top of page
Forum Posts
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Oct 07, 2024
In ỨNG DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG
KHÁT VỌNG THÀNH CÔNG SỚM TRONG CUỘC SỐNG
Trong cuộc sống hiện đại, ai cũng mong muốn thành công về địa vị, sự nghiệp, hay tài chính, nhất là khi đang gặp khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Khi đối diện với những trở ngại này, nhiều người tìm kiếm sự giúp đỡ từ thế giới tâm linh, hi vọng những sức mạnh siêu hình có thể mang lại may mắn và thay đổi số phận.
Chẳng hạn, họ thường đi lễ ở những nơi linh thiêng để cầu sự gia hộ của Thánh Thần, hoặc sử dụng các phương pháp tâm linh như Pháp Chiêu tài Kumathoong của Thái Lan, hay nhờ bùa chú để cầu tài lộc, công danh từ những vị thầy tâm linh nổi tiếng.
VÌ SAO CẦU TÀI CÓ NGƯỜI ĐƯỢC, NGƯỜI KHÔNG?
Câu chuyện từ nhiều năm trước tại Bắc Ninh vẫn là một minh chứng cho sự tìm cầu này. Khi đó, rất nhiều người tìm đến một vị thầy nổi tiếng để xin tờ lệnh cầu tài. Từ tờ mờ sáng, họ xếp hàng dài để gặp thầy, hi vọng sẽ nhận được tài lộc, công danh qua một chữ viết đặc biệt trên tờ lệnh đó. Kết quả là, có những người thấy ngay hiệu ứng tích cực, nhưng phần lớn lại chờ mãi mà chẳng thấy gì.
Lý do nằm ở chỗ, bùa chú hay sự gia hộ của siêu hình chỉ phát huy tác dụng khi nó thắng được nghiệp lực xấu của người cầu xin, nên lúc này phải giúp thân chủ đẩy được cái nghiệp xấu đó sang một bên thì phúc đức mới có lối ra ,nhưng có khi cái phúc phần người đó cũng đã cạn kiệt đâu còn gì nữa để mà kích hoạt nên sẽ chẳng có gì xảy ra hết, vì vậy mới có câu không có ông thầy giỏi nào cứu chữa được cho người đã hết phúc.
NGUỒN GỐC TIỀN TÀI ĐI CẦU ĐẾN TỪ ĐÂU?
Có bao giờ bạn thắc mắc vì sao khi đi cầu Thánh Thầnhay đi xin bùa chú, thì tiền tài hay sự nghiệp lại lập tức đến với bạn? Nhiều người nghĩ rằng Thánh Thần hay các lực lượng siêu hình đang ban phát phúc đức từ túi của họ cho mình, từ cái phúc này nó sẽ được chuyển hóa thành tiền tài, công danh, sự nghiệp. Nhưng điều này có đúng không? Liệu họ có chia sẻ phúc đức mà họ đã tu luyện hàng triệu năm chỉ vì một mâm lễ nhỏ?
Theo lời Phật dạy, ngay cả chư Thiên ở ba cõi, khi hết phúc báo, cũng sẽ bị đọa xuống cõi thấp. Điều này cho thấy rằng phúc đức không phải vô hạn, nó cần được tích lũy qua rất nhiều kiếp sống từ việc xả thân thi hành vô lượng thiện sự làm phước bố thí đến ngày đêm chuyên cần tu tập. Vì vậy, việc nghĩ rằng Thánh Thần ban phúc từ kho phúc đức của họ cho mình là một sai lầm.
Vậy thì cái nguồn phúc đức chúng ta đi cầu xin để biến thành công danh sự nghiệp, cơ hội làm ăn, tiền bạc tài chính này nó ở đâu ra ?
VAY MƯỢN PHÚC ĐỨC TỪ TƯƠNG LAI
Bạn có thể bất ngờ khi biết rằng phúc đức bạn đã đi cầu để đạt được tiền tài, công danh sự nghiệp không đến từ ai khác mà từ chính bạn, từ "tài khoản phúc đức" của bạn trong tương lai. Các thế lực siêu hình hay vị thầy nào đó chỉ giúp bạn "vay mượn" chính phúc đức của mình trong tương lai để dùng trước, chứ không phải họ lấy từ kho phúc đức của mình để trao cho bạn, miễn là làm sao trong lá số của bạn nó có cái nguồn phúc đức đó.
Và chúng tôi cũng sững sờ như bạn khi nghe chư vị trong siêu hình cho chúng tôi biết bí mật này, nhưng mà để được họ đến giúp cho đã là một kỳ tích rồi chứ không hề dễ, nhất là khi những công ty , tập đoàn, doanh nghiệp hoặc cá nhân ai đó đang đối diện với rất nhiều khó khăn bất lợi mà trí tuệ của người trần thúc thủ , có thế người ta mới phải xếp hàng xin tờ lệnh ở chỗ vị thầy kia tại Bắc ninh.
PHÚC ĐỨC VÀ NGHIỆP XẤU ĐỒNG CHI PHỐI CUỘC ĐỜI BẠN.
Hãy tưởng tượng bạn sống đến 70 tuổi. Khi sinh ra, bạn đã mang theo một lượng phúc đức nhất định, giống như bình ắc quy có chứa một dung lượng điện. Phúc đức này sẽ dần chuyển hóa thành tiền bạc, sự nghiệp, và mọi thứ cần thiết để bạn sống đến hết cuộc đời.
Nếu không được một nhân duyên gì để có cơ hội sạc thêm điện vào bình, thì khi nguồn phúc đức trong bình ắc quy đó cạn hết , thì thân mạng bạn cũng chấm dứt.
Tuy nhiên, bên cạnh phúc đức, bạn cũng mang theo nghiệp lực xấu, nghiệp này tùy theo từng giai đoạn cuộc đời lên xuống theo như lá số tử vi chỉ ra mà chi phối nguồn phúc đức xuất ra của bạn.
Khi nghiệp xấu không chi phối, phúc đức sẽ phát huy thì thời điểm đó bạn chẳng làm gì tiền tài cũng tự đổ đến, công danh sự nghiệp của mình cứ lên vù vù không phải vất vả lắm, trong khi người khác trầy trật mãi mà không có gì biến đổi, nhưng tất nhiên tiền tài công danh sự nghiệp có đến được với bạn theo quy mô nào thì nó cũng phải tùy thuộc theo lượng phúc đức của cả đời bạn nó lớn hay bé, to hay nhỏ ,nhiều hay ít.
KHI NÀO THÌ BẠN ĐI CẦU PHÚC ?
Thông thường, mọi người chỉ tìm đến tâm linh khi gặp khó khăn trong tài chính, sự nghiệp, mưu cầu công danh địa vị, hoặc khi các dự án hay hợp đồng kinh doanh đang bế tắc…
Thử nghĩ xem lúc này bạn đang ở giai đoạn 40 tuổi chẳng hạn, mà lá số tử vi lại báo hiệu bạn phải 45 tuổi mới thành đạt , vậy thì đợi đến lúc đó thì lâu quá nhỉ, ai mà biết được ngày mai mình có còn sống không ?
Lúc này, bạn thường hay tìm đến các giải pháp tâm linh chỉ để mong cầu giải quyết được những vấn đề khó khăn ngay trước mắt càng nhanh càng tốt, mà không hề biết và cũng không hiểu mình đang đi mượn phúc đức của tương lai, nhưng tất nhiên không phải ai đi cầu cũng đều được giải quyết như ý.
NHỮNG HIỂU LẦM KHI ĐI CẦU PHÚC
Nhiều người sau khi đạt được thành công nhờ tâm linh thường nghĩ rằng do các vị thầy hoặc các thế lực siêu hình đã ban phát phúc đức cho mình. Tuy nhiên, ít ai suy nghĩ rằng nếu các vị thầy giỏi đến vậy, sao họ không tự làm giàu cho mình? việc gì họ phải mất nhiều công sức giúp đỡ cho bạn chỉ để nhận được của bạn một khoản phí thù lao cho công sức của họ chẳng đáng bao nhiêu so với số tài sản mà bạn chuẩn bị có được ?
Lý do là con người thì có nhiều loại phúc đức ở trong số mệnh ,nhưng không hẳn là tất cả các loại phúc đều có mặt ở một thân này, nó còn bị chi phối do nghiệp của đời trước vận hành ,người có phúc về trí tuệ không hẳn là người có phúc về tài chính.
Vì vậy một người thầy tâm linh sẽ không thể làm mình giàu có nếu như trong mệnh số của mình không có cách cục của việc có nhiều tài sản, không có chuyện tay không mà bắt được giặc lái ở đây ,cho nên tại sao rất nhiều thầy người ta rất giỏi về tâm linh, lại giàu có về trí tuệ nhân đức, nhưng vẫn nghèo về của cải tiền bạc.
Trở lại câu chuyện bạn sẽ sống đến 70 tuổi, năm nay bạn 40 tuổi còn đang đối diện với quá nhiều khó khăn và bạn sẽ chỉ giàu có công danh thành đạt vào năm 45 tuổi theo như lá số tử vi chỉ ra. Nhưng đúng là có những Thầy tâm linh có năng lực đặc biệt có thể giúp cho bạn sớm nhất có tài sản địa vị theo đúng mệnh số nhưng tới nhanh hơn thay vì đến 45 tuổi mới có.
Bạn sẽ đạt được ước nguyện nhưng phải nên hiểu rằng bạn đang vay mượn tài sản địa vị của mình năm 45 tuổi đem về sử dụng trong hiện tại, có nghĩa là đến năm 45 tuổi chỗ phúc đức của thời điểm đó không còn nữa.
Vậy đến thời điểm đó nếu không có nguồn phúc đức nào duy trì bảo hộ thân mạng, bạn sẽ tự nhiên mất hết của cải sự nghiệp, tán gia bại sản, khi phúc đã cạn thì họa đến liền , chuyện tù tội, bệnh tật tai nạn xảy ra là chuyện thấy được, các bạn vẫn chứng kiến nhiều người đầu đời rất giàu có rồi đến cuối đời đi ăn mày rồi còn gì, đó là một minh chứng cho việc phúc đã cạn.
CÁCH GÌ ĐỂ BÙ LẠI CHỖ PHÚC ĐỨC ĐÃ VAY MƯỢN?
Nếu bây giờ bạn có hỏi những thầy có khả năng kích hoạt tài chính công danh sự nghiệp của bạn đến sớm rằng : nếu thầy đã lấy được phúc đức của con trong tương lai đem về hiện tại sử dụng , vậy thì có cách nào để bù lại chỗ phúc đức đã lấy ra đó không ? nhưng đó vẫn là một câu hỏi không có hồi đáp.
Cho nên chuyện kích hoạt cho ai đó sớm đạt được tiền tài công danh sự nghiệp thì Thánh Thần làm được, nhiều vị thầy làm được, và chúng tôi hiện bây giờ được hướng dẫn từ siêu hình nên cũng làm được.
Thời điểm khi các bạn đang đọc bài này, có những cá nhân cuộc sống gia đình đang rất khó khăn công việc đình trệ , hoặc có khi bạn đang là chủ tịch tập đoàn công ty gì đó và lúc này bạn đang cần duy trì phát triển công việc kinh doanh làm ăn của mình mà nhìn trước ngó sau thì chưa thấy được đường ra, hợp đồng dự án đã đưa đến vào tận tay mà còn rơi mất; có người thì muốn thay đổi công danh địa vị.
Và chúng ta có nhân duyên gặp nhau.
Nhưng trong siêu hình họ cũng khai thị muốn giúp ai đó thì nên phải nhìn vào lá số của họ xem phúc đức dày mỏng ra sao để quyết định xử lý công việc, người nào rất ít hoặc không có gì mà mình cố làm được cho họ tức là tước đoạt thọ mạng của họ.
Và cũng tùy theo thân phận hoàn cảnh của thân chủ lúc này như thế nào , cùng với nguồn phúc đức họ có ra sao thì sẽ đưa ra những giải pháp phù hợp với họ, để họ có thể sớm được hưởng những thứ chỉ đúng như lá số của họ có , có nghĩa là số chỉ có cái nhà 2 tầng thì đừng cố phải có biệt thự , cố quá là quá cố luôn.
Nhưng nếu chỉ làm được như vậy thì cũng không khác gì việc người ta đến một nơi chốn linh thiêng nào đó để cầu xin Thánh Thần hay ai đó giúp đỡ, hoặc nhờ đến những lực lượng siêu hình trong bùa phép để vay mượn phúc đức của họ trong tương lai đem về sử dụng trong hiện tại, vậy thì sau này sẽ lấy nguồn nào để bù đắp vào cái chỗ phúc đức bị thiếu hụt đây, đó mới là vấn đề của bài viết này, và cũng là cái mà chúng tôi muốn chia sẻ với các bạn trong phần bài tiếp theo.
Minh Thiên 0943666611 Mật Liên Đăng 0987702012
0
0
14
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Oct 01, 2024
In ỨNG DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG
DẪN CHUYỆN
Chúng tôi là những hành giả cư sĩ đi theo Mật giáo. Cuộc sống của chúng tôi, khác với các tu sĩ tại chùa chiền, không dựa được vào sự cúng dường. Thay vào đó, chúng tôi làm rất nhiều công việc tâm linh để duy trì thân tứ đại giúp phụng sự việc tu tập và lan tỏa sẻ chia Mật pháp tới người hữu duyên.
Từ nghi lễ nhập trấn trạch nhà mới, thiết lập nơi thờ tự Phật Thánh, Thần tài, Thổ địa, cho đến cầu siêu, cầu an, khai trương cửa hàng, công ty và các dự án lớn ,xem tử vi , nhìn phong thủy, kết nối chân linh, thần linh giúp thân chủ nắm rõ vận mệnh tương lai – tất cả đều là những phương tiện giúp thân chủ tìm đến sự thành tựu về công danh, sự nghiệp, và tài chính. Qua đó, đưa họ từng bước hướng về con đường giác ngộ, nhờ vào sức mạnh từ bi và trí tuệ kim cương của Mật thừa dẫn nhiếp.
Dấu chân chúng tôi đã đi qua cả hai miền Nam Bắc. Và điều thú vị là nhiều người, ban đầu đến với chúng tôi chỉ vì công việc tâm linh, nhưng sau thời gian tiếp cận, dưới lực nhiếp dẫn của bản tôn Chuẩn Đề, nhiều người trong họ đã trở thành hành giả Mật thừa. Cuộc sống của họ từ vật chất đến tinh thần từ đó tới nay đều thăng hoa rõ rệt.
NHÂN DUYÊN CỦA BÀI VIẾT NÀY
Vài ngày trước, chúng tôi có duyên đến nhập trấn trạch tân gia cho một thân chủ tại Ecopark. Người này cũng là một người tu trì mật chú Chuẩn Đề do chúng tôi chia sẻ. Qua năm tháng hành trì, cuộc sống của bạn ấy đã thay đổi diệu kỳ, mua được vài căn nhà và sự nghiệp cũng thăng tiến không ngừng. Bạn ấy luôn ghi nhận mật chú đã giúp cuộc đời mình thay đổi hoàn toàn, nhưng chúng tôi hiểu rõ mật chú chỉ là phương tiện hỗ trợ, chính phúc đức sẵn có trong lá số tử vi của bạn ấy mới là yếu tố then chốt khiến công danh và tài chính thăng hoa.
Mẹ của bạn ấy, một người yêu thích Phật pháp, luôn quan sát cẩn thận mỗi khi chúng tôi đến thiết lập đàn pháp trấn trạch cho các căn nhà mới.
Lần này thì Bà hỏi chúng tôi: "Tôi từng thấy nhiều đàn pháp trấn trạch, nhưng đàn pháp của các thầy hoàn toàn khác biệt. Thầy có thể chia sẻ nguyên lý của đàn pháp này là gì không?"
Và chúng tôi đã giải thích cho bà rất chi tiết, bởi việc hiểu sâu về nó không chỉ giúp bà ấy tăng thêm phần hiểu biết mà còn là cơ hội để nhận ra sự ưu việt của đàn pháp Mật thừa.
NGUYÊN LÝ CỦA ĐÀN PHÁP TRẤN TRẠCH
Đàn pháp trấn trạch tân gia của chúng tôi được thiết lập theo lối Mandala,nó được kết hợp giữa hai Mandala Kim cang giới và Thai tạng giới – biểu tượng của Từ bi và Trí tuệ trong pháp Chuẩn Đề Đông Mật.
Trung tâm của Mandala là bản tôn Chuẩn Đề ngự trên bát diệp liên đài, xung quanh là chư thiên tam giới, hồn thiêng sông núi linh khí đất Việt trời Nam, và ngoài cùng là chân linh ông bà tổ tiên của thân chủ cùng chân linh các vị tiền chủ cư tại bản địa.
Thông qua Mandala này, các biệt pháp Tăng ích, Kính ái và Tức tai của đức Chuẩn đề được triển khai, giúp gia chủ khi đến ở sẽ dần thăng hoa về công danh sự nghiệp , tài chính, và tránh bớt những tai ương nếu có.
Bà mẹ sau khi hiểu rõ ý nghĩa của Mandala Chuẩn Đề đã hỏi tiếp: "Phật pháp thật vi diệu. Vậy mật chú Chuẩn Đề có tác dụng gì trong việc chuyển hóa phần ‘Con’ và phần ‘Người’ trong mỗi con người?"
Và sự hồi đáp của chúng tôi chính là nội dung chủ đạo của bài viết này.
• CHUYỂN HÓA GIỮA PHẦN CON VÀ PHẦN NGƯỜI TRONG PHÁP TU CHUẨN ĐỀ ĐÔNG MẬT
Trong mỗi chúng ta đều tồn tại hai phần: phần "Con" – bản năng, và phần "Người" – trí tuệ. Phần con đại diện cho những nhu cầu sinh tồn bản năng, những ham muốn và dục vọng nguyên thủy. Trong khi đó, phần người là lý trí, đạo đức và tinh thần. Khi phần "Người" được phát triển, chúng ta trở thành những con người sống có trí tuệ, từ bi và yêu thương, Pháp tu Chuẩn Đề Đông Mật giúp chúng ta điều hòa hai phần này. Nhờ vào năng lực của mật chú, hành giả dần kiểm soát được phần bản năng, phát triển khai mở trí tuệ nhận thức và từ đó chuyển hóa số phận, phát triển con đường tâm linh toàn diện.
Một ví dụ đơn giản là khi hành trì mật chú Chuẩn đề , hành giả tự nhiên phát triển đức tính tàm quý, tự hổ thẹn với những hành vi không đúng đắn và sợ hãi những quả báo từ nghiệp xấu đã làm và định làm, từ đó khởi tâm luôn hành thiện bỏ ác ,tự nhiên tránh đi được những tai ương tù tội hạn họa lẽ ra phải xuất hiện y như lá số của họ đã chỉ bày . Đó chính là một trong những sức mạnh của Mật chú Chuẩn đề giúp chuyển hóa phần "Con" và phần "Người", mang đến sự thăng hoa trong đời sống vật chất và tinh thần cho những ai đặt trọn niềm tin và thực hành.
