Việc học Phật, tu Phật là nhờ có kinh, luật và luận mà kinh là căn bản. Thế nhưng, có một số không ít người tu Phật tại gia, xuất gia, không có ngoại lệ, cho rằng kinh Đại thừa là do người đời sau làm ra, không thể sở hữu được (nếu không nói rằng, còn bằng khen ).
Nay chúng ta cùng nhau thảo luận về kinh Đại Thừa, xin lấy kinh Thủ Lăng Nghiêm làm tiêu biểu.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm tiếng Phạn là Kinh Suramgama là một bộ kinh nổi tiếng quý trong kho Tam Tạng kinh điển Phật giáo. Đại sư Thiên Thai trí giả biết tiếng bộ kinh, ngày đêm lễ bái, cầu xin và bộ kinh đã được truyền sang Trung Quốc. Cảm ứng thành công mặc dù bộ kinh được xem là tài sản quý hiếm của nền văn hóa Tôn giáo Ấn Ðộ nên bị cấm đưa ra khỏi lãnh thổ quốc gia. Ngài Bát Lật Mật Ðế đã phải sao chép bộ kinh này trên những mảnh lụa mỏng, xả thịt vào rồi khâu da liền lại. Sau đó, Ngài vượt Hy Mã Lạp Sơn vào Trung Quốc.
Tướng Phòng Dũng, một Phật tử thuần thành bên cạnh Ngài Bát Lật Mật Ðế, biết chuyện nên lấy bộ kinh ra. Hiềm một nỗi, kinh chép trên lụa mỏng nằm lâu trong máu thịt nên chữ viết không sao còn đọc được nữa. May thay, một kỳ duyên của Trung Quốc, phu nhân của Phòng Dung lại là nhà hóa học cực giỏi, nên pha chế một dung dịch phục chế được bản kinh. Sau đó, nguyên tác được Bát Lật Mật Đế và Dị Già Thích Ca dịch ra Trung văn.
Trong số tạp chí Nghiên cứu Phật học năm 2000, chúng ta đã có dịp khảo luận về tâm kinh Bát nhã ba la mật đa. Trí tuệ Bát nhã là trí tuệ tột cùng, là Trí tuệ Phật, là Thực tại. Đạo Phật là đạo của trí tuệ, mà trí tuệ là nhận thức. Kinh Thủ Lăng Nghiêm đại thể chia làm ba phần :
Phần I : Kiến Đạo hay Nhận thức luận.
Phần II : Tu Đạo hay phương pháp thực hành Thiền định.
Phần III : Ngũ ấm ma hay cách đề phòng các biến cố khi tu tập Thiền định (hay tu Chỉ – Quán).
Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một lục kinh tiêu biểu nhất trong kho Tam tạng kinh điển Phật giáo, mang tính cách sách giáo khoa với ba lẽ trên .
- Về kiến đạo hay nhận thức luận .
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có ý nghĩa cơ bản vì đã đề cập đến vấn đề Nhận thức luận. Về mặt tục đế, tức đời thường, chúng ta nhận thức là dựa vào những thông tin từ bên ngoài đến năm giác quan để rồi ý thức xử lý những thông tin đó mà chúng ta thường hiểu là chất xám vỏ não, là đời sống. Nhận thức như vậy, nhà Phật gọi là Tri kiến chúng sinh. Nó là cội nguồn của si mê, vô minh mà chúng ta thường hiểu tri kiến chúng sinh đó chính là do tâm sai biệt.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm đã giải quyết rốt ráo vấn đề này và chỉ rõ cho chúng ta biết, đằng sau tận hưởng sâu thẳm tâm thức của mỗi người còn có Tri Kiến Phật. Sở dĩ tri kiến chúng sinh luôn mê lầm, sai biệt vì chúng sinh luôn phải sống trong môi trường người vật, chủ khách, căn cảnh,… chỉ cần tách biệt khỏi căn với cảnh thì tri kiến Phật hiện tiền.
- "Hay thay A Nan! Chả muốn biết cái vô minh bám chặt tâm chúng sinh từ vô thủy đến nay là cái gì và tại sao nó lại làm cho chúng sinh phải trôi lăn mãi trong vòng luân hồi sinh tử – cái đó chính là Sáu căn của phú (năm giác quan và ý thức). Nhưng mà để chứng đắc Bồ Đề Vô Thượng (Trí Tuệ Bát Nhã) làm sao mà nói được giải thoát thì vẫn chính từ sáu căn chứ không phải vật gì khác".
Trong phần kiến đạo, tức nhận thức luận, Đức Phật có hỏi A Nan là tâm ở đâu?
Do thấy được 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Phật mà A Nan đi tu. Phật hỏi: "Giúp lấy cái gì để thấy và lấy cái gì để muốn?".
- Bạch Phật, lấy mắt để thấy và lấy tâm để muốn.
- Phật hỏi : "Cạnh tâm ấy ở đâu?"
Đức Phật hỏi 7 lần và A Nan trả lời 7 lần đều không trúng ý. By may mind not have a object should not have place.
