CHỦNG TỬ BỒ ĐỀ THEO MẬT GIÁO
Theo Đại nhật kinh của Mật giáo thế nào là bồ đề?
- Là biết (giác) như thật về Tâm của mình.
(Chữ Tâm ở đây chính là Chân Tâm, Tự Tánh hay Phật tánh)
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ đề (Anuttara samyaksambuddhi) vô thượng Chính đẳng chính giác đó cho đến pháp ấy, dù chỉ một chút ít , cũng không thể đắc được.tại sao? Vì tướng của Hư Không là Bồ Đề, hay nói cách khác Bồ Đề là vô Tướng , không có kẻ biết giải cũng không có khai mở hiểu rõ. Vì bồ đề vốn không tướng. Các pháp Vô Tướng là tướng của Hư Không.(Khi nào hành giả thể nhập được Tánh Không, đích thị thời điểm đó khả đắc bồ đề )
Vậy thì ai cầu được bồ đề? Tự Tâm ( Tự Tánh – Chơn Tâm- Phật tánh) tìm cầu Bồ đề tới Nhất Thiết Trí Trí. Vì sao? Vì Tự Tánh (Savbhava) vốn thanh tịnh (Pari’ suddha) cho nên Tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa của hai bên và Tâm chẳng thể đắc được.
Tâm chẳng có màu sắc, chẳng đồng tính với Cỏi Dục, Cỏi Sắc, Cõi Vô Sắc, cũng chẳng đồng với các nẻo Trời, Dạ xoa, Càn Đạt Bà, Atula, Ca lâu La, Khẩn Na La, Ma hầu la Già, Người, Phi nhân.
Tâm chẳng trụ ở Giới của lục căn nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, Tâm chẳng phải thấy, chẳng phải hiển hiện. Tại sao vậy? Vì tướng của Hư Không và Tâm xa lìa các phân biệt , không phân biệt.
Vì sao ư? Vì Tính đồng với Hư Không tức đồng với Tâm, Tính đồng với Tâm tức đồng với Bồ đề.
Như vậy Ba thứ: Tâm (Phật tánh, tự tánh, chơn tâm), Hư Không Giới (Tính Không) , Bồ Đề Tâm vốn không khác.Từ điều nầy mà lấy Bi làm căn bản và phương tiện có đầy đủ Ba La Mật ( Paramita) đó là Phát Tâm Bồ Đề .
Chính vì thế Đức Đại Nhật Như Lai Tỳ Lô Giá Na nói các pháp Như Thị khiến cho các chúng Bồ tát dùng sự thanh tịnh (Pari’suddha) của Tâm Bồ Đề để nhận biết tâm ấy.
Làm sao để tự biết Tâm ? Hãy làm như lời chư Phật dạy , hành mọi việc thiện lành xa rời mọi việc ác, giữ tâm ý thanh tịnh, tức mỗi ngày ta đã tạo ra được một giọt nước trong suốt như pha lê và nhỏ vào lu nước đục trong tự thân của ta (do nghiệp xấu từ nhiều kiếp) , để nước tràn ra lúc đầu nước lờ lợ , rồi ngày này sang tháng nọ, nước trong lu chỉ còn lại toàn nước trong, lúc đó Phật tánh hiển bày hoà hợp với Không Tánh nhất như và Tâm Bồ đề xuất hiện.
Từ lý giải này càng khẳng định một lần nữa , chủng tử bồ đề chính là sự thanh tịnh hằng ngày mà chúng ta tu tập có được, ví như giọt nước trong do hạt giống thiện lành mà hành giả đã tu tập và nhờ Pháp tu theo chánh pháp của Phật đà, đã chuyển hoá từ phước đức hữu lậu thành công đức vô lậu, (tức đã hồi hướng phước báu nầy cúng dường cho chư Phật, để chư Phật giúp mình chuyển cho chúng sanh của thập phương sáu đường) , còn Bồ đề Tâm lúc đó cũng chính là Chân Tâm hay Phật Tánh đã hoà đồng với Tánh Không, lúc nầy Bồ đề Tâm còn gọi là Trí Bát nhã, điều nầy xác quyết lần nữa rằng chủng tử bồ đề không phải là Phật tánh, chủng tử này là duyên sinh chính để ta thấy được Phật tánh, hay Phật tánh hiển lộ, phơi bày mà thôi.
Nhưng lúc đó cả ba :Bồ đề tâm , Phật tánh và Tánh không quyện nhau làm một , không sai khác, không hai,cũng không ba. Ví như ba trong một vậy.
Lúc đó trí bát nhã hay Nhất thiết trí Trí phơi bày và tuệ hữu lậu sẽ chuyển biến thành tuệ vô lậu, tuệ vô lậu là không dùng ngôn ngữ để diễn đạt mà đối tượng vẫn biết vẫn hiểu, vẫn giác ngộ, lúc đó huệ trí nầy sẽ thường hằng.
Đây cũng còn có thể gọi là vô sư trí, hay Ân sư chúng ta còn gọi là điển .Đó cũng chính là Phật quang , vì Phật quang nầy cũng có một phần là hiện tượng vật lý do sự liên tục biến chuyển giữa hai đại lượng điện trường và từ trường, cái nầy sinh ra cái kia và ngược lại một cách liên tục và tuần tự theo thời gian, nhờ vậy mà Phật quang có thể phát đi như sóng điện từ, nhưng dù vậy nó vẫn không chỉ ở trong không gian ba chiều của chúng ta , nó không bị che chắn bởi một chướng ngại vật nào khi nó gặp, nó vượt qua mọi sự ngăn trở chướng ngại mà nó gặp phải và đi xuyên qua (maha bát nhã ba la mật đa) , nó mang theo những chủng tử bồ đề (thay vì là quang tử photon) giúp mọi chúng sanh có nhân duyên gặp nó, đồng giác ngộ .
