Bài 11 đã mô tả những thủ đoạn lừa đảo trong nhiều phi vụ tâm linh, gây ra nhiều hậu quả đáng buồn. Dù những trường hợp lừa bịp trong việc trừ tà đuổi quỷ đa số đều ngụy tạo để trục lợi, nhưng không ai phủ nhận sự thật: có kẻ bị quỷ nhập, có nơi ác linh lộng hành tác quái, và có thực hoạt động trừ tà đuổi quỷ.
NHỮNG ĐIỀU PHÂN BIỆN
Theo khuyến cáo của các bậc thánh đức trong đạo Phật, những ai chưa đạt địa vị “Kiến đạo” trên 5 đạo lộ giải thoát của Bồ tát đạo, chưa đủ đạo lực để trừ tà đuổi quỷ. Song, khi nghiên cứu đạo Thiên Chúa, chúng ta được biết trong sách Tân Ước của họ ghi rằng chúa Giê su, 12 đệ tử của ngài và 70 tông đồ sau này đều can dự hiệu quả vào hoạt động đuổi quỷ. Lẽ nào những vị này chưa đắc thánh quả “Kiến đạo” như đạo Phật đã nêu, vốn là cứu cánh mà những vị sứ giả, tiên tri, con một của Đức Chúa Trời chưa đạt đến, lại làm được chuyện đuổi quỷ?
Đâu là sự giải luận chuẩn xác? Thưa rằng quỷ nhập vào người đủ hạng quỷ: quỷ đói làm càn, quỷ thần trung đẳng ưa du hí thần thông, quỷ thượng đẳng muốn phá hoại công trình tâm linh của người tu nghiêm túc, thiên ma không để cho hành giả đạo Phật đang đi trên đạo lộ nhập thánh vức. Thầy đuổi quỷ các đạo ngoài Phật giáo, thường không lượng sức mình mà đuổi quỷ. Tuy nhiên, nếu họ may mắn gặp hạng quỷ thường thì dễ đuổi; đụng phải quỷ thần trung đẳng thì đành bó tay quay về mà không lời từ biệt gia chủ; gặp phải quỷ thần thượng đẳng sẽ dễ có nguy cơ vong mạng, chí ít là tổn thọ nhiều năm. Sau khi thực hiện pháp đuổi quỷ, con cái hoặc người thân của họ thường bị liên lụy nặng nề
Quỷ lực tùy theo đẳng cấp mà mạnh yếu khác nhau, do vậy người trừ tà đuổi quỷ nếu chưa đạt thiên nhãn, không biết đối phương thuộc hạng nào? Do đó, bằng tuệ tri sâu sắc về hiện tượng này, Đức Phật và Thánh chúng không cho phép hành giả đạo Phật trừ tà đuổi quỷ trừ phi họ đã kiến đạo.
Lại có những thầy pháp đuổi quỷ bằng thần chú phẫn nộ của đạo Phật, nhưng không hiệu quả vì thiếu đạo hạnh, kém đạo lực, tựa như không có thể lực mà dùng vũ khí nặng tay, làm sao sử dụng linh hoạt? Cũng có những linh mục, mục sư nhân danh Chúa đuổi được quỷ đó là do đạo hạnh, đạo lực và đặc biệt là đạo tâm của họ. Tuy nhiên, trường hợp này hiếm hoi vì ở họ không có phương pháp truyền dạy bài bản về nghi thức chống tà, đuổi quỷ. Hiện nay, theo tin của Tòa Giám mục Phát Diệm, chưa có nghi thức chống tà đuổi quỷ từ trong các nhà thờ Công giáo ở Việt Nam. Sự cầu nguyện Chúa và xức dầu đọc kinh thánh, khó có thể đạt hiểu quả nếu đụng đầu với quỷ thần thượng đẳng, tựa như thuở xưa, quỷ thần A tu la từng làm thiên chúng thất điên bát đảo, may mà Thiên Đế cầu viện Đức Phật, mới có thể bảo toàn thiên giới.
Có kể rằng một loại rồng đen nhập vào người chăn cừu, anh ta liền có được khả năng thuyết pháp rất hay, người ta xây chùa cho anh ta ở, cúng dường đủ loại. Một ngày kia vị thánh giả đạo Phật ngang qua đây, ghé đến nghe anh này giảng pháp. Ngài sai thị giả đốt hương trầm xông gần chỗ ngồi anh ta, rồng ta liền bay mất. Anh ta dụi mắt nhìn xuống hội chúng, hốt hoảng la lớn: “Sao đông người quá vậy? Đàn cừu của tôi đâu rồi?” (trích từ “Giải thoát trong lòng tay” của thành tựu giả Pabongka). Qua đây, chúng ta thấy vị thánh giả không cần lập đàn tràng, không cần bắt ấn, niệm chú lớn tiếng, không rung chuông gõ mỏ, tụng kinh.
