KINH PHỔ MÔN – MỘT HƯỚNG NHÌN ỨNG DỤNG
TT. Thích Nhật Từ giảng
Người phiên tả: Nguyễn Thị Kim Anh
*
Phẩm Phổ môn là một trong những phẩm quan trọng về Phật giáo ứng dụng của kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tức kinh Hoa Sen Chánh Pháp. Tuy nhiên, từ lâu, trong sinh hoạt Phật giáo ở các nước theo truyền thống Phật giáo Đại thừa, người ta đã tách phẩm Phổ môn ra thành một bản kinh độc lập để tụng đọc và thực tập. Trọng tâm của kinh Phổ Môn nói về hạnh nguyện của Bồ-tát Quán-thế-âm. Thông thường, phần lớn chúng ta biết đến Bồ-tát Quán-thế-âm qua hạnh nguyện Từ Bi, lắng nghe và giải quyết nỗi khổ niềm đau của cuộc đời bằng hạnh nguyện ban niềm vui không sợ hãi. Chúng ta cũng biết Bồ-tát Quán-thế-âm qua hạnh nguyện ba mươi hai ứng thân như là biểu tượng của sự dấn thân để giúp chúng sanh hóa giải những nỗi khổ niềm đau có mặt trong cuộc đời. Ngoài các nội dung vừa nêu, kinh Phổ Môn còn đề cập đến các phương pháp quán chiếu và các loại âm thanh mà phần lớn các hành giả Tịnh Độ tông ít biết đến. Lý do vì các phương pháp quán chiếu và các loại âm thanh mà phẩm Phổ môn đề cập thể hiện chiều sâu của quá trình thực tập tâm linh, mà những gì cao siêu, đại diện cho nền minh triết trong đời sống, dễ bị chúng ta quên đi. Vì thế mà ta thường chỉ tiếp cận Bồ-tát Quán-thế-âm trong kinh Phổ Môn qua lòng Từ Bi và nguyện lực cứu độ của Ngài mà thôi.
Về phương pháp quán chiếu, kinh Phổ Môn đề cập đến năm loại, gọi là Ngũ quán, bao gồm: Quán Chân Thật, Quán Thanh Tịnh, Quán Từ, Quán Bi, và Quán Trí Tuệ rộng lớn. Kinh Phổ Môn cũng đề cập tới năm loại âm thanh, gọi là Ngũ âm, bao gồm: Diệu Âm, Quan Thế Âm, Phạm Âm, Hải Triều Âm và Thắng Bỉ Thế Gian Âm. Nếu ghép cả Ngũ quán với Ngũ âm thì ta có năm lần Bồ-tát Quan Thế Âm, và đây là phần hành trì rất quan trọng đối với các hành giả tu tập theo đạo Phật Đại thừa. Trong tiếng Pali và Sanskrit, Ngài Quán-thế-âm được gọi là Avalokitésvara. Theo tiếng Sanskrit thì từ này có nghĩa là quán sát các âm thanh nỗi khổ niềm đau của con người và cuộc đời để cứu giúp. Đây là công hạnh lớn lao của Ngài mà kinh Phổ Môn đã đề cập. Để thấy rõ được công hạnh đó, chúng ta lần lượt phân tích về phương pháp Ngũ quán và Ngũ âm vừa nêu.
Quan The Am BT 01
NGŨ QUÁN
1/ Quán Chân Thật
Kinh Phổ Môn gọi tắt là Chân Quán. Thông thường những gì chúng ta nhận biết được qua nhãn quan phụ thuộc vào nhiều yếu tố: con mắt, ánh sáng quang học, góc quang học, khoảng cách quang học. Những người bị cận thị không thể nhìn xa nếu không đeo kính cận. Người viễn thị thì ngược lại không thể nhìn gần. Người loạn thị không thể nhìn các vật một cách rõ ràng. Người bị mù từ nhỏ hầu như không thấy.
Quán là thấy sự vật bằng trí tuệ, do đó dù không có mắt, chột một mắt, thị lực kém, cận thị, viễn thị, loạn thị… chúng ta vẫn có thể nhìn thấy được sự vật cách xa chúng ta hàng năm ánh sáng, hoặc là cách mình nửa vòng trái đất. Do đó, thực tập Chân Quán thì mọi người sẽ thấy rất rõ bản chất của sự vật như chúng đang là, chứ không phải là sự vật được chúng ta dán nhãn và định danh. Phần lớn chúng ta có thói quen dán nhãn lên đối vật, đối tượng, sự kiện, tình huống. Nghĩa là chúng ta, bằng ý thức chủ quan, tác động lên sự vật, khiến cho chúng trở thành các sự vật mang thuộc tính theo ý thức chủ quan của chúng ta. Triết học Phật giáo Nguyên thủy dạy chúng ta về phương pháp quán chiếu, gọi là Vi-bát-sa-na (Vipassana) – nhìn bằng trí tuệ, nhìn minh sát, nhìn thẩm thấu, nhìn các lớp thực tại như chúng đang là. Mỗi sự vật có thể có hai góc nhìn: sự vật chính nó và sự vật chủ quan. Sự vật chính nó thường khác với sự vật chủ quan do chúng ta áp đặt. Khi mình có thành kiến với một người nào đó, thì cách nhìn nhận đánh giá, phán đoán của ta về người đó hoàn toàn mang tính chủ quan. Lăng kính quá khứ, thành kiến, mặc cảm, tự ti, ganh tỵ, ghen ghét, tức tối, bực dọc, khó chịu sẽ không thể nào giúp chúng ta thấy rõ được con người chính họ. Thực tập Chân Quán là làm quen với việc tháo gỡ những lăng kính quá khứ, thành kiến, mặc cảm, tự ti, ganh tị, ghen ghét, tức tối, bực dọc, khó chịu… về một đối tượng, một con người, một sự việc nào đó.
Dân gian Việt Nam có câu: Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay lo, Bình Định co ro, Thừa Thiên dứt hết. Người đúc kết ra câu nói đó đang bị hệ quy chiếu vùng miền của bốn tỉnh chi phối. Có lẽ sau khi gặp phải một vài người Quảng Nam thích cãi, dù đúng dù sai gì cũng cãi, cãi bạt mạng, cãi chết bỏ, cho nên từ thành kiến đó họ nghĩ rằng hễ ai là người Quảng Nam thì người đó phải là người hay cãi. Trên thực tế có rất nhiều người Quảng Nam không thích tranh cãi. Họ chẳng thèm nói chuyện, họ rất lặng lẽ, thích hướng nội, không thích hơn thua, thích nhường nhịn và sống hòa thuận. Cách dán nhãn cho tính cách vùng miền như Quảng Ngãi là lo lắng nhiều, Bình Định thì nằm thin thít, Thừa Thiên thì ăn đứt hết ba tỉnh vừa nêu, đều là những giả đặt hoàn toàn sai với bản chất thật về cộng nghiệp của những con người sống ở bốn tỉnh vừa nêu. Đó là cái nhìn với lăng kính thành kiến, ác cảm mà chúng ta đã áp đặt lên những người mà mình có dịp tiếp xúc với họ. Do đó, việc truyền đạt thông tin như thế là đang gieo rắc các nghiệp hàm oan cho cộng đồng thuộc bốn tỉnh vừa nêu. Khi thực tập Chân Quán, chúng ta sẽ quay về đúng với bản chất của con người, sự vật, hiện tượng, tình huống. Muốn như thế, theo Đức Phật, chúng ta nên khép lại quá khứ, không lật giở lại, không nhắc lại, không kiếm cớ dựng lại các chuyện đã qua. Sâu sắc hơn, người thực tập Chân Quán sẽ buông bỏ được cái nhìn tiêu cực nơi con người, sự vật, hiện tượng, tình huống như thể các sự kiện xấu, tiêu cực đó chưa từng xảy ra nơi các đối tượng đó vậy.