Minh Thiên 0943666611
Mật Liên Đăng 0987702012
0
0
42
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Sep 20, 2024
In ỨNG DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG
KHÁT VỌNG THÀNH CÔNG SỚM TRONG CUỘC SỐNG
Trong cuộc sống hiện đại, ai cũng mong muốn thành công về địa vị, sự nghiệp, hay tài chính, nhất là khi đang gặp khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Khi đối diện với những trở ngại này, nhiều người tìm kiếm sự giúp đỡ từ thế giới tâm linh, hi vọng những sức mạnh siêu hình có thể mang lại may mắn và thay đổi số phận.
Chẳng hạn, họ thường đi lễ ở những nơi linh thiêng để cầu sự gia hộ của Thánh Thần, hoặc sử dụng các phương pháp tâm linh như Pháp Chiêu tài Kumathoong của Thái Lan, hay nhờ bùa chú để cầu tài lộc, công danh từ những vị thầy tâm linh nổi tiếng.
VÌ SAO CẦU TÀI CÓ NGƯỜI ĐƯỢC, NGƯỜI KHÔNG?
Câu chuyện từ nhiều năm trước tại Bắc Ninh vẫn là một minh chứng cho sự tìm cầu này. Khi đó, rất nhiều người tìm đến một vị thầy nổi tiếng để xin tờ lệnh cầu tài. Từ tờ mờ sáng, họ xếp hàng dài để gặp thầy, hi vọng sẽ nhận được tài lộc, công danh qua một chữ viết đặc biệt trên tờ lệnh đó. Kết quả là, có những người thấy ngay hiệu ứng tích cực, nhưng phần lớn lại chờ mãi mà chẳng thấy gì.
Lý do nằm ở chỗ, bùa chú hay sự gia hộ của siêu hình chỉ phát huy tác dụng khi nó thắng được nghiệp lực xấu của người cầu xin, nên lúc này phải giúp thân chủ đẩy được cái nghiệp xấu đó sang một bên thì phúc đức mới có lối ra ,nhưng có khi cái phúc phần người đó cũng đã cạn kiệt đâu còn gì nữa để mà kích hoạt nên sẽ chẳng có gì xảy ra hết, vì vậy mới có câu không có ông thầy giỏi nào cứu chữa được cho người đã hết phúc.
NGUỒN GỐC TIỀN TÀI ĐI CẦU ĐẾN TỪ ĐÂU?
Có bao giờ bạn thắc mắc vì sao khi đi cầu Thánh Thầnhay đi xin bùa chú, thì tiền tài hay sự nghiệp lại lập tức đến với bạn? Nhiều người nghĩ rằng Thánh Thần hay các lực lượng siêu hình đang ban phát phúc đức từ túi của họ cho mình, từ cái phúc này nó sẽ được chuyển hóa thành tiền tài, công danh, sự nghiệp. Nhưng điều này có đúng không? Liệu họ có chia sẻ phúc đức mà họ đã tu luyện hàng triệu năm chỉ vì một mâm lễ nhỏ?
Theo lời Phật dạy, ngay cả chư Thiên ở ba cõi, khi hết phúc báo, cũng sẽ bị đọa xuống cõi thấp. Điều này cho thấy rằng phúc đức không phải vô hạn, nó cần được tích lũy qua rất nhiều kiếp sống từ việc xả thân thi hành vô lượng thiện sự làm phước bố thí đến ngày đêm chuyên cần tu tập. Vì vậy, việc nghĩ rằng Thánh Thần ban phúc từ kho phúc đức của họ cho mình là một sai lầm.
Vậy thì cái nguồn phúc đức chúng ta đi cầu xin để biến thành công danh sự nghiệp, cơ hội làm ăn, tiền bạc tài chính này nó ở đâu ra ?
VAY MƯỢN PHÚC ĐỨC TƯƠNG LAI
Bạn có thể bất ngờ khi biết rằng phúc đức bạn đã đi cầu để đạt được tiền tài, công danh sự nghiệp không đến từ ai khác mà từ chính bạn, từ "tài khoản phúc đức" của bạn trong tương lai. Các thế lực siêu hình hay vị thầy nào đó chỉ giúp bạn "vay mượn" chính phúc đức của mình trong tương lai để dùng trước, chứ không phải họ lấy từ kho phúc đức của mình để trao cho bạn, miễn là làm sao trong lá số của bạn nó có cái nguồn phúc đức đó.
Và chúng tôi cũng sững sờ như bạn khi nghe chư vị trong siêu hình cho chúng tôi biết bí mật này, nhưng mà để được họ đến giúp cho đã là một kỳ tích rồi chứ không hề dễ, nhất là khi những công ty , tập đoàn, doanh nghiệp hoặc cá nhân ai đó đang đối diện với rất nhiều khó khăn bất lợi mà trí tuệ của người trần thúc thủ , có thế người ta mới phải xếp hàng xin tờ lệnh ở chỗ vị thầy kia tại Bắc ninh.
PHÚC ĐỨC VÀ NGHIỆP XẤU ĐỒNG CHI PHỐI CUỘC ĐỜI BẠN.
Hãy tưởng tượng bạn sống đến 70 tuổi. Khi sinh ra, bạn đã mang theo một lượng phúc đức nhất định, giống như bình ắc quy có chứa một dung lượng điện. Phúc đức này sẽ dần chuyển hóa thành tiền bạc, sự nghiệp, và mọi thứ cần thiết để bạn sống đến hết cuộc đời.
Nếu không được một nhân duyên gì để có cơ hội sạc thêm điện vào bình, thì khi nguồn phúc đức trong bình ắc quy đó cạn hết , thì thân mạng bạn cũng chấm dứt.
Tuy nhiên, bên cạnh phúc đức, bạn cũng mang theo nghiệp lực xấu, nghiệp này tùy theo từng giai đoạn cuộc đời lên xuống theo như lá số tử vi chỉ ra mà chi phối nguồn phúc đức xuất ra của bạn.
Khi nghiệp xấu không chi phối, phúc đức sẽ phát huy thì thời điểm đó bạn chẳng làm gì tiền tài cũng tự đổ đến, công danh sự nghiệp của mình cứ lên vù vù không phải vất vả lắm, trong khi người khác trầy trật mãi mà không có gì biến đổi, nhưng tất nhiên tiền tài công danh sự nghiệp có đến được với bạn theo quy mô nào thì nó cũng phải tùy thuộc theo lượng phúc đức của cả đời bạn nó lớn hay bé, to hay nhỏ ,nhiều hay ít.
KHI NÀO THÌ BẠN ĐI CẦU PHÚC ?
Thông thường, mọi người chỉ tìm đến tâm linh khi gặp khó khăn trong tài chính, sự nghiệp, mưu cầu công danh địa vị, hoặc khi các dự án hay hợp đồng kinh doanh đang bế tắc…
Thử nghĩ xem lúc này bạn đang ở giai đoạn 40 tuổi chẳng hạn, mà lá số tử vi lại báo hiệu bạn phải 45 tuổi mới thành đạt , vậy thì đợi đến lúc đó thì lâu quá nhỉ, ai mà biết được ngày mai mình có còn sống không ?
Lúc này, bạn thường hay tìm đến các giải pháp tâm linh chỉ để mong cầu giải quyết được những vấn đề khó khăn ngay trước mắt càng nhanh càng tốt, mà không hề biết và cũng không hiểu mình đang đi mượn phúc đức của tương lai, nhưng tất nhiên không phải ai đi cầu cũng đều được giải quyết như ý.
NHỮNG HIỂU LẦM KHI ĐI CẦU PHÚC
Nhiều người sau khi đạt được thành công nhờ tâm linh thường nghĩ rằng do các vị thầy hoặc các thế lực siêu hình đã ban phát phúc đức cho mình. Tuy nhiên, ít ai suy nghĩ rằng nếu các vị thầy giỏi đến vậy, sao họ không tự làm giàu cho mình? việc gì họ phải mất nhiều công sức giúp đỡ cho bạn chỉ để nhận được của bạn một khoản phí thù lao cho công sức của họ chẳng đáng bao nhiêu so với số tài sản mà bạn chuẩn bị có được ?
Lý do là con người thì có nhiều loại phúc đức ở trong số mệnh ,nhưng không hẳn là tất cả các loại phúc đều có mặt ở một thân này, nó còn bị chi phối do nghiệp của đời trước vận hành ,người có phúc về trí tuệ không hẳn là người có phúc về tài chính.
Vì vậy một người thầy tâm linh sẽ không thể làm mình giàu có nếu như trong mệnh số của mình không có cách cục của việc có nhiều tài sản, không có chuyện tay không mà bắt được giặc lái ở đây ,cho nên tại sao rất nhiều thầy người ta rất giỏi về tâm linh, lại giàu có về trí tuệ nhân đức, nhưng vẫn nghèo về của cải tiền bạc.
Trở lại câu chuyện bạn sẽ sống đến 70 tuổi, năm nay bạn 40 tuổi còn đang đối diện với quá nhiều khó khăn và bạn sẽ chỉ giàu có công danh thành đạt vào năm 45 tuổi theo như lá số tử vi chỉ ra. Nhưng đúng là có những Thầy tâm linh có năng lực đặc biệt có thể giúp cho bạn sớm nhất có tài sản địa vị theo đúng mệnh số nhưng tới nhanh hơn thay vì đến 45 tuổi mới có.
Bạn sẽ đạt được ước nguyện nhưng phải nên hiểu rằng bạn đang vay mượn tài sản địa vị của mình năm 45 tuổi đem về sử dụng trong hiện tại, có nghĩa là đến năm 45 tuổi chỗ phúc đức của thời điểm đó không còn nữa.
Vậy đến thời điểm đó nếu không có nguồn phúc đức nào duy trì bảo hộ thân mạng, bạn sẽ tự nhiên mất hết của cải sự nghiệp, tán gia bại sản, khi phúc đã cạn thì họa đến liền , chuyện tù tội, bệnh tật tai nạn xảy ra là chuyện thấy được, các bạn vẫn chứng kiến nhiều người đầu đời rất giàu có rồi đến cuối đời đi ăn mày rồi còn gì.
CÁCH GÌ ĐỂ BÙ LẠI CHỖ PHÚC ĐỨC ĐÃ VAY MƯỢN?
Nếu bây giờ bạn có hỏi những thầy có khả năng kích hoạt tài chính công danh sự nghiệp của bạn đến sớm rằng : nếu thầy đã lấy được phúc đức của con trong tương lai đem về hiện tại sử dụng , vậy thì có cách nào để bù lại chỗ phúc đức đã lấy ra đó không ? nhưng đó vẫn là một câu hỏi không có hồi đáp.
Cho nên chuyện kích hoạt cho ai đó sớm đạt được tiền tài công danh sự nghiệp thì Thánh Thần làm được, nhiều vị thầy làm được, và chúng tôi hiện bây giờ được hướng dẫn từ siêu hình nên cũng làm được.
Thời điểm khi các bạn đang đọc bài này, có những cá nhân cuộc sống gia đình đang rất khó khăn công việc đình trệ , hoặc có khi bạn đang là chủ tịch tập đoàn công ty gì đó và lúc này bạn đang cần duy trì phát triển công việc kinh doanh làm ăn của mình mà nhìn trước ngó sau thì chưa thấy được đường ra, hợp đồng dự án đã đưa đến vào tận tay mà còn rơi mất; có người thì muốn thay đổi công danh địa vị.
Và chúng ta có nhân duyên gặp nhau.
Nhưng trong siêu hình họ cũng khai thị muốn giúp ai đó thì nên phải nhìn vào lá số của họ xem phúc đức dày mỏng ra sao để quyết định xử lý công việc, người nào rất ít hoặc không có gì mà mình cố làm được cho họ tức là tước đoạt thọ mạng của họ.
Và cũng tùy theo thân phận hoàn cảnh của thân chủ lúc này như thế nào , cùng với nguồn phúc đức họ có ra sao thì sẽ đưa ra những giải pháp phù hợp với họ, để họ có thể sớm được hưởng những thứ chỉ đúng như lá số của họ có , có nghĩa là số chỉ có cái nhà 2 tầng thì đừng cố phải có biệt thự , cố quá là quá cố luôn.
Nhưng nếu chỉ làm được như vậy thì cũng không khác gì việc người ta đến một nơi chốn linh thiêng nào đó để cầu xin Thánh Thần hay ai đó giúp đỡ, hoặc nhờ đến những lực lượng siêu hình trong bùa phép để vay mượn phúc đức của họ trong tương lai đem về sử dụng trong hiện tại, vậy thì sau này sẽ lấy nguồn nào để bù đắp vào cái chỗ phúc đức bị thiếu hụt đây, đó mới là vấn đề của bài viết này, và cũng là cái mà chúng tôi muốn chia sẻ.
Chúng tôi sẽ gặp lại các bạn trong phần bài tiếp theo.
Minh Thiên 0943666611 Mật Liên Đăng 0987702012
0
0
42
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Jun 21, 2024
In THỜ CÚNG - LỄ BÁI - ĐÀN PHÁP
Luân hồi (samsara) Vòng quay sinh tử trong Phật giáo ,là một khái niệm thể hiện chu kỳ sinh, lão, bệnh, tử và tái sinh theo nghiệp của chúng sinh trong sáu cõi Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, A tu la, Nhân và Thiên.
Theo Phật giáo, nguyên nhân dẫn đến luân hồi là Vô minh và Tham ái. Do Vô minh và Tham ái, chúng sinh tạo tác nghiệp thiện ác cho mình và cho người, dẫn đến Luân hồi chịu nghiệp trả quả trong khổ đau, nhưng tuy kinh điển nói vậy mà không phải ai cũng có cơ hội thực chứng chuyện Luân hồi chịu nghiệp trả quả, oan oan tương báo.
KẾT NỐI PHẦN ÂM VÀ THẤY ĐƯỢC LUÂN HỒI QUẢ BÁO NHÃN TIỀN
Năm đó đó có một gia đình ở thị trấn Việt quang nằm trên tuyến đường từ Tuyên quang đi thành phố Hà giang nhờ chúng tôi giúp họ làm lễ chiêu hồn người thân là chồng, cha của họ bị tai nạn trên đường cao tốc Hà nội Thái nguyên.
Khi chúng tôi và gia đình sau khi đã tiến hành làm lễ chiêu hồn tiếp dẫn vong linh về đến nhà trước khi rước vong ra nghĩa trang làm lễ nhập mộ thì trời đã tối ,nên chúng tôi nghỉ lại nhà chủ để sáng hôm sau làm tiếp.
Để giúp cho cô con gái của vong linh về sau này chủ động chống lại được cảnh bị vong nhập không theo ý muốn, đêm đó chúng tôi hướng dẫn cô bé thọ nhận pháp tu Chuẩn đề, nhân tiện chúng tôi triệu thỉnh luôn vong linh là cha cô bé nhập lên mượn thân cô thọ nhận pháp tu luôn.
Sau khi vong linh và con gái đã thọ nhận pháp tu , vong linh có tâm nguyện mong muốn chúng tôi đến 49 ngày chung thất của vong thì lại lên đây làm lễ giúp đỡ cho vong một lần nữa, nhưng vì vong mất phạm trùng tang nên chúng tôi chuyển sang làm vào ngày 35 để sớm giải quyết vấn đề.
Đàn pháp ngũ thất lai tuần của chúng tôi được thiết lập theo Mandala Mật giáo, khoa pháp được sử dụng là Mật Tịnh phối hợp, trong đàn lễ có phần cầu siêu cho vong , trước khi đến phần Quy vong, vong linh sẽ được chúng tôi triệu thỉnh lên để kết nối với gia đình và các bà các cô trong hội tu Tịnh Độ có đến tham gia đàn lễ, họ sẽ khuyên nhủ và khai thị cho vong linh hướng tâm quy y Tam bảo và chúng tôi kết thúc khóa đàn.
Dưới sự gia trì của hộ pháp chư tôn dòng pháp Đông Mật và đạo lực của thần chú triệu thỉnh , chị gái của vong tự nhiên tạm thời được mở con mắt thứ ba nhìn thấy em mình gần đó ,thế là bà chị đi ra đưa tay kéo em mình đến gần đàn pháp, nếu không phải là vụ kết nối phần âm thì người ngoài sẽ tưởng bà chị bị hoang tưởng bởi vì đang đưa tay ra kéo một cái gì đó không hình không bóng khiến nét mặt mọi phật tử tham dự pháp đàn đều sửng sốt không nói nên lời.
Sau khi tôi đọc câu thần chú triệu thỉnh lần thứ hai ,thì bây giờ bà chị đã nhìn thấy vong linh nhập hoàn toàn vào người cháu gái đang tình nguyện ngồi sẵn sàng cho vong mượn thân.
Có rất nhiều ý kiến trái chiều trên mạng phân tích bài cãi về chuyện kết nối với người âm, người ta cho là có thể người ngồi có lẽ bị tự kỷ ám thị, hoặc cũng có vong thật, nhưng đâu có ai dám chắc đó chính là vong nhà mình ,nhưng ở đàn lễ này, một người được trực tiếp cảm ứng mở con mắt thứ ba ra nhìn thấy rõ ràng hình tướng của em mình đang từ từ nhập vào cháu gái mình, thì cái này không thể nói chuyện thật giả ở đây được, nó là chính nó thôi.
Lúc này vong linh trong người cô bé đã mở mắt ra nhìn mọi người xung quanh với thái độ rất điềm tĩnh, mọi người trong gia đình òa khóc xúm lại cầm tay khuyên nhủ hỏi han , các bà các cô thì hỏi thế vong linh chết thế có đúng số không thì vong linh gật đầu xác nhận đúng , sau một hồi căn dặn vợ con gia đình thì vong linh bảo cho gọi cái người đã gây tai nạn cho vong vào , đó là một cậu lái xe tầm ngoài 30 tuổi đi cùng gia đình.
Sau khi nghe cậu ấy cất lời xin vong linh tha thứ cho lỗi lầm của mình vì vô ý mà gây ra tai nạn cho vong linh , vong linh chấp nhận và nói một điều gây sửng sốt cho tất cả mọi người ngồi nghe , hương linh nói :
Ta với nhà người đã bốn đời này luôn làm kẻ thù của nhau oan oan tương báo, kiếp trước người hại chết ta thì kiếp sau ta lại nuôi oán thù đầu thai lại để hại ngươi , kiếp này ta phải chết để trả nợ ngươi nhưng nay ta đã được nhận pháp từ thầy đây tu tập nên được khai mở trí tuệ nhận biết oán thù nên cởi không nên kết , tâm cũng đã buông xả nên ta tha thứ cho ngươi ,từ nay trở đi oán thù nhiều đời kiếp chấm dứt, ngươi bây giờ chỉ cần sửa chữa lại cái xe của ta và đền bù sao cho thỏa đáng là được , người chết thì cũng đã chết rồi ..
Lúc đó cậu lái xe chỉ biết vâng dạ chắp tay xá dài và lui ra, các bà các cô hội Tịnh độ thì khuyên nhủ vong linh quy y phật , tu tập để siêu thoát không còn dính mắc với món nợ trần ai nữa.
Như vậy là thần chú Chuẩn đề không những chỉ để cho người dương tu tập mà âm phần cũng có thể tiếp nhận và tu tập chuyển đổi cảnh giới,ở đây chính là vong linh khi tiếp nhận pháp tu Chuẩn đề đã mượn thân cô con gái hàng ngày tu tập cùng con để chờ đến pháp đàn cầu siêu ngày hôm nay.