Vì nó có thành phần là điện từ trường trong không gian của chúng ta, nên xung quanh người có Bồ Đề Tâm hay Trí Bát nhã có một vùng từ trường êm dịu bao phủ, giúp cho các chúng sinh như cây cỏ, sinh vật đã héo tàn , đã chết trở lại với mầm sống tốt tươi .
Theo ý của riêng tôi, chúng ta chưa ai có Bồ đề Tâm , ngoại trừ các vị đạo sư chứng đắc . Nếu Bồ đề Tâm mà dể dàng như chúng ta tưởng rằng chúng ta đã sở hửu, thì nhiều vị đạo sư và ân sư tôi đã từng nói, dù cho nhờ tu tập mà có biết được quá khứ vị lai hay đắc được lục thông, xuất định được hay chu du vào cảnh giới tối cao, mà không biết phát tâm bồ đề để cứu độ chúng sanh thì trình độ cũng chỉ ở một tâm thức thấp mà thôi và thật là vô ích .
Lời Ân sư NQ Kim cang của tôi đã từng dạy:
Ba điều quan trọng mà người tu cần phải nhớ:
- Tu theo chánh pháp của Đức Phật
Nhờ giác ngộ được tứ khổ và thân mạng vô thường mà xả ly tham chấp , xả ngã vị tha, ngộ tứ diệu đế, tu tứ niệm xứ, hành bát chánh đạo…..và các pháp thanh tịnh thân tâm…
Hồi tâm phản chiếu, Tự tánh hiển bày
Xả ly tham chấp, Cầu bát nhã
- Phát tâm Bố thí rộng rải cho chúng sanh
Vì bố thí rộng rải nên giảm tham sân si, và cũng đồng thời tu tập Tính Không- Luôn luôn Tu tập kiểm soát mình từng giây từng phút .
(Làm các việc lành , xa rời ác niệm giữ gìn chánh niệm,gieo chủng tử bồ đề)
CHỦNG TỬ A CHÍNH LÀ CHỦNG TỬ BỒ ĐỀ
Trích Phương Pháp Quán Chữ A Trong Mật Giáo
TT.Thích Viên Thành
Chữ A là thanh âm ban đầu khi con người lọt lòng, là tiếng kêu của sự ngạc nhiên, là sự trào dâng của niềm hoan hỷ, là sự bừng tỉnh sau đêm dài bao phủ. Hơn nữa trong ngôn ngữ của nhân loại chữ A là một nguyên âm đầu tiên trong bảng chữ cái. Cũng vậy trong tiếng Sanscrit chữ A là nguyên âm thứ nhất trong 12 nguyên âm của mẫu tự Siddharta ( Tất Đàn ) và cũng là chữ đầu tiên trong 50 chữ của tiếng Sancrit.
Trong Phật giáo nói chung và đặc biệt trong Mật giáo khi nói đến chơn ngôn Đà Ra Ni thì đặc biệt chú trọng sự giải thích mẫu tự Siddharta. A là chữ đầu tiên trong 50 mẫu tự Siddharta, bởi vì khi ta mở miệng nói thì thành tiếng, trong đó bao hàm có tiếng chữ A, nếu bỏ tiếng A đi thì không có tất cả ngôn ngữ có thể nói. Do vậy, Mật giáo cho chữ A là mẹ của tất cả các âm. Từ đó, ta có thể suy ra nghĩa của các chữ là: Tất cả giáo pháp trong hay ngoài Mật giáo đều được sinh ra từ chữ A.
Đại Nhật Kinh sớ 7 viết: A là gốc của tất cả giáo pháp.
Đại Nhật Kinh 2 và 6 viết: A là chơn ngôn chúa, là tâm của tất cả chơn ngôn.
Phẩm Quảng Thừa trong Đại Phẩm Bát Nhã Kinh 5 giải thích chữ A là: Tất cả các pháp xưa nay vốn không sinh. Theo Mật giáo thì đó là nghĩa căn bản của giáo tướng, sự tướng cho nên nói: Vốn không sinh ( Akara-adyanutpadha ).
Phẩm Trụ Tâm trong Kinh Đại Nhật 1 và Đại Nhật Kinh Sớ 14 thì cho chữ A là "Tâm của Bồ Đề thanh tịnh xưa nay vốn không sinh). Khi ta biết thật của chữ A thì cũng biết rõ tâm mình một cách như thật. Có thể nói toàn bộ Kinh Đại Nhật đều giải thích rõ nghĩa tướng của chữ A. Nói khác đi, chân ý của Kinh Đại Nhật là chỉ bày cùng tột về tướng của Bồ Đề Tâm.
Ngoài pháp môn Tự Nội Chứng còn cho rằng: " Toàn bộ Kinh Đại Nhật " mà Đức Đại Nhật Như Lai thuyết trong Thai Tạng là nói rộng về lý chữ A vốn không sinh cho nên có thể nói: Lý Pháp Thân của Đức Đại Nhật Như Lai trong Thai Tạng Giới (Garbhadhatu ) lấy chữ A này làm chủng tử. Đây cũng là ý nghĩa mà Đại Nhật sớ 7 ghi: " Đức Vajrocana chỉ lấy một chữ A này làm chơn ngôn ". Không những thế, Kinh còn cho chữ này là chủng tử của Bồ Đề Tâm.
Nghĩa là hành giả chỉ tụng chữ A đều có Bồ Đề Tâm và lấy đó để sở cầu đạt đến Vô Thượng Bồ Đề.