Tâm rộng lượng, lòng tha thứ, thái độ vô ngã, vị tha sẽ giúp cho chúng ta có hành vi ứng xử cao thượng đối với lỗi lầm của người khác, cho nên mọi thành kiến được rũ bỏ một cách rất dễ dàng. Biết thì thưa thốt, không biết thì hỏi han, đừng phát biểu những gì mà mình không nắm chắc. Điều đó sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn rất chân thật về bản chất của cuộc đời. Bằng Chân Quán, chúng ta sẽ thấy thế giới này không có nguyên nhân đầu tiên, dù là duy vật hay duy tâm, thế giới không tạo ra bởi thượng đế và các thần linh, không chi phối bởi chưởng quản các lĩnh vực ngành nghề như người ta đã tin tưởng, đồn đại. Số phận, định mệnh an bài là không có thật. Đó chỉ là sự ngộ nhận do các tôn giáo gieo rắc vào tâm thức của chúng ta khi chúng ta còn nhỏ. Thế giới là một mối tổng hòa của các điều kiện tương tác đa chiều mà đạo Phật gọi là duyên khởi.
Với học thuyết duyên khởi, cái gọi là nguyên nhân đầu tiên dù là duy vật, duy tâm, duy thần, duy thượng đế đều là sai lầm hết, mọi sự vật nương nhau mà hình thành, nương nhau mà tồn tại, nương nhau mà phát triển, nương nhau mà hoại diệt để hình thành nên một sự vật khác, với một quá trình tương tự gồm có bốn bước như vừa nêu. Đó là cái nhìn Chân Quán.
2/ Quán Thanh Tịnh
Thanh tịnh vượt lên trên các ý niệm sạch đối với nhơ, thanh tịnh sẽ có được khi mà tâm của con người thoát ra khỏi các phản ứng tâm lý: tham lam, sân hận, si mê và những dây mơ rễ má của chúng.
Mỗi người trong chúng ta đều tạo ra một trường sinh học xung quanh mình. Mỗi khi chúng ta phóng tâm, tưởng ý, trường sinh học nhận thức sẽ tỏa ra xung quanh và tương tác với những người xung quanh, điều này làm cho trực quan sinh học của người khác cảm nhận được trường sinh học của ta, dẫn đến các thái độ tâm lý hoặc thích, hoặc không thích, hoặc trung tính trong lần gặp gỡ đầu tiên. Thậm chí, ngay cả loài động vật cũng có thể cảm nhận được trường sinh học của chúng ta. Tùy theo khuynh hướng hành vi của chúng ta thiện hay ác, lành hay dữ… mà trường sinh học tỏa ra tác động đến chúng một cách tương ứng. Những người nào trong quá khứ từng tạo nghiệp sát, giết các loại gia súc, nghiệp giết hại quá lớn thì trường sinh học tỏa ra xung quanh sẽ trở nên hắc ám, dữ dằn. Các loại gia súc, đặc biệt là chó và các loại chim dễ dàng cảm nhận được và tỏ ra sợ hãi khi tiếp xúc với những người như thế. Những người nào thường xuyên tạo nghiệp thiện, lành, có từ, có bi thì trường sinh học của họ sẽ trở nên trong sáng, dễ chịu, thanh tịnh.
Trường sinh học của lòng từ bi càng tỏa ra nhiều chừng nào thì tâm và thân của người đó thanh tịnh nhiều chừng ấy. Hành giả khi thực tập quán Thanh Tịnh cần phải thấy rất rõ mọi vật nhơ, thối, xú uế, các mùi thực ra chỉ là tính tương đối chứ không phải là vĩnh hằng trong tự thân của sự vật. Ai đã có cơ hội đi hành hương tâm linh tại Ấn Độ và Nepal đều trải nghiệm không khí ô nhiễm và ô uế ở khắp các con đường, ở bến xe, nhà ga xe lửa vì nhà vệ sinh không đủ sức chứa. Nếu đi hành hương bằng tâm du lịch, chúng ta không thể tránh khỏi cảm giác nhờm gớm về sự ô nhiễm mặt đất, ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí và ô nhiễm tiếng ồn tại Ấn Độ. Với cái nhìn tâm linh, chúng ta có thể thấy rất rõ nhơ và sạch chỉ mang tính tương đối. Quán Thanh Tịnh sẽ giúp cho chúng ta không phải bịt lỗ mũi khi có mặt tại các Phật tích và những nơi khác trên đất nước Ấn Độ, nhờ đó ta mới có cảm giác thoải mái để tìm hiểu, thực tập, trải nghiệm các giá trị tâm linh và lần dõi theo các bước chân hoằng hóa của Đức Phật ngày xưa. Trong Bát Nhã Tâm kinh, Đức Phật dạy “Bất cấu, bất tịnh” là như thế. Ngài muốn chúng ta nhìn thấy được bản chất của sự vật thoát ra khỏi mọi ý niệm dơ và sạch.
Nếu sự vật có một tính dơ vĩnh hằng, thì ta không thể tẩy rửa chúng sạch trở lại trạng thái như chưa bị ô nhiễm. Do vì tính nhiễm ô là tạm thời, việc quán thanh tịnh sẽ giúp cho ta không mặc cảm tự ti về thân phận của mình. Phần lớn chị em phụ nữ chưa tìm hiểu Phật pháp sâu, dễ mặc cảm tự ti về thân phận phụ nữ của mình. Đến những ngày có chu kỳ kinh nguyệt, nhiều chị em phụ nữ sợ không dám đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, bái sám, thực tập tâm linh vì nghĩ sai rằng dấn thân vào các sinh hoạt tâm linh vào những ngày ấy sẽ làm cho người ấy bị tổn phúc. Ngộ nhận đó cần phải được thay đổi.
Sự dơ và sạch có mặt trên khắp hành tinh này. Thân thể này dù trong những ngày sạch nhất, được tắm nhiều lần, xức nước hoa, được rất nhiều các loại hương liệu hỗ trợ, vẫn được xem như là một kho chứa các vật nhơ uế. Cho nên, ai quá bận tâm về chuyện sạch, nhơ thì khó sống được hạnh phúc. Là người tại gia mà chúng ta bị kẹt vào sạch nhơ quá nhiều thì khó có thể giữ gìn được hạnh phúc chung thủy vợ, chồng. Tuy nhiên phải giữ cơ thể sạch sẽ, vệ sinh thường xuyên để đảm bảo sức khỏe, đó là điều mà người tại gia cần phải làm. Nhưng việc mặc cảm và tự ti về sạch và nhơ của cơ thể của mình hoặc của tha nhân sẽ làm cho ta đánh mất cơ hội để trải nghiệm được hạnh phúc.
Quán Thanh Tịnh nhấn mạnh đến góc độ thanh tịnh của tâm, tức là làm thế nào để tâm thoát ra khỏi tham, sân, si. Để giải quyết tâm tham, Đức Phật dạy thực tập hài lòng và biết đủ. Biết đủ sẽ giúp cho chúng ta không đua đòi, không chạy theo thời trang, mẫu mã, sản phẩm, vật dụng, tiện nghi vật chất, và từ đó chúng ta biết quay trở lại với mình, hài lòng với những gì mà mình đang có. Đây cũng là cách giữ gìn hạnh phúc vợ chồng. Việc so sánh tiêu cực với người khác giới không phải là vợ chồng sẽ dẫn đến nguy cơ phá vỡ hạnh phúc hôn nhân. Hài lòng và biết đủ sẽ giúp cho chúng ta thực tập được sự chuyển hóa khỏi tâm tham và những đắm nhiễm từ tham.
Sân hận có thể dẫn đến hành vi giết người, làm thương tổn, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sống, sự sống và các giá trị do con người vun đắp. Thực tập quán Từ Bi, nói Từ Bi, hành động Từ Bi, tâm sân hận sẽ được tháo mở dần dần cho đến lúc không còn manh mối nào nữa.
Thực tập trí tuệ là phương tiện tốt nhất để chuyển hóa tâm si mê, vì theo Đức Phật, si mê là kẻ thù của hạnh phúc và bạn đồng hành của các bất hạnh và khổ đau.
Ai nỗ lực thực tập chuyển hóa ba năng lực tiêu cực của tâm là tham, sân, si là người đó đang thực tập quán thanh tịnh, thực tập thanh tịnh, sống với sự thanh tịnh và trải nghiệm tâm thanh tịnh một cách trọn vẹn và như ý.