Trong buổi lễ này, các bà các cô các chú phật tử đạo tràng Tịnh độ thông qua chuyện mắt thấy tai nghe đó thì họ đã trực tiếp được thấy biết sự kiện luân hồi chịu nghiệp trả quả oan oan tương báo hay được nói trong các kinh điển phật pháp là một sự thật, như vậy công việc của chúng tôi cũng là phương tiện góp phần khiến họ có thêm niềm tin sâu sắc vào con đường Phật pháp.
CON ĐƯỜNG THOÁT KHỎI LUÂN HỒI
Đức Phật luôn chỉ bày muốn thoát khỏi Luân hồi thì phải chuyển hóa được Vô minh và Tham ái.Phương tiện để đạt được điều này chính là về Lý thì nghiên cứu học hỏi các giáo lý kinh điển Phật pháp như Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Bát chính đạo, Bát nhã , Duy thức,v..v.
Về Sự thì chuyên tu Thiền định Chỉ Quán, Niệm phật , Trì chú chính là phương tiện rèn luyện để tâm được thanh tịnh, khai mở trí tuệ nhận thức được bản chất thực tại và luôn giữ tâm tập trung chánh niệm, tỉnh giác, nhận biết rõ ràng mọi suy nghĩ, lời nói, hành động của bản thân.
Bên cạnh đó thì sống theo chánh đạo bằng cách giữ giới luật Phật , sống với lòng Từ Bi Hỷ Xả tránh xa ác nghiệp và phát triển tâm Bồ đề với mong muốn giúp đỡ tất cả chúng sinh hữu duyên giải thoát khỏi khổ đau.
Thoát khỏi Luân hồi là một quá trình tu tập Phật pháp lâu dài tính bằng nhiều kiếp sống , đòi hỏi sự kiên trì, nỗ lực và chí hướng của mỗi người. Tuy nhiên ngay trong kiếp sống này , biết đến Phật pháp và thực hành miên mật thường xuyên, nó cũng đem lại lợi ích tuyệt vời giúp con người đạt được an lạc, hạnh phúc và giải thoát từng phần ngay tại cuộc đời này.
MINH THIÊN 0943666611
MẬT LIÊN ĐĂNG 0987702012
1
0
26
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Jun 08, 2024
In THỜ CÚNG - LỄ BÁI - ĐÀN PHÁP
Thần Tài và Thổ Địa là hai vị thần linh được thờ cúng phổ biến trong văn hóa tâm linh của người Việt Nam, đặc biệt là tại các hộ gia đình và cửa hàng kinh doanh hay các doanh nghiệp. Mỗi vị thần đều mang những chức năng và ý nghĩa riêng biệt, mang lại sự sung túc, bình an cho gia chủ, góp phần tạo nên nét đẹp độc đáo trong đời sống tinh thần của người dân.
Thần Tài là vị thần cai quản tài lộc, tiền bạc và may mắn trong kinh doanh,mang đến sự thịnh vượng, sung túc giúp gia chủ buôn may bán đắt, thu hút tài lộc, tránh khỏi những tổn thất về tiền bạc.
Thần Tài thường được thể hiện với hình ảnh một ông già râu tóc bạc phơ, tay cầm thỏi vàng, vàng bạc, hoặc ngồi trên một hũ tiền.
Thần Tài thường được đặt ở vị trí trang trọng trong nhà, gần cửa ra vào, hướng về phía bên trái.
Thổ Địa là vị thần cai quản đất đai, nhà cửa và bảo vệ cho gia chủ, ngài mang đến sự bình an, may mắn, sức khỏe cho các thành viên trong gia đình và giúp gia chủ tránh khỏi những tai ương, xui xẻo.
Thường thì ngài Thổ Địa được thể hiện với hình ảnh một ông già bụng phệ, râu quai nón, tay cầm quạt ba tiêu, hoặc ngồi trên một hòn đá.
Ngài Thổ Địa thường được phối thờ với Thần Tài.
Tùy theo từng vùng miền và tín ngưỡng của mỗi gia đình mà cách thờ cúng Thần Tài và Thổ Địa có thể có chút khác biệt.
Trong quá trình đi làm công tác tâm linh cho các hộ kinh doanh và doanh nghiệp, bao gồm các công việc như thiết lập ban thờ phụng tự Thần Tài Thổ Địa, hoặc trong những đàn lễ cầu gia hộ phát triển công cuộc kinh doanh buôn bán , hoặc thân chủ muốn được nghe lời dạy bảo từ siêu hình để có đường hướng quyết sách đúng đắn tránh đi những đầu tư sai chỗ khiến tiền mất tật mang và những vấn đề khác tùy theo sự cầu thị của thân chủ, chúng tôi thường triệu thỉnh ngài Thần Tài Thổ Địa lên cho thân chủ trực tiếp diện kiến thưa hỏi.
Chúng tôi nhớ lại một câu chuyện mới gần đây, chúng tôi có một thân chủ đã đầu tư tài chính vào một dự án, phía đối tác bên kia họ vẫn liên tục kêu gọi nhà đầu tư này gia tăng vốn đầu tư, đúng dịp đó chúng tôi được mời đến làm lễ khai trương và lập ban thờ Thần Tài Thổ Địa cho công ty của thân chủ đó.
Sau phần triệu thỉnh Thần Tài Thổ Địa nhập tượng, vì thân chủ cũng là người giỏi về phong thủy nên cũng muốn kiểm tra xem vậy đã là Thần Tài thì hẳn nhiên vị ấy phải biết rõ tài vị của mình ở chỗ nào trong nhà nên có mong muốn được thỉnh ngài lên và trực tiếp diện kiến thưa hỏi.
Sau khi được ngài Thần Tài cho biết về cung hướng đặt tài vị thì thân chủ đó lại hỏi tiếp về chuyện đang đầu tư tài chính vào đối tác của mình, và có nên đầu tư tiếp không thì được ngài Thần Tài cho thân chủ biết là ông ấy đã bị lừa, đừng nên đầu tư thêm nữa.
Tất nhiên ngay lúc đó thì vị ấy còn bán tín bán nghi, rồi tuần sau thì ông ấy gọi lại buồn rầu thông báo là đã bị mất sạch số tiền đầu tư cũ, còn may từ lúc nghe thông tin từ Thần Tài nên không dám đầu tư thêm nữa nên còn giữ lại được một khoản không hề nhỏ, cho nên với người đầu tư , thà rằng nằm im đợi thời còn hơn đầu tư sai đã không có lợi nhuận lại còn mất hết cả vốn cơ bản.
Vấn đề là ở đây trí tuệ của người trần không thể nào biết được chắc chắn lúc nào là lúc mình đầu tư đúng chỗ, nhưng siêu hình thì họ biết, và những cái siêu hình họ biết thì cũng rất tương ưng với những cái chúng tôi biết khi nhìn vào lá số của một thân chủ.
Tuy cùng là trong cảnh giới của các vị Thần Tài Thổ Địa, nhưng những vị đó cũng có trí tuệ hiểu biết khác nhau giống y như người trần , ai có học hành nghiên cứu nhiều, mức độ giao tiếp với xã hội lớn thì sự nhận thức và câu trả lời cũng khác biệt nhau, năng lực ủng hộ phù trì cũng khác nhau, có những vị khi được triệu thỉnh lên, ngoài việc nói về họa phúc nhân gian thì cũng luôn khuyên bảo con người nên sống thiện làm thiện, hướng tâm vào phật đạo, lấy đó làm nền tảng khiến cho cơ nghiệp được tạo dựng luôn vững bền với thời gian để lại phúc đức cho cháu con dòng họ.
Minh Thiên 0943666611
Mật Liên Đăng 0987702012
1
0
58
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
May 14, 2024
In Kiến thức chung về Phật giáo
Trong các tôn giáo ở Ấn Độ từ thời Đức Phật cho đến ngày hôm nay gần như chỉ có một mình Phật giáo là không hoàn toàn ăn chay .Theo ghi chép trong kinh điển Phật giáo, Đức Phật và các vị Tỳ-kheo đệ tử thuở ban đầu không ăn chay, mà thực hành khất thực, nhận thức ăn từ sự cúng dường của người dân, ai cho gì thì ăn đấy.
Trong các truyền thống Phật giáo, có những truyền thống ăn chay, nhưng trong giáo lý căn bản Phật giáo không có ăn chay. Giới luật của người tại gia hay người xuất gia theo Phật giáo không có giới ăn chay. Trong bát Chánh đạo cũng không có cái đạo ăn chay.
Ăn chay đụng tới một Giới của người tại gia là Giới sát sinh. Đối với 10 giới Sa Di thì Giới sát sanh đứng đầu, trong Bát quan trai Giới Sát sanh cũng đứng đầu,nhưng trong Giới bổn của các vị tỳ khưu thì Giới sát sinh không phải đứng đầu. Lý do là trong Giới không sát sanh và Nghiệp không sát sanh nó phải đủ năm chi phần mới gọi là phạm Giới sát sanh.
Thiện Nghiệp không sát sanh khác với Giới không sát sanh phạm giới sát sanh phải bao gồm 5 điều sau :
Điều thứ nhất là giết hại một sinh vật đang sống
Điều thứ hai là mình biết rõ sinh vật đó đang còn sống
Điều thứ ba là mình chủ ý muốn giết.
Điều thứ tư là tạo mọi điều kiện tự mình làm hay bảo người khác làm, tạo điều kiện cho đối tượng đó bị chết.
Điều thứ năm mới là yếu tố quyết định khi đối tượng con vật hay con người đó bị chết bởi chủ ý của mình và mình thỏa mãn với hành động đó.
Hội đủ 5 yếu tố này mới gọi là tạo nghiệp sát sanh hay là phạm giới sát sanh.
Đứng về quan điểm nghiệp của Phật giáo Nguyên Thủy thì những người ăn mặn không phạm giới sát sanh,không tạo nghiệp sát sanh. Nhưng những người cố ý giết vật để cúng dường cho Chư tăng hoặc là cho người khác ăn thì phạm giới sát sanh, gọi là phi Công đức.
Nhưng nếu mua thực phẩm làm sẵn thì lại không có vấn đề gì. Trên là nói về mặt Giới luật, còn đứng về mặt hành Thiền quán Tứ niệm xứ của Phật giáo Nguyên thủy thì khi nói món ăn đó là đồ chay, món ăn đó là đồ mặn, món ăn đó là thịt là rau, là đậu thì các quý thầy đều coi đó là Khái niệm thôi.
Còn trong thực tại tu tập ,các quý thầy luôn nhận thức không có miếng thịt, không có đậu, không có rau, không có cơm… Khi các quý thầy ăn, các quý thầy chỉ ghi nhận sự mềm cứng, cay nóng của thức ăn thôi.
Khi người nào bước vào hành thiền quán Tứ Niệm xứ mà nghĩ rằng họ đang ăn miếng thịt thì đó là suy nghĩ không phải là Minh sát, không phải là Chánh niệm. Đó là suy nghĩ bằng Tưởng thì mới thấy là miếng thịt.
Còn một người đang hành Thiền Tứ niệm xứ, khi ăn một miếng gì trong miệng, thì luôn ghi nhận tính chất của nó, còn nếu mà nghĩ nó là miếng thịt hay là đậu hay là rau thì vị ấy chưa phải là đang thực hành Tứ niệm xứ, niệm Thân trên Thân.
Trong việc thực hành 4 Niệm Xứ không có Khái niệm thịt, cá, rau hay đậu… mà chỉ có mềm cứng, ngọt béo…. Nếu người thực hành còn dính mắc vào chuyện chay mặn thì họ không thể thực hành được Thiền quán Tứ niệm xứ.
Đấy là lý do rất quan trọng mà trong việc tu tập của Phật giáo Nguyên thủy không đưa ra cái chủ thuyết chay mặn này. Bởi vì thức ăn chỉ được thấy như là Pháp hay ngũ Uẩn, hay Danh Sắc, hay Hữu Vi, và nó không có chay mặn.
Đức Phật đắc đạo nhờ Trí Tuệ và Phật giáo Nguyên thủy không đặt nặng ăn món gì mà đặt nặng thái độ ăn.Món ăn đấy nếu thuộc về Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng thì là đúng pháp và khi ăn với Chánh niệm Tỉnh giác là đúng.Chánh niệm tức là nhận biết rõ tính chất của món ăn như mặn nhạt ngọt bùi cay đắng vậy thôi.
Vì vậy Đức Phật cũng nhấn mạnh rằng việc ăn chay không phải là điều kiện tiên quyết để giác ngộ, điều quan trọng hơn cả là ý thức hành động, tránh sát sinh và làm hại chúng sinh.
Tuy nhiên, truyền thống ăn chay trong Phật giáo có thể bắt nguồn từ nhiều yếu tố:
1,Muốn nuôi dưỡng lòng Từ bi vì có nhiều người quan niệm ăn chay giúp giảm thiểu sát sinh, hạn chế sự đau khổ cho muôn loài.
2,Làm thanh tịnh thân tâm vì có nhiều người quan niệm việc ăn uống thanh đạm giúp tâm hồn thanh tịnh, ít phiền não, thuận lợi cho việc tu tập.
3,Có yếu tố văn hóa: Ở một số vùng, việc ăn chay gắn liền với phong tục tập quán và tín ngưỡng địa phương.
4, Theo khoa học nghiên cứu chế độ ăn chay có thể mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.
Vì vậy với chuyện ăn chay nếu người nào thấy phù hợp thì nên ăn, nhưng không nên quan niệm rằng mình ăn chay thì diệt được Tham Sân Si hay thành tựu đạo pháp, cái đấy không hoàn toàn đúng. Bởi vì không chỉ dòng Phật giáo Nguyên thủy mà ngay cả ở những dòng Mật tông Tây tạng các quý thầy cũng không ăn chay nhưng vẫn tu tập thành tựu được như thường, không lẽ vì vậy mà mình lại cho rằng các vị thầy đó không có lòng Từ bi hay vẫn còn nhiều Tham Sân Si hay sao ?
Vì vậy điều quan trọng với những Phật tử khi lựa chọn ăn chay thì nên lựa chọn hình thức ăn chay nào phù hợp với điều kiện sức khỏe, hoàn cảnh và khả năng của bản thân.
Và nên lưu ý việc ăn chay cần đảm bảo đủ dinh dưỡng để duy trì sức khỏe, nên biết ăn chay không phải là hình thức phô trương đạo đức hay để ganh đua so sánh,bởi vì nếu vậy thì lại làm tăng bản ngã một cách vô tình , mà trong khi đó đạo Phật chủ trương tu là để thấy được vô thường, khổ ,vô ngã, nếu giữ được nhận thức như vậy thì việc ăn chay sẽ hoàn toàn là một việc nên làm và đem lại lợi ích cho mỗi người.
Tìm hiểu và biên soạn.
MINH THIÊN 0943666611
MẬT LIÊN ĐĂNG 0987702012
1
0
125
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
May 01, 2024
In ỨNG DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG
Trong dòng pháp Đông Mật, Khi hành giả hành trì mật chú ở trong Thiền mật ,ở đây ví dụ như thần chú Đại Phật Đỉnh Nhất Tự Kim Luân Bhrum, đặc biệt khi đạt đến giai đoạn tập trung cao độ vào chánh niệm, một số người có thể trải nghiệm các hiện tượng Ảo giác. Những Ảo giác này có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như:
- Thị giác: Nhìn thấy ánh sáng, hình ảnh, hoa văn, hoặc các vị thần, Bồ Tát.
- Thính giác: Nghe thấy tiếng chuông, tiếng nhạc, tiếng tụng kinh, hoặc giọng nói của các vị thần, Bồ Tát.
- Xúc giác: Cảm nhận sự rung động, tê bì, nóng lạnh, hoặc áp lực trên cơ thể.
- Vị giác: Nếm thấy vị ngọt, đắng, chua, cay, hoặc mặn.
- Khứu giác: Ngửi thấy mùi hương hoa, trầm hương, hoặc các mùi hương khác.
Chúng tôi có đưa vấn đề này tham vấn thầy của chúng tôi , tất nhiên có rất nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc của Ảo giác trong Thiền Mật của các trường phái , nên việc thầy giải thích về nguồn gốc của Ảo giác trong khi hành trì Thiền Mật trên quan điểm của Đại thừa cũng chỉ là một phần kiến thức của Phật giáo, và nó được diễn giải như sau :
Ảo giác xuất phát từ Ý Thức: Khi hành giả tập trung chánh niệm cao độ vào hành trì mật chú trong định , ý thức có thể trở nên nhạy cảm hơn với những kích thích nội tại, dẫn đến Ảo giác cho việc "nhìn thấy" hoặc "nghe thấy" những thứ không có thật trong thế giới bên ngoài.
Ảo giác phát xuất từ Matna Thức: Matna Thức là kho lưu trữ ký ức và trải nghiệm của ta. Khi hành giả tập trung chánh niệm vào mật chú, những ký ức và trải nghiệm này có thể được kích hoạt trồi lên bề mặt tâm thức và hiện ra dưới dạng Ảo giác.
Ảo giác xuất phát từ Tàng thức: Tàng thức là nơi lưu giữ trí tuệ giác ngộ. Ở những giai đoạn cao cấp của Thiền Mật, khi hành giả đạt đến trạng thái tâm thức thanh tịnh, họ được trải nghiệm những thông tin từ Tàng thức có thể được kích hoạt hiển thị dưới dạng những Ảo giác siêu thực hoặc phi thường mang đến những kiến thức và hiểu biết sâu sắc về bản thân và thế giới.
Nhưng Ảo giác trong Thiền Mật có thể có cả tác động tích cực và tiêu cực.
Về tác động tích cực thì nó khiến hành giả tăng cường sự tập trung, Ảo giác có thể giúp thu hút sự chú ý của hành giả, từ đó khiến họ tập trung hơn vào việc trì tụng mật chú, giúp người hành trì dễ dàng đạt được trạng thái Thiền Mật sâu hơn.
Thêm nữa Ảo giác có thể kích thích trí tưởng tượng và sự sáng tạo, giúp người hành Thiền Mật khám phá những khía cạnh mới mẻ của bản thân ,tìm ra những ý tưởng mới mẻ. Ở những giai đoạn cao cấp, Ảo giác có thể mang đến những hiểu biết sâu sắc về bản thân, thế giới và bản chất của thực tại.Ảo giác có thể mang đến cho hành giả những trải nghiệm thiêng liêng và truyền cảm hứng, giúp họ củng cố niềm tin và động lực tu tập.
Nhưng về mặt tác động tiêu cực thì nếu không được kiểm soát, Ảo giác có thể gây nhiễu loạn tâm trí, khiến hành giả mất tập vào việc hành trì Mật chú.
Ảo giác có thể khiến người hành Thiền Mật chấp thủ vào những trải nghiệm ảo, quên đi mục đích chính của việc Thiền Mật là đạt được giác ngộ.
Nếu không được nhận thức đúng đắn, Ảo giác có thể dẫn đến hoang tưởng, ảo tưởng và các vấn đề tâm lý khác, những Ảo giác đáng sợ còn có thể khiến hành giả lo lắng và sợ hãi, ảnh hưởng đến việc tu tập hoặc khiến người hành Thiền đánh mất nhận thức về thực tại
Vì vậy thầy có khuyên Ảo giác trong Thiền Mật là một hiện tượng bình thường và không có gì đáng lo ngại, Mục đích chính của việc Thiền Mật là đạt được giác ngộ, chứ không phải là để trải nghiệm Ảo giác.