Trong Mandala của Kim Cương Giới ( Vajradhatu ) và Thai Tạng Giới ( Garbhadhatu ), chữ A là chủng tử của Thai Tạng Giới . Trong Tam Thân chữ A là chủng tử của Pháp Thân ( Daharmakaya ).
Trong ba bộ ( Phật Bộ, Liên Hoa Bộ, Kim Cang Bộ ), chữ A là chủng tử của Phật Bộ. Trong thứ tự của năm chuyển biến ( Nhân, Hành, Chứng, Nhập, Phương Tiện ), chữ A là chủng tử của Nhân chuyển biến. Trong sáu đại ( Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Thức ), chữ A là chủng tử của Địa đại.
Chủng tử là hạt giống, nhờ gieo giống tốt ta sẽ gặt được quả tốt
Bồ đề là giác ngộ, cái giác phá mê, không mê là giác.
Chủng tử bồ đề là hạt giống giác ngộ.Nhờ hằng ngày gieo hạt giống nầy mà chúng ta sẽ có ngày thấy được Phật tánh hiển lộ .
Ví như người niệm A Di Đà Phật, chủng tử A là hạt giống giúp họ giác ngộ ( bồ đề là giác , có giác thì phá mê)
Đọc là A
Trong Mật giáo hàng ngày đọc tụng chữ A tức có chủng tử bồ đề, điều nầy cũng cần phải hiểu thật rõ chủng tử bồ đề là gì
Mỗi bước đi của mình là nối theo những hành động thiện lành, những lời nói thiện pháp, những ý nghĩ tốt đẹp cho tha nhân, đó chính là những “giọt tâm giác ngộ”, “chủng tử giác ngộ” hay “chủng tử bồ đề “ vì giác ngộ nên thân –khẩu –ý chỉ hành thiện nghiệp xa rời ác nghiệp, và đây cũng là hạt giống mà ta đã và sẽ gieo, nó sẽ khiến ta xa rời quả nghiệp xấu trong mai hậu và duyên lành nầy sẽ cắt ác duyên sẽ khởi do hậu quả của chướng duyên từ nhiều tiền kiếp, mà lý ra ta sẽ phải nhận.Chủng tử bồ đề còn là phước đức hữu lậu mà chúng ta tu tập được hàng ngày và hồi hướng cho chúng sanh,khi đó nó sẽ trở thành công đức vô lậu, nhưng làm sao và làm thế nào chúng ta có thể gởi chúng cho chúng sanh đây?
Chỉ có cách cúng dường công dức nầy cho chư Phật chư Bồ tát .Năng lực của ta còn giới hạn trong tam giới, Tâm ta chưa đồng với Hư Không, làm sao công đức nầy của ta cúng dường cho chư Phật được đây? Ví như là ta có thể nói cho người gần ta nghe, muốn nói cho người ở xa thì cần có Máy khuếch âm, ở xa hơn thì phải dùng vô tuyến, rồi xa hơn nữa phải dùng Internet vậy.
Chỉ có cách cúng dường những công đức nầy cho chư Phật và chư Bồ tát xuyên qua vị Thầy đã giác ngộ của mình, vì vậy chọn một đạo sư để mình nương tựa pháp mà đi quả là rất khó, nếu quý vị hồi hướng công đức cho vi chưa giác ngộ, thì công đức nầy chỉ có 1 , nếu hồi hướng công đức cho vị đã giác ngộ, thì tùy theo bậc giác ngộ nầy ở phẩm vị nào công đức nầy có thể tăng lên hàng chục vạn lần .hay bằng ngang với số các của hằng vạn sông Hằng vậy...
Từ đó ta thấy khi ta niệm Phật :
Nam Mô A Di Đà Phật , tức thị ta đã gieo một chủng tử bồ bề bằng sự tướng như thị, nhưng nếu công đức mà ta có được lại hồi hướng cho vị Thầy giác ngộ và vị nầy hồi hướng cho chúng sanh, thì ta đã hoàn thành lý tướng như thật vậy.
Chủng tử nghĩa là mầm sống, hạt mầm, hạt giống. Thuật ngữ này vốn chỉ cho hạt giống thực vật, nhưng được dùng trong Phật giáo với ý nghĩa ẩn dụ:
1. Với một tôn giáo dựa vào thuyết “nhân quả”, thì chủng tử là ẩn dụ cho nguyên nhân của mọi vấn đề, đặc biệt là nhân gây ra phiền não ;
2. Tiềm năng của một cái gì đó sẽ phát sinh;
3. Trong Duy thức tông, “chủng tử” là phương diện tiềm năng ẩn tàng của mọi cấu trúc tinh thần và vật chất được chứa sẵn trong A-lại-da thức. Nó sẽ hiện hữu như là kết quả của những hành vi và điều kiện hiện hành. Chủng tử là kết quả của những tiềm năng mới, và sẽ tiếp tục hiện hành và có một mối liên hệ trực tiếp với nhân duyên trước đó.
Trong Mật tông và Ấn Độ giáo, "chủng tử" chính là Chủng tử tự hay Chủng tử âm (sa. bījamantra) chứa đựng trong Chân ngôn. Khi đọc lên và quán tưởng, tần số âm ba cùng với tự dạng của "chủng tử tự" sẽ là phương tiện để hành giả tiếp nhận được những năng lượng vũ trụ và thực chứng những điều huyền diệu của thế giới tâm linh.
Ví dụ như chữ OṂ ॐ – bao hàm một khía cạnh đặc biệt của sự thật tuyệt đối được trình bày bằng một âm thanh tiêu biểu. Những âm thanh này chứa đựng – nếu đệ tử tín tâm được tiếp nhận qua một vị Đạo sư chân chính – những năng lực diệu kì. Những hành giả trong Mật tông đều nhận được một Chủng tử âm từ Đạo sư của mình khi được Quán đỉnh (sa. abhiṣeka).