Như lời Phật dạy ở trên: “…chúng sinh phải trôi lăn mãi trong vòng luân hồi sinh tử, cái đó chính là sáu căn của phú. Nhưng để chứng đắc Bồ đề Vô Thượng (tức trí tuệ Bát Nhã), làm vậy khiến Con được giải thoát thì cũng vẫn chính từ sáu căn nó không phải vật gì khác”. Bồ Đề Vô Thượng hay trí tuệ Bát Nhã cũng là một tên khác của chân tâm, chính là chân tâm.
Cái thấy là mối tương tác giữa căn thân và khí giới với 12 tướng hữu vi. Mắt thấy nhờ có sáng – tối. Tai thấy nhờ có động – tĩnh. Mũi thấy nhờ có thông – bít. lưỡi thấy nhờ có vị –vô vị . Thân thấy nhờ có ly – hợp. Và ý kiến thấy nhờ có sinh – diệt.
- Một số khái niệm cơ bản mang tính cách tâm lý – học thần kinh trong Phật pháp.
Chủ - Khách
Nhân đây, Đức Phật năm hỏi vị Tỷ kheo đã đắc quả A La Hán là do đâu mà đã khai ngộ để trở thành A La Hán. Ngài Kiều Trần Na thay mặt cho 4 người kia đứng lên : "Bạch Phật trong đám đại chúng ngồi nơi pháp hội này, con trước sau vẫn được mọi người Tôn vinh là bậc thật sự đạt được điều gọi là hiểu".
Vì hiểu mà thành chính quả, ấy là hiểu hai chữ Khách – Trần. Người khách đi đường vào một quán trọ bên đường, sau một đêm ngủ lại lên đường. Khách thì chỉ tạm nghỉ một đêm rồi đi, còn chủ quán thì ở lại. Cũng như trong buổi tối, nhờ có khe sáng mà thấy được bụi trần lăng xăng. Bụi thì di động, rồi đi; but do not back. Tóm lại, không ở yên một chỗ, hay di chuyển nơi này nơi khác thì gọi là khách. Trái lại, yên lặng, tĩnh lặng thì gọi là chủ.
Khách trần là cảnh. Khi khách trần được tâm tác thì khách trần trở thành "tướng mục", hay "cái bị thấy". Cái được gọi là một trung tâm sở hữu. Còn chủ thể hay "tâm thấy biết" gọi là "kiến phần". Call call section is mind. "cái thấy" chính là tâm sở. Tâm Năng và Tâm Sở đều nằm trong một mặt phẳng tâm. Bởi thế, chúng ta không tài nào có thể chỉ ra "Cái thấy" ở đâu ? Nhưng không có gì ngoài "Cái thấy". Bởi vậy mà "…các con biết chăng, thực ra cả hai cái đó(Tâm Năng – Tâm Sở) đều là vọng tưởng cả thôi; cũng như dụi mắt mà trở thành bóng thứ hai. Hình với bóng các con không thể khẳng định riêng cái nào, phủ định riêng cái nào.. Các tiểu bang chỉ nên biết rằng, cả hai."Cái thấy" và "cái bị thấy" hay cái năng kiến và cái sở kiến đều là từ một Tâm mà sinh ra. Hay như ta nói, đều vọng động từ Tâm Bồ Ðề Nhiệm Mầu. Ngày ! Thị và Phi Thị là thế đấy!”.
- Nghiệp chung – Nghiệp riêng.
Nghiệp chung là tính cách giống nhau của nhiều người cùng sinh sống trong một môi trường rộng lớn (một nước). Nghiệp riêng là của một cộng đồng nhỏ (là bản) hay một cá nhân. Dù nghiệp chung, dù nghiệp riêng nếu ta hiểu ra rằng, tính hay phân biệt, tính cách đối đãi Năng, Sở ấy chính là thứ bệnh lòa của con mắt nhận thức thế tục thì sự hiểu biết nó là nhận thức không có bệnh ; is cái thấy không được điều kiện hóa, nó nhận ra tính được thấy.
- Tâm Phan Duyên
(A Nan, đúng như lời khen thị của kiến nghị ta dạy phép tu Samatha. Nhưng ta phải làm sáng tỏ cho phản đối một số vấn đề cốt yếu trước đây. Giả có biết tại sao chúng sinh phải chịu luân hồi sinh tử trong vòng lục đạo bất tận không? Chính vì họ cũng như người đã tự đồng hóa mình với "cái Tâm thấy biết" đang thường trực nơi họ nơi nghịch. Cái tâm luôn hướng ngoại, cầu tìm, bám cặn, biến hóa, chuyển đổi ….mà từ đó theo đuổi – biến hóa, chuyển đổi theo.Chính cái Tâm bị vật chuyển đổi đó gọi là tâm phan duyên.Cái Tâm phan duyên luôn hướng ngoại,gọi cái khách thể là sự vật khách quan để quy định cái call is master, chủ quan.