Nếu hành giả gặp phải Ảo giác trong khi hành trì Thiền Mật , điều quan trọng là không nên chấp thủ vào chúng. Hãy coi chúng như những hiện tượng tâm lý bình thường và tiếp tục tập trung vào việc trì tụng Mật chú.
Và cần lưu ý rằng Ảo giác không phải là yếu tố quyết định trong việc hành trì Mật chú. Ảo giác chỉ là những hiện tượng phụ có thể xảy ra trong quá trình tu tập.
Hãy luôn ghi nhớ đối với hành giả của dòng tu Đông mật thì mục đích chính của việc hành trì mật chú là để phát triển lòng từ bi, trí tuệ và đạt được giác ngộ trên con đường tìm đến đạo mà thôi.
Minh Thiên 0943666611
Mật Liên Đăng 0987702012
1
0
41
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Apr 15, 2024
In ỨNG DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG
Người chồng trong câu chuyện này, là một vị doanh nhân gánh vác trách nhiệm là trưởng tộc của cả một dòng họ lớn, vợ chồng họ cần phải sớm có con, đặc biệt phải là con trai để nối dõi dòng tộc. Tuy nhiên nhiều năm sau khi kết hôn,niềm mong mỏi có con luôn cháy bỏng trong tim nhưng gia đình họ vẫn mãi chưa có tin vui.
Hành trình tìm kiếm
Mang theo hy vọng có được đứa con, họ đã tìm đến chúng tôi. Sau khi nhìn qua lá số tử vi xác định nguyên nhân vô sinh hiếm muộn, chúng tôi kết nối họ giao tiếp với ông bà tổ tiên. Tổ tiên đã mách bảo cần phải xử lý lại phần mộ của bà tổ cô trong dòng họ.
Phần việc tiếp theo, chúng tôi áp dụng đàn pháp mật tông chuyển hóa nghiệp bệnh cho họ,đồng thời hướng dẫn họ trì tụng Mật chú của dòng pháp Đông Mật, tu sửa thân tâm, làm thiện bố thí để kiến lập phước đức cho việc sinh con.
Kết quả mỹ mãn.
Và rồi, niềm vui vỡ òa khi đầu năm Giáp Thìn, người vợ mãn nguyệt khai hoa đắc hạ sinh một nam tử chào đời, tiếp nối hương hỏa dòng họ. Sau khi bé tròn một tháng tuổi, gia đình lại mời chúng tôi đến để tiến hành đàn lễ đầy tháng mà nhân gian gọi là cúng Mụ
Đàn pháp Cúng mụ mang những ý nghĩa gì ?
Trong văn hóa tâm linh Việt Nam lễ đầy tháng mang ý nghĩa cảm tạ các bà Mụ đã giúp đỡ cho bà mẹ và em bé trong suốt thai kỳ, đồng cảm tạ Thần Linh Gia Tiên Tổ cô hai họ.
Nhưng đối với Mật pháp lễ đầy tháng lại mang một ý nghĩa vượt bậc hơn nữa, thể hiện qua các khía cạnh sau:
Bày tỏ cảm niệm ân đức với mười phương chư phật, Đức ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, ứng hóa thân là Đức Chuẩn đề Vương Bồ Tát trong dòng pháp Đông Mật - vị bản tôn đã chuyển thức tái sinh cho một sinh linh có nhân duyên tốt nhất đến với gia đình.
Khi một đứa trẻ khi vừa ra đời cũng đã mang theo cả nghiệp lực và phước báu đến với cha mẹ, cho nên trong Lễ đầy tháng với sự gia hộ của các Ngài , em bé được “ rửa tội” thông qua đàn pháp Tức Tai và được “ ban phước” thông qua đàn Tăng Ích , và được nhận những năng lượng thanh cao qua âm thanh của chân ngôn thần chú giúp Bé luôn luôn được che chở, bảo vệ, tứ thời vô hạn họa tai ương ,bát tiết bình an thân mệnh , ủng hộ phù trì cho Bé lớn lên thông minh lanh lợi, học hành đỗ đạt và thành công trong sự nghiệp ,có một cuộc sống hạnh phúc trong tương lai.
Đàn lễ Cúng mụ này cũng là dịp để cha mẹ thông báo với Thần Linh, Tổ Tiên tên tuổi của Bé. Đặc biệt là bà Tổ Cô của dòng họ sẽ là người cai quản các nhân Đinh trong họ, giúp đỡ và hộ trì cho con cháu.
Đàn lễ không chỉ là nghi thức tâm linh, mà còn là lời cầu nguyện chân thành, thể hiện tình yêu thương vô bờ bến của cha mẹ dành cho con, cũng là dịp để gia đình và bà con láng giềng có dịp chia sẻ niềm vui, cùng nhau cầu mong những điều tốt đẹp cho Bé,thể hiện sự gắn kết với cộng đồng.
Thông qua phong tục Truyền thống và Tâm linh, nhờ năng lực gia trì chúc phúc của bản tôn và chư vị trong dòng pháp ,cùng với tình yêu thương của gia đình cha mẹ, Bé sẽ lớn lên khỏe mạnh, hạnh phúc ,trí tuệ thông minh ,học hành tinh tiến, hiếu kính phụ mẫu, tài đức song toàn ,công thành danh toại, giúp ích cho xã hội và Quốc gia, và đó chính là những việc mà chúng tôi vẫn hay làm vì mục đích phục vụ cho hạnh phúc của thế gian.
Minh Thiên 0943666611
Mật Liên Đăng 0987702012
1
0
67
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Apr 03, 2024
In ỨNG DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG
Trong cuộc sống này, chúng ta thường gặp phải những thách thức và khó khăn không ngờ. Dù giàu có hay nghèo khó, không ai có thể tránh khỏi những biến cố của số phận. Trong tình hình đó, lòng tin vào tâm linh và sự gắn bó với Phật pháp có thể là nguồn động viên, là ánh sáng dẫn đường cho chúng ta trong những lúc khó khăn nhất.
Có một vị doanh nhân, gia phong thuần hậu, tin vào tâm linh, bản thân họ chưa từng vi phạm pháp luật.
Ngày nọ gia đình họ dự định đầu tư vào một dự án lớn, Để đảm bảo quyết định đúng đắn ,cô vợ có đi mấy thầy Tử vi nhờ coi xem để quyết định công việc.
Nhưng ngoài vấn đề đầu tư vào dự án, các thầy lại phát hiện thêm một số điều thông qua lá số của hai vợ chồng ,đó là Phong thủy nhà ở có vấn đề bất ổn, chồng sang năm dễ gặp vận hạn quan sự, có khả năng bị cách ly với xã hội.
Theo như Lý số và Phật pháp , con người luôn bị ảnh hưởng bởi nghiệp lực chi phối theo từng giai đoạn cuộc đời được thể hiện qua lá số Tử vi, tất nhiên để giải được một lá số Tử vi chỉ có từng ấy cung sao, các cách cục liên hệ với nhau trên tinh bàn được chính xác, cần phải có trình độ luận giải xuất sắc của từng người thầy.
Lá số đã báo hiệu thế thì khi tới thời điểm đó người ta tự nhiên không làm chủ được thân tâm, thần trí mê muội , dẫn đến hành vi sai trái hoặc gặp hoàn cảnh bên ngoài hay người khác đem đến những chuyện bất ngờ khiến vi phạm pháp luật.
Thấy biết được vận hạn của người ta rồi thì điều quan trọng của nó chính là có phương tiện giải quyết được vận hạn của thân chủ, thấy mà để đấy thì chỉ khiến cho thân chủ thêm bối rối.
Thông qua một người quen chỉ dẫn, họ tìm đến chúng tôi, và chúng tôi lại có cơ hội chứng nghiệm Phật Pháp nhiệm mầu thế nào.
Phong thủy Dương trạch là thứ hữu hình có thể thấy để sửa được, vận mệnh và nghiệp báo là cái vô hình mà chúng ta không nhìn thấy được, nó giống như dòng điện tuy không thấy hình tướng nhưng tác dụng của nó thì vẫn hiện hữu dù chúng ta tin hay không.
Đức Phật nói nghiệp ác của con người trong quá khứ kiếp không phải hằng số cố định, nó có thể được chuyển hóa tùy theo con người có nhận thức được ra sai lầm của hành vi trong quá khứ kiếp hay không ?( ở đây là được thấy thông qua lá số tử vi) có biết sám hối cùng quyết tâm sửa đổi hay không chính là con đường để thay đổi số phận.
Chúng tôi đến giúp gia đình điều chỉnh phong thủy nhà ở theo nguyên lý Mật Tông tạo ra sự hài hòa cân bằng, và cử hành nghi thức đàn pháp Chuẩn đề Tức tai để kết nối với năng lực gia trì của đức Bản tôn hỗ trợ chuyển hóa vận hạn giúp vị doanh nhân ấy ,hướng dẫn vị ấy tự thân trì tụng Mật chú chuyển hóa thanh lọc nghiệp thức, cùng đưa vị ấy tham gia vào nhóm tu tập Mật chú để nương tựa lực tu của cộng đồng hỗ trợ.
Vị doanh nhân ấy tuy tin vào tâm linh, nhưng do tính chất công việc nên chưa có nhiều thời gian tìm hiểu sâu hơn và làm theo .
Vì vậy chúng tôi cũng dành nhiều thời gian thuyết trình hướng dẫn ,khuyến khích động viên vị ấy sửa đổi chuyển hóa từ nội tâm đến hành động, nếu có điều gì liên quan đến điều ác thì nên dừng và bỏ, những việc lành thì nên làm và phát triển cho mình và cộng đồng xã hội nhân sinh để chuyển hóa nghiệp lực, đầu tiên là vì hoàn cảnh phải làm, nhưng về sau xuất phát từ trái tim nuôi dưỡng lòng từ bi, gieo mầm phúc đức hướng đến giác ngộ.
Theo Phật pháp lý giải , do công đức phúc đức vị doanh nhân ấy đã TỰ LỰC kiến tạo thông qua tu tập Mật chú cùng tìm hiểu giáo lý ,sửa đổi thân tâm, bố thí làm thiện trong thời điểm này.
Cộng thêm THA LỰC hỗ trợ là đàn pháp Mật của chúng tôi kèm thêm sự cộng lực của nhóm tu hồi hướng.
Công đức phúc đức đó nó đủ mạnh để ngay lập tức biến thành HIỆN BÁO trong đời này, chứ không phải là HẬU BÁO của kiếp sau .
Nó đã tác động trực tiếp vào hoàn cảnh khiến vận hạn của năm đó theo lá số tử vi chỉ ra là vị doanh nhân ấy sẽ bị cách ly với xã hội một thời gian, mất tự do, bị thân tâm khổ đau thì đã chuyển sang trạng thái vị ấy tự nguyện cách ly tại gia để tu tập, sống đời tự do hạnh phúc, làm chủ thân tâm.
Kết quả là lá số tử vi chỉ ra vẫn đúng, nhân quả không hề sai chạy về hình tướng nhưng Phước đức do bản thân kiến tạo đã chuyển hóa trạng thái nghiệp quả.Ở đây trạng thái bị TÙ đã chuyển sang trạng thái tự TU , khác nhau dấu huyền.
Kết quả không chỉ là việc tránh được vận hạn như đã dự báo, mà còn là sự thay đổi đích thực trong tâm hồn và cuộc sống của vị doanh nhân.
Vì vậy chúng ta phải luôn ghi nhận Phước đức là chỗ dựa vững chắc nhất trong lúc hoạn nạn.
Tu tập, sửa đổi bản thân, tích cực làm việc thiện là cách để chuyển hóa nghiệp lực.
Niềm tin và sự nương tựa vào Phật pháp sẽ giúp con người vượt qua mọi khó khăn.
Minh Thiên 0943666611.
Mật Liên Đăng 0987702012.
0
0
81
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Mar 31, 2024
In ỨNG DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG
.
Từ ngàn đời nay, câu nói "lúc khởi sự nghiệp hay khi gặp hoạn nạn chỉ có phước đức của mình mới giúp được cho mình mà thôi" vẫn luôn vẹn nguyên giá trị. Phúc đức như một nguồn năng lượng vô hình, âm thầm bảo vệ và dẫn lối con người trên con đường đời. Vậy làm thế nào để kích hoạt được phước đức tiềm ẩn, từ đó chuyển hóa hoàn cảnh, khiến đời sống sinh hoạt của con người đắc thuận lợi, gặt hái thành công trong tài chính và sự nghiệp.
KỲ I : PHÚC ĐỨC CHUYỂN HÓA VẬN KHÍ XẤU CỦA NGÔI BIỆT THỰ THÀNH VƯỢNG KHÍ CÁT TƯỜNG.
Công việc của chúng tôi là người làm tâm linh, đương nhiên đã là nghề tâm linh thì chuyên về xem tử vi, phong thủy , làm các khóa lễ như nhập trấn trạch nhà mới, động thổ, khai trương , lễ tạ đầu năm cuối năm, kích hoạt tài chính cho các công ty và cá nhân, và không thể thiếu việc chuyển hóa vận hạn cùng những hoàn cảnh xấu thành tốt giúp mọi người.
Là một người làm công việc tâm linh, chúng tôi chứng kiến vô số câu chuyện về sức mạnh phi thường của phước đức. Một trong những ví dụ điển hình là câu chuyện về ngôi biệt thự dưới đây.
Năm đó chúng tôi có đi xem nhà cho một thân chủ, ngôi biệt thự này thì rất đẹp, địa thế thì không bị phạm đến đình chùa miếu mạo, bản thân ngôi biệt thự thì không dính dáng gì đến những chuyện bùa chú trấn yểm, nhưng chỉ có một vấn đề là những gia chủ trước cứ đến ở một thời gian thì vợ chồng họ chia tay nhau, đương nhiên là phong thủy nhà đó có một số vấn đề.
Khi biết được chuyện này, thân chủ của tôi cũng băn khoăn.
Chúng tôi bảo gia đình cứ yên tâm ở đi, phong thủy vận khí nhà này nếu chỉ có mỗi vấn đề đó thì không ngại, gia đình cứ tin chắc vào kinh nghiệm xử lý nơi chúng tôi cùng phúc đức của gia đình sẽ chuyển hóa được nó.
Khi thân chủ dọn đến ở, chúng tôi cũng tác pháp xử lý đầy đủ từ việc nhập trạch cho đến trấn trạch,tôn hương, thiết lập phong thủy bằng mật chú và những đàn pháp mật tông.
https://www.matviet.org/forum/tho-cung-le-bai-dan-phap/nhap-trach-nha-moi-ky-3-huong-dan-cu-the
Nhưng cái quan trọng nhất, đó chính là chúng tôi hướng dẫn cả nhà tu tập mật chú Chuẩn đề, làm nhiều thiện sự bố thí cúng dường tích lũy công đức phúc đức,và hồi hướng công đức đó cho thần linh, tổ tiên và các chân linh cư ngụ trong đất.
Kết quả là sức mạnh của công đức phước đức do gia đình kết tập theo năm tháng đã tạo nên một phép màu. Nó không chỉ hóa giải được cái dớp xấu của ngôi biệt thự và biến ngôi biệt thự thành nơi vượng khí cát tường, mà gia đình này còn gặt hái nhiều thành công trong cuộc sống. Họ còn mua thêm được ba căn biệt thự liền kề, vợ chồng sống hạnh phúc viên mãn và chuẩn bị chào đón thêm thành viên mới.
Đức Phật đã dạy Chánh báo một người thế nào thì Y báo họ sẽ thế đó, cho nên một người , một gia đình khi phúc khí vận mệnh tốt, lại có tu tập làm thiện ,quan tâm đến phần chúng sinh vô hình xung quanh thì khi họ đến đâu sinh sống, hoàn cảnh phong thủy ở đó sẽ tự nhiên thay đổi theo đúng phúc phần của họ, bằng cả tự nhiên lẫn tác động của con người.
Thông qua câu chuyện trên , chúng ta cũng nhận thấy Thầy tâm linh truyền thống thì tập trung vào ngoại cảnh, lựa chọn phong thủy, tìm kiếm cuộc đất tốt đẹp, sử dụng âm dương ngũ hành để tác động đến gia chủ với hy vọng rằng thông qua việc thay đổi môi trường hoàn cảnh bên ngoài sẽ dẫn dắt gia chủ đến cuộc sống tốt đẹp như ý nguyện.
Còn người Thầy tâm linh hiểu thấu quy luật của đạo thì hướng đến nội tâm bằng cách kích hoạt phúc đức của gia chủ, khai mở nguồn năng lượng tích cực bên trong, từ đó chuyển hóa hoàn cảnh bên ngoài đúng như lời Phật dạy: "Chánh báo là thân tâm phúc họa con người bên trong như thế nào thì Y báo là hoàn cảnh bên ngoài sẽ theo như thế", phúc đức tốt đẹp sẽ tự thu hút những điều cát tường đến với gia chủ.
Vậy lựa chọn nào cho bạn? Câu hỏi này nằm ở chính bản thân bạn. Bạn mong muốn thay đổi cuộc sống từ bên ngoài hay từ bên trong? Bạn tin vào sức mạnh của phong thủy hay phúc đức?
Hãy nhớ rằng, phúc đức là gốc rễ, là nền tảng cho mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống được vận hành.
MINH THIÊN 0943666611
MẬT LIÊN ĐĂNG 0987702012
(Còn tiếp )
1
0
44
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Feb 25, 2024
In NHÓM KÍCH HOẠT TÀI BẢO
Đã có bao giờ các bạn từng chứng kiến có những người bên cạnh bạn cái gì cũng giỏi , những sự nghiệp của họ vẫn lận đận gian truân khốn khó?
Họ thiếu một thứ duy nhất : vận may.
KHÓ KHĂN CỦA NGƯỜI MUỐN TU
Chúng tôi có một người đệ tử đến xin tu học Mật pháp, sau một thời gian thì bạn ấy đến thưa chuyện :
Thưa thầy , những cái thầy đưa nó cao siêu quá, con cũng mong muốn tìm cầu đến con đường giác ngộ , nhưng qua một thời gian chuyên cần tu tập hành trì, con nhận thấy kinh điển nói là một chuyện, còn trên thực tế để đạt được trí tuệ và phước báu công đức như kinh nói sẽ mất rất nhiều năm tháng miên mật hành trì ,mà con chợt nhận ra trong khoảng thời gian đó không có ai bụng đói mà nghĩ được đến những lẽ huyền diệu của trời đất.
Con nghĩ không chỉ con mà chắc chắn có rất nhiều người khác có tâm tu cũng rơi vào hoàn cảnh như con hiện nay vẫn còn có một gia đình phải lo rất nhiều thứ.
Thầy nghĩ xem có loại thần chú hay phương tiện tâm linh gì mà có thể giúp cho con có được công ăn việc làm hoặc nguồn tài chính ổn định để lo cho gia đình không ? chỉ khi con tạm được an đời thì con mới có thể an tâm nghĩ đến chuyện đẹp đạo được.
Thực ra đây là một vấn đề xảy ra với rất nhiều người cư sĩ thời nay muốn yên thân tu đạo mà lại gặp phải cái chướng ngại này, chẳng qua họ vì bị dính mắc với câu an bần lạc đạo của vài vị thiền sư đã dứt gánh bỏ lại gia đình phía sau nên họ không chia sẻ chuyện của họ với mọi người thôi.