"Đừng cố sử dụng kiến thức Phật học để thành tín đồ; hãy sử dụng nó để bạn trở nên tốt hơn"
Các Bạn thân mến,
Điều mà bạn nêu lên cũng chỉ là các định nghĩa của kinh sách dùng lý luận.
Thật ra chủng tử bồ đề đích thực là hạt giống giác ngộ mà hành giả gieo trong ngày, nó đồng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Gieo nhân lành hay gieo hạt giống lành, vì đâu mà bạn gieo hạt giống lành , khi bạn gieo hạt giống lành thì ta đã tu phước nếu ta không có pháp tu để chuyển biến phước đức hữu lậu nầy thành công đức vô lậu thì ta cũng không có chủng tử bồ đề , mà ta chỉ có phước đức để dành cho hậu kiếp .Vì nguyên nhân nào mà bạn phải làm như vậy, vì bạn đã giác ngộ nhân quả và mong muốn giải thoát cái khổ của Sinh, đó là "hạt giống ngộ", hạt giống bồ đề.
Do "bồ đề " ( giác ) lời Phật dạy trong tứ cú:
"Không làm các điều ác,
Thành tựu những việc lành,
Giữ tâm ý thanh tịnh,
Ấy lời chư Phật dậy".
Chính vì giác ( bồ đề) nên lánh ác hành thiện:
Tin sâu nhân quả , chăm hành thiện
giống hiền, quả ngọt ấy hiện tiền
Nhắc lại, nếu hàng ngày ta toàn làm việc thiện lành, không có ác niệm, không nói điều ác, tức thị ta đã có phước đức, nhưng nếu bạn có pháp tu biến chuyển phước đức hữu lậu nầy thành công đức vô lậu thì đó là bạn đã gieo được chủng tử bồ đề rồi, chỉ có công đức vô lậu mới là chủng tử bồ đề.
Vậy chủng tử bồ đề là hạt giống giác ngộ là công đức vô lậu đã hồi hướng cho chúng sanh để chúng sanh đồng giác ngộ.
Thật ra chủng tử bồ đề đích thực là hạt giống giác ngộ mà hành giả gieo trong ngày, nó đồng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Gieo nhân lành hay gieo hạt giống lành, vì đâu mà chúng ta gieo hạt giống lành , khi ta gieo hạt giống lành thì tương lai ta sẽ được gặt hái được quả lành do hạt giống lành nầy đã được gieo , nhưng đây vẫn chưa phải là chủng tử bồ đề .
Vì nguyên nhân nào mà ta phải làm như vậy, vì ta chỉ mới giác ngộ được nhân quả và mong muốn sẽ được hưởng phước báu trong tương lai, đây gọi là tu phước. Và phước nầy là phước hữu lậu, tức vẫn còn rơi rớt lại .
Muốn có chủng tử bồ đề ta phải biết cách chuyển phước đức hữu lậu nầy thành công đức vô lậu và hồi hướng cho chúng sanh để họ đồng giác ngộ, đồng thời với ý chí mong muốn giải thoát cái khổ của Sinh, đó mới chính là "hạt giống ngộ", “hạt giống bồ đề”.
Do "bồ đề " (giác ) lời Phật dạy trong tứ cú:
"Không làm các điều ác,
Thành tựu những việc lành,
Giữ tâm ý thanh tịnh,
Ấy lời chư Phật dậy".
Chính vì giác ( bồ đề) nhân quả nên lánh ác hành thiện:
Tin sâu nhân quả , chăm hành thiện
giống hiền, quả ngọt ấy hiện tiền
Vậy chủng tử bồ đề là hạt giống giác ngộ là công đức vô lậu đã hồi hướng cho chúng sanh để chúng sanh đồng giác ngộ.
Bạn định nghĩa đúng về chủng tử , nhưng chưa đủ về A lại Da thức, mọi cúng sanh đều có hai cái thức nầy , đó là A Lại da thức ( mang theo các chủng tử nghiệp, thiện & ác ) và Mạt Na Thức ( tính cách, tập khí đã huân tập từ nhiều đời, cái nầy sẽ điều khiển mọi hoạt động của lục căn, để kết tập các duyên sanh), còn A Lại Da thức là sự phát sinh hay thu nhận của các duyên khởi.
Khi ta chết , ngũ uẩn tan rã, chỉ còn hai cái thức nầy tồn tại mà thôiA lại da thức chứa tất cả các chủng tử: thiện , ác ....
Mạt na thức là những gì gọi là cái của ta, của mình
Ý thức là sự nhận biết do các căn cảnh tác động
VD: đi đường gặp người kia nhớ lại lúc trước có gặp qua ( a lại da thức), chợt nhớ đã từng mượn đồ của mình ( của mình là mạt na thức), rồi qua đòi lại đồ ( ý thức dẫn tới hành động)
chia ra 3 thức nhưng đồng thời lại xảy ra cùng lúc, chứ ko phải đợi thức này ra xong rồi mới tới thức kia, cái đang nói là duy thức, còn nói chủng tử là nói 1 phần nhỏ trong A lại da thức.
Khi đọc tụng chữ Um thì miệng ngậm lại, tác động nầy để làm gì? Khi đọc chữ A thì mở miệng rộng ra và thật tròn, dù cho đọc tiếng Tàu, Tiếng Pháp, Tiếng Anh , hay Tây Tạng, hoặc tiếng Phạn đều mở miệng giống nhau, nếu quý vị tu thiền thì xin bỏ chút ít thời gian để quán thử xem chúng có tác dụng gì?
