài, tôi đã tìm qua rất nhiều bác sĩ, tiêm thuốc uống thuốc đều không có hiệu quả.”
Tôi bèn nhìn móng tay của ông, và thấy khuôn mặt gầy ốm của ông, tám phần tôi đoán ông bị bệnh về dạ dày, ông cụ nói: “Lần này lại bị Ngài đoán trúng nữa rồi, không sai, dạ dày tôi có bệnh, nhưng bệnh dạ dày này của tôi rất kỳ lạ, nó đau trong những khoảng thời gian nhất định, bình thường ban ngày không đau, nhưng khi đến đúng 3 giờ sáng lại bắt đầu đau, đau đến đúng 4 giờ mới hết, sau 4 giờ thì hoàn toàn giống như người bình thường vậy, ăn được làm được, không hề có một tí bệnh nào, hễ đến 3 giờ sáng lại đau, đến 4 giờ thì hết, ngày nào cũng vậy, đau không chịu nổi, giống như đang sống trong địa ngục trần gian vậy, thật sự rất muốn tự sát cho xong, khám hết tất cả các bác sĩ, mỗi khi đến 3 giờ đều phải tiêm thuốc giảm đau, nếu ngày nào không tiêm thì lại đau. Nói thật, cả đời tôi không tin quỷ thần, hôm nay đến nhờ Ngài là lần đầu tiên trong đời tôi.
“Bệnh đau dạ dày từ 3 giờ đến 4 giờ, quả thật là quái lạ! quái lạ! Ngay cả đau cũng có khoảng thời gian nhất định, đây là lần đầu tiên tôi nghe đó.” Tôi xin chỉ thị của Thần Minh, tôi lại nhìn thấy ngọn núi trồng cây ăn quả đó, và lại thấy trong cây đu đủ, ẩn hiện một ngôi mộ, trên mộ có khắc chữ, 4 chữ đầu tiên là “Hiển Tỷ Tô Công”. Thế là tôi lại hỏi: “Trên núi của ông có một ngôi mộ phải không?”
“Đúng vậy, khi tôi mua ngọn núi đó, thì đã có một ngôi mộ, ngôi mộ này đã bị nứt, không ai tu bổ, mấy năm nay tôi không hề thấy có con cháu đến thăm mộ.
“Người chôn trong ngôi mộ họ Tô phải không?”
Ông cụ giật thót người: “Sao ngài biết?”
Thông qua kết quả Linh Cơ Thần Toán là như vậy: ông cụ trồng cây đu đủ trên núi, cây đu đủ lớn dần, những cây đu đủ trồng quá khít, rễ cây thô lớn đâm vào trong mộ, đâm nứt cả xi măng, đồng thời, rễ cây đu đủ đâm vào trong quan tài, trực tiếp quấn lên tử thi, ông Tô đó là do đau dạ dày mục xương mà chết.
Sau khi tìm ra nguyên nhân bệnh đau dạ dày của ông Quách, ông nửa tin nửa ngờ, và đơn thuốc mà tôi bốc cho ông là như thế này: chuẩn bị trái cây trà nóng, cúng trước mộ Tô Công, bẩm báo lỗi lầm của mình, đồng thời trùng tu ngôi mộ, bốc xương để vào trong hủ cốt, rồi đặt vào ngôi mộ đã trùng tu, như vậy bệnh đau dạ dày có thể hết mà không cần thuốc. Ông Quách do bệnh chữa lâu ngày nhưng vô hiệu nên chỉ còn biết làm theo đơn thuốc kỳ lạ của tôi, ông đã tốn hơn chục ngàn cho căn bệnh này, mà trùng tu ngôi mộ cũng chỉ mất mấy ngàn, thế là ông làm. Người bốc cốt phát hiện, quả nhiên rễ đu đủ đã quấn lấy linh cốt.
Mộ mới xây xong, đặt hủ cốt vào mộ, dạ dày của ông Quách không những không đau mà còn ngủ rất ngon giấc, ngày không còn đau chính là ngày hủ cốt được đặt vào ngôi mộ mới (tục gọi là Kiểm Kim Nhật), từ đó về sau, người mạnh khỏe như xưa, sắc mặt dần đỏ hồng, ông vốn là một người khỏe mạnh, cả đời rất ít bệnh. Sau khi khỏi bệnh ông chạy đến tìm tôi, dắt theo cả cô cháu gái xinh đẹp, hỏi tôi: “Tiên sinh muốn tôi đền đáp như thế nào? Chỉ cần Ngài mở lời, thỉ tôi sẽ làm theo.”
“Được, nếu tôi mở lời, ông chắc chắn sẽ giữ lời chứ?”
“Đương nhiên, bao nhiêu tiền tôi cũng không để tâm đâu!”
“Tôi không cần tiền, tôi chỉ yêu cầu ông mỗi sáng thức dậy niệm 100 lần Nam Mô A Di Đà Phật.” Tôi cười nói.
“Niệm Phật? Ông ...... Ông không cần tiền?”
Cháu gái đứng bên cạnh ông nói: “Ông ơi, niệm Phật rất đơn giản, ông nhận lời đi! Mục đích của Lư tiên sinh là cứu người tế thế, ngài đoán số giùm người khác là không cầu tiền bạc đâu, cho tiền ngài chính là sỉ nhục ngài đó thôi!”
“Đúng vậy, niệm Phật công đức không nhỏ, chúng ta nên tích công đức trên thiên đàng.” Tôi nói.
Ông cụ nghe xong lời tôi nói, cuối cùng cũng quỳ xuống lạy Phật, và cũng đồng ý niệm Phật lạy Phật, ông ngàn lần vạn lần cám ơn tôi rồi đi mất.
Cũng có thể trong thời đại khoa học này, rất nhiều người không tin câu chuyện có thật mà tôi viết, cho là chẳng qua chỉ là trùng hợp mà thôi, bản thân tôi không yêu cầu mọi người ai ai cũng tin tôi, tin hay không là do bạn, nhưng nếu nói là trùng hợp, thì sự trùng hợp “Linh Cơ Thần Toán” xảy ra với tôi quả thật là quá nhiều.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Cánh tay của tín đồ Cơ Đốc
Nhan Vân Bằng tiên sinh là nhân viên Công ty Điện Lực Đài Loan, là đồng nghiệp với cha của tác giả, có một lần, Nhan tiên sinh dắt Nhan phu nhân đến nhà tôi, họ nhìn thấy Phật Đường nhà tôi, bản thân Nhan Vân Bằng đối với tôn giáo không nhiệt tâm lắm, đã từng ra nước ngoài sau khi tốt nghiệp đại học, là một phần tử tri thức, nhưng vợ ông thì khác, bà tốt nghiệp Trường trung học nữ Trưởng Vinh Đài Nam, ngôi trường này là trường giáo hội của Cơ Đốc giáo, Nhan phu nhân là người chủ trì đoàn khế giáo hội, mỗi tuần chủ nhật đều ôm lấy Thánh kinh đến giáo đường, không hề gián đoạn, bà là tín đồ trung thành của Cơ Đốc giáo.
Nhan phu nhân nói: “Tôi không tin những thứ này, tôi là tín đồ Cơ Đốc giáo.”
“Bà từng nghiên cứu qua Phật giáo chưa? Bà từng hiểu qua Phật giáo chưa? Bà chưa thể hiểu, thì đương nhiên bà sẽ không tin.”
“Tôi chỉ biết Phật Giáo là cúng tượng, là Tà giáo, là ma quỷ, thượng đế là Chân Thần duy nhất, tin Cơ Đốc có thể lên thiên đàng, cúng tượng nhất định phải xuống địa ngục.”
“Theo như những gì bà nói, vậy tôi là tà nhân, là đồ đệ của ma quỷ, bởi vì chúng tôi tin Phật, Phật cũng có tinh thần của Phật đó chứ!” Tôi nói.
Nhan phu nhân áy náy nói: “Ngài dĩ nhiên không phải tà nhân, cũng không phải môn đồ của ma quỷ, tôi nói là những người bình thường kia, Phật giáo có tinh thần của Phật giáo, nhưng tôi không muốn học nó.” Nhan Vân Bằng tiên sinh chỉ cười mà không lên tiếng, ông nhờ tôi hỏi sự nghiệp tương lai, thế mà tôi lại đoán ra hết sự nghiệp của tất cả các anh chị em của ông, chuẩn xác đến nỗi khiến cho Nhan phu nhân đứng một bên nghe cũng kinh ngạc.
“Một người em trai của ông làm cảnh sát ở Tân Hóa Đài Nam phải không?”
“Đúng vậy, trước kia nó rất khỏe mạnh, từng học qua Nhu đạo, nhưng dạo gần đây không khỏe lắm, không biết nó đã mắc phải bệnh gì?” Nhan tiên sinh hỏi tôi, Nhan phu nhân đứng một bên cúi đầu cười, bà cho rằng một người làm cảnh sát ở Tân Hóa Đài Nam thì tôi có thể đoán ra được bệnh gì chứ. Nhưng tôi âm thầm niệm thỉnh thần chú, và cung thỉnh chỉ thị, tôi nói: “Là bệnh phổi.” Nhan Vân Bằng và Nhan phu nhân bốn mắt nhìn nhau, bởi vì em trai của Nhan tiên sinh đúng là bị bệnh phổi. Nhan tiên sinh kinh ngạc gật đầu, Nhan phu nhân thì không cười được nữa.
Nhan phu nhân chỉ một bức tượng hỏi: “Bức tượng đó là Phật gì vậy?”
“Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật.”
“Vậy bức tượng kia là Phật gì?”
“Tây Phương Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Như Lai.”
“Vậy bức tượng kia lại là Phật gì?”
“Bản Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật.”
Ngón tay của bà chỉ từng bức tượng một, chỉ từng hàng từng hàng một, lúc này Nhan Vân Bằng nói: “Này, đừng có dùng ngón tay chỉ từng bức tượng mà hỏi, quá vô lễ đấy.” Chưa nói hết lời, nói ra cũng rất kỳ lạ, trong nháy mắt, tay còn lại của Nhan phu nhân lại tự động nhấc lên đến nơi bàn tay bà đang chỉ, hợp lại thành hình dáng hai tay đang chắp lại, sau đó đầu cúi 90 độ, ngẩng lên cúi xuống, liên tục không ngừng, hai tay của Nhan phu nhân không có cách nào tách ra được, và cơ thể bà cũng không ngớt cúi xuống ngẩng lên, dáng như đang lạy thần, nhưng lại có phần hơi quá thành khẩn, bởi vì thân người và tay bà không ngừng cử động lên xuống với một tốc độ quá nhanh. Nhan phu nhân la lớn: “Á, á, không thể ngừng được, ngừng không được, không ngừng được!” Nhan tiên sinh cũng bị kinh ngạc đến nỗi ngẩn người ra.