Ở Việt nam phải người cư sĩ nào có phước mới có thể vừa lo được gánh nặng gia đình mà vẫn tu hành được, còn ở Nhật bản các vị tu sĩ họ vẫn có thể có vợ con gia đình nhưng vẫn sống được đời tu sĩ.
PHƯƠNG TIỆN CHUYỂN HÓA
Chúng tôi bảo cậu đệ tử :
Ừ thì lúc đầu chúng tôi cũng nghĩ con đủ đại hùng đại lực đi theo đường tìm cầu giác ngộ mà không bị chuyện gánh nặng gia đình đeo mang, nay con thấy được vấn đề của mình thì vẫn có cách giúp cho con được.
Chúng tôi có một cái nhóm tâm linh gọi là NHÓM KÍCH HOẠT TÀI CHÍNH VÀ SỰ NGHIỆP ,nó hoạt động theo đúng quy luật vận hành của tâm linh và vũ trụ, nhưng để gia nhập được vào nhóm này thì cũng phải có một số tiêu chuẩn nhất định, nếu con không có những tiêu chuẩn đó thì có vào cũng không giải quyết được gì.
Thế là cậu đệ tử nói :
Vậy con phải cần những tiêu chuẩn gì?
Chúng tôi bảo : đầu tiên độ tuổi của con phải đạt tiêu chuẩn từ 30 đến 50 tuổi, trẻ quá hoặc lớn tuổi quá đều khó thành tựu pháp này , cũng may con vừa tròn 30 tuổi , đáp ứng một tiêu chuẩn đầu tiên ,tiếp theo chúng tôi phải có ngày giờ tháng năm sinh của con để lập lá số tử vi của con xem trong đó có nhân tố tiềm ẩn tương thích với việc kích hoạt vận may để ra được nguồn tài chính của dòng pháp này không, còn chuyện con tu ít hay tu nhiều ,biết đủ các kỹ năng kiến thức cuộc sống hay không nó cũng chẳng liên quan, kể cả người trước đó không hề biết đến mật chú bao giờ mà đáp ứng tiêu chuẩn thì vẫn kích hoạt ra tài chính như thường. Nhưng chuyện kích hoạt tài chính này chỉ là chuyện của người còn nợ trần đeo mang , còn nếu như lấy nó làm tiêu chí của đường tu thì lại phí cả một kiếp người khó được.
Rất là may mắn, lá số của cậu này nó lại tương ứng với tiêu chuẩn của việc kích hoạt, vậy là cậu được tiếp nhận vào nhóm sau khi đã được chúng tôi đưa cậu vào đàn pháp để tiến hành lễ kích hoạt ,và trong lễ này cậu được tiếp nhận một câu thần chú tài bảo, câu chú này chính là phương tiện để kích hoạt vận may của người đệ tử, và chúng ta nên biết mỗi một câu thần chú đều có một vị thần phật nói ra câu chú đó, vị này được gọi là đức Bản tôn.
Sau khi được kích hoạt tiếp thông với năng lực gia trì của đức Bản tôn của câu chú tài bảo, công việc bây giờ của cậu đệ tử lại rất đơn giản, cậu chỉ cần mỗi ngày bất kể sáng trưa chiều tối, lúc nào thuận tiện thì trì niệm câu chú tài bảo đó 108 lần, hết có 5 phút, mục đích là để tiếp thông với lực gia trì của đức Bản tôn để kích hoạt vận may tự thân, sau đó hồi hướng công đức lại cho nhóm KÍCH HOẠT TÀI CHÍNH VÀ SỰ NGHIỆP, nhờ sự hồi hướng này nó biến lực tu của từng người riêng rẽ trở thành một khối cộng lực , khối cộng lực đó lại tác động ngược trở lại từng người.
Và cứ mỗi nửa tháng, tất cả mọi người trong nhóm đều phải tham dự pháp đàn kích hoạt và duy trì nguồn năng lực gia trì của đức Bản tôn, vị thần chủ của câu chú trực tuyến qua zoom.
Sau một thời gian hành trì như vậy,nhanh thì một hai tháng, chậm thì ba bốn tháng, kỳ tích với thành viên trong nhóm bắt đầu xuất hiện, họ tự nhiên gặp được những cơ hội làm ăn, những công việc phù hợp với bản thân, nhưng dĩ nhiên những cái may mắn đến nó chỉ tương thích với lá số tử vi của các thành viên, không ai giống ai.
Có nghĩa là thành viên nào có lá số bình dân thì chỉ được hưởng cái may mắn của bình dân, thành viên nào có lá số giàu có thì tự nhiên vận hội may mắn đến đúng như phước báo của người giàu có, chánh báo thế nào thì y báo thế đó, không có chuyện một người số thường thường bậc trung lại trở thành tỉ phú được, cái đó trái với luật nhân quả.
VẬN MAY ĐƯỢC KÍCH HOẠT
Bẵng đi ba tháng sau, cậu đệ tử lại đến thăm tôi, mặt mũi rạng rỡ cầm theo một cái hộp trong đó có 7, 8 hộp tinh dầu thảo mộc.
Cậu ấy kể sau một thời gian tham gia nhóm KÍCH HOẠT TÀI CHÍNH VÀ SỰ NGHIỆP , thì một ngày đẹp trời vận may bắt đầu xuất hiện, cậu ấy kết nối cộng tác được với công ty Betanergy và trở thành đại diện miền Bắc chuyên phân phối tinh dầu trị liệu doTERRA có xuất xứ từ Mỹ, tập hợp xung quanh cậu có đến mấy chục thành viên chịu trách nhiệm phân phối sản phẩm.
Do tính chất độc lạ, lại phù hợp với xu hướng thời thượng , nên chỉ một thời gian sau sản phẩm đã ảnh hưởng rất nhiều đến thị hiếu tiêu dùng tinh tế của những người có tính cách hướng thượng mang tâm hồn rộng mở,khoáng đạt , đặc biệt nó còn được những hành giả Mật pháp đón nhận bởi hương vị đặc trưng của nó giúp cho tinh thần được sảng khoái hỷ lạc ,xứng đáng là một vật phẩm thanh tịnh, trang nghiêm và viên mãn không thể thiếu trong các đàn pháp Mandala cúng dường chư tôn cầu thành tựu phúc báo thế gian.
Đặc biệt theo Mật tông định nghĩa hương vị mấy loại tinh dầu này nó mang sắc thái nâng đỡ che chở của Địa đại, liên kết ngưng tụ của Thủy đại, sự ấm áp nhiệt tình của Hỏa đại, sự vận hành lưu chuyển của Phong đại, sự bao la rộng mở của Không đại, tất cả nó góp thêm một phần phương tiện hỗ trợ cho người tu sớm trực ngộ phát khởi huệ trí thâm sâu.
CON ĐƯỜNG PHÍA TRƯỚC
Sau khi đã nói ra một lô tính năng công dụng của tinh dầu trị liệu doTERA thì cậu kính gửi lại chúng tôi , xin được dâng lên đức Bản tôn thần chú tài bảo ,nguyện ngài chứng minh và ủng hộ cho cậu và mọi người trong nhóm đều luôn thành đạt, có điều kiện tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động và cúng dường Tam bảo, tạo thêm nhiều phước đức cho mình và chúng sinh.
Chúng tôi rất hoan hỷ với thành công trong sự nghiệp của cậu, tuy nhiên vẫn phải khai thị cho đệ tử rằng việc tạo ra tài chính để giúp đỡ gia đình và cộng đồng là việc chính đáng và cần thiết ,nhưng đừng quên thân người khó được, nay mình đã biết đến đạo thì khi có tài chính rồi lại phải cân đối thời gian để làm sao dấu đạo được tương tục, và hãy nhớ vật phẩm cúng dường Tam bảo tốt nhất chính là ngũ phần pháp thân Giới hương, Định hương, Tuệ hương ,Giải thoát, Giải thoát Tri kiến hương, đó mới là cúng dường cao quý nhất trong đạo nếu là một người tu chân chính.
Minh Thiên.
Sdt 0943666611.
1
0
93
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Feb 16, 2024
In NHÓM KÍCH HOẠT TÀI BẢO
Trong giấc mộng một đêm mùa thu 2023, tôi được gặp lại vị bồ tát râu dài tóc bạc, mặc bộ quần áo trắng ngồi dưới gốc bồ đề năm xưa.
https://www.matviet.org/forum/ung-dung-trong-doi-song/hanh-trinh-than-thuc-di-vao-am-gioi-buoc-ngoat-cuoc-doi-den-tam-linh-va-dao(https://www.matviet.org/forum/ung-dung-trong-doi-song/hanh-trinh-than-thuc-di-vao-am-gioi-buoc-ngoat-cuoc-doi-den-tam-linh-va-dao)
Vị ấy xuất hiện trong ánh hào quang sáng rực và cất giọng bảo chúng tôi bằng một ngữ âm trầm vang rền cả không gian :
Này Minh Thiên, Mật Liên Đăng ,đã tới lúc các con nên đem những kiến thức hiểu biết đã được thực hành và trải nghiệm về Mật chú và Tâm linh phổ cập ra cộng đồng những người hữu duyên , nhưng trước khi chính thức làm điều đó, các con hãy đi đến Thái lan, ở đó các con sẽ được tiếp nhận nguồn năng lực gia trì từ nơi đức ngài Quán âm, khi trở về với nguồn năng lực gia trì này, các con sẽ thành tựu được những dự định trăn trở suốt những năm tháng qua.
Nghe vậy tôi định hỏi xem vậy thì chúng con sẽ đi tới những đâu ở Thái lan, và sẽ gặp những ai ?
Như đọc được tâm ý tôi, vị bồ tát nói : con không cần phải nắm rõ chi tiết, con cứ đến đó theo lịch trình bên con, nhưng mọi sự kiện tâm linh sẽ tự nhiên xuất hiện và việc của con chỉ là tiếp nhận sự kiện đó thôi, thông qua đó con sẽ thấy có sự sắp xếp an bài của chư vị.
Đất nước Thái lan là đất nước đi theo Phật giáo Nguyên thủy , mà thờ đức Quán âm lại là của Phật giáo Đại thừa phát triển, nên nghe bảo phải đến đó mà không phải là Trung quốc hay Ấn độ thì quả thật chúng tôi cũng hơi ngạc nhiên ,nhưng chúng tôi tin vào chư vị và chúng tôi đặt vé để đi đến Thái lan vào đúng ngày 30 tết của Việt nam .
Ở Thái lan, cộng đồng người Hoa rất lớn mạnh đông đảo, ngày tết của họ trùng với ngày tết của Việt nam, vì vậy sau khi lấy phòng khách sạn xong thì đoàn chúng tôi quyết định sẽ đi đến China town ở Bangkok để tham dự lễ hội ẩm thực đêm cùng đón giao thừa tại đó.
Đường phố Chinatown Bangkok, tên tiếng Thái là Yaowarat, là khu phố người Hoa lớn nhất châu Á ở Thái Lan , nằm ở địa phận quận Samphanthawong, vùng trung tâm của thủ đô Bangkok. Người Trung Quốc tới vùng này vào khoảng những năm 1700 nhằm mở rộng “con đường tơ lụa” giao thương với người Siam (người Thái ngày nay), nhiều người đã ở lại sinh sống và làm ăn để tạo nên Chinatown nổi tiếng và lớn nhất ở châu Á như ngày nay.
Khi về Việt nam, có thời gian xem lại trên Google thì chúng tôi mới biết để bắt đầu khám phá phố người Hoa thì mọi người sẽ phải đi qua cổng chào của con phố Yaowarat, rồi khi đi sâu vào trong, chúng ta sẽ thấy ngay hình ảnh của những ngôi nhà cổ, những cửa hàng tạp hóa, nhà hàng đặc sản ẩm thực Trung Hoa như hoành thánh, bạch quả, tàu hũ, bánh bao, xá xíu, súp vây cá mập và quán trà mang đậm phong cách Trung Hoa luôn luôn tấp nập và náo nhiệt, có vô vàn những món ăn ngon tuyệt dọc theo khu phố ,các sạp hàng hoa quả nhiệt đới vô cùng tươi ngon .
Ở đây rất phổ biến những loại thực phẩm như hải sản tươi sống như hến, sò, tôm, cua, cá,và món ănđặc biệt chính là sầu riêng và món bánh mì mềm Yaowarat.
Thời điểm nhộn nhịp đông vui nhất trong năm của Chinatown là vào dịp Tết Nguyên Đán và dịp Tết Trung Thu.
Vì ngôn ngữ bất đồng không trao đổi được rõ ràng , nên người lái Taxi thay vì phải đưa chúng tôi đến đầu phố có cổng chào của Chinatown, họ lại thả chúng tôi ở nơi phải đi cắt ngang qua con đường có đền thờ ngài Quan thánh đế quân Quan công để đi vào đoạn gần cuối phố chính.
Thời điểm này Chinatown tràn ngập sắc màu đỏ rực dịp Tết cổ truyền Á Đông, càng về đêm càng đặc biệt lung linh và náo nhiệt. Tiếng xe, tiếng người, tiếng nhạc hòa nhịp rộn rã suốt dọc cả con phố trải dài.
Và thế là chúng tôi từ từ đi bộ ngắm nghía dòng người nô nức chen chúc nhau trong khu phố chợ đêm nhộn nhịp ,rồi ghé vào vài quán ăn đông nghịt để thưởng thức đồ ăn cùng chụp ảnh lưu niệm, hình ảnh này làm tôi liên tưởng đến phố đêm Bùi Viện ở Sài gòn và Tạ Hiện ở Hà nội, nhưng tất nhiên Chinatown rộng lớn đông đúc và hoành tráng lộng lẫy hơn rất nhiều.
Nhưng giữa dòng người nam thanh nữ tú ăn mặc sang trọng đi lại chen kín con phố, thì lại có thêm những người vô gia cư ăn mặc rách rưới bẩn thỉu, mặt mũi lọ lem đói khổ nửa nằm nửa ngồi dựa vào bờ tường những tiệm đồ ăn, cửa hàng trang sức mỹ nghệ , nó phản chiếu hai mặt của cuộc sống.
Hình ảnh đó làm tôi liên tưởng đến vấn đề nghiệp báo, hẳn là những người vô gia cư đó cũng không thể hiểu nổi lý do tại sao cuộc đời mình lại có thể thê thảm đến vậy, nhưng phật pháp có thể giải thích tường tận, tất cả đều do nghiệp báo, đời xưa bạn đã từng hành động gieo nhân gì thì đời này bạn nhận lại quả báo đó, cho nên một người đời này được hưởng thiện báo thì dù họ có sinh ra ở nơi nghèo khổ nhất như châu Phi, họ vẫn trở thành tỷ phú, còn người đời này phải nhận ác báo, thì dù họ có sinh ra ở Mỹ quốc, họ vẫn phải chịu cảnh đói khổ lê lết như thường.
Theo như Phật pháp nói thì nghiệp người không phải hằng số cố định, nó có thể bị biến đổi nếu như biết đến đường tu và làm thiện tránh ác , cho nên nếu một người khi sinh ra mà biết rõ vận mệnh đời mình thông qua lá số tử vi thì người đó vẫn có cơ hội nương vào Phật pháp chuyển hóa được nghiệp của mình.
Đến tầm 22h30 đêm, mấy thành viên trong đoàn đi nhiều mệt quá nên bỏ cuộc đi về khách sạn, chỉ còn ba người chúng tôi vẫn quyết định đi bộ tiếp trong khu phố và thử tìm một quán caphe nào đó để ngồi chờ giao thừa đến.
Nhưng đi mãi đi mãi mà quán nào cũng đông nghịt không thể kiếm được chỗ ngồi, và cuối cùng thì chúng tôi thấy trước mặt là một đám đông chen kín đang giơ điện thoại quay cái gì đó,tiếng chiêng trống thanh la não bạt thì thùng dồn dập, khi đến gần thì mới biết là đó một đám rước linh vật Rồng đón giao thừa, chúng tôi cũng bị đoàn người xô đẩy cuối cùng đi lọt vào trong sân của một ngôi chùa.
Khi đám rước Rồng tan thì chúng tôi mới quay lại nhìn vào bên trong ngôi chùa , tên của nó gọi là chùa Doanh Nghiêm và nó mang dáng dấp kiến trúc Trung Hoa cột dọc kèo ngang sơn đỏ ,mái chùa vàng xanh cong vút, và hiển hiện vào mắt chúng tôi xuyên qua hàng nến cháy đỏ bập bùng ở nơi tiền điện là pho tượng đức ngài Quán thế âm bồ tát dát vàng ngự giữa gian điện thờ theo phong cách của phật giáo Đại thừa.
Với dòng tu mật pháp của chúng tôi,Đức ngài Quán thế âm bồ tát là chủ tôn của Liên Hoa bộ,một trong ba bộ Phật, Liên hoa, Kim cương của Thai tạng giới Đông mật, sự linh ứng của Đức ngài đều được tất cả các hàng đệ tử Đại thừa phật giáo biết đến khi thành tâm nguyện cầu và tu pháp của ngài, và giờ thì chúng tôi đã biết Thánh tượng Đức ngài Quán âm ngự ở chùa Doanh Nghiêm tại khu Chinatown trong giờ phút đón giao thừa này chính là nguyên nhân tiếp dẫn chúng tôi bay đến Thái lan .
Có thể nói đối với tâm thức của chúng tôi, ngôi chùa lúc này cũng mang ý nghĩa tựa như Thánh địa của người hành hương đang quay trở về nguồn, chỉ có thể suy luận một điều hẳn là trong quá khứ kiếp chúng tôi đã từng là người có nhân duyên với Đức ngài tại Thánh địa này mới có thể giải thích được tại sao chúng tôi lại đến đây mà không phải nơi khác.
Khi ngước mắt trông thấy Thánh tượng Đức Ngài, tim tôi rung lên chấn động liên hồi , cảm giác như Kim thân Thánh tượng đang bừng sáng lung linh trong ánh đèn nến chiếu xạ ngàn tia sáng vàng bao phủ lấy thân tôi , một dòng suối từ bi thanh lương trong mát vô hình đang từ Kim thân Thánh tượng của ngài tuôn tràn ra khắp không gian ngôi đền , mặc dù không gian xung quanh mọi người có vẻ như rất náo nhiệt ồn ào, nhưng tôi vẫn gần như không như nghe thấy gì hết, tâm trí tôi đứng lặng và trái tim cảm nhận tình yêu nơi Đức ngài, từ từ hai giọt lệ từ khóe mắt của tôi đã lăn trên má vì quá xúc động trong giây phút đó, và chúng tôi quyết định ngồi ở hàng ghế bên ngoài đại điện chờ đám đông tản bớt thì sẽ vào lễ Đức ngài cùng khấn nguyện.
Và thời khắc đó, giao thừa đã điểm, không khí se lạnh giao hòa, trời đất chuyển mình tiếp nhận một tân niên Giáp Thìn, một khởi đầu cửu tử Hỏa vận 20 năm,Thiên Địa vũ trụ càn khôn như đang hòa quyện , tự nhiên xuất hiện một lực tác động vô hình đẩy tôi lúc đó tâm trí đang như say như tỉnh từ từ đi đến gần, gần hơn nữa đến hàng rào cột kim loại giằng dây đỏ chắn giữa đại điện có Kim thân Đức ngài ngự và tôi .