Riêng tôi khi tụng đọc chử Um tôi thấy tôi như đang thu khí vũ trụ vào người và giữ nó lại ( vì khi đã phát âm xong, tôi ngậm miệng và đầu lưỡi đá lên nướu trong của hàm răng trên, trong yoga gọi là bế khí, trong đạo gọi là dẫn khí điều tinh hóa thần), còn khi đọc chữ A thì miệng mở to ra,(phát khí, khi đánh quyền người ta hét lên) ............, hai trạng thái giữa Aum và A là thu khí và phát khí, chữ Hum là chữ cuối cùng trong Phạn ngữ, ở đây tôi chỉ bàn tới ý nghĩa của Mật giáo, và nghĩa chính trong riêng câu chú Aum A Hum , thì Hum có nghĩa là :
-Hum là câu thần chú của lửa bên trong để tránh khỏi các nguồn năng lượng tiêu cực.giúp ta cắt qua ảo tưởng và cũng là chủng tự cầu Thiên thần bảo vệ, cũng như kiến thức và sức mạnh sâu sắc.
Như vậy khi Mật giáo hữu đọc tụng câu chú nầy, sẽ giúp mình thu được và hoà nhập với năng lượng vũ trụ, thu hút nó vào mình ( Aum) để tất cả những ảo tưởng những chất đen từ thân thể ta do chủng tự A làm cho nó biến thành khí và thoát ra các lổ chân lông bằng chủng tự Hum....
bồ đề tâm chính là trí bát nhã phát bồ đề tâm tức phóng trí bát nhã ra rộng lớn thấu tận thập địa và 6 đường để chúng sinh đồng giác ngộ. Phát tâm từ chỉ là một phần trong 5 cách phát trí bát nhã thôi.
Hãy xem lại thật kỹ, nhiều khi các vị nầy tu hành không thông qua các từ ngữ đã có từ các kinh điển của Phật , rồi đưa lên theo ý riêng của họ.Họ không sai , nhưng không đủ làm sáng tỏ lý đạo, nếu bạn tin họ đúng và hành theo cũng không sai, nhưng chẳng khi nào thấu đạo vô thượng bồ đề mà chỉ tới cảnh giới của bồ tát.
Vì bồ đề tâm là trí bát nhã, trí bát nhã là huệ trí vô lậu, khi tới cảnh giới nầy là đã dần thành đạo vô thượng bồ đề. Trí bát nhã theo thời gian sẽ thành chánh giác và liễu tri, với điều kiện phải phát cái trí nầy ra rộng khắp và vô lượng, biến thành chủng tử bồ đề, chúng sanh nào gặp phải thảy đều giác ngộ, đây chính là ý nghĩa của ma ha bát nhã ba la mật đa : "trí huệ bát nhã rộng lớn không bị che chắn , vô ngại"
BỒ ĐỀ TÂM VÀ CHẤP THỦ
Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII khai thị
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm, nên chúng ta vẫn coi chúng như những thể tách rời và khác biệt. Tâm chúng ta cứ hết sân hận, ganh tị rồi lại mừng vui, phấn khích - đủ mọi cung bậc thăng trầm của cảm xúc. Thực sự chúng ta chưa hiểu được mình đang trải nghiệm những gì, ta thực sự là ai, ai đang thực sự sân giận hay vui vẻ, ai đang nản lòng hoặc tràn trề hứng khởi: điều gì đang thực sự diễn ra? Trên thực tế, chúng ta không có lấy một ý niệm về “bản thân”, mặc dù chúng ta vẫn nói về “tôi” hay “chúng ta”, và sử dụng những nhãn hiệu được gán cho mình. Tôi cho rằng cho đến giờ chúng ta chưa thực sự hiểu gì về chính bản thân. Vì thế mà giờ đây chúng ta cần tìm hiểu, khám phá bản thân mình, điều này thật là thú vị! Đức Phật dạy rằng: “Luân hồi không có khởi đầu”, vậy là từ vô thủy của luân hồi khổ đau cho tới nay, chúng ta đã sống mà không hề biết gì về mình? Thật nực cười phải không? Thực sự, tôi thấy đây là một chủ đề thú vị để chia sẻ: Điều gì đã xảy đến với bản thân ta, và ta cần làm gì từ giờ phút này trở đi? Mọi thứ hoàn toàn phụ thuộc vào tâm ,Đức Phật dạy rằng tâm chúng ta rất hoang dại, vì chúng ta không thể kiểm soát được nó. Các hoạt động dù tốt hay xấu đều là sự phóng chiếu của tâm. Tôn chỉ của Phật giáo Nguyên Thủy là “tránh hết thảy ác”, còn của Phật giáo Đại thừa là “làm hết thảy lành”. Cả hai thừa đều cùng một tôn chỉ: mọi thứ hoàn toàn tùy thuộc vào tâm - vì tâm là năng lực duy nhất tạo nên hoạt động thiện hay ác.
Thân, khẩu chúng ta chỉ là phương tiện trợ giúp tâm tạo nên hoạt động, còn tâm mới là nhân tố quyết định tạo nên hoạt động đó. Nếu tâm không tác ý cho một hoạt động cụ thể nào, thì chắc chắn thân, khẩu sẽ không biểu hiện hoạt động đó. Rất nhiều tín ngưỡng không thuộc Đạo Phật cũng nhấn mạnh tôn chỉ “bất bạo động”. Tuy nhiên ĐỘNG CƠ (tâm tác ý) của Đạo Phật đối với tôn chỉ này rộng lớn hơn. Đây là một điểm khác biệt rất tinh tế giữa Phật giáo và các tôn giáo khác. Tất cả các tín ngưỡng tâm linh đều dạy mọi người không được làm ác, và đều khuyến khích hành thiện. Bởi vì chưa thực chứng được bản chất của Tâm nên không ai trong chúng ta, ngay cả một số hành giả tâm linh, có thể thực hành được điều này một cách toàn vẹn. Vì thế mà giờ đây, dù có phải là Phật tử hay không, bạn đều cần tìm cách đối trị và chuyển hóa tâm mình.