Tôi đứng bên cạnh vận dụng linh nhãn nhìn thì thấy hai vị tiểu thần, một vị là Trung Đàn Nguyên Soái Na Tra Tam Thái Tử, một vị là Trung Đàn Phó Nguyên Soái Kim Tra Nhị Thái Tử, một vị bay trên không, hai tay ấn vào cổ Nhan phu nhân, khiến cho đầu bà cử động lên xuống, một vị cầm tay Nhan phu nhân, kéo lên kéo xuống, cho nên cơ thể và tay của bà đều không ngừng được, tôi lại nhìn thấy hai mắt của Mê Xuyên Thiên Thượng Thánh Mẫu phóng ra một luồng tinh quang, ấn chặt lấy hai mắt của Nhan phu nhân, cho nên Nhan phu nhân la lớn: “Hai mắt không mở ra được, hai mắt không mở ra được.”
Tôi nói: “Bà muốn cơ thể ngừng cử động, muốn hai tay ngừng cử động, mắt mở ra được thỉ chỉ cần niệm trong lòng: xin tha thứ cho sự bất kính của tôi, xin tha thứ cho sự bất kính của tôi, xin tha thứ cho sự bất kính của tôi, niệm 3 lần là được, sau khi ngừng, lạy 5 cái là được.” Bà làm theo cách tôi chỉ, quả nhiên cử động ngừng, bà nói: “A! Quả nhiên là có thật. Hôm nay chúng tôi cố tình đến thử xem, quả nhiên là có thật, quả nhiên là thật.” Từ đó Nhan phu nhân không còn dám coi thường Thần Minh nhà tôi. Sau này mỗi khi đến nhà tôi, tuy bà là tín đồ Cơ Đốc giáo nhưng cũng chắp tay lạy, đốt nén nhang tượng trưng cúng Phật, bà nói: “Thần Minh linh cảm như vậy, cả cuộc đời tôi lần đầu tiên cảm nhận được, điều này là thật, là thật đó.”
Nhan Vân Bằng và Nhan phu nhân sau này trở thành hai người “Hoạt Linh”.
(Phụ lục: Lôi Tạng Tự Dao Trì Thánh Mẫu từng phân linh đến Nam Đài Trung, tên là Từ Huệ Nam Dương Đường, chủ trì Lại Nghĩa Hùng là một tín đồ chân thành của Phật giáo, sau khi rước Thánh mẫu về, cha của Lại Nghĩa Hùng không có tín ngưỡng, thường hay uống rượu, lúc nào cũng đứng trong Phật đường nói chuyện về rượu trong tình trạng đầy mùi rượu, không có lễ nghi gì cả, có một lần, cha ông Lại cũng quỳ dưới đất, đầu cúi dập đất, đến nỗi rách da chảy máu, cho đến khi Lại Nghĩa Hùng và mẹ ông quỳ xuống cầu xin Thần tha tội mới ngưng, từ đó cha ông mới không còn dám xem thường uy linh của Dao Trì Thánh Mẫu, ra vào Phật đường đều quần áo chỉnh chu, cung kính, kính Phật như Phật đang tồn tại vậy, trong không trung tự nhiên có thần quân giám sát, lực lượng của Linh không thể xem thường được, Thần Phật vốn từ bi, khoan hùng độ lượng, nhưng không thể sỉ nhục quá đáng, nếu quá sỉ nhục, Hộ Pháp Thần không thể mở to mắt nhìn mà không hỏi. Theo như bản thân tôi được biết, tôn giáo có rất nhiều giáo phái khác nhau, Phật đã chia ra tám vạn bốn ngàn pháp môn, tuyên thuyết tám vạn bốn ngàn mật pháp, đây là cách làm nhằm để tiện việc phổ độ chúng sanh, tuy tôn giáo thì nhiều, nhưng tôn chỉ thì không khác nhau lắm, nhưng con người lại tự cho rằng tôn giáo mà mình tín ngưỡng là Chánh giáo, những tôn giáo khác là Tà giáo, như Thiên Chúa Giáo xem Cơ Đốc Giáo là Tà giáo, Cơ Đốc Giáo xem Thiên Chúa Giáo không hợp với giáo lý, sự kỳ thị giữa người và người này, há chẳng phải là điều mà chúng ta có thể tưởng tượng được khi năm xưa Jésus của Cơ Đốc giáo bị đóng lên Thập Tự Giá đó sao?)
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Ra vào Thập pháp giới
“Sở vị Chân Nhân Giả, nãi vị nhất thiết giai hoang giai giả.” Câu nói này là một câu danh ngôn trong Tâm Đăng Lục, lại nói: “Chân Nhân Giả, thông quán thập phương, biến du Pháp giới, ẩn tắc vô hình vô tướng, hiển thời biến hóa nan trắc, thập phương Như Lai, thử nhân dã. Nhị thập tổ, thử nhân dã. Nhất thiết Thiên Bồ Tát cập tích chi duyên thanh văn, thử nhân dã. Đông Thổ lục đại tổ sư cập lịch đại thiền sư, thử nhân dã. Nhất thiết thiên ma ngoại đạo, A Tu La, thử nhân dã. Chư thiên Thiên Đế, thử nhân dã. Nhất thiết cầm, nhất thiết Thú, nãi thử nhân chi luân chuyển. Chí vu ngã quỷ địa ngục nãi thử nhân chi trầm nịch. Thử thập pháp giới trung hà giới nhi thử nhân chi tu vi nhi thành chi gia.”
“Thử nhân thần thông quảng đại, bất khả tư lượng, năng vi ác, tạo Ngã Quỷ, Địa Ngục, Chúng Sanh tướng. Năng vi thiện, tạo Thiên Đường, Tam Thập Tam Thiên tướng. Năng thiện ác tướng tạp, tạo Thế Gian Phú Quý Khổ Lạc tướng. Năng tu thiện bất đoạn sân hận, tạo thiên ma A Tu La tướng. Năng vu tâm ngoại lập pháp tu hành, tạo Ngoại Đạo tướng. Năng thanh tịnh tị thế, tạo Tiểu Thừa tướng. Năng độ kỷ độ nhân, tạo Đại Thừa Bồ Tát tướng. Năng nhưng tựu hoàn ngã bản lai diện mục, đoan tọa thành Phật, chung nhật thuyết pháp, nhi vô pháp khả thuyết, chung nhật độ sanh, nhi vô sanh khả độ, cụ bát thập chủng hảo, tạo tam thập nhị tướng, thử nhân hữu như thử thần thông biến hóa, tu kinh ngôn khán tha, trí giả, vu Thập Pháp Giới, đáng trạch nhi hành chi.”
Có người từng nói với tôi, ở một ngọn núi nào đó có một ngôi miếu, linh khí rất nặng, có việc cầu xin thì tất ứng. Thế là tôi hiếu kỳ đến ngôi miếu này, sau ngôi miếu này toàn là mộ, trên cửa miếu có khắc 3 chữ: “Hữu Ứng Công”, ngôi miếu nhỏ và rách nát, nhưng hương khói nghi ngút, tôi vừa thấy Hữu Ứng Công thì biết là ngôi miếu hoang vô chủ của cô hồn dã quỷ, Lư Thắng Ngạn tôi không đáng cúng viếng cô hồn dã quỷ, thế là quay mình vừa định xuống núi thì không ngờ bên trong có tiếng nói vọng ra:
“Liên Sinh, đi đâu vậy?”
“Người nào biết Lư Thắng Ngạn tôi thế?”
“Ta là chủ nhân Hữu Ứng Công núi này, Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, Liên Sinh không nhận ra ta à?”
Tôi nghe là Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, giât thót người, Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh là Linh Sư của tôi, là Kim Tiên của Vô Sắc Giới Thiên Đại Chủ Tế, làm sao có thể là chủ nhân Hữu Ứng Công Miếu, trong lòng tôi không tin, cũng đi vào trong ngôi miếu rách nát này, bên trong miếu nhỏ hẹp, hương khói lượn lờ, trên thần tọa có một vị thần thánh đầu đội Triều Thiên Mão, thân mặc hồng bào, trên mình treo hai trán Âm Tiền, cho thấy rằng vị thần này là Âm Thần, tôi chắp tay mở miệng hỏi: “Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh là Kim Tiên Vô Sắc Giới Đại Chủ Tế, tại sao lại là Âm Thần?”
“Liên Sinh, có thể đã nghe người ta nói, ta có thể ra vào thập giới, ẩn thân vào hạt cát hạt bụi, vạn loại hình tượng, biến thiên đường địa ngục, hóa thiên vạn tỉ Tam thế chư Phật, phàm phu không nhận ra ta, người xuất gia cười ta, sỉ nhục ta, phỉ báng ta, Liên Thiên Tiên, Địa Tiên, Quỷ Tiên né tránh ta, thế mà ngươi không thể nhận ra ta sao? Ta chính là Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh đây mà. Liên Sinh, ngươi vận Linh Mục nhìn xem đi.”
Khi tôi vận Linh Mục xem, thì quả thật khiến tôi giât thót người, trước mắt là một cảnh tượng kinh người, ngôi miếu này càng biến càng rộng, càng biến càng lớn, cao thẳng đến mây, không những thế, ngôi miếu còn nằm trên mây, rơi vào u minh, rộng đến nỗi che lấp đỉnh bốn năm ngọn núi, trước mắt xuất hiện hàng ngàn hàng vạn quỷ vật hình thù kỳ quái, mặt xanh nhe nanh, lại có con trên đầu mọc sừng,có con có đuôi dài, có con ba đầu bốn tay, mặt mày dữ tợn, mắt tỏa ra ánh hung tợn, xếp thành hai hàng, trên cùng ngồi một vị quái vật chưa từng thấy qua, đầu như một vị Phật Tổ mắt mũi hiền lành, trên đầu lại có 9 cái đầu, mỗi một cái đều giống như những vĩ Bồ Tát trang nghiêm, nhưng từ cổ trở xuống là thân mãng xà, da màu xanh lục, thân con xà to lớn, phát sáng lấp lánh, con xà có vuốt sắc như dao, thân dưới cuộn lại, ngồi trên một cái ghế màu vàng kim.
“Linh Sư là Kim Tiên Vô Sắc Giới, và không có hình dáng nhất định, tại sao lại hung dữ như vậy?”
“Liên Sinh, ngươi nhìn lại xem.” Con mãng xà đầu người đó nói tiếng người
Lúc này kể ra cũng kỳ lạ, ngôi miếu này trở nên rất lớn, trong không trung xuất hiện 72 vị thiên thần, 36 vị Phật Bồ Tát, tất cả đều tay cầm hoa thơm đến cúng dường Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, cái ghế vàng đó trong nháy mắt biến thành Liên Hoa Tọa màu vàng kim, trên Liên Hoa Tọa có một vị Như Lai Phật trang nghiêm 32 tướng, hai hàng quỷ vật biến thành chúng Bồ Tát La Hán, hương thơm bát ngát, bốn bề bảo điện đều là lưu ly, phát sáng lấp lánh, Pháp ngôn Pháp âm tuyên lưu, khiến cho lòng người trỗi dậy một cảm giác tôn kính vô hạn, hoàn toàn trái hẳn với cảnh tượng yêu tà mê ly ban nãy.