Lực vô hình đó giống như có ai đó đang giữ hai bên vai ấn tôi quỳ xuống ngũ thể đầu địa kính lễ Đức ngài,rồi tôi ngồi xuống xếp bằng nhắm mắt lại, từ trong tâm thức tôi từ từ xuất hiện đức Tỳ lô giá na ngự giữa bát diệp liên đài , xung quanh là bốn vị phật , bốn vị bồ tát trong đại Mandala Thai tạng giới trong không trung bao phủ toàn bộ đại điện chùa Doanh Nghiêm, mưa hoa Mandala bay bay từng cánh từng cánh xanh đỏ trắng vàng nhẹ rơi , dừng lại trên vai Kim thân Thánh tượng,phát ra hào quang rực rỡ.
Hòa cùng mưa hoa,từ trong tâm thức phát xuất âm thanh thần chú Lục tự -Chuẩn đề OM MANI PADME HUM- OM CHALE CHULE CHUNDE SVAHA BHRUM trầm hùng ,ngân dài nối tiếp nhau như dòng suối liên tục phổ khắp không gian đại điện, phối hợp cùng âm thanh xuất hiện kính đàn Chuẩn đề trắng bạc phía sau Kim thân đức ngài , chín chữ chủng tử Chuẩn đề phóng ra đủ các màu sắc xoay tròn rực rỡ chạy xung quanh cúng dường lên Đức ngài và mười phương chư Phật, hộ pháp chư tôn.
Tiếp theo từ nơi đỉnh đầu , giữa cổ họng và ngực của Đức Quán âm, xuất hiện ba chủng tử OM AH HUM phóng ra ba luồng ánh sáng trắng đỏ xanh chiếu diệu lần lượt gia trì vào đỉnh đầu, cổ họng, trái tim chúng tôi , thật là kỳ diệu ,trong trạng thái như tỉnh như mê ,mọi thứ không còn là sự quán tưởng nữa khi mà ba luồng ánh sáng đó lúc chiếu vào thân tôi lại biến thành một luồng năng lượng thật sự , sự hỷ lạc dâng trào nhè nhẹ chạy khắp toàn thân rồi tụ lại trên đỉnh và dần dần hòa tan vào không gian , thân tôi lúc đó cảm giác như mất trọng lượng nhẹ nhàng thông suốt trong hào quang ánh sáng vàng trắng tỏa chiếu từ Kim thân thánh tượng ,tâm Trí đứng lặng trong suốt không một gợn phiền não bụi trần, mặc dù lúc đó mắt tôi đã nhắm chặt , nhưng con mắt tâm lại mở ra thấy rõ luồng hào quang đó .
Và trong thời khắc huy hoàng này tâm tôi nghe rõ trong đầu âm thanh từ bi của đức Ngài thầm thì phổ ra bằng Việt ngữ :
Này các con Minh Thiên, Mật Liên Đăng , các con vừa nhận được nguồn năng lực gia trì bảo hộ từ nơi ta và chư tôn, chúng sinh hiện nay phần lớn đang sống trong thế giới mà vật chất quyết định và chi phối tinh thần, để những người hữu duyên có thể đồng hành với con đường của các con, họ cần phải có được một cuộc sống tốt đẹp ổn định, khi các con đã nhận được nguồn năng lực gia trì này nơi chúng ta và trở về quê hương, thì bây giờ những tập đoàn, công ty, doanh nghiệp, tổ chức hội đoàn và các cá nhân nào có nhân duyên đồng hành cùng các con, trước tiên họ sẽ nhận được sự thịnh vượng ,bình an hạnh phúc ,đi qua mọi khó khăn trở ngại đến được thành công, từ đó họ sẽ đồng tâm nhất trí đi cùng các con suốt cuộc hành trình này, việc của các con ở nơi đây đã xong, sẽ có một ngày chúng ta lại gặp các con trong một hoàn cảnh khác.
Tiếng ngài vừa dứt, lực gia trì đã dừng lại, ánh quang vụt tắt, tôi mở mắt ra quỳ lên chắp tay ngũ thể đầu địa lễ tạ Đức ngài và chư vị ,mọi thứ lại trở lại bình thường, bên cạnh tôi là một hàng người đang quỳ chờ được cầm ống thẻ tre để xóc xin quẻ bói đầu xuân,nếu họ không cất tiếng nói thì tôi cứ ngỡ mình đang ở quê hương bản quán chứ không phải là đất Thái lan nữa.
Rời khỏi ngôi đền chúng tôi ra đến đường lớn,phía trước là cổng chào của khu Chinatown , đối diện đền thờ Quán âm là một ngôi chùa khổng lồ mang kiến trúc của Phật giáo Nguyên thủy có một ngọn tháp nhọn hoắt cao vút trời xanh, tên của nó là Wai Traimit, nơi đây có bức tượng khổng lồ bằng vàng nặng gần 5.5 tấn.
Khi nhìn thấy cổng chào trong hướng dẫn tham quan khu chinatown Bangkok về sau này trên mạng thì chúng tôi mới ồ lên ngạc nhiên vì tại sao người lái xe taxi lại không đưa mình đến cổng này trước theo đúng trình tự tham quan khu Chinatown mà lại đưa ngược lại, nhưng tôi hiểu tất cả nó đều là sự sắp xếp của siêu hình để cuối cùng chúng tôi được diện kiến Đức ngài,nhận lực gia trì đúng thời điểm,đúng nơi chốn,đúng mục đích và có thêm phương tiện đồng hành với những ai hữu duyên.
Minh Thiên.
0
0
97
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Jan 26, 2024
In ỨNG DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG
Đức Phật dạy “Chiến thắng vạn quân không bằng chiến thắng nội tâm chính mình”, đó là một giáo huấn căn bản cho người tu hành trên con đường đi đến giác ngộ.
Ở đây chúng ta chỉ bàn đến nhẹ nhàng hơn, đó chính là kiểm soát được cảm xúc tiêu cực của mình, đó cũng đã là một kỳ công đối với tất cả người có tu hay không tu tập gì.
Đầu tiên chúng ta phải hiểu cảm xúc là gì đã ?
Cảm xúc là trạng thái tâm lý của con người được biểu hiện qua cảm giác, suy nghĩ và hành vi. Có rất nhiều loại cảm xúc, từ cảm xúc tích cực như niềm vui, hạnh phúc, yêu thương, đến cảm xúc tiêu cực như buồn bã, đau khổ, tức giận, sợ hãi, lo lắng, căng thẳng.vv..nó là những tâm sở theo định nghĩa của duy thức.
Những người không kiểm soát được cảm xúc tiêu cực khi đối diện hoàn cảnh khó khăn, thường dẫn đến có những hành động sai, hành động sai dẫn đến cuộc sống đi xuống ,sự nghiệp đổ vỡ.
Nếu một người có thể giữ tâm bình lặng khi đối mặt với một tình huống khó khăn và không bị ảnh hưởng bởi những cảm xúc tiêu cực, thì người ấy sẽ có thể phân tích vấn đề tốt hơn và có khi tìm ra được giải pháp ưu việt nhất.
Bí quyết của thành công trong đời sống và sự nghiệp chính là kiểm soát được cảm xúc tiêu cực, chính vì vậy, kỹ năng kiểm soát cảm xúc là rất quan trọng để mỗi người có thể bình tĩnh nhận biết, kiểm soát thân tâm trước khi để cảm xúc tiêu cực chi phối hoàn toàn.
Vậy nên khi đối diện hoàn cảnh phát sinh cảm xúc tiêu cực , các vị đạo sư Phật giáo vẫn dạy nên hít thở thật sâu ,chánh niệm tỉnh giác, tập trung quan sát cảm xúc của mình, và cần một khoảng nghỉ để cảm xúc tự lắng xuống, vì bản chất của nó là vô thường ,nó đến rồi nó lại đi chứ nó không theo ý mình, khi cảm xúc đã lắng xuống, bằng cái tâm bình lặng trong sáng, chúng ta sẽ nhìn nhận sự việc một cách rõ ràng khách quan hơn , từ đó xuất hiện ra nhiều giải pháp xử lý sự việc.
Những người có hành thiền và tu mật chú miên mật, tâm thức họ ít bị dao động trước hoàn cảnh, bởi vì tu tập tạo ra một loại định lực khiến cảm xúc khó sinh khởi ,từ đó xuất hiện trí tuệ nhìn nhận được hoàn cảnh sự việc đúng như nó là.
Các chủ doanh nghiệp là những người tạo ra rất nhiều công ăn việc làm cho chúng sinh,thông qua đó tạo ra của cải vật chất cho xã hội, họ cần có cái đầu tỉnh giác, một tâm bình lặng để điều hành doanh nghiệp, nhất là trong những thời điểm khó khăn như hiện nay.
Nhiều năm về trước,tôi nhớ có một lần ra làm công tác tâm linh cho một doanh nghiệp vận tải ở Uông bí, trong thời gian chưa làm thì có ngồi ở hàng nước đầu công ty, nghe bà hàng nước bảo tôi lạy ông trời hãy giúp đỡ cho chú giám đốc luôn mạnh khỏe bình an ,chú ấy được tốt thì hàng trăm gia đình công nhân viên chức có được cuộc sống bình an viên mãn bởi vì chú ấy luôn yêu thương quan tâm giúp đỡ tất cả mọi người , tôi bán nước cũng được trôi chảy , có nhiều lợi nhuận nuôi được mấy cháu ăn học.
Lời nói đấy khiến tôi luôn ghi vào tâm từ đó đến nay, tôi nhận thấy hỗ trợ các chủ doanh nghiệp chính là hỗ trợ chúng sinh, chúng sinh có công ăn việc làm đời sống tốt đẹp thì góp phần làm xã hội bình yên, nhiều gia đình được hạnh phúc , khi mọi người thân được bình an thì tâm thức dễ hướng đến những điều cao thượng ,vì vậy các chủ doanh nghiệp có nhân duyên với tôi luôn là những đối tượng mà chúng tôi quan tâm giúp đỡ, hướng họ đến con đường tu tập và đưa ra các giải pháp tâm linh góp phần giúp doanh nghiệp đi qua khó khăn trở ngại đến với thành công.
Minh Thiên.
0943666611
0
0
35
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Jan 23, 2024
In ỨNG DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG
Mỗi một đầu xuân của năm mới , chúng tôi vẫn hay lập đàn pháp chiêu tài khai vận cho một số doanh nghiệp và những người có tầm ảnh hưởng đến nhiều người trong xã hội , đàn pháp này là nơi hội tụ của hồn thiêng sông núi, linh khí đất Việt trời Nam.
Trong đàn pháp , chúng tôi triệu thỉnh thần tài bản địa lên để thân chủ có thể trực tiếp thỉnh cầu thần gia hộ cho họ trong năm có được nguồn tài bảo đến với họ tùy theo phước phận của mình, tài bảo ở đây không chỉ là tiền của,mà còn là sự nghiệp, hạnh phúc, trí tuệ, sức khỏe và sức ảnh hưởng đến quần thể xã hội.
Theo kinh điển mật tông, người muốn cầu có tài bảo thì trước tiên phải xả tài, tức là đem những gì mình có đi cúng dường bố thí cho nhân gian tạo phước đức, thì lúc đó mới tương ứng với công hạnh của các vị thần bản tôn tài bảo , họ mới đến hộ trì được.
Và theo phật pháp , tài bảo của một con người có hai loại là ngoại tài và nội tài, ngoại tài là tiền của tài sản bên ngoài, nội tài chính là trí tuệ và tâm hạnh thiện lành của mỗi con người.
Tiền bạc ngoại tài thì hữu hạn, bạn không thể nào có đủ để ban rải ra khắp thiên hạ, nhưng có một loại nội tài khác bạn đem bố thí mãi không bao giờ cạn, càng bố thí thì nó lại càng đầy, đó chính là công hạnh Từ, Bi , Hỷ, Xả mà ai cũng có, công hạnh này được thần cách hóa bằng bốn vị bồ tát Từ Bi Hỷ Xả vây xung quanh mặt trăng Bồ đề tâm trong Mandala Thai tạng giới- Đông mật, khi đọc đến đây các bạn hẳn là biết mình có thừa tài bảo đem đi bố thí rồi phải không.
Minh Thiên.
Sdt 0943666611
0
0
71
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Jan 17, 2024
In ỨNG DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG
Từ khi bước vào công việc tâm linh, chúng tôi đã có cơ hội xem qua rất nhiều lá số và sử dụng các đàn pháp mật tông hỗ trợ chuyển hóa cho nhiều cá nhân và các doanh nghiệp theo chiều tốt lên, và chúng tôi đã rút một số nhận định như sau :
Người có số giàu thì sớm hay muộn thì họ cũng sẽ giàu , cái đó là không sai chạy đi đâu,nhưng làm giàu bằng cách nào thì lại là vấn đề khác, bởi vì trong đó có một số người lá số của họ không chỉ báo hiệu là có số giàu có thành đạt , mà còn có cả những chủng tử bất thiện song hành ,nếu không có duyên gặp được người chỉ bày hướng dẫn đường đi nước bước thì họ dễ đưa cuộc đời mình đến chỗ không có lối thoát.
Vì không hiểu là mình làm thiện hay làm ác thì đều dẫn đến kết quả là phải giàu có, vì giàu có là cái buộc phải xuất hiện trong đời tương ứng với lá số của mình, nên thay vì làm thiện thì họ bị nghiệp ác dẫn đi theo con đường bất thiện, kết quả là vẫn giàu có đúng như lá số nhưng lại tạo nghiệp, khi cái nghiệp ác đó lớn hơn phúc đức họ có thì dẫn đến rơi vào vòng lao lý.
Còn một số người có số không có của trên lá số, nhưng không phải là số đi ăn mày hay tuyệt lộ,họ không hề biết rằng thân mệnh họ không bao giờ có thể đi vào đường cùng tuyệt lộ và không có cách gì làm họ tàn lụi được bởi vì nghiệp của họ là vậy, nhưng họ cũng không bao giờ có được tài sản vượt quá cái vận mệnh của họ được, họ là chủ nhân tạo ra nghiệp đó trong quá khứ kiếp và kế thừa chính cái nghiệp đó trong hiện tại.
Nhưng khi chưa có duyên gần được người hiểu biết và nắm rõ vận mệnh chỉ bày cho mình cách sống thuận theo lá số, nên thay vì thuận theo cuộc đời, thì họ dốc hết năm tháng tiêu mòn vào việc bôn ba cố gắng tích lũy tài sản bằng mọi cách.
Nhưng vì số không tụ của, nên tiền cứ đến tay là lại lọt đi nơi khác,không vợ ốm con đau thì cũng đi đường lỡ chân đạp nhầm rổ trứng, đến khi chấp nhận số mình là vậy thì cũng đã gần hết cuộc đời.
Theo phật pháp định nghĩa tài bảo của một con người là bao gồm tiền bạc, trí tuệ, sức khỏe, hạnh phúc gia đình , nhân cách sống và sự ảnh hưởng của mình đến quần thể xã hội chứ không chỉ mỗi tiền bạc không, chính vì thế có những người giàu có về tiền bạc , nhưng lại thiếu kỹ năng sống nên không có người thân bè bạn, sống cô đơn cô độc rồi chết trên đống tài sản.
Trong khi đó lại có những người nghèo tiền bạc , nhưng họ đến đâu cũng có anh em bè bạn, mọi người yêu kính vì tư cách sống của họ và trí tuệ họ dâng hiến cho đời.
Nhìn được ra chính xác lá số một đời người đã là một kỳ công, nhưng nếu chỉ khám ra bệnh mà không có phương pháp chữa bệnh thì nhìn được cũng chỉ bằng không.
Đức phật nói tu là chuyển nghiệp,cho nên khi chúng tôi có nhân duyên gặp được những người này, chúng tôi đều phát tâm chia sẻ và hướng dẫn họ đến với mật chú để chuyển nghiệp , vì mật chú là công đức thiện lành của mười phương chư phật kết tụ,trong mật chú có chứa đủ các năng lực hàng phục những chủng tử bất thiện trong nội tâm, năng lực tăng ích kích hoạt trí tuệ, tài bảo, sức khỏe, năng lực kính ái khiến cho tạo được sự yêu kính của người thân và xã hội với bản thân, năng lực tức tai chuyển hóa đi những tai ương hạn ách bên ngoài tác động đến thân tâm mình , nên những người này sau một thời gian song hành với mật chú, tâm họ được chuyển hóa , tâm chuyển thì cảnh chuyển, dự báo của lá số tử vi không còn chính xác như lúc đầu nữa.
Nhờ có sự chuyển hóa nội tâm và được sự hộ trì của chư vị hộ pháp hộ chú trong dòng pháp , nên khi chánh báo là phần thân tâm mỗi người trong họ có sự chuyển hóa , thì y báo là hoàn cảnh bên ngoài cũng tự nhiên chuyển đổi để tương ứng với chánh báo, những người có số giàu thì họ vẫn giàu nhưng họ không còn bị dính mắc vào pháp luật và trở thành người tỉnh thức và nhà hảo tâm , vừa tốt cho mình vừa tốt cho gia đình xã hội.
Còn những người số không tụ của thì bây giờ họ lại có cơ hội tích lũy tài sản vì nghiệp họ đã được chuyển hóa, cái quan trọng nhất là họ biết cái giá trị của cuộc đời không chỉ là tiền bạc mà còn là trí tuệ nhận thức đúng đắn với sức khỏe, hạnh phúc gia đình, sự hòa đồng tương tác với xã hội làm nên sinh mệnh tốt đẹp cho một đời người.
…………………………………………..
Hạnh phúc của các bạn là sự thành công và sống tốt nhất với lá số mà các bạn có thể vươn tới, nó là minh chứng của chúng tôi trong việc đồng hành cùng các bạn trên quá trình chuyển hoá thông qua nắm rõ vận mệnh, lộ trình tiến lùi, tu tập chuyển hoá nghiệp và kích hoạt tài bảo cho các bạn.
Hãy đến đây và để chúng ta cùng đồng hành với hạnh phúc và thành công của các bạn.
Minh Thiên.
0
0
66
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Oct 13, 2023
In ỨNG DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG
Các bạn , đã ai trong các bạn đã ở trong cảnh cùng quẫn tuyệt vọng bế tắc không còn chỗ bấu víu nương tựa , rồi đột nhiên bạn gặp được kỳ duyên giải thoát khỏi hoàn cảnh đó như một phép lạ chưa ,nếu có thì nó là một trong những cái gì đã khiến cho hoàn cảnh bi đát của bạn được đổi thay, đây là vấn đề mà chúng tôi muốn chia sẻ tới các bạn ở trong bài này.
MẬT CHÚ CHUYỂN HÓA BẾ TẮC CHO CÁ NHÂN.
Một buổi chiều cuối hạ này , có một vị quản lý điều hành của một doanh nghiệp tìm đến chỗ chúng tôi trong trạng thái chán nản tuyệt vọng với bản thân và cuộc đời này.