Câu chuyện khác là hành giả Du già một đời thành Phật là ngài Milarepa, một hôm nhìn vào hốc đá trong hang động, thầm nghĩ:
“Chỗ này, chắc có loại quỷ khoáng giả”.
“Con đây!”- Quỷ ta liền hiện ra và thưa như vậy
“Ngươi đến đây làm gì?”- Ngài Milarepa hỏi.
“Dạ Ngài gọi con mà!”- Quỷ thưa.
“Thôi, ngươi đi đi!”- Milarepa hạ lệnh.
Thế là quỷ ta biến mất. Thế mới biết, một lời nói của thánh giả, mọi hạng quỷ đều tuân hành.
Đức Đạt lai Lạt ma thứ 14 khi mới ổn định trụ xứ tại Dharamshala vào năm 1960, chức trách địa phương nhờ Ngài đuổi quỷ đang lộng hành tại những nhà tù trước đây do thực dân Anh thiết lập. Ngài đến nơi, chuyên tâm thiền quán từ bi. Ba ngày sau, hiện tượng quỷ ma xuất hiện quấy nhiễu không còn nữa.
Pháp vương Gyalwang Drukpa thứ 12 kể chuyện đuổi quỷ như sau:
“Đúng là có chuyện ác ma nhập vào chi phối thân người. Trong tự viện chúng tôi đã chứng kiến nhiều trường hợp như vậy. Nhưng không hẳn tất cả đều là ác linh, đôi khi đó có thể là những người bạn hoặc những người mà chúng ta quen biết. Tôi đoán có lẽ họ còn một vài việc dang dở hoặc vì bám chấp sâu dày vào những gì họ để lại sau khi qua đời. Vì vậy họ lưu luyến ở lại cõi này để cố gắng tìm cách thu hút sự chú ý của mọi người.
Tôi tin rằng chỉ có lòng từ bi mới có thể thực hiện thành công những pháp được coi là trừ tà. Tôi muốn chia sẻ với các bạn câu chuyện về cụ ngoại yêu quý của tôi, tức là mẹ của bà ngoại tôi. Mẹ tôi đã được bà ngoại Kesang Wangmo của mẹ truyền dạy cho hầu hết các pháp thực hành tâm linh từ khi còn nhỏ. Cụ ngoại của tôi sống ở Lhodrak, chính là nơi Ngài Milarepa đã xây tòa tháp cao chín tầng cho con trai của Ngài Marpa. Cụ là một hành giả thực hành pháp Dzogchen và cụ đã thị hiện hóa thân cầu vồng khi qua đời. Bạn hẳn sẽ hình dung cụ là một nữ hành giả Yogini, một bậc Thày tu chứng cao cấp hay tương tự như vậy. Thế nhưng, thực tế, cụ chỉ là một phụ nữ nội trợ bình thường, bận rộn vất vả suốt ngày để chăm lo cho hạnh phúc của gia đình. Cụ miên mật trì hàng tỷ biến chân ngôn Đức Phật A Di Đà. Cụ cũng là một người bản tính rất hiền lành từ mẫn.
Hồi ấy, từng có một bậc Khenpo đã qua đời, song Ngài thường nhập vào thân của một sư ni là bạn của mẹ tôi. Vị Khenpo rất mạnh mẽ và có uy lực. Mỗi lần bị nhập, sư ni thường ngay lập tức biến dạng, đầu to hẳn ra và giọng nói biến thành giọng của vị Khenpo nọ. Khenpo rất độc đoán và mọi người ai cũng kính sợ ông. Mỗi khi ông nhập vào người sư ni, tất cả mọi người đều cuống cuồng chuẩn bị thực phẩm, chỗ ngồi cho ông. Ngài còn giảng pháp thông qua sư ni. Mẹ tôi cũng đã từng được học pháp từ Khenpo khi ông còn tại thế và dường như bà là người duy nhất không bị ông đối xử cộc cằn. Còn tất cả những người khác đều rất kính sợ ông.