Tôi nhìn thấy cảnh tượng như vậy, bất giác quỳ xuống, Như Lai Phật Tổ nói: “Sở vị Chân Nhân Giả, nãi nhất thiết giai hoang giai giả. Liên Sinh, ngươi phải hiểu câu nói này, ta là Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, không ai biết được ta thần thông ra vào Thập Pháp Giới, tất cả do ta tạo ra, tất cả do ta làm ra, không có trở ngại, biến hóa tùy muốn, tùy ý biến hóa tàng thân.”
“Linh Sư, như thế nào mới là mục đích tu đạo?”
“Trở về hình diện ban đầu.” Lại nói: “Liên Sinh, trong ngôi miếu này, dưới Thần đài của Hữu Ứng Công, có một miếng vải rách bọc lấy một miếng Thần Ấn bằng gỗ, thần ấn này rất quan trọng, ngươi có thể đem về, có thể xem là bảo ấn trấn tự của Từ Huệ Lôi Tạng Tự, cũng là mục đích chủ yếu hôm nay ngươi đến ngôi miếu này, thần ấn này là Lôi Phách Lục Giáp Thần Ấn , nếu ngươi có được nó, xem như trời có đức hiếu sanh, hãy sử dụng cẩn thận, nó sẽ giúp ngươi rất nhiều đấy!”
“Linh Sư, Thần Ấn có hiệu lực như thế nào?”
“Lục Giáp Thần Ấn là thần ấn mà năm xưa Đông Huê Đại Đế truyền lại, Thượng Sĩ có được thần ấn này cưỡi mây lên trời, Trung Sĩ có được thì quỷ thần đều kinh sợ, Hạ Sĩ có được thì chưởng quốc an bang. Vị thần nào có thể sử dụng Lục Giáp Thần Ấn, Thiên Du Thập Nhị Khê Nữ, Na Diên Ngũ Thiên Nữ, Hỏa Quang Đại Tướng, Phù Hải Đại Tướng, Hống Phong Đại Tướng. Liên Sinh, nếu ngươi có được thần ấn này, nhớ sử dụng cẩn thận, sau khi ngươi ra khỏi đây chớ bao giờ quay lại ngôi miếu nhỏ này, nơi này tạm thời là do linh khí của ta hành chỉ, mục đích cũng vì trọng thác giao phó thần ấn, Lục Giáp Thần Ấn được giấu nơi này cũng khiến cho Hữu Ứng Công miếu có Linh lực rất lớn, chúng thần thủ hộ, ngươi có được nó cũng là do có duyên, ngôi miếu này từ nay về sau mất hết Linh khí, ta cũng rời đi, và thật sự trở thành thế giới của quỷ vật, đây cũng là Thiên cơ, ngươi phải biết điều này.”
Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh vừa nói xong thì ngôi miếu to lớn đã biến mất, chư Phật Bồ Tát cũng không còn, và trở lại là một ngôi miếu rách nát, tôi cúi đầu xuống, đưa tay tìm kiếm dưới thần đài, dưới thần đài tối đen như mực, mò mẫm một hồi, quả nhiên có môt miếng vải bọc lấy một miếng ấn gỗ, mở miếng vải ra, ấn rất cũ, dường như đã bị vứt ở dưới thần đài rất lâu rồi, tôi lạy Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh 3 lạy rồi rời khỏi ngôi miếu xuống núi.
Về nhà dùng nước sạch rửa sạch những vết đốm xanh trên thần ấn, cung phụng trước Dao Trì Thánh Mẫu, đây chính là nguồn gốc của Lục Giáp Thần Ấn nhà tôi.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Sự huyền bí của Hắc Lệnh Kỳ
Cái gọi là Hắc Lệnh Kỳ, người thường cũng biết, cũng từng thấy qua, nhưng không biết có ý nghĩa và mục đích gì, có một người bạn biết tôi viết “Mạn đàm Linh Cơ Thần Toán”, bảo tôi viết ra bí mật của Hắc Lệnh Kỳ, nhằm tránh việc mọi người ai cũng hiếu kỳ, chỉ thấy trước miếu hoặc sau miếu phất phơ một lá cờ đen, nhưng lại không biết nó được làm như thế nào? Có tác dụng gì? Cho nên tôi viết ra, xem như là bổ sung thêm.
Người thường đều cho rằng, quốc gia có quốc kỳ, thần cũng có cờ, và Hắc Lệnh Kỳ là Thần Kỳ vậy. Giải thích như vậy là đúng, Hắc Lệnh Kỳ chính là Thần Kỳ, cắm trước hoặc sau miếu, đón gió bay lên, tượng trưng cho việc nơi này có thần minh chấn giữ, thần linh đi lại trong không trung, tự nhiên cũng có qua lại, còn việc một số ngôi miếu lớn không có Hắc Lệnh Kỳ, thì Thần Linh là Phúc Lộc Thọ Tam Tiên Công hoặc Thất Bảo Tháp. Hắc Lệnh Kỳ ngoài tác dụng là Thần Kỳ ra, đại khái còn 3 tác dụng khác, Người viết xin viết rõ ra đây:
Thứ nhất, nhằm tác dụng thỉnh Thần điều Thần. Chúng ta nếu muốn thỉnh Thần thỉnh Linh, đốt một cây nhang, hướng về phía Hắc Lệnh Kỳ khẩn cầu, cắm nhang lên Hắc Lệnh Kỳ, hiệu quả còn nhanh hơn tốc độ thỉnh Thần của những người khác, có một số thương nhân cúng 3 ly trà thơm dưới chân Hắc Lệnh Kỳ, để cho các vị thần qua lại giải khát, cho nên Hắc Lệnh Kỳ có tác dụng thỉnh Thần điều Thần, trước hoặc sau miếu nếu cắm Hắc Lệnh Kỳ, thì nhất định phải duy trì xung quanh sạch sẽ, không nên để bàn tay không sạch sẽ tùy tiện sờ vào, điều này là đại bất kính. Trên Hắc Lệnh Kỳ nếu dán bùa, thì có thể dùng Thỉnh Tiên Phù và Khai Đường Phù là được.
Thứ hai, tác dụng điều động Ngũ Doanh Binh Mã. Những Thần Đàn và miếu trước kia, có Ngũ Doanh Đầu Mục và Ngũ Doanh Binh Mã, đó chính là Tiền Hậu Tả Hữu Trung — Ngũ Doanh, bất kể là Thiên Binh Thiên Tướng hay Âm Binh Âm Tướng, điều có thể dùng Hắc Lệnh Kỳ để điều động, nếu điều Thiên Binh Thiên Tướng thì dùng Ngũ Thái Hỉ Kim, điều Âm Binh Âm Tướng thì có thể dùng “Cao Tiền”, nhưng nhớ đừng ngắt bỏ hết lá trên cây trúc, lá trúc có thể mượn Linh khí, cho nên thấy trên Hắc Lệnh Kỳ có treo Hỉ Kim hay “Cao Tiền”, thì chúng ta biết đây là Hắc Lệnh Kỳ dùng để điều động Ngũ Doanh Binh Mã, như vậy có thể thay thế việc cúng phụng Ngũ Linh Kỳ và Ngũ Doanh Tướng Quân Thần Đầu Tượng như thời xưa, Ngũ Linh Kỳ chia ra làm 5 màu trắng, vàng, xanh, đỏ, đen, màu trắng là Thiên Binh Thiên Tướng, màu đỏ là Lôi Bộ Chính Thần, màu vàng là Thập Đại Nguyên Soái, màu xanh là Hộ Pháp Thần Binh, màu đen là Âm Binh Âm Tướng, cũng có người xem màu xanh có tác dụng phụng thỉnh Lục Đinh Lục Thần, tác dụng cũng gần giống nhau, Ngũ Doanh Binh Mã có công dụng Hộ Đàn và Trinh Thám.
Thứ ba, công dụng Tiền Đạo và Tịnh hóa. Thông thường khi thần minh thần kiệu xuất tuần, những nơi thần kiệu đi qua, đa số đều dùng Hắc Lệnh Kỳ quét qua hoặc dẫn đường, ý nghĩa chủ yếu là loại trừ tất cả Tà Linh, làm cho tất cả Tà Tuế không quấy nhiễu thần minh xuất tuần, cho nên Hắc Lệnh Kỳ lúc nào cũng do một người cầm, phất qua phất lại trước Thần Dư, đây chính là Tiền Đạo và Tịnh Hóa.
Cách làm Hắc Lệnh Kỳ là dùng một cây trúc, dùng một miếng vải màu đen hình vuông hoặc tam giác đều được, có người viết lên vải Thỉnh Tiên Phù hoặc Tịnh Hóa Phù, cũng có người dùng một chữ Lệnh, cây trúc và vải đen phải điểm hóa rồi mới dùng được, Hắc Lệnh Kỳ cũng có thể nói là Linh Kỳ, tác giả cho rằng cách bố trí Hắc Lệnh Kỳ thì miếu Hoa Liên Thắng An Cung Vương Mẫu Nương Nương bố trí hay nhất, việc điểm hóa Lệnh Kỳ là việc quan trọng nhất, một cây Lệnh Kỳ chỉ cần nhìn Linh Lực điểm hóa là lớn hay nhỏ thì có thể thấy được uy lực Lệnh Kỳ, điều này là vô cùng quan trọng.
Ở đây xin nói cho quý vị biết một bí mật, Âm Binh Âm Tướng của Hắc Lệnh Kỳ, uy lực mạnh nhất có thể chiêu thỉnh tiên linh của Trung Liệt Từ, hay tiên linh của Nghĩa Dân Trủng, yếu hơn thì có thể chiêu thỉnh Âm Binh Âm Tướng của Vạn Thiện Gia, Bách Tánh Công, Hữu Ứng Công, bình thường hoặc tệ hơn thì có thể chiêu thỉnh cô hồn dã quỷ hay tiên tổ giai thần, nhưng có một loại Hắc Lệnh Kỳ mà chúng ta không thể xem thường uy lực của nó, đó là hồn phách của những thanh niên lực lưỡng chết do tai nạn xe, nếu như có thể cầu thỉnh được, thì linh lực của cây Hắc Lệnh Kỳ quả thật không thể tưởng tượng được, bởi vì những thanh niên lực lưỡng chết đi thì linh lực rất hoạt bát và tiềm lực đầy đủ. Pháp này là dùng bảy tờ giấy vàng kim, vừa thấy có người xảy ra tai nạn giao thông mất, thì ngay lập tức dùng giấy vàng kim thấm máu chảy trên đất, sau đó phụng tế tờ giấy vàng đó tại linh đường trong nhà, giờ Tý niệm Chiêu Hồn Chú, và cúng phụng cho đến hết ngày thứ 49, dùng lửa đốt bảy tờ vàng kim có thấm máu, và lấy Hắc Lệnh Kỳ đã điểm hóa phất qua phất lại trên lửa là được. Chiêu Hồn Chú đọc: “Quỷ thần quỷ thần quỷ kiến quỷ, ngô lệnh điểm nhi truy tùy ngô, cận báo họa phúc viễn báo hành nhân, linh cơ thần toán thông thiên địa, lệnh chỉ nhất hạ tốc tốc quy lai, điểm điểm như Thái Thượng Lão Quân luật lệnh cang.