3/ Quán Tình Thương
Đây là cách dịch thoát nghĩa. Quán tình thương được Đức Phật định nghĩa trong các kinh là “năng lực mang niềm vui đến tha nhân bằng tinh thần vô ngã và vị tha”. Những người có nghệ thuật ngoại giao có thể làm vui lòng người khác bằng lời nói và cử chỉ trong ứng xử. Dân gian có câu “Lời nói chẳng mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Hãy thực tập luôn nở nụ cười trên môi, bạn sẽ khiến người khác cảm thấy thoải mái, vui vẻ, đừng chì chiết, cằn nhằn, chửi bới, văng tục, nhắc lại lỗi cũ, đó cũng là những cách giúp cho người khác có được niềm vui về tâm lý và sống thoải mái về tinh thần.
Thực tập quán tình thương theo lời Phật dạy còn sâu sắc và cao quý hơn thế nữa. Trong bài kinh Từ Bi, Đức Phật dạy mỗi hành giả buổi tối khi đi ngủ không nằm quá cao, không nằm sấp để cơ thể được thoải mái, các cơ bắp được thư giãn. Sau khi chọn tư thế hợp lý xong, người ấy quán rằng có một năng lực Từ Bi từ trong tâm đang lan tỏa ra xung quanh, trước nhất là đối với những người thân thương nhất là cha mẹ, ông bà, vợ chồng, con cái, anh chị em, sau đó là đến những người dưng, kế đến là các loài động vật và môi trường sinh thái.
Khi lòng từ bi được lan tỏa khắp mọi nơi, mọi chốn, từ người ruột thịt cho đến những người không phải ruột thịt, lúc ấy chúng ta sẽ chuyển hóa được những sự giận tức, trả thù, trả đũa… vốn là những tâm lý đối chọi mà chúng ta có thể bị vướng kẹt vào nếu không biết cách làm chủ bản thân. Quán tình thương như thế trung bình từ 15 đến 30 phút thì hành giả sẽ rơi vào giấc ngủ một cách rất nhẹ nhàng. Mọi căng thẳng, bực dọc, tức tối, cau có, khó chịu trong suốt một ngày làm việc với nhiều sức ép sẽ được tan biến, não trạng sẽ được làm mới, nơ-ron thần kinh sẽ được kích thích, máu sẽ được tươi nhuận. Càng hít thở thật sâu, nhẹ nhàng, thư thái, thoải mái bình an với việc quán tình thương thì hành giả càng có nhiều khả năng tránh khỏi tất cả các cơn ác mộng trong giấc ngủ. Việc thực tập đó là không khó khăn lắm, chỉ cần tạo ra một thói quen. Làm được như thế chúng ta sẽ có tuổi thọ, sống lâu.
Sáng sớm thức dậy, chúng ta lại quán Từ Bi thêm một lần nữa khoảng vài ba phút rồi mới đặt chân xuống giường. Khi ngồi dậy ta cũng hít thở trong vòng 30 giây, tiếp tục quán Từ Bi sau đó mới đứng dậy. Khi đứng dậy, chúng ta cũng hít thở nhẹ nhàng khoảng 15 giây và quán Từ Bi, sau đó chúng ta mới từng bước thảnh thơi đi đến những nơi mà chúng ta muốn. Thực tập như thế, dần dần chúng ta sẽ thu lọc được các năng lượng Từ Bi, và trải nghiệm sự Từ Bi trong nhận thức và hành động của mình.
Người xuất gia mỗi buổi sáng khi đặt chân xuống giường đều đọc bài kệ Nhật dụng, đồng thời quán tưởng rằng bằng bàn chân vô tình này, tôi đã giẫm đạp chết biết bao nhiêu côn trùng vi tế mà mắt mình không nhìn thấy được. Cho nên, tôi nguyện chúng được vãng sanh Tây phương, rũ bỏ các ân oán và thù hận để có ngay cảnh giới tái sinh an lành. Đó là sự trải nghiệm lòng Từ Bi.
Khi cầm một bát nước trên tay, Đức Phật thấy rõ trong bát nước có 84 vạn vi trùng. Đây là con số có tính biểu trưng, không nhất thiết là con số thực. Nó biểu trưng cho số nhiều: vi trùng nhiều đến độ chúng ta không tính đếm được. Do đó khi đưa bát nước lên miệng uống, Đức Phật dạy chúng ta phải dùng lòng từ bi quán tưởng, mong các loại côn trùng vi tế trong nước khi chết đi được tái sanh vào cõi Tây Phương hoặc vào cảnh giới an lành.
Mỗi khi xem tin tức thời sự, khi nhìn thấy những người bị tai nạn, chết đột ngột, chúng ta nên dừng lại vài giây để quán tình thương, chia sẻ nỗi đau với những người bất hạnh. Thói quen thực tập này sẽ giúp cho ta có được lòng nhân từ, đức vô ngã, tâm vị tha, lòng tử tế, và từ đó, chúng ta luôn luôn tìm kiếm cơ hội để phụng sự người khác. Các việc làm đó là không khó khăn lắm nếu chúng ta thực sự có lòng.
Khi xem một bộ phim chiến tranh, dù chỉ là những hình ảnh mô phỏng lại những gì diễn ra trong lịch sử, chỉ cần khởi lên một tâm niệm ủng hộ bên đang bắn súng sang bên kia khiến bên kia gục ngã xuống là ta đang vô tình gieo một nghiệp sát vào trong tâm thức của mình. Tặng quà cho các cháu trai, con trai bằng các loại súng ống, vũ khí là chúng ta đang tạo cơ hội giết chết hạt giống tình thương ở các cháu và chúng ta phải chịu một cộng nghiệp xấu từ hành vi đó. Cho con em mình chơi các trò chơi điện tử bắn, giết, sát hại “ảo” trên internet là mình đang reo rắc các hạt giống sát hại thật trong tâm thức và thói quen sống của chúng. Đến một lúc nào đó các hạt giống này đủ sức mạnh sẽ làm cho những người chơi các trò chơi bạo lực đó trở thành nạn nhân và biến người khác trở thành nạn nhân.
Thỉnh thoảng báo chí ở phương Tây đưa tin, có những người sau khi xem phim người dơi đã bắt chước làm người dơi bắn giết, sau khi xem phim hải tặc, bắt chước làm giống như hải tặc. Bắt chước là hành động kéo theo sau khi tâm người ấy bị tiêm nhiễm các hành vi bạo lực từ phim ảnh. Do đó, để có được hạt giống tình thương trên nền tảng quán tình thương thì mỗi ngày chúng ta không nên tiếp xúc với phim ảnh chiến tranh, bạo lực, các loại võ thuật, đấu đài, các loại trò chơi mang tính hơn thua, tranh chấp, hận thù, bạo lực một cách gián tiếp hay trực tiếp. Muốn lòng Từ Bi lớn mạnh theo năm tháng thì ta phải để cho tâm mình tỏa ra chất liệu thương yêu, ấm áp, bằng cách, bất kỳ lúc nào ta cũng nở một nụ cười vui khi ứng xử, giao tiếp với mọi người. Không nhăn nhó, không tạo ra sự căng thẳng, giúp cho người đối diện có cảm giác được an ủi, hạnh phúc và bình an. Đó là cách chúng ta đang gieo hạt giống tình thương vào trong tâm thức mình và người khác một cách hiệu quả.
4/ Thực tập quán Bi
Bi là lòng thương cảm với nỗi đau của tha nhân. Phần lớn chúng ta thường trải nghiệm sự thương cảm đối với người thân, cùng huyết thống của mình như cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh chị em. Có nhiều bậc cha mẹ vì thương con quá, bi cảm với nỗi đau của con mình quá, thỉnh thoảng phát nguyện rằng, “giá mà tôi có thể chịu thế bệnh cho con tôi thì dù giảm đi 10 tuổi thọ tôi cũng cam tâm, để con tôi được sống khỏe mạnh và hạnh phúc trong cuộc đời”.