Vì chính tâm vô minh của chúng ta đã quấy nhiễu hết thảy chúng sinh từ vô thủy tới nay. Rất nhiều người trong số chúng ta đã tìm cách đào luyện tâm theo những phương cách khác nhau, song chúng ta đều không thực sự thành công.
Mặc dù có nhiều cách thức đào luyện tâm, nhưng thực tế, tâm chỉ có thể thực sự được rèn luyện bởi chính nó, chứ không phải nhờ bất kỳ yếu tố bên ngoài nào khác. Đôi khi, chúng ta cố gắng hiểu được tâm mình, đôi khi chúng ta muốn đè nén tâm. Tôi cho rằng đây không phải là những biện pháp tích cực, thiện xảo để chuyển hóa tâm. Hầu hết các kỹ năng rèn luyện tâm đều không thực sự thành công vì tâm phức tạp như chính chúng ta vậy. Nếu bối rối, tán loạn, tâm sẽ dẫn dắt ta trôi lăn trong cõi luân hồi. Nếu định tĩnh, an lạc, tâm có thể đưa ta tới Niết Bàn giải thoát. Vì thế, tâm chúng ta có đủ công dụng thiện và công dụng bất thiện. Đó là lí do tại sao Đức Phật dạy rằng tâm cần phải được điều phục.
Cần phải liên tục quán chiếu tâm.Phương pháp tu tập phát triển Bồ đề tâm là cách rèn luyện và mở rộng tâm mình. Tâm chúng ta thường hẹp hòi ích kỷ, tới nỗi không còn chỗ dành cho người khác. Chúng ta chỉ có thể nghĩ về chính mình và những người thân của mình, như gia đình, bạn bè và con cái. Nhưng điều này cũng chỉ diễn ra với một thời gian ngắn ngủi và kèm theo rất nhiều điều kiện. Đôi lúc, chúng ta không thích người khác đeo bám lấy mình, nhờ vả mình. Có lúc chúng ta lại thích được yêu thương, được quan tâm chăm sóc, có lúc chúng ta lại muốn ở một mình để được yên thân, phải vậy không? Nếu mong muốn của mình được thỏa mãn, chúng ta sẽ phần nào cảm thấy dễ chịu. Ít nhất thì điều này cũng đúng với tôi! Các bạn không cảm thấy như vậy sao? Có thể chưa ai trong số các bạn quán sát về điều đó, nhưng quả thực tâm của ta hoạt động theo cơ chế như vậy.
Tôi nghĩ rằng tâm không thích khi bị kiểm soát và bị ép buộc. Nhưng tâm cần được quán chiếu một cách liên tục, trong sáng không chút ảo tưởng và hư ngụy nào! Chỉ cách đó mới đưa chúng ta về bản chất tự nhiên của tâm (Niết Bàn) - trạng thái hoàn toàn thư giãn, an lạc và trải rộng muôn nơi.
Tôi đã nói khá nhiều về phương pháp chuyển hóa tâm. Vì tâm chúng ta vốn hẹp hòi ích kỷ nên cần phải tu tập trưởng dưỡng Bồ Đề Tâm hay “Tâm Giác Ngộ”. Bằng cách trưởng dưỡng các phẩm hạnh về tình yêu thương và lòng bi mẫn, không căm thù, sân giận hoặc ganh ghét, bạn sẽ có thể trải rộng tâm mình. Trong lúc tu tập phát triển Bồ Đề Tâm, bạn nên quán chiếu một cách logic rằng tất cả chúng ta đều là anh chị em của nhau, bởi vậy cần quan tâm chăm sóc nhau, vì tất cả chúng ta đều đau khổ như nhau do chưa thực chứng được bản chất tâm của chính mình. Tất cả chúng ta đều quay cuồng và điên dại như nhau, vì thế tại sao không giúp đỡ và phụng sự những người khác cũng đang trong tình trạng đau khổ tột bậc như mình? Đây là một loại lý thuyết logic bên ngoài mà chúng ta có thể quán chiếu, và là một trong những logic chính yếu mà tất cả chúng ta đều có thể quán xét.
VẠN PHÁP LÀ HƯ ẢO
Logic siêu việt hay logic nội chứng liên quan đến quan điểm triết học cho rằng vạn pháp đều không tồn tại như nó xuất hiện: vạn pháp đều hư ảo. Thế giới hư ảo dường như rất bền chắc đối với chúng ta, nhưng nó không thực sự tồn tại. Tuy nhiên, chúng ta vẫn bị hấp dẫn bởi thế giới này, chúng ta bị cuốn trôi tới điên đảo bởi những thứ hư vọng đó. Chúng ta cuồng loạn bởi những hấp dẫn bên ngoài liên tục khuấy đảo tâm ta, và kết cục chẳng có gì tồn tại, đó là kết quả của thế giới này. Chúng ta đang đơn thuần rượt đuổi theo những huyễn ảo như cầu vồng. Lẽ đương nhiên là tới đây chúng ta trở nên kiệt quệ. Bạn có thể nói đó là một trong những đau khổ chính mà chúng ta đang phải trải qua.