Tôi từng một lần đến Thánh Minh Cung ở Đài Trung, vị trụ trì rất thân với tôi, tôi vừa đến cung môn, thấy một người đứng dưới Hắc Lệnh kỳ, cổ loang lổ những vết máu, đầu nghiêng qua một bên, hai mắt lồi ra ngoài, lưỡi thò dài, không hề nhúc nhích, tôi vội vàng bước vào trong, trụ trì ngồi trước thần tọa tán gẫu với vài người, họ thấy tôi xông vào vội hỏi: “Lão Lư vội vàng như vậy có chuyện gì vây?”
“Ông tế Hắc Lệnh Kỳ phải không?”
“Đúng vậy, có chuyện gì?”
“Tế Hắc Lệnh, chiêu vong hồn, ông cũng không tịnh thân cho vong hồn, toàn thân loang lổ máu đứng dưới Lệnh Kỳ, ai thấy đều sợ, ông làm cái gì vây?”
“Ông nhìn thấy rồi à?” Một trong số họ hỏi.
“Lời của lão Lư không thể không tin, ông ta có Âm Dương Nhãn, chúng ta hồi nãy đúng là đã bỏ sót thủ tục tịnh thân cho vong hồn, tôi điểm hóa mấy cây Thanh Tịnh Phù, mời lão Lư giúp chúng ta thôi.” Trụ trì nói.
Tôi gật đầu, tôi nghe được vài người nói khẽ.
“Chúng ta tế Hắc Lệnh Kỳ chiêu thỉnh vong hồn thân vong do tai nạn xe, anh chàng trẻ tuổi này vừa vào cửa thì biết rồi.”
“Cho thấy Linh Hồn là tồn tại thật, không thể không tin.”
“Ông còn không tin sao?”
“Tôi cơ bản là không nhìn thấy được, có cũng vậy mà không cũng vậy.”
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Linh toán và Linh liệu
CÓ một người tên Chu Nghĩa Long làm việc tại một công ty nọ, học thức cao, bản tính trung hậu, cấp dưới cũng rất kính trọng ông, khoảng 50 tuổi, mỗi lần ông nhờ tôi xem lại chuyện quá khứ và tính toán những việc sau này, lần nào cũng linh nghiệm, trong đó bao gồm cả việc tuổi thọ lìa trần của cha ông, nói sống là sống, nói chết là chết, không hề sai một tí nào cả.
Có một ngày, Chu Nghĩa Long đến chỗ tôi, ông nói: “Thắng Ngạn, anh tính giùm tôi xem, dạo gần đây cột sống tôi rất đau, đã khám qua nhiều bác sĩ, uống cũng không ít thuốc, lúc mới uống thì đỡ một chút, nhưng khi tác dụng của thuốc hết thì lại đau, loại thuốc nào tôi cũng uống qua cả, nhưng vẫn không chữa hết cơn đau cột sống, rất là phiền, anh có cách nào làm cho tôi không đau không?”
Thế là tôi đã giúp ông diễn toán thần thuật, vậy mà lại xuất hiện một chữ “Âm”, thế là tôi nhắm mắt niệm chú, dùng phương pháp Linh toán để kết nối với Linh Hồn của thế giới bên ngoài, kết quả là tôi đã có được kết luận như sau: “Chu Nghĩa Long có một người chị, nhưng năm 2 tuổi chẳng may qua đời, do thọ nguyên chưa tận, hồn thần phiêu du khắp nơi, không chốn nương thân, cuối cùng chị tìm được Chu Nghĩa Long, đau cột sống chỉ là một dấu hiệu ngầm của chị đối với ông, và cũng chỉ là một dấu hiệu ngầm muốn được ông giúp đỡ, mục đích chủ yếu là hy vọng Chu Nghĩa Long niệm kinh siêu độ cho chị, tuy chị là vong hồn, nhưng lại hiểu rõ được rằng ông quá đau, nhất định sẽ tìm đến chỗ tôi, mới có thể giải quyết được.”
Thế là tôi hỏi ông: “Mẹ anh đã từng sinh một bé gái, nhưng 2 tuổi đã không còn ở trên đời nữa, đúng không?”
Ông đáp: “Chưa từng nghe nói qua, có lẽ là không có. Bởi vì anh chị em tuy nhiều, nhưng đều vẫn còn sống, không có ai chết non cả.”
“Anh có thể hỏi mẹ anh không, hiện giờ bà sống ở đâu?”
“Mẹ tôi sống ở Đài Bắc, tôi gọi điện thoại đường dài hỏi là biết được, nếu có, tôi lại đến tìm anh.” Mẹ của ông đã tám mươi mấy tuổi, sống ở một ngôi nhà cũ ở Đài Bắc.
Cách mấy ngày sau, ông Chu lại đến, ông nói: “ Ông tính rất đúng, tôi gọi điện thoại đường dài liên lạc, mẹ tôi nói đúng là có một người chị 2 tuổi do bệnh mà mất, không ai trong số anh chị em chúng tôi biết chuyện này, ngay cả bản thân tôi cũng không biết, bây giờ phải làm sao đây?”
Tôi nói với ông: “Siêu độ pháp hội ở Từ Huệ Lôi Tạng Tự hôm nay đã hết hạn rồi, nhưng sắp tới Từ Âm Tự ở Đài Trung sẽ tổ chức siêu độ pháp hội, niệm kinh lễ sám hối, anh đến đó đăng ký, nhớ viết tên, ngày mất và nơi mất của bé gái 2 tuổi này, như vậy là được rồi, tôi bảo đảm sau khi làm xong việc này, bệnh đau cột sống sẽ hết ngay.”
“Được, tôi sẽ đi lo việc này.
Kể ra thì thần kỳ như vậy đó, không có thủ tục, cũng không có nghi thức, không cần tốn thật nhiều tiền, trong chốc lát, bệnh đau cột sống của ông Chu đã hết ngay, hoàn hảo mà hoàn mỹ, ngay cả một tí bệnh cũng không có, đây chẳng lẽ không phải là kỳ tích sao? Xin nói rõ thêm: vợ ông Chu đang kinh doanh “Tiệm đồ tây Xảo Tự”, buôn bán phát đạt trên khắp các nước, tiền tài cuồn cuộn chảy vào như sông, tên tiệm “Xảo Tự”, và ngày khai trương tiệm, tức là ngày và tên tiệm mà tác giả đã chọn, là ngày “hung thần trực nhật, chư sự bất nghi”, nhưng có ai biết được rằng, trong ngày chư sự bất nghi này, chỉ duy nhất có thời khắc 6 giờ sáng là thời khắc tốt khó tìm kiếm trong năm. Tiệm đồ tây này mở tại đường Kiến Hành, bên vệ đường của Bảo Giác Tự ở Đài Trung, hoan ngênh đến tiệm đồ tây may đồ, tiện đó hỏi thăm chuyện hư thật của tác giả, vô cùng hoan nghênh.
Lại nói có chiều tối một ngày nọ, khoảng 7 giờ, đột nhiên có một chiếc xe khách nhỏ lái đến trước nhà tôi, “két” một tiếng dừng lại, có hai người phụ nữ khiêng một cô gái, cô gái đó hôn mê bất tỉnh, hai người phụ nữ đó vội vã khiêng cô gái xông vào nhà tôi, tôi lúc đó rất kinh ngạc, vội hỏi: “Chuyện này là sao vậy?”
“Xin hỏi, thầy Lư Thắng Ngạn có ở nhà không ạ?”
“Là tôi đây.” Tôi trả lời trong nghi hoặc, hai người phụ nữ này tôi đều không quen biết, cô gái đó mặt trắng như giấy, hơi thở yếu ớt, e là đã không hay cho lắm rồi. Thế nhưng tôi vẫn để họ khiêng cô bé vào, không còn lo được là có tự chuốc phiền phức hay không nữa, bởi vì cứu người một mạng còn hơn xây bảy cấp phù đồ. Sau này nghĩ lại, nếu cô gái này không cứu được, chết trong nhà tôi, thì tôi coi như xong.
Vừa vào nhà, một trong hai người là mẹ của cô gái, bà ấy quỳ trước tôi và khóc lóc nói: “Ngài là vị cứu tinh của tôi, ngài là vị cứu tinh của tôi, xin ngài mau cứu con gái tôi đi.” Tôi nín thở hỏi bà ấy: “Bà nghe người nào nói tôi có thể chữa bệnh cho cô gái này vậy?”
“Hàng xóm tôi nói, họ nói ngài chuyên trị những chứng bệnh bất trị.”
“Cô gái đã đi khám bác sĩ chưa?”
“Đã khám qua rồi, toàn bộ bác sĩ trong tỉnh đều khám qua cả, không ai có thể chữa hết chứng đau đầu của nó, thuốc cũng uống qua, tiêm qua, trị cũng từng trị qua, nhưng vẫn chữa không hết, hôm nay tôi khiêng nó đến bệnh viện, bệnh viện nói nó không qua khỏi, từ chối chữa trị, tên bác sĩ đáng chết này cơ bản là không hiểu được nguyên nhân bệnh của nó, không chữa được, nhưng cũng không chịu xem bệnh cho nó, bây giờ đến xin ngài, xin ngài thử chữa cho nó, xin ngài, xin ngài!”
“Tôi không phải bác sĩ, tôi chỉ có thể tính giùm bà xem có thể cứu được hay không mà thôi.” Tôi nói.
“Xin ngài, xin ngài.” Người phụ nữ đó kêu khóc đau khổ, cô gái thì lại lặng lẽ nằm trên ghế, không hề động đậy.
Tôi im lặng tọa định, chắp tay cầu sự thanh bình của Linh đài, vận chuyển tâm linh, kết nối với linh cơ thượng chí cao vô thượng, thế là tôi khẩn cầu chỉ thị linh thị hiển xuất, nhưng chỉ có hai câu đơn giản “cứu được, cứu được.”
“Dùng cách nào?”
“Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh Dạ Mộng Linh Liệu Thuật, một tuần thì có thể chữa khỏi.” Tôi chắp tay cảm tạ Thần Linh.
Tôi bảo người phụ nữ đó để lại ngày tháng năm sinh, tóc, móng tay và địa chỉ hiện tại. Cô gái đó họ Diệp, tên Mai Phân, sống tại đường Công viên Đài Trung, 20 tuổi. Tôi nói với người phụ nữ, mỗi đêm trước khi ngủ, đầu giường cắm một cây nhang, tôi bảo đảm cô gái khỏi bệnh trong 7 ngày, hai người phụ nữ nọ lại khiêng cô gái đó lên xe khách nhỏ, nửa tin nửa ngờ cám ơn tôi rồi lên xe về.
Dạ Mộng Linh Liệu Thuật làm theo phương pháp như sau: tôi dùng một tấm giấy màu vàng, cắt hình một cô gái, trên đó viết ngày tháng năm sinh, địa chỉ, tên họ của cô gái, viết 4 chữ “ Sắc Lệnh Dũ Bệnh”, lấy 1 ống tre đổ đầy gạo, cắm hình nhân lên trên gạo, sau đó lấy tóc và móng tay bỏ vào trong gạo, tóc và móng tay đại diện cho tinh thần của một con người, hình nhân đó đại diện cho cô gái, tôi đem những thứ đó đặt trước Thần Phật, sau đó hít một hơi, hô về phía hình nhân: “Nhất khí hóa tam khí, tam khí trợ nhân sinh, giải trừ nhất thiết ách, mễ lạp thiên thiên vạn, tàng hạ bát vạn tứ thiên thống khổ, ngô phùng Diêu Trì Kim Mẫu Đại Thiên Tôn Luật Lệnh Cang.”