Kinh Địa Tạng khẳng định, dù cha mẹ có muốn chịu khổ thay con cũng không thể nào làm việc đó được, vì mỗi người có một biệt nghiệp, nghiệp xấu thì phải chịu quả xấu. Là cha mẹ và người thân, chúng ta không nên để tâm mình liên lụy khổ đau; chỉ khi độc lập và khách quan ta mới có đủ sáng suốt để giúp cho người thân của chúng ta thoát ra khỏi khổ đau một cách an toàn.
Có một người thân bị xe đụng tàn tật hai chân, không ai dại dột thương cảm đến nỗi đi chặt đứt hai chân mình để trải nghiệm nỗi đau mà người thân mình đang vướng phải. Nhưng trên thực tế chúng ta bị nhiều nỗi đau ở nhiều góc độ vi tế mà mình không để ý đến. Ví dụ, đến mùa thi, con ôn thi đến 1 – 2 giờ khuya, nhiều bà mẹ thương con, nhiều người cha tận tụy ngồi bên cạnh con để con khỏi bị ngủ gật, sáng mai khi con vào trong phòng thi thì cha mẹ đứng ngồi không yên ở trước cổng trường. Tiếng chuông báo giờ thi đã hết, con cái đi ra ngoài mà vẻ mặt hớn hở thì cha mẹ cũng vui theo; nếu thấy gương mặt con ủ rũ vì làm bài không được thì cha mẹ cũng mất ăn bỏ ngủ.
Như vậy, ta dễ ngộ nhận rằng Bi là sự trải nghiệm nỗi khổ niềm đau của người khác như người đó đang bị vướng kẹt. Đức Phật không dạy chúng ta như thế. Đức Phật dạy Bi là thương cảm với nỗi đau của tha nhân, nhưng ngầm chứa một năng lực vượt nỗi khổ, niềm đau của họ. Cho nên, làm cha mẹ hoặc người thân khi thấy một hành vi nào đó trong gia đình bất hạnh thì cần phải khéo léo, sáng suốt, điềm tĩnh để hướng dẫn từng bước cho người đó thoát ra khỏi ách nạn. Người trong cuộc bao giờ cũng mù quáng và bị tính chủ quan chi phối. Đứng bên ngoài chúng ta sáng suốt hơn, thấy rõ gốc rễ của vấn đề hơn, do đó chúng ta có thể tư vấn và hướng dẫn cách giải quyết vấn đề một cách an toàn và hiệu quả hơn.
Bi cũng không phải là thương yêu, cảm thông một cách mù quáng. Tin theo những lời hứa hão của những người nghiện ma túy và cờ bạc nặng là sai lầm trên quy tắc, vì những người đó khi bị tiền chi phối, ma túy chi phối, sự lệ thuộc sẽ làm cho người đó đóng giả vai một người rất chân thành hối lỗi, tha thiết van xin mong được người thân giúp đỡ để họ vượt qua khó khăn rất hiệu quả. Chu cấp tiền bạc trong tình huống hứa hão này là một cộng nghiệp xấu, đẩy họ lún sâu thêm vào con đường tội lỗi.
Trong các chùa Đại thừa, ngoài ngài Hộ pháp tượng trưng cho ông Thiện, còn có ngài Tiêu diện Đại sĩ tượng trưng cho ông Ác. Ông Thiện là tượng trưng cho giáo dục đạo đức, khích lệ, xích tấn, tán dương để giúp cho con người có thể vươn tới những giá trị mang lại an lạc hạnh phúc cho mình và cho người. Ông Ác là tượng trưng cho luật pháp trừng phạt những kẻ xấu khi những lời giáo huấn đạo đức không còn tác dụng. Luật trị là một trong những phương pháp để ngăn chặn một cách có hiệu quả tình trạng lây lan của tội phạm. Nhưng nên nhớ: tường cao, hố sâu không thể chuyển hóa được tội phạm, chuyển hóa nhân tâm, thay đổi nhận thức, làm mới cuộc đời. Quay đầu là bờ, đứng dậy sau vấp ngã là những phương châm Phật giáo thường răn nhắc những người phạm luật. Không được mặc cảm tự ti, phải biết nỗ lực hồi đầu để cải thiện chính mình.
Thương một người đang khổ đau là phải nói nhân quả xấu mà người đó đang bị vướng phải, chứ không phải chiều theo đến độ là bị liên lụy khổ đau. Có nhiều người cha, người mẹ biết là con mình giết người, trộm cắp, lừa đảo, phạm luật, nhưng sợ báo với các cơ quan chức năng thì con của mình phải bị ngồi tù. Do vì sợ như thế, cuối cùng khi bị phát hiện thì cha mẹ vướng vào tội liên lụy, đồng lõa. Đó không phải là cách tháo gỡ nỗi khổ niềm đau của người thân.
Sát thủ máu lạnh Nguyễn Văn Luyện đã gây liên lụy đến những người thân. Hai người anh đã chở Luyện đến để thực hiện hành vi giết hại chủ tiệm vàng, cha mẹ và người thân biết Luyện mang vàng về nhưng không tố giác tội phạm nên bị kết tội đồng lõa, hậu quả là tất cả đều phải ngồi tù giống như nhau. Do đó, phải sáng suốt, không nên tạo cộng nghiệp liên lụy, đồng lõa, tán dương, hỗ trợ, đồng tình bằng bất kỳ hình thức nào.
Khi nói kinh Tứ Diệu Đế, Đức Phật dạy rằng: phải giải quyết khổ đau và bế tắc bằng việc truy tìm nguyên nhân của nó. Và Ngài khẳng định hạnh phúc là có thật và Bát chánh đạo là con đường để đạt tới hạnh phúc. Để giúp người thân của chúng ta vượt qua các nỗi khổ đau mà họ bị vướng phải, cần thực tập quán Bi. Bi ở đây không phải là bi cảm, không phải là nhẹ dạ, cả tin, mủi lòng, thương cảm thông thường như chúng ta dễ mủi lòng trước các cảnh huống và mảnh đời khổ đau. Làm thế nào có thể giúp người khác vượt qua được các vướng mắc, khổ đau trên nền tảng của sự hiểu biết, cảm thông và an lạc, giải thoát mới chính là lòng Bi theo tinh thần Phật dạy. Cho nên, phải có phương pháp thì mới giúp cho khổ đau được kết thúc.
5/ Quán Trí Tuệ
Trí Tuệ được định nghĩa trong kinh điển Phật giáo nguyên thủy là cái nhìn phù hợp với Tứ diệu đế. Tứ diệu đế gồm có bốn bước, bước đầu tiên là thừa nhận khổ đau, bế tắc, trở ngại. Chướng duyên là một thực tại để ta không cường điệu hóa, không quan trọng hóa, không cảm xúc hóa vấn đề mà ta đang đối mặt. Chúng ta cũng không bỏ cuộc nửa chừng, không phớt lờ nỗi khổ niềm đau theo kiểu liều mạng. Giáp mặt với khổ đau để có bản lĩnh, với sức chịu đựng, nhờ đó ta đi tiếp bước thứ hai là phăng ra manh mối gốc rễ của khổ đau.
Theo Đức Phật, phần lớn các khổ đau mà ta đang đối diện là do các hành động của kiếp này tạo ra, quá khứ chỉ là một cái đà không đáng kể. Đổ lỗi nghiệp quá khứ sẽ làm cho ta có cảm giác được trấn an, nhưng không giải quyết được vấn đề một cách lâu dài. Do đó, người tu học Phật đừng đổ lỗi rằng trong quá khứ tôi đã từng giết người, trộm cắp, lừa đảo nên kiếp này tôi gặp đủ mọi trở ngại và chướng duyên. An ủi chỉ có tác dụng tích cực về tâm lý tạm thời, còn nghĩ rằng đó là một chân lý thì chúng ta sẽ vấp phải các nỗi đau tương tự trong tương lai.