Sau khi run run cầm chén trà uống mà như không uống trong trạng thái tâm bị kích động , bạn ấy kể lại cho chúng tôi nghe về hoàn cảnh bi đát của mình lúc này , chỉ vì một thời điểm không làm chủ được bản thân mà đánh mất hết tất cả cơ nghiệp, cảm giác lúc này thật khủng hoảng khi tự thấy mình như không còn chỗ bấu víu nào từ tinh thần đến vật chất, bế tắc đến nỗi không hiểu mình có còn tồn tại ở trên đời này nữa không , rồi bạn ấy chợt nhớ đến chúng tôi và tìm đến xem còn lối thoát nào cho cuộc đời không.
Sau khi nhìn vào lá số tử vi của bạn ấy cộng thêm các phương pháp tính toán hỗ trợ khác , chúng tôi chia sẻ với bạn ấy như sau :
Theo như trên lá số tử vi của em thì chúng tôi thấy em không nên bi quan tuyệt vọng với tình cảnh hiện nay vì em vẫn còn cơ hội để làm lại cuộc đời, một người ít tuổi mà thành công sớm như em thì sự mất hết trong thời điểm này thật ra không phải điều xấu mà lại là bài học để em trưởng thành và không thể đổ vỡ trong tương lai , sau lần đổ vỡ này thì thời gian tới em sẽ bước lên một địa vị cao hơn trong xã hội , tài chính đến với em sẽ còn lớn hơn nhiều so với cái em đã mất ngày hôm nay.
Nhưng để chuyển hóa bế tắc hiện thời và giúp cho điều đó chóng đến, em hãy chịu khó hàng ngày hành trì mật chú Chuẩn đề theo hướng dẫn của chúng tôi , chúng tôi cũng kết hợp lập đàn Chuẩn đề Tăng ích tác pháp trong 7 ngày để hỗ trợ vấn đề của em mau được giải quyết sớm.
Một thời gian ngắn sau bạn đó vui mừng thông báo địa vị và sự nghiệp của mình đã tiến triển ngoạn mục kèm theo lòng chân thành tri ân với những gì chúng tôi đã hỗ trợ cho cuộc đời của bạn đó .
Nhưng mật chú nhà Phật nó không chỉ dừng ở chỗ giúp cho người ta an đời như trên , mà mục đính chính là để đưa chúng sinh dần giải phóng tâm trí nhận thức ra những xiềng xích trói buộc thân tâm con người luân hồi muôn kiếp,hướng đến con đường giải thoát cầu thành tựu quả vị bồ đề ,đó mới là yếu nghĩa của mật chú.
THẦN CHÚ CHUẨN ĐỀ VÀ CÔNG NĂNG CỨU ĐỘ
Theo kiến thức của phật giáo Đông Mật,đức Chuẩn đề là một vị bồ tát ngự ở Kim cương pháp giới cung thuộc đỉnh trời Sắc cứu cánh , tầng trên cùng của trời Sắc giới, ngài có đại nguyện hóa độ tất cả những chúng sinh nào có nhân duyên biết đến và hành trì câu thần chú của ngài ,OM CHALE CHU LE CHUNDE SVAHA BHRUM.
Pháp hành trì Mật chú của Đức Chuẩn Đề được xem là con đường sinh ra 700 triệu vị Phật trong Liên hoa bộ,chính vì vậy ngài được xếp vào một trong các Đức Phật mẫu ở Biến tri viện trong Mandala Thai tạng giới.
Chuẩn Đề Bồ Tát là một vị hóa thân của đức Quán Thế Âm Bồ tát , chủ tôn Liên hoa bộ có hạnh nguyện bảo hộ cho chúng sanh cõi Ta bà, đức Chuẩn Đề đại diện cho thân khẩu ý, trí tuệ , sức mạnh thanh tịnh hoàn hảo của một vị Phật , sự nhẫn nhục hy sinh , nhiệt thành không ngừng nghỉ bất tận của một vị bồ tát với ước muốn đem lại phương tiện cứu độ cho chúng sinh khổ đau đang ngụp lặn trong biển trầm luân cõi Ta bà, giúp họ chuyển hóa phiền não chướng, sở tri chướng , Vô minh chướng tiếp cận con đường giải thoát và thành tựu quả vị bồ đề.
Đức Chuẩn đề có 18 cánh tay , tượng trưng cho lục căn , lục trần, lục thức, những yếu tố tạo nên chúng sinh và thế giới, nửa bên phải của ngài tượng trưng cho chư phật bồ tát , những vị đã thành tựu đạo quả bồ đề và cảnh giới an lạc thanh tịnh, nửa bên trái của ngài đại diện cho những chúng sinh còn mê lầm trong ba cõi ,lặn hụp trong biển khổ và cảnh giới của khổ đau bất toại nguyện.
Chính giữa nơi thân ngài kết ấn thuyết pháp , pháp đây chính là thần chú Chuẩn đề, và toàn bộ các biểu tượng ở trên mang ý nghĩa đức Chuẩn đề có mặt ở trong tất cả các chúng sinh , và những chúng sinh nào đang khổ đau, thất chí, bất toại nguyện,bế tắc vì không còn thấy lối thoát trong hiện đời, nếu hướng tâm đến nơi đức Chuẩn đề, ,nhất tâm tu trì thần chú của ngài ,cùng học hỏi nghiên cứu quan sát thực hành giáo lý tam thừa phật đạo thì lập tức đạo lực cứu độ của ngài đủ điều kiện để gia trì ,khiến cho chúng sinh đó dần chuyển hóa nghiệp lực , thay đổi cuộc đời , giúp cho đang từ hoàn cảnh xấu ác tồi tệ chuyển sang tốt đẹp, sự nghiệp tiến bộ và dần hướng đến con đường thoát khỏi lục đạo luân hồi, thành tựu quả vị bồ đề trong tương lai.
MẬT CHÚ TÁC ĐỘNG THẾ NÀO VÀO CÁC DOANH NGHIỆP.
Chúng tôi là những cư sỹ tu tập theo Mật giáo nhà Phật , ngoài việc tu đạo chúng tôi còn dành thời gian làm các công việc tâm linh hỗ trợ cho công cuộc điều hành của các Doanh nghiệp lớn nhỏ có cả , cùng với các cá nhân có nhu cầu , thông qua đó âm thầm trao đổi chia sẻ mật chú Chuẩn đề đến với những ai hữu duyên.
Đức phật nói muốn biết kiếp trước của một người thì hãy nhìn vào phúc báo của người đó ngay hiện đời, còn muốn biết kiếp sau của người đó thế nào thì hãy nhìn vào cư xử hành động của người ấy cũng ngay trong đời này, minh họa thêm lời phật nói chính là tử vi, tử vi có thể cho ta thấy được nghiệp báo của một con người đó đang diễn tiến thăng trầm ra sao trong một kiếp đời và từng giai đoạn cuộc sống.
Vì vậy trong những năm tháng đi làm công tác tâm linh cho các doanh nghiệp lớn nhỏ và các cá nhân , việc đầu tiên là chúng tôi phải xử lý lá số tử vi của các vị chủ doanh nghiệp để biết lúc nào thì doanh nghiệp đó thịnh hay suy , tồn tại hay sẽ phá sản mà đưa ra các giải pháp hỗ trợ giúp đỡ.
Thì chúng tôi nhận thấy các doanh nghiệp nó có một đặc điểm giống nhau ,nếu khi người lãnh đạo mà thời vận của họ sáng sủa tốt đẹp thì doanh nghiệp được điều hành trôi chảy thuận lợi, đời sống của người làm việc trong doanh nghiệp đó cũng gặp nhiều tốt đẹp .
Nhưng đến khi thời vận của người lãnh đạo vào thời kỳ suy giảm thì dẫn đến hoạt động của doanh nghiệp rơi vào bế tắc, đi xuống và đời sống của tập thể nhân viên trong doanh nghiệp đó cũng gặp nhiều khó khăn về tài chính , thậm chí còn mất việc, cho nên có thể nói đời sống công việc của toàn thể những người làm việc trong doanh nghiệp đều bị ảnh hưởng vào cái phước của người lãnh đạo.
Thời vận của một người lãnh đạo nó không hề đứng yên một chỗ mà nó luôn chạy theo chu kỳ hình sin sinh giáng, thăng lên tột đỉnh và hạ xuống chạm đáy, khi nó thăng lên thì con người đó trí tuệ khai mở, điều hành doanh nghiệp trôi chảy, khi nó hạ xuống thì vẫn con người đó,trí lực và tài năng đầy đủ nhưng đã bị nhiều yếu tố trong ngoài tự nhiên phát sinh đè bẹp không còn đất dụng võ.
Điều đó nói lên con người dù có đầy đủ tài năng và trí tuệ mà khi phước lui nghiệp trổ thì cũng không thể phát huy được năng lực của mình theo quan điểm của tâm linh và phật pháp ,và không thể đổ thừa là tại bởi hoàn cảnh xã hội.
Người xưa nói nhất mệnh nhì vận, tam phong thủy, nhưng người mệnh tốt mà chẳng may đến vận nó quá xấu thì vẫn ngã đổ như thường trong giai đoạn đó.
Cho nên một vị thầy tử vi dù có xem ra được số mệnh người ta xấu đến đâu, mà lại không có phương pháp để chuyển hóa thì xem rồi cũng chẳng để làm gì ,và người ta nói không có một thầy giỏi nào có thể cứu chữa cho một người đã hết phước, phước đã hết thì dù có đặt phong thủy kiểu gì cũng không cứu nỗi.
Vì vậy phòng bệnh hơn chữa bệnh,để hỗ trợ cho phần thời vận của người lãnh đạo và doanh nghiệp trước khi nó chuẩn bị đi xuống, thì với đạo đức nghề nghiệp,mỗi khi chúng tôi đến xúc tiến công việc tâm linh cho một doanh nghiệp nào đó , chúng tôi hay dành thời gian chia sẻ với toàn thể doanh nghiệp về thần chú Chuẩn đề để giúp cho doanh nghiệp có phương tiện tạo phước.
Thần chú Chuẩn đề chỉ có 10 từ, nhưng tùy theo lý khai diễn mà nó tương ứng với tâm thức của tất cả các căn cơ chúng sinh từ việc cầu an thân lập mệnh cho đến đi vào con đường giải thoát chứng quả bồ đề.
Với những cán bộ nhân viên người làm trong các doanh nghiệp ,cái lý sử dụng mật chú cũng được hướng dẫn đơn giản phù hợp với tâm lý và hoàn cảnh hiện tại, mọi người chỉ cần tin theo , xem thần chú như là một phương tiện giống như các phương tiện khác hỗ trợ đời sống thì đã là rất tốt rồi , hình tướng của thần chú thì giống như dòng điện tuy không thấy được, nhưng công dụng vi diệu của nó thì mọi người có thể cảm nhận được sau một thời gian đi cùng nó.
Mật chú tuy được gọi là mật , nhưng cái gì mà đã nói ra được , hiển thị bằng chữ viết văn bản được thì cũng không còn là mật nữa, nó cũng thành Hiển giáo như Tịnh độ hay Thiền mà thôi, nhưng cái mật thật sự có lẽ chính là sự âm thầm chuyển đổi tâm thức của người hành trì mật chú từ uế nhiễm loạn động chuyển sang trí tuệ thanh tịnh tĩnh lặng, tâm chuyển thì cảnh chuyển, khiến cho hoàn cảnh bên ngoài đang bế tắc chuyển sang hanh thông thuận lợi , và nó có kết quả ngay hiện tiền,mình thực hành đến đâu thì ứng nghiệm tới đó.
TÁC ĐỘNG CỦA MẬT CHÚ VÀO CỘNG NGHIỆP VÀ BIỆT NGHIỆP CỦA LÃNH ĐẠO VÀ NHÂN VIÊN TRONG DOANH NGHIỆP
Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật có nói đến hai quốc gia vì có có cộng nghiệp nên cùng tọa lạc ở trên một châu lục,nhưng trong khi bên này luôn thấy các thiên tượng xấu báo hiệu vận nước đang suy , dân tình đói khổ thì nước ở bên cạnh lại chỉ thấy mưa thuận gió hòa,dân chúng hạnh phúc, đó là bởi vì biệt nghiệp của mỗi quốc gia khác nhau, nước bên cạnh do từ vua đến dân đều làm nhiều thiện sự nên nghiệp họ cũng khác nước kia.
Một ví dụ nữa về cộng nghiệp và biệt nghiệp, như cái chung cư mini bị cháy gần đây ở quận Thanh Xuân, hơn trăm con người vì có cộng nghiệp nên cùng đến sống ở chung cư đó , khi mà một số người ở đó có ác nghiệp đến thời kỳ phải trả đạt đến cực thịnh mà phước của toàn thể hơn trăm con người ở đó không thể gánh nổi nữa thì tai họa xảy ra, chung cư cháy chết mất mấy chục người,nhưng những người còn lại được thoát nạn bởi vì biệt nghiệp của họ chỉ chịu nạn mất của cải đồ đạc mà không bị họa sát thân.
Vậy cái biệt nghiệp đó ở đâu ra vậy, theo phật pháp định nghĩa là do nhiều đời trước họ cũng có làm phước đức và cũng có tạo nghiệp, nên kiếp này khi nghiệp trổ ra thì phải trả bằng của cải mất đi , nhưng mạng sống thì lại được cái phước che đỡ nên thoát nạn.
Cũng như vậy , hoàn cảnh hiện thời thế giới và xã hội trong nước đang có nhiều sự biến đổi trầm trọng khiến cho rất nhiều doanh nghiệp đang chịu cảnh khủng hoảng dây chuyền, một phần là cộng nghiệp chung của xã hội, một phần là do biệt nghiệp riêng của một số tập đoàn công ty cũng đến thời kỳ xấu nữa.
Nhưng đến lá số tử vi của một người rất xấu mà khi tu tập vào nó còn chuyển và không còn đúng với lá số nữa, thì biệt nghiệp của một doanh nghiệp trong hoàn cảnh cộng nghiệp xấu chung của đất nước vẫn có thể chuyển được nếu như tất cả toàn thể lãnh đạo nhân viên đồng lòng muốn chuyển đổi và có nhân duyên gặp được phương pháp chuyển đổi.
Ở trong một doanh nghiệp, vì là có biệt nghiệp nên mới phân chia ra có lãnh đạo và nhân viên ,vì là có cộng nghiệp nên lãnh đạo và nhân viên mới thành đồng nghiệp trong một doanh nghiệp.
Vì là có cộng nghiệp ,nên khi hoàn cảnh của xã hội xấu , nhưng nếu thời vận của lãnh đạo doanh nghiệp vẫn tốt, lại kèm thêm thời vận của đa số nhân viên trong doanh nghiệp cũng tốt thì doanh nghiệp đó vẫn hoạt động ổn định.
Vì là có cộng nghiệp ,nên khi hoàn cảnh của xã hội xấu , nếu thời vận của lãnh đạo doanh nghiệp xấu, nhưng thời vận của đa số nhân viên trong doanh nghiệp mà lại tốt thì doanh nghiệp đó vẫn còn có thể hoạt động được vì cái phước chung của nhân viên gánh được cho lãnh đạo.
Vì là có cộng nghiệp, nên khi hoàn cảnh của xã hội xấu , nếu thời vận của lãnh đạo doanh nghiệp bắt đầu xấu, lại kèm thêm thời vận của đa số nhân viên trong doanh nghiệp cũng nhiều người xấu thì doanh nghiệp đó xuống dốc,thậm chí còn sập tiệm.
Như trên chúng tôi đã nói, đời sống của người làm trong doanh nghiệp phụ thuộc vào cái phước của người lãnh đạo, nên khi phước lãnh đạo có vấn đề thì thu nhập của nhân viên cũng bị ảnh hưởng , thậm chí có nhân viên vận xấu quá còn mất luôn cả việc làm.
Nhưng theo phật pháp , vì là có cộng nghiệp nên hàng ngũ nhân viên có thể chỉnh sửa chuyển hóa cái vận xấu của lãnh đạo bằng cách tất cả lãnh đạo ,nhân viên cùng trì niệm mật chú Chuẩn đề tạo phước ngược lại cho lãnh đạo và doanh nghiệp và cho chính bản thân họ, tất nhiên đây chỉ là một trong nhiều phương pháp chuyển đổi vận số trong tâm linh , nhưng ở đây chúng tôi chỉ đang đề cập đến cái gì mà chúng tôi hiểu biết, thực hành và chứng kiến.
Mỗi người trong họ chỉ cần hàng ngày mỗi khi trên đường đi làm ,hay lúc rảnh rỗi họ hướng tâm về doanh nghiệp, về lãnh đạo rồi niệm thần chú trong tâm tầm 108 câu, Niệm 108 câu chú Chuẩn đề thì không nhiều thời gian, chỉ tầm độ 5,10 phút.
Nhưng nếu toàn thể lãnh đạo nhân viên trong doanh nghiệp cùng tự nguyện và có ý thức làm được việc này, coi vận mệnh của doanh nghiệp chính là vận mệnh của mình, là gia đình mình thì cái cộng lực phát sinh của thần chú lại cực kỳ mạnh mẽ, tích tiểu thành đại mỗi ngày một tí , sau đó hồi hướng toàn bộ công đức này cho lãnh đạo, cho doanh nghiệp, thì tự nhiên sẽ xuất hiện những cái lực tác động giữ cho cái thời vận xấu của lãnh đạo và doanh nghiệp theo chu kỳ giáng xuống nó sẽ không chạm được đến đáy và đi ngang cho đến khi thời điểm tốt mở ra và lại đi lên đỉnh theo hình sin.
Như vậy năng lực của mật chú có thể xoay chuyển vận thế của doanh nghiệp đang từ bế tắc chuyển sang giúp doanh nghiệp trụ vững khiến cho công việc của người làm trong doanh nghiệp được duy trì bình ổn chờ đến thời điểm cuộc thế xã hội có chuyển biến tốt hơn.
LỜI KẾT
Mặc dù mật chú rất vi diệu như vậy nhưng để đưa được nó tới cá nhân và cộng đồng doanh nghiệp thì cũng còn tùy duyên.
Về mặt cá nhân thì có hai thành phần sẽ tìm đến chúng tôi để đồng hành cùng mật chú , đầu tiên đó là những người có căn duyên với Phật pháp , nhóm này thì không bàn vì ở trong bài này chúng tôi đang nói về chuyện xử lý bế tắc, vì vậy nhóm thứ hai tìm đến chúng tôi chính là những người khi sự nghiệp, cuộc sống, tinh thần đi xuống khiến họ bế tắc và không còn tìm ra lối thoát.
Trong giờ phút tuyệt vọng thì tự nhiên họ nhớ đến chúng tôi và những bài chúng tôi viết, hoặc ai đó đã cho họ biết về chúng tôi, vậy là họ tìm đến và chúng tôi giúp họ quay trở lại cuộc sống bằng cách giúp họ nhận thức được giá trị của cuộc sống và chia sẻ với họ mật chú,phương tiện chuyển hóa số mệnh.