Rất nhiều bậc Rinpoche và bậc Thầy đạo cao đức trọng từ khắp nơi được thỉnh mời tới để thực hiện pháp trừ tà cho vị sư ni bị vị Khenpo nhập vào. Song chẳng ai thành công. Thay vì thế, lần nào họ cũng khiến cho Ngài nổi sân lên và có lần Ngài còn phỉ nhổ vào mặt một bậc Rinpoche. Chẳng ai làm được gì. Có một vị Rinpoche khuyên mẹ tôi nên thỉnh cầu bà ngoại của mẹ nói chuyện với hương linh của Khenpo. Bởi lẽ trước kia cụ ngoại tôi đã từng được Khenpo truyền thụ một số giáo pháp quan trọng. Thế là cụ được mời đến và cụ đã nói chuyện với vị Khenpo rất nhẹ nhàng, cụ khuyên nhủ rằng một bậc Khenpo tu hành vận áo cà sa cao quý như ông, không nên khiến cho mọi người sợ hãi hay làm tổn hại họ. Ông nên rời khỏi người sư ni. Thật bất ngờ, Ngài liển bỏ đi ngay. Cụ của tôi chẳng hề cử hành một khóa lễ puja hay nghi lễ long trọng nào, cụ chỉ nói chuyện với ông bằng giọng vô cùng từ mẫn ân cần, thêm vào đó cụ chẳng hề sợ hãi. Như tất cả các bạn đều hiểu, chư hương linh có thể đọc được ý nghĩ của người khác rất dễ dàng. Vị Khenpo kia biết rằng cụ của tôi nói chuyện ông bằng cả tấm lòng bi mẫn yêu thương, hoàn toàn không gợn mảy may ý nghĩ, động cơ vị kỷ nào. Vì vậy, nên ông đã rời đi…”. Trong câu chuyện này, chúng ta nên biết vị Khenpo này có thể nhập vào sư ni khi đang ở giai đoạn vừa lưu xuất thần thức, sau giai đoạn tịnh quang.
PHÒNG BỆNH HƠN CHỮA BỆNH
Qua những điều phân biện trên chúng ta thấy thầy tu đạo nào cũng can dự việc trừ tà đuổi quỷ. Tùy theo hạng quỷ nào mà họ có thể đuổi được hay không. Tuy nhiên, cách tốt nhất đuổi quỷ trừ tà là đừng bao giờ để cuốn vào ảnh hưởng của quỷ sự. Sau đây là những điều ghi nhớ:
1/ Kính nhi viễn chi ( tôn trọng nhưng không nên gần gũi), cụ thể là không thờ quỷ thần, không cầu cứu quỷ thần, không ngưỡng mộ quỷ thần..
2/ Phát triển 2 tâm thái sau đây: không sợ hãi quỷ thần, và tâm từ bi thương xót nghiệp duyên của họ theo lời dạy của Pháp vương Gyalwang Drukpa 12:
“Như vậy, có thể nói nếu trưởng dưỡng được tâm từ bi đích thực, sẽ chẳng điều gì có thể gây tổn hại tới chúng ta. Tâm từ bi chân chính, Bồ đề tâm chân chính vốn là giải pháp duy nhất để đối trị những kinh sợ hoảng loạn mà chúng ta phải trải qua trên thế gian này. Tâm từ bi đích thực sẽ giúp bạn trở nên vô úy, vì bạn sẽ chẳng còn có ý niệm về bản ngã, và khi không hề có bản ngã hay động cơ vị kỷ, lòng từ chân thực sẽ bảo hộ chúng ta giống như một tấm khiên che chắn vững chắc vậy.”
3/ Đã từ lâu tôi dạy các trò của Mật gia Song Nguyễn cách tránh tà, lánh quỷ như sau:
a/ Thực hành Bồ đề tâm nguyện qua 16 động tác sinh hoạt hằng ngày như một phương tiện tiếp cận giác ngộ (xem bài “Thế nào là Yoga Tây Tạng”).
b/ Niệm thần chú theo bước chân trong trạng thái động, niệm theo hơi thở, niệm bằng xâu chuỗi trong trạng thái tỉnh, nhằm gia tăng 5 công năng: Câu triệu, Kính ái, Tiêu Tai, Tăng ích, Hàng phục
c/ Thiền quán thánh tướng Bổn tôn để gia tăng thần lực.
Người viết kết thúc bài này bằng giáo huấn của Pháp vương Gyalwang Drukpa 12:
“Chúng ta nên tin vào điều này, thay vì tin rằng chúng ta sẽ chẳng có khả năng đạt được điều gì tốt đẹp. Giống như hôm trước tôi từng viết, chúng ta thường có khuynh hướng mạnh mẽ tin vào những hiện tượng tiêu cực, song lại chẳng đặt niềm tin vào những điều tốt đẹp. Để hướng cuộc sống của chúng ta xoay theo hướng tích cực, chúng ta phải bắt đầu từ việc tin tưởng rằng hạnh phúc, niềm vui, hòa bình, tất cả những điều tuyệt vời cao cả đó đều có thể đến với chúng ta trước tiên. Chúng ta có thể được vô úy nếu chúng ta muốn. Có được hiểu biết và niềm tin vững chắc ấy, rồi một ngày nào đó chúng ta nhất định cũng sẽ đạt được thân cầu vồng, giống như cụ ngoại của tôi vậy.”.