Thực ra là do ta không chịu đi truy tìm nguyên nhân của vấn đề. Có rất nhiều nguyên nhân: do bất cẩn, do giận dữ, do tham lam, do si mê hoặc bao gồm cả hai, hoặc cả ba, hoặc tất cả. Khả năng nhận diện các nguyên nhân này đều nằm trong tầm tay và nhận thức của chúng ta cả. Chịu phân tích thì chúng ta sẽ tìm ra được nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp, nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan, nguyên nhân cá nhân và nguyên nhân tập thể.
Hạnh phúc là những điều có thật, khổ đau, nếu có, thì hạnh phúc cũng đồng hành. Nhờ cái nhìn tích cực này mà chúng ta không bi quan hóa cuộc đời, không tô đen, không đấu tố cuộc đời và không cường điệu hóa nỗi khổ niềm đau. Ai cho rằng đạo Phật là bi quan yếm thế là mắc sai lầm lớn, vì họ không hiểu rằng đạo Phật chủ trương đạt tới hạnh phúc, đối lập hoàn toàn với khổ đau mà đỉnh cao nhất là Niết-bàn.
Bát chánh đạo là con đường giải quyết các vấn nạn cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia, thế giới. Chính trị, kinh tế, giáo dục và các phương diện của đời sống xã hội đều có thể được giải quyết bằng ba phương diện: đạo đức, thiền định, trí tuệ của Bát chánh đạo. Về đạo đức có lời nói chân chính, hành động chân chính, nghề nghiệp chân chính. Về trí tuệ có chánh kiến, chánh tư duy. Về thiền định thì có tinh tấn, tu tập, chuyển hóa. Chánh niệm là làm chủ các giác quan trong đi đứng nằm ngồi; chánh định là tập trung nội tĩnh, chuyển hóa tham, sân, si để phát triển trí tuệ. Ai thực tập tám điều chân chánh như vừa nêu sẽ có khả năng lìa bỏ được bất kỳ nỗi khổ niềm đau nào. Cho nên, thực tập được Tứ diệu đế là đang sống với quán Trí Tuệ.
Ngoài ra, kinh còn định nghĩa ai thấy rõ thế giới này là vô thường, các nỗi khổ niềm đau không phải là tôi, không phải là tự ngã của tôi, không phải sở hữu của tôi thì sẽ ly tâm, vẫy tay chào được với khổ đau một cách nhẹ nhàng và an toàn. Sống phù hợp với nhân quả, làm nhiều việc lành để tăng trưởng đạo đức, không vi phạm luật pháp, sống vô ngã, vị tha, tử tế và hướng đến mọi người đều được xem là các hoạt dụng rất quan trọng của trí tuệ.
Để có được trí tuệ, Đức Phật dạy là đọc tụng kinh điển càng nhiều càng tốt. Một số trường phái Tịnh Độ tông cực đoan chỉ khuyên dạy chúng ta đọc bản kinh A-di-đà thôi, và gọi đó là “chuyên tu”, còn đọc các bản kinh khác là “tạp tu”. Đó là phỉ báng lời Phật dạy. Đức Phật dạy chúng ta phải thâm nhập Kinh tạng. Kinh tạng là một kho tàng chân lý và đạo đức. Trong suốt cuộc đời 49 năm hoằng hóa, Đức Phật đã để lại khoảng ba chục ngàn bài kinh. Mỗi một bài kinh là một toa thuốc tâm linh có khả năng chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau. Nếu ta chỉ đọc và nghiên cứu chất liệu của một bài kinh, chúng ta dư thừa chất liệu tâm linh này nhưng chúng ta thiếu chất liệu tâm linh khác, cũng như ăn cơm mà suốt cả một kiếp người chỉ ăn một món nào đó thì sẽ thừa chất này và thiếu chất khác, bệnh tật phát sinh là chuyện rất thường tình. Trong ngành y, không có một loại thuốc nào trị bá bệnh. Tương tự như thế, trong đời sống tâm linh, không có bài kinh nào được xem là toa thuốc thích hợp cho tất cả các chúng sinh. Đây là điều đã được Đức Phật khẳng định. Ngài nói Ngài là vị lương y giỏi, tùy theo bệnh nặng nhẹ mà cho các toa thuốc. Các toa thuốc đó chính là các bài kinh khác nhau. Cho nên, việc nắm vững càng nhiều các bản kinh, thâm nhập Kinh tạng nhiều chừng nào sẽ giúp cho chúng ta mở mang trí tuệ nhiều chừng đó.
Kiến thức là cửa ngõ tốt nhất để cho chúng ta lập nghiệp bền vững. Có bằng cấp là một cơ hội lập nghiệp tốt và cải thiện đời sống xã hội tốt. Có trí tuệ, chúng ta sẽ mở cửa hạnh phúc và giải thoát. Trí tuệ là sự nghiệp, trí tuệ là chìa khóa, trí tuệ là con đường dẫn đến thành công. Dù là sự nghiệp đời hay sự nghiệp đạo thì trí tuệ cũng đóng một vai trò rất quan trọng. Nghe giảng và thực tập theo những lời giảng chân chính cũng là cách để mở mang trí tuệ. Thực tập đời sống đạo đức một cách miên mật cũng là cách làm lớn trí tuệ. Đó là những phương pháp rất đơn giản nhưng lại có khả năng soi sáng nhận thức và cuộc đời của chúng ta.
Ai làm được năm phương pháp quán: quán chân, quán thanh tịnh, quán từ, quán bi, quán trí tuệ là đang trở thành 50% Bồ-tát Quán-thế-âm. 50% còn lại là thực tập hạnh Ngũ âm như sau:
- QTA 2
NGŨ ÂM
1/ Diệu âm
Diệu âm là âm thanh mầu nhiệm. Âm thanh mầu nhiệm là âm thanh chân lý và âm thanh đạo đức. Đức Phật thường gọi chân lý và đạo đức là pháp và luật, tức là Dhamma và Vinaya. Trong bài kinh Tăng Chi, chương Sáu phẩm, Đức Phật khẳng định không có một sự nghe nào có giá trị bằng nghe Chánh pháp và nghe đạo đức Phật dạy.
Các loại nhạc phù hợp với gu sở thích của bản thân chỉ có thể làm ta thư lắng tinh thần trong một thời gian nhất định, nếu chúng ta biết sử dụng âm thanh làm nhạc liệu pháp. Trên thực tế phần lớn người tại gia không sử dụng việc nghe âm thanh đúng cách, cho nên, càng nghe họ càng bi lụy và chìm vào nỗi khổ niềm đau nhiều hơn. Những người đang thất tình thường có thói quen nghe một số những bản nhạc buồn thảm do Chế Linh ca, hay là những bản nhạc rên rỉ do Đàm Vĩnh Hưng hoặc Siu Black ca. Nghe xong những bài hát đó, người ta trở nên bải hoải, chán chường, chỉ muốn tự tử. Thế là chúng ta đang biến âm thanh trở thành kẻ sát thủ.
Mỗi buổi tối, chúng ta nên ngồi trước góc tâm linh trong gia đình mình, trước bàn thờ Phật, đọc một bài kinh thuần Việt dành cho người tại gia, tâm chúng ta sẽ thấy ngay mọi căng thẳng trong ngày sẽ lắng dịu một cách nhiệm mầu. Hành giả Tịnh Độ tông có thể niệm Phật trong vòng 15 phút, sau đó cũng nên đọc kinh vì đọc kinh sẽ giúp chúng ta thâm nhập được Kinh tạng và nhờ đó chúng ta có rất nhiều các đáp án và giải pháp cho các vấn nạn mà bình thường khi rối trí chúng ta tìm không ra.
Là tu sĩ tới nay đã được ba chục năm, đọc kinh từ thời mới vào chùa, Đại tạng kinh Pali dịch ra tiếng Việt, kinh A-hàm, kinh Đại thừa, chúng tôi đọc không dưới mười lần, mỗi lần đọc là mỗi lần cảm nhận được các chất liệu mới, minh triết mới mà những lần đọc trước do giới hạn của nhận thức chúng tôi bỏ qua và không khai thác được. Đừng đọc kinh theo thói quen thuộc lòng vì khi đó chúng ta chỉ tập trung vào sự nhớ mà không tìm hiểu nội dung sâu sắc ẩn chứa trong các bản kinh. Các bản kinh Đại thừa ngoài lớp nghĩa đen còn có lớp nghĩa biểu tượng và triết lý. Sử dụng tri thức đúng để giải mã các biểu tượng đó chúng ta sẽ hiểu được bản kinh ở chiều sâu. Do đó, việc thực tập sẽ mang lại kết quả sâu sắc hơn. Đọc kinh là đang trải nghiệm Diệu âm.