Đó là lý do tại sao chúng ta nên trưởng dưỡng lòng từ bi tới tất cả chúng sinh, bởi vì chúng ta đã nhận ra được sự thật này một cách có trí tuệ. Có hàng triệu triệu người vẫn hoàn toàn vô minh, họ không có dù chỉ một chút tri thức ít ỏi về điều này. Vì thế, chúng ta là số người may mắn ít ỏi có đủ phúc duyên thấy được thực tại của thế giới này.
Đó là lý do tại sao cần phải có hạnh nguyện Bồ Tát cứu độ, phụng sự hết thảy hữu tình. Đó là một dạng logic rất sâu sắc, và là một lý do tốt để bạn trưởng dưỡng Bồ đề tâm. Bạn biết rằng còn triệu triệu chúng sinh đang sa vào cạm bẫy và bám chấp vào thế giới hư ảo, không nhận ra thế giới vô thường. Đây là căn nguyên dẫn đến khổ đau. Như vậy bạn là người đang nắm được cơ hội hy hữu để thực hành pháp chấm dứt khổ đau. Điều này cần trở thành động cơ khuyến khích bạn tinh tấn thực hành với mong nguyện, “Tôi phải tu tập một cách chân thành, không bỏ phí một chút thời gian quý giá nào trong cuộc đời này, để có thể cứu độ chúng sinh đang thực sự khổ đau mà không hề nhận thức được”. Những động cơ như thế này phải luôn hiện diện trong tâm bạn. Đó là cái được gọi là động cơ vị tha hay “Tâm Giác Ngộ”.
Mọi hoạt động thế tục trong đời sống đều bắt nguồn từ sự chấp thủ mạnh mẽ của chúng ta.
Chừng nào còn bám chấp vào thế giới này thì chừng đó chúng ta không thể giải thoát. Chúng ta bám chấp vào những vật đẹp đẽ hay xấu xí, vào kẻ thù hay bằng hữu. Bất kỳ hoạt động thế tục nào được làm đều bắt nguồn từ sự chấp thủ mạnh mẽ của chúng ta. Chúng ta nói: “Như vậy này! Điều này phải được làm thế này còn điều nọ phải được làm thế nọ.” Chúng ta đưa ra các yêu cầu đòi hỏi thuận theo sự ham muốn chấp thủ của chính mình. Đó thực sự là điểm xuất phát của mọi sai lầm mà từ đó ta kinh qua vô số kinh nghiệm đầy khổ đau. Chẳng hạn như, bạn bám chấp vào ý niệm ai đó là kẻ thù của mình, rồi bạn thấy rất khó chịu và bực mình mỗi khi nhìn thấy người đó, hay chỉ cần nghe thấy tên và giọng nói của người đó. Đây là điều mà tôi đã nói lúc trước về sự huyễn ảo của những thứ mà chúng ta đang theo đuổi. Khi bạn có một người bạn tuyệt vời thì bạn sẽ rất ích kỷ muốn người ta thuộc về mình mãi mãi, không muốn một ai khác kết giao với người đó, thậm chí không ai được chạm vào người hay cười với anh ta, cô ta. Đây là một kiểu chấp thủ mà bạn thường có. Sau này, khi bạn phát hiện ra một ai đó đã kết thân với anh ta hơn cả bạn, thử hình dung xem bạn sẽ đau khổ như thế nào. Sự đau đớn này là sản phẩm từ tâm chấp thủ của bạn tạo ra chứ không phải do bất kỳ ai khác.
Tất cả chúng ta, không ai muốn loại đau khổ này! Vì thế, chúng ta cần loại bỏ chấp thủ. Để làm được điều này, bạn cần nhận ra bản chất chân thật của vạn pháp. Những xúc cảm như "thích" hay "không thích" không tự có bản chất, mà chỉ là sự sáng tạo hay sự phóng chiếu của tâm bạn. Điều đó có nghĩa rằng thế giới này được tạo thành từ tâm của bạn, và nó là một thế giới huyễn ảo. Ví như một người bạn rất hấp dẫn với bạn, nhưng anh ta lại không hề hấp dẫn với người khác, nên sự hấp dẫn này chỉ là ảo tưởng, không có bản chất. Bởi vì bạn không nhận ra đó là ảo tưởng hay sự phóng chiếu của tâm, nên bạn cảm thấy ngây ngất si mê truớc người đó. Đến một lúc nào đó, bạn sẽ cảm thấy một cái gì bất ổn, và giao kết với người kia là một sai lầm. Lúc đó, theo thói thường, bạn sẽ than thở, trách móc, đổ lỗi cho người bạn của mình. Nhưng thử nhìn lại xem, trước đó ai là người đầu tiên đã hết sức bám chấp vào “hương vị ngọt ngào” của mối quan hệ này? Chính sự chấp thủ đã khiến bạn bám chấp vào sự bền chắc và vị ngọt của tình bạn đó. Cho nên chính sự chấp thủ của bạn mới đáng trách. Cho tới nay thì sự chấp thủ và ảo tưởng vẫn hòa hợp với nhau một cách đầy sáng tạo. Nhưng trên thực tế mọi việc không hẳn là như vậy. Vì thế, qua trí tuệ của bạn về Trung Quán hay Đại Thủ Ấn, và hai chân lý - (chân lý tương đối và tuyệt đối), bạn sẽ thấu hiểu bản chất hư ảo của thế giới, và sẽ có thể giảm thiểu những khổ đau được tạo ra từ chấp thủ. Bạn cần thực hành trưởng dưỡng tình yêu thương và tâm bi mẫn
Tóm lại, tôi muốn nói rằng ta không nên chấp vào những tư tưởng, xúc cảm của mình, dù nó tốt hay xấu. Sự bám chấp vào những thứ này thực sự là chấp thủ. Tôi không muốn nói rằng chúng ta không nên có lòng từ bi hay thương yêu lẫn nhau. Nếu thế chúng ta sẽ trở thành vô cảm như sỏi đá. Vì thế, xin bạn đừng hiểu lầm khi tôi nói, “Đừng bám chấp vào cảm xúc của mình”. Có rất nhiều người có thể hỏi: “Làm sao tôi có thể yêu thương người khác mà không quyến luyến bám chấp?” Tình yêu thương với chấp thủ là tình yêu thương mê lầm, yêu thương không chấp thủ là yêu thương trí tuệ. Như tôi đã nói lúc đầu, bạn cần phải thực hành trưởng dưỡng tình yêu thương và lòng bi mẫn. Tình yêu thương là tinh yếu của giáo lý Đạo Phật và cả các tôn giáo khác. Không có gì là sai trái trong tình yêu thương, tâm bi mẫn hay sự quan tâm và lòng mến mộ, nhưng phải được thắp sáng bởi trí tuệ không còn chấp thủ hay không còn hiểu biết sai lệch. Làm sao hành giả có thể đi trên con đường cao quý của Bồ đề tâm vĩ đại, khi tâm hành giả tràn đầy vô minh và hiểu biết lệch lạc về thế giới mà mình đang sống.