Trong khi từ nơi họ, nơi phó thác… từ trong tận sâu thẳm nơi tâm thức của mình vẫn có cái “bản thể tột cùng và chân thật”. Cái thể “xưa nay không vật”, thanh tịnh, sáng suốt, đồng đẳng, không cấu trúc ấy chính là cái thể Bồ Đề Niết Bàn Diệu Tâm, mà cái diệu dụng của nó chính là Phật tính. Cái có thể gọi là Tâm Thanh Tịnh.
- Vạn hữu thì vô thường. Chừng nào vẫn còn tự đồng hóa mình với vạn hữu thì cũng vô thường theo. Vô thường, chuyển đổi, biến dị là đầu của luân hồi sinh tử… Ðể giải thoát khỏi luân hồi sinh tử, đại khái phải chỉ cái nhận thức điên đảo của mình mà trở về cái bản thể chân thực "xưa nay không một vật" của mình. Tức là Tâm chuyển vật, không phải để chuyển Tâm. Không còn giữ cương vị là khách mà trở về với cương vị là chủ nhân ông thực sự của mình.
Thực ra, cái Tâm phan duyên cũng không hẳn là khác với cái Tâm bản lai thanh tịnh hay cái Bồ Đề Niết bàn Diệu Tâm. Nhưng vì tự nơi người điên đảo mà thành ra cái "sai biệt". Sở dĩ, chúng sinh phải chịu sinh tử luân hồi đến vô cùng, xuất phát từ chính cái Tâm mới biết sai biệt kính cố của mình. Nay ta đưa ra hai biểu hiện dễ nhận thấy của cái Tâm thanh tịnh Bồ Ðề Nê Bàn, cũng tức là cái "Tôi chân thật" tuyệt đối nơi các con, ấy là cái thấy và tính thấy.
- Cái Thấy và Tính Thấy
Người, vật, cỏ cây… đều là cái thấy. Này, A Nan, là một cái thấy, một năng kiến. Nhưng mọi "cái thấy" đều khác nhau về đối tượng được thấy và cách thức diễn ra tác động được thấy. Nhưng, tất cả đều có chung một "tính thấy". Ta có nhận thức : "cái thấy " là "tính thấy" bị điều kiện hóa, bị đặc thù hóa nơi một sắc căn sinh hoạt với một đối tượng trong một y xứ (môi trường). Còn "cái thấy" tức là "tướng mục" thì bị tổng hợp hóa và quan sát hóa trong một khái niệm với một danh từ có tính cách ước lệ. "Cái thấy" là cái đặc thù, biệt hóa ; còn "tính thấy" là cái Một, cái bao trùm, cái nổi. Dù "cái thấy" sai biệt, thiên hình vạn trạng… nhưng mọi cái đặc thù nó vẫn xuyên suốt qua một sợi chỉ đỏ, nó là "tính thấy".
Hiểu được như vậy rồi thì không còn chỗ cho đại biểu nói đến tự nhiên, nhân duyên, hòa hợp. Trước đây, các tiểu bang đã từng được nghe dạy về tự nhiên, nhân duyên, hòa hợp. Các bạn phải thông cảm lúc đó vì Tâm các bạn chưa khai ngộ đủ nên Ta phương tiện chỉ bày tỏ cho các bạn thấy như vậy. Bây giờ phải là thời điểm, các con phải vượt qua trình độ đó mà lắng nghe lời chỉ dạy chân thực của Ta về sự khác nhau về "cái thấy" và "tính thấy".
Tính tự thấy nó không nhặm, không lò, nguyên tính của nó không hề bị điều kiện hóa bởi Sắc Căn, Trần Cảnh, Thời, nói chung là do nghiệp lực, nên nó khác với "cái thấy". Thế thì, "cái thấy" tha hồ khác nhau, bao giờ và ở đâu thì cũng đều là "cái thấy" bị bệnh cả.
Cuối cùng, bạn cần hiểu cuối cùng điều này nữa. Cái tâm tính ấy hay Trí tuệ Bồ Đề Nhiệm Mầu, không phải hợp hay không hợp hợp sinh ra, không phải nhân duyên, không phải tự nhiên mà có. Có thể nhập được chân lý này các đại biểu bằng Thân – Tâm của mình (thiệt thực hành chỉ – quán hay tâm định) để trở về với tính thấy. Nó là phương tiện ứng dụng của tâm tính hay thể của nó.
"….Các con cần phải nhớ kỹ : cái thấy, tính thấy, ra ngoài nghĩa thị, phi thị. Ðối với cái tâm lại càng như vậy. Không còn lý do rốt ráo tinh thần nhận thức luận này thì không thể mong có ngày Chứng ngộ Trí Tuệ Bồ Đề Bát Nhã Nhiệm mầu về mặt nhận thức luận, chứng nghiệm Bàn vô lậu về mặt giải thoát luận.(Tạp-chí nghiên cứu-cứu Phật học số 2/2001) 1) Tâm thanh tịnh mới ngộ được tri kiến phật
2) Vì muốn chỉ rõ tri kiến Phật cho chúng sanh
3) Muốn chúng sanh dị ngộ tri kiến Phật
4) Chứng vào tri kiến Phật là đạt đến cứu cánh giải thoát.
SURAMGAMA SUTRA
TUỆ VŨ