Ngày nay có một số bản kinh đã được các thầy thu âm rất hay, phổ biến rộng rãi trên internet. Một số bản kinh ngắn đã được thu và phổ biến dưới dạng các máy phát thanh. Danh hiệu của Đức Phật và Bồ-tát đã được chùa Hoằng Pháp, chùa Giác Ngộ thực hiện với nhiều giọng đọc, âm điệu khác nhau. Mỗi lần đang bị căng thẳng, mệt mỏi, khó chịu, chỉ cần mở một băng kinh nhạc đó lên, chúng ta sẽ cảm nhận được sự mầu nhiệm của âm thanh. Đó chính là nhạc liệu pháp giúp ta trở nên thư thái và nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống.
Âm thanh chia thành 5 loại: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ tương ứng với hành của mỗi người, theo quan niệm của người Trung Quốc. Nếu ta nghe các loại âm thanh mang tính tương sinh với các hành mà mình đang có thì việc thư giãn tâm lý và cảm xúc sẽ diễn ra rất nhanh chóng. Còn việc nghe kinh, nhạc hóa danh hiệu của Đức Phật qua việc niệm tụng chí thành sẽ giúp cho chúng ta thư giãn được các căng thẳng trên bộ não và trên cơ bắp. Đó là điều chắc chắn có thật. Ai bị bệnh mất ngủ, ngoài việc quán Từ Bi ra, trước khi đi ngủ chúng ta đừng xem phim, đừng suy nghĩ, đừng xem tin tức căng thẳng, đừng nghe nhạc thất tình, nhạc rên, nhạc pop, nhạc rock, nhạc sốc… mà hãy nghe nhạc du dương trầm bổng, đấy chính là một loại diệu âm có khả năng trị liệu cảm xúc và thân thể của chúng ta.
Nếu từ nhỏ ta cho con em của mình nghe các loại nhạc thiền không lời, thì về sau con em của chúng ta sẽ hấp thu được cái tính mềm mỏng, nhẹ nhàng, điềm tĩnh và sâu sắc từ giai điệu của nhạc thiền. Các loại âm thanh ảnh hưởng đến cá tính của con người rất nhiều. Tận dụng được các loại âm thanh mầu nhiệm tức là âm thanh kinh Phật, danh hiệu Phật bằng nhạc hóa chúng ta sẽ cảm thấy thư thái hơn.
Trong sáu năm qua, chùa Giác Ngộ sử dụng bản kinh A-di-đà và Phổ Môn, kinh Vu Lan dạng nhạc hóa. Cho nên, người nghe cảm thấy thư thái hơn. Ở các đám tang nếu mở kinh A-di-đà nhạc hóa thì không khí buồn thảm giảm bớt đi. Thay vì chìm vào nỗi đau, sầu bi, người thân nên hướng về Tây phương, nghĩ rằng việc đưa tiễn người chết trong tình huống này là để họ được vãng sinh về cõi ấy, chứ không phải là mất đi một người thân. Do đó, chúng ta đã chuyển nỗi đau của thân bằng quyến thuộc người mất thành niềm tin, sự yên tâm về các giá trị mà người thân quá cố của họ sẽ có được ở thế giới Tây phương. Đây không phải là việc làm mang tính tín ngưỡng tôn giáo thuần túy mà là việc làm có giá trị nhân văn rất lớn. Nó cho thấy, việc sử dụng âm thanh là một phương tiện hoàn toàn có khả năng mang đến hạnh phúc thực sự cho đời sống con người.
Kinh PM 4
2/ Phạm âm
Phạm còn được gọi là phạn, viết tắt của Phạm Thiên hay Phạn Thiên, tức là đấng chúa trời của Bà-la-môn giáo. Đức Phật đã vay mượn khái niệm này để diễn tả nội dung của đạo đức, tâm thanh tịnh và sự trong sáng của tâm hồn. Phạm âm là những âm thanh mà việc trải nghiệm nó sẽ giúp cho tâm chúng ta được thư lắng. Mỗi người có một tiêu chí phạm âm khác nhau.
Ví dụ, đối với các hành giả Mật tông của Phật giáo Tây Tạng thì câu thần chú Án Ma Ni Bát Di Hồng là một phạm âm rất chuẩn. Đối với phần lớn các hành giả Mật tông, chữ Án phát âm chuẩn theo tiếng Sanskrit, bằng sự quán chiếu của tâm, sẽ tạo ra một năng lượng thanh tịnh. Ở phía bên ngoài các chùa theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng thường có từ 7 đến 15 vòng tròn là bánh xe có trục xoay. Trên vòng tròn bánh xe đó có khắc chữ Án Ma Ni Bát Di Hồng. Các Phật tử khi đi ngang các bánh xe đó đều để ý niệm Án Ma Ni Bát Di Hồng. Âm thanh Án Ma Ni Bát Di Hồng trong tâm giao tiếp với Án Ma Ni Bát Di Hồng trong quả chuông đang xoay vòng khiến cho Án Ma Ni Bát Di Hồng sẽ được nhân lên thành nhiều lần trong tâm thức của người Phật tử. Đó là cách sử dụng toán học để tăng cường sự tập trung của tâm, tạo ra một phạm âm thanh tịnh. Ngay lúc thực tập, hành giả sẽ không còn tâm trí nghĩ tưởng đến các loại âm thanh rên rỉ, khổ đau, than trách, thị phi, giận hờn thù hận… vốn mang lại phiền muộn cho ta.
Để thực tập phạm âm có kết quả thì cần phải thực tập buông xả. Hãy biết chắt lọc âm thanh bằng lỗ tai, giữ lại những gì cần nghe, còn những gì không mang lại hạnh phúc thông qua sự nghe thì ta bỏ qua. Nên tránh tiếp xúc với những người thích lời thị phi, bình phẩm, phê bình, chỉ trích tha nhân. Vì gần gũi những người như thế chúng ta sẽ chịu ảnh hưởng của sự cộng hưởng không tốt đó. Và có thể chúng ta sẽ vương vào những điều hắc ám, các nỗi khổ niềm đau, và thậm chí bị vướng kẹt vào dòng liên lụy của luật pháp.
Đức Phật thường dạy, người tu học Phật hãy truyền thông chân lý, truyền thông hòa hợp, truyền thông văn hóa và lịch sự, truyền thông những gì thật sự có lợi ích. Phương diện lớn thứ tư này phần lớn chúng ta chưa đạt được. Người Việt Nam, người Trung Quốc và một số nước đông dân nghèo khó có thói quen tâm sự bằng miệng để rũ bỏ các căng thẳng khổ đau về cảm xúc. Khi mình phát ngôn và chia sẻ nỗi khổ niềm đau thì tâm mình được thư thái, nhưng người nghe “lãnh đủ” và lỗ tai của họ chứa đầy những bất hạnh, thân của họ sẽ mệt mỏi, cho nên học theo lời Phật dạy không nên mồi lửa khổ đau trong nhà mình cho nhà người khác.
Khi có nỗi khổ niềm đau, ta hãy đến các chuyên gia tư vấn tâm lý, hoặc đến gặp các thầy, các sư cô có kinh nghiệm tâm linh, vì những người này có thể giúp chúng ta tìm ra các giải pháp để vượt qua bế tắc. Do đó, chỉ cần nói ra các trở ngại một cách thật vắn tắt, đúng trọng tâm và lắng nghe lời góp ý như là những giải pháp thiết thực. Làm được như thế là đang thực hiện được phạm âm. Một số hành giả xem chú Đại Bi, Ngũ Bộ chú, Thập chú là những phạm âm, có nhiều người thích danh hiệu của các Bồ-tát như là các phạm âm. Tùy theo sở thích mà chúng ta có thể để bên người mình một cái loại máy hay nạp vào trong iPhone, iPad, máy laptop, máy vi tính, hay là để tại vị trí mình làm việc một âm thanh mà mỗi khi có phiền não, nỗi khổ niềm đau đang khống chế ta có thể lắng nghe. Nhờ có sự thay thế tích cực này mà chúng ta sẽ vượt qua những phiền não, bực bội. Đó là một sự trải nghiệm như là một trị liệu pháp.