Mỗi đêm 12 giờ, tôi đốt một cây nhang, trước khi cắm hình nhân lên gạo, tôi niệm: “Hương hương tương thông, tâm chuyển hương pháp, dạ mộng an điềm, linh cơ hiển hiện, bách bệnh khước trừ, trượng phật pháp thần uy, thượng chí thương khung, hạ chí ưu minh, vô vãng bất lợi, vô vãng bất hoàn, bệnh trừ bệnh dũ, thiên nhân đồng cảm. Ngã phụng Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh dạ linh liệu quy nguyên như ý đại pháp chỉ luật lệnh cang.”
Pháp này chính là là đơn giản như vậy, nói cũng kỳ lạ, qua bảy ngày sau, tôi thu dọn công cụ, ngày thứ chín, một người phụ nữ khác nữa đến nói với tôi: “Bệnh của cô gái đó sau bảy ngày tự nhiên khỏi, từ hôm đó không còn đau đầu nữa, hồi phục lại nét trẻ đẹp như trước kia, hoàn toàn giống như một người bình thường vậy.”
“Đây thật là tin tốt lành, cám ơn trời đất.”
“Tôi khuyên họ mau đến cám ơn ngài, vì bệnh này là do ngài chữa hết. Nhưng họ lại nói, ngài trẻ nhu vậy, làm sao có được năng lực như vậy, chẳng qua chỉ là tự nhiên khỏi mà thôi.”
“Không sao, chỉ cần hết bệnh, thì đã là tin vui rồi. Tôi không cầu người khác báo đáp, càng không nhận tiền.”
Tôi nói, dù cho tôi mỗi đêm 12 giờ thức dậy kháp quyết niệm chú, nhưng nỗi lao lực này có thể chữa được bệnh của một người, thì làm sao có thể ngăn cản tôi không vì những người vô vọng do bệnh này mà bán mạng chứ. Đây chính là nguyên nhân vì sao bấy lâu nay tôi âm thầm phục vụ người khác mà không cầu báo ân.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Tuyệt đối chớ tin Tà giáo
Người viết hiểu được nguyên lý Thiên Địa Âm Dương, tự nhiên sẽ biết được đạo lý Chính Tà Đối Lập, cái gọi là có Thần thì có Ma, có Thiện thì có Ác. Trên thế gian này có người tốt, tự nhiên cũng có người xấu, đây cũng là đạo lý tự nhiên, vô Tà, Chính bất năng chương, vô Chính, Tà diệc bất năng hành, cho nên Chính Tà chính là hỗ phụ hỗ hành. Theo như tôi biết, chúng ta tín ngưỡng bất kỳ tôn giáo nào cũng được, theo Phật Đạo, Cơ Đốc, Hồi, Thiên Chúa là tùy ý mỗi người, nhưng quan trọng nhất là không nên tín phụng tà giáo tà sư.
Dân quốc năm 51, chính phủ tuyên bố Nhất Quán Đạo là Tà giáo, theo kết quả Linh Thông của người viết, và cũng thỉnh thị Linh Giới Tiên Sư, xác định Nhất Quán Đạo này là một tổ chức Tà giáo, phương thức của tổ chức này là phỏng tập phương thức của “Bạch Liên Giáo” do Hàn Sơn Đồng sáng lập vào cuối Triều Nguyên, họ có cái gọi là “Tổng Đàn”, do Đại Chủ Giáo chủ trì, đồng thời thiết lập cơ cấu phân kỳ “Sơn Đầu”, từ Sơn Đầu lại phân “Đường Khẩu”, mỗi Đường Khẩu do “Điểm Truyền Sư” chủ trì.
Trước mắt, Nhất Quán Đạo do bị cảnh sát chú ý chặt chẽ nên đã đổi tên Nhất Quán Đạo thành “Tiên Thiên Đạo”, bản chất không thay đổi, đổi canh nhưng không đổi thuốc, tín đồ Nhất Quán Đạo thường nói “Mạc kiếp thiên niên tại tức”, “bất cửu thế giới tương tao thụ thiên tai địa biến đích không tiền đại kiếp”, “thiên hạ vạn giáo tất quy vu Nhất Quán Đại Đạo”, “Chỉ hữu phụng Nhất Quán Đạo đích nhân, tài năng siêu thăng Cửu Thiên Long Huê Hội, đồng phó Bàn Đào Thạnh Hội”, tổ chức này rất bí mật, giáo nghĩa cũng rất hoang đản bất kinh, là những lời lẽ xằng xiên không đúng, rất dễ gạt người nhập giáo, rồi lần lượt tiến hành những thủ đoạn gian trá bỉ ổi vơ vét tiền của, nếu tổ chức của Nhất Quán Đạo là không công khai, thì nhất định có những trò bịp âm hiểm xấu xa, có mục đích rêu rao lừa đảo, nếu không thì đã là Tôn giáo thì đều công khai, cái không công khai thì nhất định là Tà giáo.
Tác giả do thiết lập Từ Huệ Lôi Tạng Tự, ngày thường rất quan tâm về Tôn giáo, và cũng thường âm thầm chú ý tăng cường chú ý Nhất Quán Đạo, đáng cười hơn là gặp phải người Nhất Quán Đạo lôi kéo tôi gia nhập, tôi không những nói họ hoang đường quái dị, còn khuyên họ cải Tà quy Chánh, nhanh chóng quy y Phật giáo chính phái, đừng chìm sâu vào trong bể khổ Tà giáo, do đó tác giả hiểu rõ tổ chức của Nhất Quán Đạo, bây giờ phân tích đặc thù của Nhất Quán Đạo, hy vọng mọi người đề cao cảnh giác, đừng vội leo lên con thuyền của kẻ cướp rồi quay đầu lại không kịp.
Thứ nhất, Nhất Quán Đạo chia Phật giáo làm 3 kỳ, kỳ thứ nhất là “Thanh Dương Kỳ”, cũng tức là thời kỳ Nhiên Đăng Cổ Phật, do Nhiên Đăng Cổ Phật làm Giáo chủ, đã qua thời kỳ này. Kỳ thứ hai là “Hồng Dương Kỳ”, Hồng Dương Kỳ là thời kỳ A Di Đà Phật làm giáo chủ, thời kỳ này cũng qua rồi. Kỳ thứ ba là “Bạch Dương Kỳ”, cũng tức là thời kỳ Di Lạc Cổ Phật tọa Thiên Bàn, Tế Công Hoạt Phật chưởng giáo, do Di Lạc Phật làm giáo chủ, đây chính là “Bạch Dương Kỳ”. Cho nên chỉ cần nói Tam Kỳ phổ độ, tôn sùng Di Lạc Phật làm giáo chủ, xin chú ý, đây chính là cách nói của Nhất Quán Tà Giáo.
Thứ hai, Thần Đàn của Nhất Quán Đạo rất dễ nhận biết, họ nhất định ở giữa cung phụng một Thần Đăng gọi là “Mẫu Đăng”, nhận Mẫu Đăng làm Tôn, Mẫu tức là Tây Thiên Lão Mẫu, vì nguyên nhân này mà Nhất Quán Đạo còn gọi là Lão Mẫu Giáo, sau đó cung phụng Di Đà Phật và những Thần Thánh khác, Thần Đàn không dùng màu đỏ, mà dùng màu trắng làm chủ đạo, dùng đèn cầy trắng, lụa trắng, bao gồm trong đó ý nghĩa đây là đại diện cho Bạch Dương Kỳ, cho nên vừa vào Thần Đàn của Nhất Quán Đạo, nhân sĩ Phật giáo chính phái rất dễ nhìn ra, ai là Chính, ai là Tà. Tà Chính phân biệt tại điểm này, phương thức tham bái của Nhất Quán Đạo cũng không giống Phật giáo chân chính lắm, cho nên vào những chỗ như vậy, thì không còn nghi ngờ gì nữa, nhất định là nơi của Nhất Quán Đạo, chớ đừng tín phụng, xin nhớ cho, xin nhớ cho.
Thứ ba, Nhất Quán Đạo thích lợi dụng đạo lý mọi người sùng thượng Tiên Thánh Tiên Hiền, giảng đạo lý Khổng Tử, Mạnh Tử làm công cụ tuyên đạo, khuyên người nhập giáo, tự xưng là Tinh thần Phật giáo mới nhất, uốn lưỡi cong lên như lưỡi gà, lừa gạt chúng sanh. Phật giáo giảng Tam Bảo là “Phật Pháp Tăng”, Đạo giáo giảng Tam Bảo là “Đạo Kinh Sư”, còn Nhất Quán Đạo giảng Tam Bảo lại là “Quan Quyết Ấn”, giáo nghĩa gạt người. Họ lại nói cái gì “Đạo Kinh Sư” đã có thể đạt Đạo chi Thuyết, bảo đảm vừa điểm là ngộ, vừa điểm là đến thế giới Tây phương cực lạc, cách làm này cũng chỉ có thể Điểm Truyền trong trường hợp mặt đối mặt, cho nên có rất nhiều thiếu nữ bị “Điểm Truyền Sư” lừa, cho nên Phật giáo nào có “Điểm Truyền Sư” thì nhất định là Tà giáo Nhất Quán Đạo.
Thứ tư, việc nhập giáo và nghi thức của Nhất Quán Đạo là thần bí, thậm chí cha mẹ, anh em, vợ chồng cũng không thể cho biết, đạo lý điểm truyền của “Điểm Truyền Sư”, tức là truyền thụ Tam Bảo, càng phải phụng giáo ba năm, bí mật lưu động tập hợp, sau đó bắt đầu “Thanh Khẩu”, cũng tức là ăn chay, điểm khác biệt lớn nhất với Phật Giáo là Nhất Quán Đạo có thể ăn trứng vịt, đây là nguồn gốc của Đạo Trứng Vịt, cho nên những người ăn chay ăn trứng vịt có thể là giáo đồ Nhất Quán, đây là điểm phân biệt dễ dàng nhất.
Tác giả đã từng viết trong quyển “Trướng Võng Tiểu Phẩm”: “Rất khó phân biệt Chính Tà trong Tôn giáo, do tín ngưỡng Tôn giáo là sự dễ dãi của đất nước tự do lựa chọn phương thức tự do, Chính Tà không dễ phân biệt, do đó có nhiều Tôn giáo là Chính, là Tà, cơ bản đã là một nghi vấn, như thế nào là tiêu chuẩn của Thiện Ác Chính Tà. Đâu là đối tượng cho cảnh sát theo dõi chặt chẽ, cho đến hiện nay vẫn chưa có một quy tắc chuẩn xác thích đáng.”