Điều chúng ta cần tránh là sự bám chấp hay thái độ chấp thủ. Chúng ta thử lấy quan hệ bạn bè để minh họa. Quá nhiều ý nghĩ chấp thủ đối với bạn của mình sẽ đem đến sự đau khổ sau đó. Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta đều có ít nhiều kinh nghiệm về chuyện này nên tôi không cần nói nhiều. Vì thế, nếu chấp thủ, bạn sẽ kết thúc tình bạn của mình trong mâu thuẫn và lục đục, không hưởng được khoảng thời gian tốt đẹp bên nhau. Đôi khi sự cãi vã cũng chỉ để vui, nhưng đa số trường hợp, nó đều đem lại đau khổ mà chúng ta không hề muốn. Chính thái độ chấp thủ này đã khiến trái tim bạn nhức nhối, tan nát, dẫn đến bệnh tim mạch. Nếu không chấp thủ, khi đối diện với vấn đề rắc rối trong gia đình hay xã hội, bạn sẽ tìm ra nhiều giải pháp tốt để giải quyết mọi việc một cách bình an. Bạn sẽ tránh được những trải nghiệm đau đớn, sẽ dễ dàng coi những vấn đề rắc rối làm những bài pháp thực tế trong cuộc sống, như những hành giả Phật pháp thực thụ. Đây là những phương cách giúp bạn cải thiện tâm mình. Sự tiến bộ sẽ được thấy rõ sau vài năm thực hành phương pháp thực tập đào luyện tâm một cách chân chính và đúng đắn Nếu không cải thiện tâm thức, chúng ta sẽ không thể cải thiện được lối sống của mình.
Có rất nhiều người nói rằng: “Tôi thích thiền định. Tôi đã thiền định trong nhiều giờ đồng hồ, nhiều tháng trời, nhiều năm ròng”. Nhưng họ vẫn không thể cải thiện được lối sống của họ. Họ tiếp tục cãi vã, mắng nhiếc, thậm chí đánh nhau thường xuyên với bạn trai hoặc bạn gái của mình. Vì họ đã không hiểu được thực tế - điều gì đang diễn ra trong cuộc sống và điều gì cần được chấp nhận. Mặc dù tu tập và thiền định rất nhiều năm, song họ đã không thể thay đổi được lối sống, chẳng có chút tiến bộ hay an bình nào trong cuộc sống của họ. Điều này cho thấy họ đã không thực sự tập trung vào việc chuyển hóa tâm, không tiếp cận được phương pháp đúng đắn giúp họ cải thiện tâm. Sự tiến bộ sẽ được thấy rõ sau vài năm thực hành phương pháp thực tập đào luyện tâm một cách chân chính và đúng đắn. Sự thay đổi bên trong sẽ mang đến sự thay đổi bên ngoài. Khi sự chuyển hóa bên trong diễn ra, chúng ta có thể nhận biết được điều này từ bên ngoài. Chỉ cần nhìn những dấu hiệu thay đổi ngoài là chúng ta có thể nhận biết ai đó thực sự đang cải thiện. Và rồi những người hàng xóm, bạn bè và tất cả mọi người cũng sẽ để ý tới điều đó và nói rằng, “Anh ta đã tu tập thật tốt. Trước khi thực hành con đường tâm linh, anh ta từng là một người kinh khủng, nhưng bây giờ anh ta trở nên thật ôn hòa và chẳng bao giờ tranh cãi với bất kỳ ai? Nhờ công phu tu tập, anh ta thực sự trở thành một người tốt, trầm tĩnh và đầy hiểu biết”.
Chúng ta không thực hành để mong cầu danh tiếng hay để phô trương, nhưng những dấu hiệu tốt của sự thay đổi vẫn hiển diện. Kinh điển có dạy, các vị Bồ Tát có những phẩm hạnh, dấu hiệu đặc biệt chúng ta có thể nhận biết. Tương tự như vậy, thông qua sự chuyển hóa từ bên ngoài, chúng ta có thể nhận ra một người có thực hành Phật Pháp hay không. Niềm mong ước và lời cầu nguyện chân thành của tôi là hết thảy hữu tình chúng sinh, đặc biệt là những ai có duyên với tôi và Truyền Thừa Drukpa, sẽ biết tinh tấn tu tập để có thể mang lại những chuyển đổi tích cực trong cuộc đời mình, sống hòa hợp với người khác và mãi mãi an vui trong hạnh phúc