3/ Hải triều âm
Là âm thanh của sóng biển. Ai sống gần biển thì về đêm, sẽ nghe gió biển thổi, sóng biển xô, tiếng biển xào xạc muôn trùng, mỗi một đợt sóng như thể một nhạc khúc rất đa dạng và phong phú. Ngày nay thế giới phương Tây đã liệt tiếng ồn vào một loại ô nhiễm tâm thức dẫn đến nỗi khổ niềm đau. Từ xa xưa, trong kinh Trung Bộ, Đức Phật đã khẳng định tiếng ồn là cây gai của thiền định. Thiền định đây là nỗ lực chuyển hóa tham, sân, si. Khi bị tiếng ồn chi phối thì chúng ta rất khó tập trung. Các chùa nằm ở mặt tiền đường ít nhiều cũng bị chi phối, ảnh hưởng bởi tiếng ồn như là một loại ô nhiễm tâm thức.
Sống trong một gia đình mà ta nghe người thân chửi bới lẫn nhau, cãi lộn nhau, hành hạ nhau về phương diện ngôn ngữ là chúng ta đang trải nghiệm ngôn ngữ như là một tiếng ồn phiền não rất khó chịu. Lúc đó quý vị hãy thực tập quán hải triều âm. Hãy hình dung bên tai mình đang có tiếng sóng dập dềnh của biển, như thế ta sẽ dễ dàng thư giãn hơn. Nếu có cơ hội thì quý vị hãy có mặt ở bờ biển, nằm trên bãi cát, vừa có thêm sức khỏe nhờ cơ thể nạp thêm năng lượng từ nước biển, từ mặt trời, đồng thời hãy lắng nghe tiếng sóng vỗ của biển để chúng ta tập thư lắng. Dĩ nhiên, cơ hội để đi tắm biển không nhiều, nhiều khi ở bên biển ta lại không thấy được giá trị của nó. Cho nên, đang khi chúng ta đang bị phiền não bởi ồn ào, nhạc của những khu vực xung quanh, nhà xung quanh, người xung quanh, yêu cầu mãi mà họ không chấm dứt, thay vì ta chửi bới, khó chịu, thì tốt nhất chúng ta hãy quán tưởng rằng mình đang nghe hải triều âm để lòng cảm thấy thoải mái hơn.
May mắn là ngày nay chúng ta có rất nhiều các loại thiết bị điện tử, có thể trữ được vô số các bài giảng. Trang web “Pháp luân thường chuyển” của thầy Trí Giác Thông là một trong những phương tiện cung cấp cho chúng ta các bài giảng của hàng trăm giảng sư trong và ngoài nước. Trang Phật âm, Tủ sách Phật học của chùa Giác Ngộ cũng cung ứng gần 10.000 bài giảng tương tự. Trang chuahoangphap.com.vn cũng có rất nhiều bài giảng của nhiều giảng sư khác nhau. Việc tải và nghe lại các bài giảng đó là ta đang nghe hải triều âm, và trong khi tập trung vào nghe pháp, ta sẽ quên đi các loại âm thanh vốn có thể dẫn đến phiền não và phiền lụy trong tâm mình.
Thay thế là một nghệ thuật rũ bỏ nỗi đau mà không bị kẹt vào ức chế tâm lý và đè nén. Đè nén thì dễ dẫn đến phản ứng phụ, ức chế tâm lý thì dẫn đến nổ bùng trong thời gian sau, cho nên chúng ta không dại dột gì mà chọn lựa một trong hai phương pháp như vừa nêu.
4/ Thắng Bỉ Thế Gian âm
Là loại âm thanh vượt qua các âm thanh của cuộc đời. Trong kinh Đức Phật thường dạy (nghĩa đơn giản) là kính lạy Phật, con xin quay về nương tựa Ngài, kính lạy Chánh pháp, con xin quay về học hỏi và trải nghiệm, kính lạy chư Tăng, con xin quay về nương theo sự hướng dẫn. Đó là ba câu mà theo Đức Phật là âm thanh của nó vượt lên trên các loại âm thanh thông thường. Khi chưa biết đạo, có rất nhiều người mê các loại nhạc, các loại phim ảnh như: phim Hàn Quốc, phim Hồng Kông, phim Đài Loan…, đặc biệt là phim tình cảm. Họ gần như là quên ăn, bỏ ngủ cho các loại âm thanh đó. Khi biết đạo rồi, chúng ta nhận ra rằng: trong suốt thời gian qua mình phí rất nhiều thời gian cho những việc vô ích, không đi tới đâu cả.
Để nắm bắt tin tức thế gian, mỗi ngày chúng ta chỉ cần nghe từ 15 đến 30 phút vào mỗi buổi sáng hay là cuối ngày là đã đủ. Không cần phải tiêu thụ hết tất cả các loại âm thanh tin tức và thế vào đó ta có thể chọn các âm thanh tâm linh vốn có thể vượt trội các âm thanh thông thường. Bài kinh Pháp Cú gồm có 432 câu danh ngôn. Mỗi câu danh ngôn là một bài thuốc có giải pháp trị liệu có thể giúp cho ta vượt qua các trở ngại.
Ví dụ, người nào vướng kẹt vào tâm sân hận và muốn trả thù thì hãy nhớ câu Phật ngôn sau đây: “Hận thù diệt hận thù, đời này không có được; tình thương chuyển hận thù, là định luật muôn đời”. Đó chính là Thắng Bỉ Thế Gian âm. Ai là người lười biếng, không muốn phấn đấu, chấp nhận số phận an bài thì chỉ cần đọc danh ngôn Phật dạy trong kinh Pháp Cú: “Hãy bắt chước con tuấn mã, bỏ sau lưng những con ngựa què, người thực tập tinh tấn sẽ hướng về hạnh phúc”. Ta thấy câu phương châm như là một mệnh lệnh cách giúp cho ta phấn chấn vươn lên trong cuộc đời.
Hiện nay, kinh Pháp Cú đã được đọc, được ngâm thơ, được phổ nhạc, quý vị chỉ cần chọn những câu Phật ngôn nào mà mình tâm đắc nhất như là những danh ngôn ứng xử trong cuộc đời là chúng ta đang trải nghiệm với Thắng Bỉ Thế Gian âm.
Khi làm từ thiện, các quý Phật tử dù có điều kiện cũng không nên làm một mình, mà nên phối hợp với một ngôi chùa, thỉnh một vị giảng sư cùng tham gia tặng quà, vị giảng sư sẽ chia sẻ một pháp thoại giúp cho những người được nhận tặng phẩm vượt qua nỗi khổ niềm đau. Sự giải quyết khổ đau đó là lâu dài và có giá trị. Quý vị có thể chọn trong kinh Pháp Cú, kinh Hiền Nhân, kinh Thiện Sanh, kinh Từ Bi, kinh Tứ Diệu Đế, kinh Vô Ngã tướng và những bài kinh Thập Thiện, 42 chương, v.v… những câu mà mình tâm đắc nhất, rồi đánh trên máy vi tính và in ra, dán trên từng gói mì gói, các phần quà mà mình tặng biếu cho các mảnh đời cơ nhỡ và bất hạnh. Sau khi tiêu thụ các loại tặng phẩm thì họ còn nhớ lại các câu Phật ngôn, và âm thanh Phật ngôn là phương thuốc trị liệu nỗi khổ niềm đau rất hiệu quả. Chỉ cần quan tâm như thế, làm các việc nhỏ như thế, chúng ta cũng có thể giải quyết được khổ đau lâu dài cho họ.