Hội Phật giáo ở Đài Bắc vào năm 63, do Phạm Cổ Nông tiên sinh làm nguyên đính, Thích Quảng Định hiệu đính, cho ra đời một tập sách nhỏ: “Chân Chính Tín Phật Chi Tín Điều”, trong đó điều thứ 27: “Cần biết Di Lạc Bồ Tát vẫn chưa thành Phật, sau mấy ngàn vạn năm sau mới thành Phật.” Điều thứ 31: “Đừng tin Tà Thuyết Tam Kỳ Bạch Dương, cái gọi là Thích Ca thoái vị, Di Lạc chưởng bàn, điểm truyền đắc đạo, đều là Tà giáo, Phật đạo giả mạo, yêu ngôn ngụy tạo Tà thuyết.” Điều thứ 32: “Những đạo môn Năm bộ Sáu tập và Di Lạc Cổ Phật, Nhất Quán Đạo, Đạo Trứng Vịt v.v…, đều không phải Phật pháp, không nên quy y.”
Tác giả cho rằng: những điều này đều nhằm vào Nhất Quán Đạo mà nói, đạo này thật sự là Tà giáo.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
41. Hậu ký ‧Lư Thắng Ngạn
Quyển sách này lẽ ra có thể là rất dày, sự tích Thông Linh Thần Toán có nói cũng nói không hết, bởi vì một số Tiểu Linh Thông phổ biến là không thể nào đếm hết được, thế nên, tôi không nên lãng phí số trang giấy, những ghi chép nhỏ nhặt, sẽ cho người đọc cảm giác mất đi sự sâu sắc. Trong những phần phía trước tôi có nói đến thân phận của mình, vì tôi thích Tôn giáo, thậm chí nghiên cứu lĩnh hội đến nỗi quên ăn quên ngủ, cuối cùng đã hoàn thành quyển sách này, từ những báo cáo chân thật trong quyển sách này, tin rằng sẽ khiến nhiều người kinh ngạc đến nỗi trợn mắt há mồm không nói được lời nào, cũng nhất định sẽ có người nhìn tôi bằng ánh mắt hoài nghi, nhưng tôi bảo đảm từng câu đều là thật, các bạn tin những gì tôi viết, tôi tuyệt đối không phải là người giỏi việc lừa gạt người khác, cố tình mượn hoang tưởng để gạt người khác làm niềm vui.
Nếu bạn đọc hết quyển sách, thì sẽ hiểu được rằng tôi đã trải qua những cảnh ngộ không bình thường nhất trong cuộc đời con người, giống như Alice lạc vào xứ sở thần tiên, nhưng mộng qua rồi sẽ tỉnh. Nhưng, những gì tôi mộng qua lại là thật, thật sự hiển hiện trong chốn nhân gian này. Tôi chưa từng mượn loại dị năng đặc thù này để gặp người thì thổi phồng bản lĩnh của mình lên, tôi nguyện làm một người bình thường không ai biết, vì khi bị người khác nghi ngờ, trong lòng tôi cũng cảm thấy rất đau khổ, tại sao những kiến thức của con người đối với linh hồn lại thiếu sót như vậy, thậm chí thường trở thành mê tín, lạc hậu và vô năng. Chúng ta phải biết rằng, có thể những sinh vật trên những tinh cầu khác cũng một mực nghi ngờ trên Địa Cầu có thật sự có cái gọi là Con Người không. Đương nhiên, tôi không thể trách sự vô tri của con người, bởi vì mắt của non người không thể có cách nhìn thấu về Linh.
Sự có hay không linh hồn xin cho tôi được phép không cần trả lời, tôi là người tuyệt đối tin tưởng sự tồn tại của linh hồn, trước mắt, tôi có rất nhiều và đại học Thái Nghĩa Hoằng, giảng sư Trầm Thủ Đốc, giáo sư Thành Đại Hồng Nguyên Long … Tôi là bạn của con người, cũng là bạn của linh hồn trên trời, không chỉ trên trời có sự tồn tại của Linh, mà dưới đất cũng có, ở khu đất hoang sơ, thậm chí ở thành thị náo nhiệt cũng đều có, sự tồn tại của linh hồn rất gần với con người, nhưng con người lại không có được bản năng cảm nhận sự tồn tại này, khiến cho con nguời mất đi cơ hội giao du với thế giới linh hồn, đây là một việc rất đáng tiếc.
Quyển sách này chia thành 3 phần, Linh Dị Kinh Lịch Thiên là kể về quá trình Người viết bắt đầu chuyển từ tín đồ Cơ Đốc giáo vào Đạo giáo, sau đó từ Đạo giáo vào Phật môn, khi từ Cơ Đốc giáo vào Đạo giáo, làm sao có được mấu chốt của Linh. Phần thứ hai là Khải Linh vu Thần Toán Thiên, phần này là nói về việc Khải Linh như thề nào. Phương pháp Khải Linh và tu luyện Vận Linh, sau đó sử dụng phương pháp Linh Toán để thăm dò Linh Giới mà có được kết quả Thần Toán. Phần thứ ba là Thông Linh Thần Toán Sự Tích Thiên, lấy vài sự tích làm ví dụ, cũng nói về kết quả bản thân Linh Toán giùm người khác, lẽ ra định viết rất nhiều, nhưng nhiều thì vô ích, tin thì là tin, không tin thì là không tin, kể thêm vài sự tích thì ý nghĩa cũng như vậy thôi, nếu có người muốn biết những sự thật này, muốn viết thành sách, có thể liên hệ với tác giả.
Tôi tin Số Mệnh, bởi vì sự phát sinh và kết quả của sự việc, hoàn toàn là do nhân duyên mà thành, việc ra đời và mất đi của con người, chẳng lẽ là không có nguyên do gì sao? Cái chết của con người quy về phương nào, hoàn toàn mù tịt không hay biết hay sao? Không phải vậy, đây đều có nguyên do cả, đời người chính là cái chết của Linh, người chết là sự sống của Linh, nhưng, nếu như có người có thể luyện thành Hoạt Linh, tin rằng người này có thể luyện thành mức độ tương thông với Linh Giới, chỉ cần ngày đêm khổ luyện thì không có việc không thành, mà đối với thành công của việc Luyện Linh, tôi lại có một phát hiện lớn, có thể thành công và không thể thành công hoàn toàn có mối liên quan lớn đến căn cơ Số Mệnh.
Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh là Linh Sư của tôi, từ lúc tôi là một người bình thường không hề có “Linh Hồn Tri Thức”, người dạy tôi luyện Chỉ Pháp, luyện Khẩu Quyết, luyện Thư Phù, luyện Linh vu Đạo Thuật v.v.., công lao của người lớn nhất, sau đó chỉ thị tôi ra vào Thập Pháp Giới, trong đó còn ẩn chứa thiên cơ rất lớn, một người ra vào Thập Pháp Giới là nhờ cái gì? Người đọc có thể nhận ra được không? Tất cả hữu hình tất phải quy thành vô hình, tất cả Hữu Vi Pháp cuối cùng cũng vô pháp khả thuyết, những sự thật ly kỳ này, toàn bộ đều nằm giữa cái Tin hoặc Không Tin của người đọc, nếu nghiên cứu kỹ theo phương pháp Khải Linh, tin rằng cũng sẽ có người có được thành tựu lớn.
Còn nhớ Linh Sư từng nói: “Trong tương lai, ta tất đến đón con, lúc đó, thái thượng nhân gian mây nước điều điều, tiên đồng tiên nữ đội trượng nghênh diêu, nghê tinh vũ cái thừa vân vũ, ly khước nhân gian nhập cửu tiêu, tứ hải đồng tán triều âm tụng, ngũ ngục đồng thán sơn lâm ai, tùng tỉ nhân gian thất kỳ tài, lịch tận tam giáo hoàn nguyên lai.” Đương nhiên tôi hiểu ý của Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, khi tôi nhập diệt, nhất định theo Linh Sư, lúc đó lại là một cảnh giới khác, và tôi để lại một quyển kỳ thư ở nhân gian, quyển sách này chính là: “Mạn đàm về Linh Cơ Thần Toán”.
Từ Huệ Lôi Tạng – số 07 hẻm 337 đường Tiến Hóa, Đài Trung – tháng 04 năm 64
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Phụ lục: Bình luận về sách và những cái khác
Bình “Ngũ Thuật Mạn Đàm” ‧Lư Thắng Ngạn
Quyển sách này là do Chung Tiến Thiêm (Mặc Văn) tiên sinh viết, sau khi ông xuất bản quyển sách, đã mang nó đến hàn xá, khách sáo hy vọng tôi có thể giáo chính chỉ đạo. Trên thực tế, tuy tôi nghiên cứu “Ngũ Thuật”, nhưng không tinh thông bằng Chung tiên sinh, sự khách sáo của ông ngược lại khiến cho tôi cảm thấy xấu hổ.
Quyển “Ngũ Thuật Mạn Đàm” này từng được đăng nhiều kỳ trên trang phụ của tờ Dân Thanh Nhật Báo, nhưng bị đứt đoạn, không được liên tục, tổng biên tập của tờ báo ông Hoàng Nhược Vân đã viết lời tựa cho sách, tác gia nổi tiếng Dịch Lâm tiên sinh cũng từng đích thân phỏng vấn qua tác giả. Cho nên tôi nói quyển sách này không phải là tác phẩm “Sơn, Y, Mệnh, Bốc, Tướng” qua loa, mà là báo cáo chân thật của Chung Tiến Thiêm tiên sinh đối với Mệnh Vận Học sau 20 năm nghiên cứu kỹ càng.
Quyển sách này bàn về “Vạn Pháp Quy Tôn”, “Phù Chú”, “Vu Thuật”, “Linh Liệu”, “Mệnh Lý”, “Tử Vi Đẩu Số”…, tất cả đều được diễn giải một cách dễ hiểu, ngay cả những độc giả bình thường cũng có thể hiểu được ý diễn và điều tác giả muốn diễn đạt. Cách hành văn dễ hiểu đã đột phá tính thâm thúy, sâu sắc của một số Tướng Thư, không khiến cho người mới học “Ngũ Thuật” cảm thấy khó khăn.
Có người nói “Ngũ Thuật” là mê tín, người nói câu này chắc chắn chưa học qua “Ngũ Thuật”, bởi vì nếu nghiên cứu sâu thì đạo lý bên trong rất phi thường, không thể xem thường. Cha của Chung tiên sinh “Thiết Bút Tử” từng nói: “Y bốc tinh tướng, khởi đầu sớm nhất, mà cũng lưu truyền lâu nhất, trong đó tích lũy vô số tâm huyết kinh nghiệm của người đi trước, không thể dễ dàng nói là mê tín mà mạt sát nó. Bản thân tôi nghiên cứu, đã tiến hành nghiên cứu thảo luận và phán định, cái gọi là “biết thì là biết, không biết thì là không biết” mới là phong độ của người học giả chân chính. Không nên ép không biết thành biết, nói là mê tín.” Người viết cho rằng câu nói này nói rất chính xác, nếu như muốn phá bỏ mê tín, không thể chỉ hô khẩu hiệu, mà phải đi sâu vào nghiên cứu, sau đó lấy chứng cứ ra chứng minh, không nên một lời mạc sát chân lý của “Ngũ Thuật”.