Ấn tống kinh điển, băng giảng đôi lúc chẳng tốn bao nhiêu tiền mà lại có thể cứu được nhiều cuộc đời bất hạnh. Nếu nói về việc đầu tư phước báu thì việc ấn tống các băng giảng hay có khả năng chuyển hóa các khổ đau sẽ mang lại rất nhiều lợi lạc. Các băng giảng đúng Chánh pháp đều được gọi là các băng giảng hay và là loại âm thanh vượt lên trên các loại âm thanh của cuộc đời. Những người mới nghe giảng dễ buồn ngủ vì chưa quen, nhưng khi đã nghe vài ba lần rồi sẽ cảm thấy thích thú bởi vì chúng ta sẽ học được nhiều điều hay và lẽ phải từ các băng giảng ấy.
Nghe một băng giảng mang tính triết lý và tri thức cao, có thể ta chưa hiểu liền ngay lập tức, nhưng đừng vì thế mà chán nản bỏ qua. Nghe mà hiểu hết hoặc chưa nghe mà đã hiểu thì sự nghe đó không còn giá trị nữa. Hãy nghe những thứ mà ta chưa hiểu để ta học thêm được một cái mới sau mỗi lần nghe. Trong mười năm qua, đi đến đâu chúng tôi cũng chủ trương là giảng ở mức chuẩn theo lời Phật dạy, không hạ thấp lời Phật dạy để nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu, thị hiếu nghe pháp của giới bình dân. Đây là cái cách có thể giúp cho giới bình dân có thể nâng trình độ của mình lên sau nhiều năm tháng nghe pháp, mặc dù việc giảng như thế có thể có ít người nghe. Nhưng một khi họ đã nghe được thì hiệu quả của việc nghe đó rất lớn. Họ sẽ cảm nhận được sự mầu nhiệm của giáo pháp. Nỗi khổ niềm đau của họ sẽ được chuyển hóa, họ sẽ có an lạc ngay trong cuộc sống hàng ngày của mình. Đó là cái cách để truyền bá Thắng Bỉ Thế Gian âm theo tinh thần Phật dạy.
Kinh PM 1
5/ Quán-thế-âm
Quan-thế-âm chính là tên của vị Bồ-tát mà chúng ta đang nghiên cứu về hạnh nguyện của Ngài. Nghĩa đen của Quan Thế Âm là quan sát âm thanh khổ đau của cuộc đời và có mặt đúng tình huống, đúng thời khắc để giúp cho người đó vượt qua khổ đau. Điều này được hiểu theo tâm lý học hiện đại với các phương diện sau đây: hiểu và cảm thông khổ đau của người.
Phần lớn chúng ta có thói quen trách cứ, chứ ít khi nào cảm thông. Vợ mà trách chồng nhiều thì ít khi nào hạnh phúc, chồng trách vợ nhiều thì gia đình lục đục. Hãy đặt mình trong vị trí và tư thế của người đối diện thì ta sẽ dễ dàng cảm thông về các điểm bất toàn, về quan hệ và ứng xử bao gồm cả lời nói và việc làm của người kia. Thay vì trách móc, hờn dỗi, căng thẳng, nặng nhẹ, gây gổ vốn có thể tạo thêm nhiều căng thẳng thì ta hãy tìm cách để có thể giúp cho người đó vượt qua trở ngại mà họ đang bị vướng phải.
a/ Đức Phật thường dạy trong các kinh rằng con người không phải kẻ thù của con người. Tham lam, sân hận, si mê và các hành vi bất hạnh mới chính là kẻ thù đích thực của con người. Hãy dấy khởi cuộc kháng chiến để chống lại kẻ thù chung của nhân loại là tham, sân, si chứ không phải là con người. Hiểu được điều này thì khi nhìn cách người thân ứng xử thô lỗ, khó chịu, chọc gậy bánh xe, phá đám, không hiểu biết, ta sẽ không trách cứ họ mà cảm thông họ. Ta biết rằng họ đang bị tham, sân, si chi phối. Thay vì quở trách thì hãy tìm một cơ hội khéo léo để giúp cho họ khắc phục và vượt qua. Đó là hạnh hiểu và cảm thông.
b/ Lắng nghe không phán xét. Phần lớn ta có thói quen nói lấn át người khác. Người khác nói nặng mình một câu, mình trả đũa hai, ba câu. Ai chửi mình một câu, mình chửi lại một tràng để cho người ta sợ mà không dám ăn hiếp mình nữa. Lối ứng xử đó sẽ làm cho căng thẳng giữa ta và người tăng thêm gấp bội. Lắng nghe không phê phán, ta sẽ có cơ hội nghe một cách rất sâu sắc, nghe có bài bản. Từ cái nghe sâu sắc, nghe bài bản đến việc hiểu thấu, thương nhiều là một khoảng cách rất ngắn. Nếu không chửi, không trả đũa lại thì mình thường có tâm lý hờn giận, buồn phiền, khổ đau. Thực tập lắng nghe không phán xét, mình phải nêu ra một quyết tâm: buồn chi mà năm ba bữa để cho tâm tư héo sầu. Mỗi khi có buồn, khổ và đau thì hãy biết lắng nghe như Bồ-tát Quán-thế-âm. Lắng nghe này sẽ khiến cho chúng ta phản ứng chậm lại. Người phản ứng chậm thì sẽ tránh được những sơ suất, lỗi lầm do tâm sân hận gây ra. Lắng nghe còn có thể giúp chúng ta hiểu sâu, hiểu thấu đáo, từ đó chúng ta sẽ dễ dàng vượt qua được các tai ương tật ách mà mình và một người nào đó đang bị vướng kẹt.
c/ Chia sẻ nỗi khổ niềm đau đúng lúc và đúng chỗ. Đức Phật dạy, mỗi khi giúp đỡ, bố thí cho một đối tượng nào đó cần phải giúp đỡ, bố thí theo tinh thần bố thí Ba-la-mật. Quán-thế-âm là người thực tập hạnh nguyện như thế. Chúng ta cũng thực tập hạnh nguyện bố như Ngài. Bố thí, giúp đỡ những người cần giúp và đúng thời điểm giúp, không chần chừ, không do dự, không trì hoãn. Hoan hỷ trước khi làm việc đó, hoan hỷ đang khi tiến hành việc đó và không hối hận sau khi việc đó đã được thực hiện, dù người nhận lời ơn nghĩa không đền ơn ta, thậm chí có thể trả oán. Việc làm tốt đó đã kết thúc, hành động tốt đó đã trở thành kết quả tốt, còn người ứng xử xấu phải chịu sự trừng phạt của pháp luật hoặc nhân quả. Chúng ta không nên thay thế chức năng của luật để vướng kẹt vào ân oán giang hồ với những người thiếu hiểu biết, thiếu chuẩn mực trong ứng xử. Trong quá trình thực tập, chúng ta sẽ thấy rằng, phải hiểu tâm lý, hoàn cảnh, trở ngại, bế tắc của người thì việc nghiên cứu về thời điểm và địa điểm nói, an ủi, vỗ về, nâng đỡ, khích lệ mới thật sự có kết quả. Góp ý ai thì góp ý riêng với họ; tán dương người nào thì đừng có tiếc lời khi có mặt quần chúng. Tán dương mang tính khích lệ, còn góp ý không khéo sẽ bị hiểu là phê bình, chỉ trích sẽ làm cho người ta có cảm giác nặng nề hơn, từ đó thiện chí của mình bị hiểu sai hoàn toàn.
Nói tóm lại, thực tập theo hạnh nguyện của Quán-thế-âm là lắng nghe với sự hiểu biết để nâng đỡ nhằm giúp cho người đó vượt qua bế tắc mà họ đang đối mặt. Người nào thực tập được Ngũ quán và Ngũ âm thì người đó sẽ đạt được kết quả hạnh phúc và an vui và được xem là hiện thân của Bồ-tát Quán-thế-âm trong đời sống thực tiễn này. Hãy trở thành Bồ-tát Quán-thế-âm thực tiễn bằng khả năng thực tập và dấn thân của mình, hơn là chúng ta cầu nguyện và chờ đợi sự gia hộ của Ngài.
TT. Thích Nhật Từ giảng
Người phiên tả: Nguyễn Thị Kim Anh