Do “Thế phong nhật hạ, nhân tâm bất cổ”, mọi người không tin linh hồn, không còn tin “nhân quả báo ứng”, do đó Chung Tiến Thiêm lấy kết quả nghiên cứu của mình chứng minh không thể miệt thị Thiên Đạo Lực Lượng.
Tác giả là học sinh ưu tú tốt nghiệp ngành Pháp Luật trường Đại học Trung Hưng, tất nhiên không phải giang hồ thuật sĩ, vả lại giang hồ thuật sĩ cũng chưa hẳn có thể hiểu được những bí thuật cổ xưa của Trung Quốc. Tác giả từ nội dung Ngũ Thuật bàn đến Mệnh Vận và Nhân Sinh, thậm chí cả tác dụng cảm ứng đặc thù của tâm lý, đều có tính chân thật và tính khoa học, nghiên cứu của tác giả là phi phàm, mà cách nhìn nhận và lý giải sự việc cũng có chỗ tài giỏi hơn người.
Tác giả tuy học “Ngũ Thuật”, nhưng đọc quyển sách này cũng học được rất nhiều điều, hy vọng những người đọc đừng xem thường quyển sách này.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Cảm nghĩ đọc “Tâm Song Hạ” ‧Thang Vi Bá‧
Tôi viết bài đã được 10 năm, nhưng chưa hề viết qua loại văn thư bình hay cảm nghĩ, không phải tôi sợ đắc tội với người khác mà không dám viết, mà là do tôi chưa có kinh nghiệm viết loại văn này, viết không tốt lại bị tác giả nguyên tác cười, hoặc bị phê bình xấu của các độc giả. Nhưng sau khi đọc xong tác phẩm của Lư Thắng Ngạn tiên sinh, trong lòng lại có một nỗi xung động muốn viết bài cảm hoài. Trong đó có thể là do có 3 nguyên tố, thứ nhất, do tôi cũng quen với việc viết tiểu phẩm, và thích đọc nguồn gốc của tiểu phẩm. Thứ hai, tác phẩm của Lư tiên sinh rất chân thật, rất thẳng thắng, thấy cái gì viết cái đó, nghĩ cái gì viết cái đó, không giống những tác gia ngụy quân tử thông thường khác, chỉ toàn biết giấu nhẹm lương tâm toàn hô khẩu hiệu. Thứ ba, Lư tiên sinh trung thành với văn nghệ và tinh thần cố gắng sáng tạo khiến người khâm phục, ông nói viết thì viết, muốn viết bao nhiêu thì viết bấy nhiêu, trước mắt trong thế hệ tác gia trẻ tuổi trong nước ta tìm không được người thứ hai năng sáng tác như Lư tiên sinh.
Tập tiểu phẩm “Tâm Song Hạ” là quyển sách số 13 của Lư tiên sinh, tôi có vinh dự được đọc trước, quyển “Tâm” vừa xuất bản thì ông đã đem một quyển đến cho tôi, bởi vì hai chúng tôi là đã kết bạn thông qua 3 lá thư. Một tháng trước, trong thư ông có nói “Tâm Song Hạ” tháng sau có thể xuất bản, trong mấy tháng gần đây, mỗi tháng phải xuất bản một quyển sách, ông có nói trong hậu ký của quyển “Tâm”: “trong quãng đường dài viết sách, đã từng gặp phải rất nhiều trắc trở, cũng gặp phải những công kích nhàm chán, nhưng tôi là bò lên từ trong tuyệt vọng, ...... tôi là con lật đật công kích mãi cũng không ngã ......”, lại nói: “Văn chương có thành thục hay không, tôi không nghĩ ngợi nhiều, tôi cứ từng quyển một mà viết, chỉ cần một trong những quyển đó có một quyển là tác phẩm hoàn toàn thành thục là được rồi,, nếu không, tôi cứ viết tiếp mãi không ngừng.”
Từ đoạn lời thoại này có thể nhìn thấy tinh thần sáng tác của Lư tiên sinh rất khiến người khâm phục.
Quyển “Tâm” bao gồm 100 bài tản văn, là sử dụng loại hình thư từ để bày tỏ cảm hoài của đối với những gì mình thấy, mình nghĩ, mình gặp trong cuộc sống hàng ngày. Trong hậu ký, Lư tiên sinh có nói: “Quyển sách này tôi đề tựa là ‘Tâm Song Hạ’, là để kỷ niệm Mộng Mộng ở làng Tú Thủy huyện Chương Hóa, trong cuộc đời của tôi, liên tục viết 329 lá thư bàn về vấn đề nhân sinh, cũng chỉ là quyển sách này mà thôi, trong sách có hình ảnh của tôi, cũng có nỗi lòng không bao giờ giãi bày hết của tôi. ......”
Nhìn thấy những lời này thì hiểu được dụng ý của ông khi viết quyển sách này.
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Đọc “Trướng Võng Tiểu Phẩm” ‧Trần Huệ Thiên‧
Đọc tác phẩm của tác gia trẻ tuổi Lư Thắng Ngạn, cứ có một cảm giác rất sâu sắc, rất tự nhiên, bút pháp rất nhẹ nhàng linh hoạt, rất dễ khiến cho người khác rơi vào thế giới mà ông vẽ nên, xông vào đó sự mới lạ và hoang tưởng, vả lại quyển “Trướng Võng Tiểu Phẩm” này cũng mang đậm loại mùi vị này.Khi tôi mua quyển sách này trong tiệm sách, đọc nó hết một ngày, tôi nhắm mắt lại suy nghĩ, thì muốn viết ra tâm đắc của mình, đây cũng là một thói quen khi đọc sách của tôi, điểm đáng quý của “Trướng Võng Tiểu Phẩm” là bình dị dễ hiểu, miêu tả tỉ mỉ và phong thái hiện đại, khiến cho người đọc cảm thấy lập trường của ông cũng rất chính trực.
Tác giả lấy “Trướng Võng Tiểu Phẩm” làm tên sách là không thích hợp lắm, bởi vì 2 chữ “Trướng Võng” không thể bao hàm tất cả nội dung bên trong quyển sách, ông cũng tự đề cập trong hậu ký: “Thoạt đầu chỉ định viết Sự và ư của ‘Trướng Võng’, vậy mà tư duy lại nhảy ra từ ‘Trướng Võng’, trở thành con bướm rực rỡ sắc màu đang bay lượn, không phải thê thảm đau khổ, cũng không phải vui vẻ, không phải ai thương, cũng không phải hoang mang”. Cho nên tôi cho rằng ông cũng biết tên sách không mấy phù hợp.
Quyển sách này bàn rất nhiều, đa số đều khiến người khác đồng cảm, lượng văn biểu cảm giảm đi, ngược lại văn biểu cảm lột xác thành văn hiện thực lại tương đối nhiều, hiện tượng này, khiến cho người khác cảm thấy Lư Thắng Ngạn vẫn đang biến đổi, trong quá trình từ mộng tưởng quay trở về thế giới hiện thực, người viết đã lĩnh hội được nhiều.
Trên phương diện chung mà nói thì quyển sách này viết rất thành công, do tôi không phải là nhà văn, không thể nào hiểu được tâm trạng của tác giả viết sách, nhưng từ lập trường của người đọc, đọc “Trướng Võng Tiểu Phẩm” thì thấy ưu điểm nhiều hơn khuyết điểm, có thể nói không uổng công đọc.
Tôi khâm phục nhất tinh thần viết sách của Lư Thắng Ngạn, trẻ tuổi nhưng viết một lượt 12 quyển sách, cán bút sắc như dao, hạ bút như thần, câu nào cũng thực, Người viết trở thành độc giả của ông là vinh hạnh vậy!
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán)
Đọc “Tâm Song Hạ” của Lư Thắng Ngạn‧Trịnh Ngưỡng Quý‧
Lư Thắng Ngạn tiên sinh là nhân tài xuất sắc thế hệ trẻ trên văn đàn, ông là đóa hoa kỳ lạ rực rỡ sắc màu trong khu vườn văn học, rất khiến người khác phải chú ý. Tuổi còn trẻ, mới 30 tuổi, nhưng đã cho xuất bản 13 quyển sách nổi tiếng, tài hoa văn học của ông, thật khiến người ngưỡng mộ. Trong góc độ của thế giới văn học, ông cứ cầm viết mãi không thôi.
Tuy tác phẩm văn nghệ của ông nhiều như vậy, nhưng không hề cẩu thả, mỗi quyển sách đều có đặc sắc riêng của nó, mỗi một bài đều có nội dung riêng, bất kể là tả cảnh, tả vật, luận thuật, ...... đều là lối hành văn tràn đầy cái mới mẻ đẹp đẽ, làm say lòng người. Thật ra, tôi có hảo cảm và có phần hơi yêu thích một cách thiên lệch đối với tác phẩm của ông, suy cho cùng thì tinh thần dám làm của thanh niên là rất kiên cường, là rất đáng kính.
Sống trong thành phố văn hóa, ông rất mộc mạc giản dị, ông bằng lòng với cuộc sống bình dị của mình, ông trung thành với những sáng tác văn nghệ của mình. Mỗi một tác phẩm, đều gây nên đồng cảm cho người đọc, từ đó, ông có trách nhiệm với người đọc.
Gần đây, quyển thứ 13 nổi tiếng “Tâm Song Hạ” lại được gặp lại người đọc, hai trăm năm mươi mấy mục trong toàn sách đều in rất rõ ràng, thiết kế mỹ quan. Trong đó tập hợp hơn 100 bài tản văn của tác giả, những độc giả thích tản văn có thể có được kim chỉ nam và nhiều lợi ích từ quyển sách này.
Tác giả nói: “Tâm Song Hạ” là hồi ức tươi sáng, giống như một ngôi sao băng vội vã rơi xuống, để lại ánh chớp huy hoàng như pháo hoa. Trong những ngày ông còn trẻ, tràn đầy những ngày tháng tươi đẹp, những giấc mơ đẹp, và trong tuổi mộng mơ đó, ông đã kịp chụp bắt được nhiều xúc cảm dồi dào.
Phạm vi sáng tác của Lư Thắng Ngạn rất rộng, những kỷ xảo ứng dụng khi sáng tác là rất thành thục, ông nghĩ ra cái gì thì viết cái đó. Ông thích viết cái gì thì viết cái đó. Ví dụ như Đạm Yên Tập, Mộng Viên Tiểu Ngữ, Cấp Lệ Tiểu Trát, Lữ Nhân Đích Tâm Thanh, vân vân, tôi cảm thấy ông có tài hoa về nhiều mặt.
Sau khi đọc tác phẩm của ông, tôi cứ có một cảm nghĩ trực tiếp là: ranh giới sáng tác của ông rất sâu rộng, tả một người, kể một câu chuyện cũng đều khắc họa vấn đề rất sâu sắc, hơn nữa từ ngữ sử dụng cũng rất hiện đại hóa.
Lòng nhiệt tình sáng tác của ông không ngừng tăng lên, trong “Đại Hậu Ký” của quyển sách này, ông có tâm sự như sau —— văn chương có thành thục hay không, tôi nghĩ không cần nghĩ đến. Ông có hứng thú, cộng thêm cố gắng, thêm vào đó thời gian thì thành tựu sau này trên văn đàn của ông cũng không khó tưởng tượng lắm. Tôi chúc phúc cho ông.
Những câu chuyện cũ bàn đến trong nội dung của quyển sách này vốn là miêu tả những tâm sự của người bạn Mộng Mộng của ông, trong đó có những hoang tưởng ngây thơ,cũng có những thổ lộ chân thật; có những mơ ước về sinh mệnh, cũng có những khát vọng đối với tương lai, là một khúc nhạc sinh mệnh tươi đẹp trong hành trình của cuộc sống.
Pierre Loti có nói qua: “Văn Học là ‘Nghệ Thuật’ của Văn Tự.” Trong quyển sách này ông đã sử dụng đầy đủ “Nghệ Thuật” của chữ viết. Lữ Tao cũng từng nói qua: “Văn Học là biểu hiện của Tư Tưởng.” Quyển sách này cũng đã nói rõ hàm ý trong đó.
Lư tiên sinh:
Trong một ngày cuối tuần ngẫu nhiên từ hiệu sách đem về quyển sách thứ 13 của ông —— Tâm Song Hạ. Không ngờ nó lại có ma lực thu hút tôi cứ coi hết một trang rồi đến một trang, tôi giống như một đứa trẻ đang thưởng thức sơn hào hải vị không biết ngán, cuối cùng mới nhớ ra hãy để dành lại lần sau thưởng thức. Một lần thưởng thức hết thì thật đáng tiếc. Chính trong tâm trạng như vậy mới cẩn thận đặt nó vào kệ sách. Cho đến hôm nay, dùng thời gian rảnh 5 ngày để thưởng thức hết nó, nhưng ăn rồi mới biết vị ngon, tôi vẫn lật lại tỉ mỉ đọc lại tất cả những mùi vị trong đó.
Tôi nghĩ lúc này ông đã nhận được rất nhiều thư của các độc giả từ rất nhiều nơi khác nhau. Hay là ông rất bận, không có thời gian để đàm luận qua thư với tôi, nhưng tôi vẫn không cầm được phải nói ra tất cả cảm xúc sau khi đọc “Tâm Song Hạ”: cũng đã từng có khoảng thời gian tôi bỏ tâm huyết vào khu vườn văn học, trừ giờ lên lớp ra, tôi rất ít khi chủ động ra ngoài với bạn học, đôi lúc những ngôi miếu trong núi là nơi tôi yên tĩnh đọc sách, ni cô, sư phụ là những đối tượng đàm luận với tôi, vì vậy tôi bị cho là —— chứng bệnh kỳ lạ của thi nhân, tôi không để tâm lời phê bình hay khen ngợi của bạn học. Chỉ biết tìm kiếm Linh cảm; viết văn, không ngừng viết ra những lời mà một người trầm lặng muốn nói ra, thậm chí ngay cả buổi tối ngủ cũng mơ thấy một bài văn rất hay, thật là ......
Nhưng sáng tác văn thì phải trong một hoàn cảnh cô độc tuyệt đối mới có thể sản sinh ra linh cảm không ngừng, hoặc giả tôi là một người không đủ kiên cường, bước ra khỏi cổng nhà trường, hoàn cảnh công việc không cho phép, tôi mất đi cách tư duy mẫn cảm đó, tuy trong khoảng thời gian này tôi từng có thời khắc thi vị như tranh, mỗi sáng tinh mơ có thể một mình tự do tản bộ trên con đường nhỏ trong rừng trúc lắng nghe tiếng gió thổi, lắng nghe âm thanh xào xạt của trúc hòa quyện với tiếng chim hót, lén nhìn khoảnh khắc những mầm cỏ mới mọc tách vỏ vươn lên, chụp bắt khoảnh khắc biến đổi huyền ảo của mây trôi ...... Nhưng tôi lại không thể viết được cảm nhận tràn ngập trong lòng mình, có lẽ là do ngày tháng trôi qua quá phong phú, quá đầy đủ. Tôi đành dẫn câu nói của một vị tiền bối: “Những thi nhân hạng nhất không làm thơ, họ từ tất cả những sự vật trước mắt và những tưởng tượng trong lòng, đã đạt được ý thơ vô hạn, bản thân đã chìm ngập trong không khí thơ, không có thời gian để chiêm ngưỡng, thì còn đâu thời gian để tìm vần phối âm nữa, cả đời say đắm trong tình thơ, cho nên tuyệt đại thi nhân tự nhiên cũng không thể viết ra được một câu thơ.” Tôi chỉ còn biết tự an ủi mình như vậy. “Tâm Song Hạ” đã thay tôi nói ra hết tất cả cảm nhận trong lòng đối với người, với sự việc và với sự vật, tôi tỉ mỉ viết trong nhật ký tất cả những cảm nghĩ vui sướng cộng hưởng sau khi đọc mỗi bài văn, thậm chí giới thiệu với bạn bè, “Tâm Song Hạ” không giống như một quyển sách, mà tự nhiên, trôi chảy như Lư Thắng Ngạn đang đứng trước mặt tôi trò chuyện với tôi vậy.
Còn rất nhiều rất nhiều lời muốn một hơi nói hết với ông cho sảng khoái, nhưng vì nghĩ ông rất bận, nhưng nếu ông không chê mà đồng ý chỉ giáo, khích lệ tôi, thì chúng ta lần sau bàn tiếp, được không? Tụng chúc
Khang an!
Trần Phạm Tư Kính
Tối ngày 29 tháng 11 năm 63
Lư tiên sinh:
Như ông nói trên thế gian có sự tồn tại của linh hồn quỷ thần, và còn có thể dùng phương thức phù chú để gặp gỡ người thân đã mất, nhưng nghe nói khoảnh khắc nhi người chết, linh hồn lại đi chuyển thế, còn có thể gặp mặt quỷ hồn dưới âm gian sao?
Tuy tôi chỉ là học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, bây giờ là nhân viên phục vụ trong nông nghiệp, nhưng cũng có thời gian thường hay đến các tiệm sách trong thành phố dạo, tôi thích loại sách liên quan đến cuộc sống và loại linh hồn quỷ quái, bởi vì những điều này đối với người hiện đại mà nói thì đều còn rất mơ hồ, rất đáng để nghiên cứu, đã từng có lần tôi cảm thấy đời người rất mơ hồ, tôi từng sống trong miếu, từng gặp qua các sư và ni cô cùng nhiều loại người khác nhau, tôi từng nghĩ qua, cũng từng phân tích cuộc đời của một con người, đến bây giờ vẫn cảm thấy mơ hồ, nhưng từ khi đọc quyển sách viết cặn kẽ về những chuyện nhỏ nhặt trong đời người của Lư tiên sinh, không hề trở ngại mà viết rất tâm đắc, Lư tiên sinh đích thực là người tài cao bất đẩu tràn đầy sức sáng tạo hơn người, có sức lĩnh hội cao, thiết nghĩ Lư tiên sinh nhất định có kiệt tác ưu việt, không biết đối với phương diện nhân sinh có thể chỉ giáo cho kẻ ngu muội này những gợi ý cao hơn không?
Tục ngữ nói: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”, chẳng lẽ hòa thượng ni cô đều là kẻ bất hiếu? Lại nói: “Phàm thế gian bất sinh sản giả, thử tức ký sinh trùng”, chẳng lẽ hòa thượng ni cô đều là ký sinh trùng, không, tuyệt đối không phải, họ có lý tưởng cao đẹp, lý tưởng cao đẹp của họ, chẳng phải là cứu tất cả sinh vật trong bể khổ (nhân gian) sao?
Lá thư này là những lời nông cạn của kẻ ngu muội, văn từ bất nhã, có chỗ thất lễ, kính xin Lư tiên sinh chỉ giáo.
Chúc!Vui vẻ
Trần Đạo Lương Kính 16/11/1974
Thắng Ngạn tiên sinh:
Trong một ngày nghỉ phép, tôi ngẫu nhiên đọc được kiệt tác “Trướng Võng Tiểu Phẩm” của ông trong dãy sách bày trong tiệm sách Bành Hồ, vốn dĩ chỉ muốn đọc vài bài với tâm trạng thông thường, nhưng càng đọc càng mê, cứ như bị điện hút chặt vậy, không sao ngăn được, bất giác đứng ở đó rất lâu, khi thần trí khôi phục thì lập tức trong lòng xuất hiện một sự đồng cảm rất lớn, thế là chạy một mạch đến tất cả các hiệu sách lớn ở Bành Hồ, nhưng đáng tiếc chỉ mua được 4 quyển: Trướng Võng Tiểu Phẩm, Lữ Nhân Tâm Thanh, Xí Nghiệp Quái Tướng, Cấp Lệ Tiểu Trát.
Trong những ngày này tôi ôm khư khư sách của tiên sinh không chịu bỏ xuống, sở thích lớn nhất của tôi là đọc sách, và tự thấy đã đọc qua rất nhiều sách, nhưng về mặt cảm giác thì chưa có quyển sách nào cho tôi cảm giác bồng bềnh trôi dạt như kiệt tác của tiên sinh. Tôi là một quân nhân, hiện đang trú tại Kỳ Giác ở Tây Tự Trì Đông, hiện Bành Hồ đang là lúc chịu bão, trong những ngày tháng gió cuốn cát bụi này, thêm vào sự trống không của tâm hồn thật khiến người khó chịu, nhưng khi đọc kiệt tác của tiên sinh, tư tưởng của tiên sinh cứ như từng bó pháo hoa soi sáng nội tâm sâu thẳm của tôi, tiểu phẩm tản văn đọc lên khiến người cảm thấy mới mẻ hấp dẫn, thật khiến người khâm phục, động cơ viết lá thư này của tôi, ngoài việc bày tỏ tâm trạng không thể nào ức chế được trong nội tâm tôi ra, còn là vì việc mua 8 quyển Đạm Yên —— Tài Nguyên của tiên sinh, không biết có thể nhờ tiên sinh đại khái ước lượng giá của những quyển sách này và chi phí bưu phẩm cùng những khoản phí có liên quan khác, sau đó xin cho tôi biết, tôi xin gửi khoản tiền nhờ tiên sinh mua hộ, tin rằng với mối quan tâm nhiệt thành của tiên sinh đối với thanh niên, nhất định sẽ có hồi âm.
Sau khi đọc “Cấp Lệ Tiểu Trát”, cảm nhận một cách sâu sắc tôn phu nhân Tiểu thư Lữ Lệ Hương là một người vô cùng hạnh phúc, có một người bạn đời tuyệt vời như vậy, nếu không chê bai sự mạo muội của độc giả này, tôi xin phép tặng một tấm ảnh cưới hoặc ảnh chụp cuộc sống hàng ngày có kèm theo chữ ký của hai vị, để thỏa ý ngưỡng mộ. Cẩn thử
ChúcAn Dật
Độc giả trung thực Trần Ông Long Kính
Ngày 13 tháng 11 năm 63
DƯƠNG HOÀNG HẢI SƯU TẦM