Về mặt doanh nghiệp thì chúng tôi thấy mật chú ảnh hưởng được ở những doanh nghiệp nhỏ khi sắp đến giai đoạn bế tắc mà không biết ngày sau sẽ ra sao, ở đó chủ doanh nghiệp và nhân viên hầu như biết rõ nhau, hiểu rõ những khó khăn mà doanh nghiệp đang đối đầu do vấn đề thời cuộc xã hội, họ cũng biết nếu doanh nghiệp giải tán thì họ cũng không biết đi về đâu nên mọi người đều đồng tâm hiệp lực tất cả mọi cách từ quản trị doanh nghiệp hợp lý hơn ,tiết kiệm chi phí sản xuất cho đến nương dựa vào tâm linh ( nên nhớ người ta chỉ tìm đến tâm linh khi không còn cách nào nữa) miễn là giúp cho doanh nghiệp được trụ vững và đi qua thời kỳ khó khăn,cho nên mọi người từ chủ đến nhân viên sau được khai thị và hiểu về năng lực, công dụng của mật chú thì đều đồng lòng tiếp nhận Mật chú Chuẩn đề, âm thanh của vũ trụ và thành tâm hành trì nó hàng ngày.
Với lại chúng tôi cũng phải nghiên cứu rất kỹ lá số của chủ doanh nghiệp khi họ tìm đến chúng tôi, biết rất rõ khó khăn này chỉ là giai đoạn trong cuộc đời họ và họ vẫn còn có cơ hội làm lại thì mới có thể đưa mật chú hướng dẫn họ trì niệm theo đúng nguyên tắc tự lực và tha lực kết hợp, vấn đề còn lại là nhận thức và quyết tâm của doanh nghiệp thôi.
Ở một số doanh nghiệp lớn hơn, mỗi khi có cơ hội tiếp xúc bao giờ chúng tôi cũng trao đổi với tập thể lãnh đạo nhân viên có mặt rằng thế gian vạn pháp nó luôn đi theo lộ trình sinh trụ dị diệt, thành trụ hoại không , doanh nghiệp cũng vậy.
Vì vậy các anh chị em đừng bằng lòng với thành công của doanh nghiệp lúc này, cuộc thế nó luôn thay đổi bất ngờ mà mình không phải người trong tâm linh nên mình không thể biết được.
Nên để giữ cho doanh nghiệp trụ được dài lâu , các anh chị em hãy kiến tạo và tích thêm phước cho mình , cho lãnh đạo và cho doanh nghiệp bằng cách hãy đồng hành với mật chú, mỗi ngày mất có 5 , 10 phút thôi và như vậy đã tốt lắm rồi.
Nhưng nói chung mọi người đều nghe thì cứ nghe, còn theo thì không hẳn bởi vì đó là một tập thể rất lớn ,nhiều ban bệ tách biệt, suy nghĩ nhận thức khác nhau , chưa bao giờ tưởng tượng ra được có một ngày nào đó doanh nghiệp của mình tự nhiên sẽ gặp bế tắc, chưa có thời gian tìm hiểu và thấy được tầm quan trọng của mật chú, và có lẽ cũng chưa đủ duyên, nên rất khó để mọi người cùng đồng tâm nhất trí , tự nguyện tất cả cùng hợp tác với nhau để giữ cho doanh nghiệp trụ vững ,chỉ có một số người trong đó có duyên với Phật pháp thì họ theo, nhưng khi vận thế của doanh nghiệp đi vào bế tắc thì một vài cánh én hẳn là không làm nên được mùa xuân.
Nhà Phật vẫn nói vạn sự tùy duyên ,cuộc thế khó khăn nào cũng có thể chuyển đổi nếu như các anh chị em ở những doanh nghiệp tôi đã đi qua có duyên đọc được bài này ,tự nhiên chợt thấy trong tôi bừng nắng hạ và tất cả đồng khởi tâm muốn chuyển hóa sự bế tắc của doanh nghiệp , thì chúng tôi đang ở đây và sẵn sàng đồng hành cùng các bạn.
Minh Thiên. sdt 0943666611.
Mật Liên Đăng sdt 0987702012
0
0
369
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Sep 02, 2023
In Duy Thức - Bát Nhã
Lý Bỉnh Nam giải đáp | Thích Đức Trí chuyển ngữ
(Từ Hán ngữ hiện đại sang Việt ngữ)
1- Hỏi: Tất cả chúng sanh sau khi chết còn có linh hồn không?
Trả lời: Linh hồn trong nhà Phật gọi là thần thức, một hình thái bất giác của tâm thức vốn có trong thể tánh chân như biến hiện ra. Tất cả chúng sanh thức đến gọi là sanh, thức ra đi gọi là tử. Cho nên trong Bát thức tụng có nói: “Khứ hậu lai tiên tác chủ ông”(Ý nói là khi chết thần thức rời khỏi thể xác, thức nhập thai hay tái sanh là bắt đầu kiếp sống mới)
2- Hỏi: Tất cả chúng sanh sau khi chết thì nghiệp lực đưa thần thức vào trong sáu nẻo luân hồi?
Trả lời: Thần thức luân chuyển trong sáu đường luân hồi tức là do nghiệp lực dẫn dắt. Cho nên nói: “Mọi sự không thể mang theo chỉ có nghiệp lực trói buộc sanh mạng của mình”, hay nói:“Dẫn nghiệp và mãn nghiệp chiêu cảm quả báo của nghiệp lực”[1]
3- Hỏi: Tôi không tin trên đời này có sự tồn tại loài quỷ thần, như vậy có đúng không?
Trả lời: Thế giới quỷ thần cũng nằm một trong sáu đường luân hồi của chúng sanh, tức do sự chuyển hóa của thần thức, thừa nhận có thần thức mà không thừa nhận có quỷ thần cũng gióng như thừa nhận hợp chất H2O mà không thừa nhận có nước!
4- Hỏi: Có một số tín đồ tin rằng linh hồn lìa xác có thể đi đầu thai vào loài heo loài chó, như vậy có thuyết đó hay không?
Đáp: Linh hồn lìa xác tức có nghĩa là thần thức tách rời thể xác, biến thành loài heo loài chó tức là cách nói chỉ cho cảnh luân hồi nói chung. Xem kỉ hai câu trước sẽ hiểu rõ nghĩa lý ngày.
5- Hỏi: Linh hồn bắt đầu là từ đâu đến? Phật giáo nói về luật nhân quả, như vậy nguyên nhân nào mà tạo thành linh hồn, vì sao nhân loại và tất cả động vật đều tăng chứ không giảm.
Trả lời: Vấn đề này không phải người mới học Phật có thể hiểu rõ, Khổng Tử có đến ba ngàn đệ tử đều là bậc hiền triết ngài còn không nói đến vấn đề này, có thể biết đây là vấn đề khó hiểu. Linh hồn là do mê tánh mà chuyển thành. Trước tiên nói về tánh, tánh là khắp ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai, không đầu không cuối, biến khắp tám phương, vô biên vô tận. Thể tánh vốn không, gặp duyên thì khởi, thông rõ lý này thì nên biết tánh ấy vốn không đến không đi, không tăng và không giảm! nhận thấy số lượng loài động vật tăng giảm mà nói là chỉ nhìn bằng mắt thường, còn nếu như dùng trí quán sát khắp hư không pháp giới thì mới tự mình sẽ hiểu rõ vấn đề này.
6- Hỏi: Thần thức của chúng sanh được sanh ra như thế nào? Có phải do Thượng Đế tạo hay từ năng lực của một nguồn tinh thần của mẹ sanh ra?
Trả lời: Không có sự bắt đầu và sau cùng của một của tâm thức hay sự vật nói chung, tính chất của các pháp vốn là như vậy, do một niệm bất giác biến thành vô minh, từ giác mà chuyển thành mê, từ trí mà chuyển thành thức, thức này đối với người đời hay gọi là linh quỷ, linh hồn, thần thức. Ở đây lấy việc chiếu phim mà ví dụ, cuộn phim dụ cho tánh, rõ ràng không tướng mạo, tại kính phát xuất ra, vắng lặng chiếu soi mà thôi. Trên cuốn phim đó có đầy đủ các hình tượng như sơn hà địa đại, hình ảnh nam nữ, cảnh ăn uống đều xuất ra từ ống kính, các loại huyễn cảnh làm rối loạn tâm trí con người.
7- Hỏi: Thần thức và giả thân này có khác nhau về hình dạng hay không?
Trả lời: Thần thức vốn không có hình tướng, do ý tưởng mà chuyển thành có tướng, cái thân như mộng do ý tưởng trong tâm thức chuyển biến thành. Ở đây xin đưa ra một ví dụ để dễ hiểu, như bản chất vàng vốn không có hình tướng nào, nhưng nếu người thợ dùng vàng tạo ra các tướng như cái bình, cái chậu, cái trâm và cái vòng thì tất cả đồ vật đó đều do ý tưởng con người chứ không phải nguyên gốc của vàng là thuộc các tướng trạng ấy.
8- Hỏi: Thân thể người khi chết thì thần thức từ ví trí nào để xuất ra ngoài?
Trả lời: Một đời tạo nghiệp, hạt giống thuần thục, khi chết sanh vào các cảnh giới sẽ xuất ra từ mỗi bộ phận khác nhau trên thân thể. Người tu chứng thánh quả thần thức xuất ra từ đỉnh đầu, được sanh vào cảnh trời thần thức xuất ra tại trán, sanh vào cõi người thần thức xuất ra tại ngực, sanh vào loài ngạ quỹ thần thức xuất ra tại bụng, sanh vào loài súc sanh thần thức xuất ra tại đầu gối, sanh vào địa ngục thần thức xuất ra từ bàn chân.
9- Hỏi: Người sau khi chết chưa được vãng sanh Tây Phương và cũng chưa xác định sanh vào trong cảnh giới nào, vậy có phải thần thức của họ đang tồn tại với dạng là trung ấm thân không?
Trả lời: Vãng sanh Tây Phương chẳng những là cần tu tịnh nghiệp mà còn phải là người có Tín, Nguyện và Hạnh, không phải tự do đi đến được. Cảnh giới loài quỷ và cảnh địa ngục là hai chỗ cư trú của chúng sanh đang trong vòng lục đạo. Sanh vào trong đó gọi là sanh, rời khỏi cảnh đó gọi là tử, hai từ sanh và tử không phải chỉ ở tại thế gian này. Khi chúng sanh tại cảnh giới nào đó chết mà chưa sanh vào cảnh giới khác thì tồn tại trong dạng ”Trung Hữu Thân”, thời gian thọ mạng ngắn là trong một tích tắc, dài thì khoảng bốn mươi chín ngày. Tùy theo nghiệp lực mà sanh vào cảnh giới nào đó, người đời cho rằng chết rồi thành quỷ, vào cảnh âm ty là chưa rõ thứ lớp trong sáu nẻo luân hồi.
10- Hỏi: A lại da thức có phải là thần thức của chúng ta hay không? Nó tồn tại bất diệt hay không?
Trả lời: Do mê hoặc che lấp thể tánh nên gọi là A Lại Da, ngoại đạo gọi đó là linh hồn và cho đó là bản thể tồn tại không bao giờ mất, đó là từ sai lầm này đi đến sai lầm khác! Nhưng nếu đoạn trừ mê hoặc, hiển bày giác tánh, gọi là chuyển thức thành trí, mê hoặc có thể phá bỏ, vọng thức có thể chuyển, sao mà gọi nó là bất diệt?
11- Hỏi: Duy thức tông nói rằng: Tất cả chủng tử đều chứa trong A Lại Da thức, nhưng không biết các chủng tử đó nằm ở đâu trong thức thứ tám?
Trả lời: Nước từ trăm sông đều chứa ở biển, sao lại hỏi nước trong biển ở chổ nào?
12- Hỏi: Thức A Lại Da là thức tạp nhiễm cùng với chân như là một hay là khác?
Trả lời: Chân như do có tạp nhiễm mới gọi là thức, như nước do có gió tác động mới tạo thành sóng, nước và sóng là một mà chẳng phải một, nói là hai mà chẳng phải hai.
13- Hỏi: Tam giới duy thức, vạn pháp duy tâm, vậy thức và tâm khác nhau ở điểm nào?
Trả lời: Căn cứ từ loại mà giải thích thì tâm và thức đều là tính từ, tâm đứng về phương diện chân tánh bản giác mà nói, còn thức sau khi tâm bị nhiễm vọng mà nói. Nhưng căn cứ câu hỏi trên thì tâm và thức đều là động từ, thức là khả năng phân biệt, tâm là niệm khởi.
14-Hỏi: Phật dạy tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức, thế nào để phân biệt tâm và thức?
Trả lời: Trong kinh nói đến tâm và thức, có lúc hai tên này chỉ là một trạng thái tinh thần, ví dụ như nói: Tám thức hay có tên khác là tám thức tâm vương. Nhưng có lúc hai tên này có ý nghĩa khác, Thức thứ tám là A Lại Da gọi là tâm, thức thứ bảy gọi là ý, thức thứ sáu gọi là thức. Hôm nay hỏi vấn đề duy tâm và duy thức vẫn là biến hóa tu từ trong hành văn, thực chất tâm thức ở đây chỉ là một.
15- Hỏi: Làm sao để phân biệt Mạt na thức và A Lại Da thức?
Trả lời: A lại da lấy Khả năng dung chứa và dị thục[2] làm tác dụng, Mạt na lấy chấp ngã và liên tục suy xét, so lường làm tác dụng, lấy đó để phân biệt.
16-Hỏi: Từ ý trong các ý nghĩa của: Ý thức, ý niệm, ý chí, ý tưởng, ý cảnh, ý địa, tâm ý gồm trong tám thức của duy thức luận thuộc loại nào? Trường hợp phát sanh của nó bắt đầu như thế nào?
Trả lời: Thức thứ sáu và thức thứ bảy đều gọi là ý. Thức thứ sáu có khả năng phân biệt liên tục và có gián đoạn, thức thứ bảy luôn luôn chấp ngã lâu dài, tính chất hai thức khác nhau. Trong bảy danh từ hỏi ở trên trừ danh từ thứ nhất, thứ hai và thứ bảy thì cần phải căn cứ vào hoàn cảnh và tính chất để phân định thuộc thức nào. Còn danh từ ý chí, ý cảnh, và ý địa thuộc ”quyết định tư”, ý tưởng không tạo tác thuộc “Thẩm lự tư”, nếu dự định tạo tác thuộc “Động phát tư”. Như vậy bốn loại ý này thuộc ý thức thứ sáu.
17- Hỏi: Người sau khi chết, thức thứ bảy và thức thứ tám tiếp tục tồn tại không? Hay là cùng với thức thứ sáu theo thân thể mà diệt mất? Nếu diệt mất thì tất cả đều chấm dứt thì làm sao mà còn có thuyết về luân hồi?
Trả lời: Người chết rồi không bị diệt mất do còn lại thức thứ tám; xả thân này thì thọ nhập vào thân khác là do thức này. Kệ tụng: ”Thọ huân trì chủng căn thân khí, khứ hậu lai tiên tác chủ ông” (Có nghĩa thức này tiếp tục duy trì sinh mạng với hạt gióng nghiệp tồn tại trong một cảnh giới khác, nó rời khỏi thân thể trút hơi thở sau cùng, và đi trước để tái sanh vào đời sống mới)
18- Hỏi: Niết bàn, chân như, Phật tánh có phải thuộc một loại thức không? Hay là có một tên gọi đặc thù khác? Có phải là thức thứ chín không?
Trả lời: Chân như có nhiều danh từ để gọi, thật sự đó là phạm trù không thể nghĩ bàn. Thức thứ chín gọi là Am Ma La, cũng là cách gọi khác về ý nghĩa chân như mà thôi.
19- Hỏi: Cần nghiên cứu: “Nghiệp cảm duyên khởi, A lại da duyên khởi, Chân như duyên khởi, Pháp giới duyên khởi, Lục đại duyên khởi, Chư pháp duyên khởi” thì phải đọc từ kinh luận nào?
Trả lời: Đọc Hoa Nghiêm Kinh và Thành Thật Luận, Nghiên cứu những kinh luận đó thì đúng, nhưng thực sự chẳng phải tài liệu của người sơ học mà dễ dàng lãnh hội. Hiện nay Có tác phẩm Pháp giới duyên khởi lược thuật của cư sĩ Kim Lăng Cung Vân Bá biên soạn, đó là một tài liệu đơn giản mà dễ hiểu, phải nên đọc trước.
20- Hỏi: Số lượng của thần thức vô hạn và thường tăng lên hay giảm xuống, đó là vì lý do nào?
Trả lời: Nay đưa ra một thí dụ, xem nước trong biển lớn, lúc gió lớn thì sóng nước cuồn cuộn, lúc gió nhẹ thì lay động mặt nước mà thôi. Sóng biển tuy có nhiều ít nhưng nước trong biển không có tăng giảm.
21- Hỏi: Thức thứ hai năng biến là thức Mạt Na dịch là: ”Ý”, tợ như biểu hiện bên ngoài của thức thứ sáu, không có dịch tên nào khác hay sao? Tam thập tụng cho rằng: Thức này lấy tư lượng làm tánh tướng, vậy sao dịch là tư lượng?
Trả lời: Vấn đề này giải thích tường tận thì rất dài dòng, ở đây chỉ nói ý tổng quát thôi, khi lập tên gọi toàn bộ tám thức thì y cứ vào căn và thức để chỉ rõ nghĩa tương ưng và công năng của nó, tất cả gồm bốn loại. Năm thức đầu căn cứ theo sắc và căn mà lập tên gọi, thức thứ sáu căn cứ vào sự phát khởi của thức thứ bảy mà lập tên gọi, thứ thứ bảy căn cứ sự tương ưng mà lập tên gọi, thức thứ tám căn cứ vào công năng là lập tên gọi. Đầy đủ văn nghĩa của thức thứ bảy như sau: “Cật lợi sắt trá da mạt na”, dịch nghĩa là: “Ý ô nhiễm”, nhiễm ô là chỉ ngã tham, ngã sân, ngã ái và ngã mạn; bốn sự mê hoặc này thường có đầy đủ. Ý chỉ cho tính nắm bắt các duyên và tư lượng lấy thức thứ tám làm tự ngã, trong các luận gọi tên là Mạt na,tức là ý, đều là cách gọi tóm lược, nó không nhầm lẫn với thức thứ sáu. Nếu như dịch nghĩa là tư lượng, thứ thứ sáu đôi khi khởi tác dụng tư lượng. Nếu dùng từ không rõ ràng thì không diễn đạt hết nghĩa thức này.
22- Hỏi: Người sau khi chết chỉ còn lại thức thứ tám, có phải còn bảy thức khác do thức thứ tám này sanh ra lại hay không? Vui lòng hướng dẫn cho biết sách luận về duy thức học gồm mấy loại?
Trả lời: Tam Tế lục thô [3] vốn đã thành thục, chẳng qua người sau khi đầu thai mượn cái Thắng nghĩa căn[4] hiển thị tác dụng mà thôi. Nghiên cứu lĩnh vực Duy Thức thì trước hết nên xem tác phẩm Bách Pháp Minh Môn Luận và và tác phẩm Bát Thức Quy Củ.
23- Hỏi: A lại da thức còn gọi là tạng thức, tất cả các chủng tử đều được chứa trong đó. Sau khi người chết thức này sẽ chuyển sanh, đủ duyên sinh một đứa trẻ với tính cách tốt hay xấu tương ưng với kiếp trước của nó. Nhưng đôi lúc không chỉ như vậy, đứa bé mới sanh tốt hay xấu phần nhiều giống tính cách của cha mẹ nó, người ta bảo đó là do ảnh hưởng tính di truyền. Như thế thì các chủng tử kiếp trước đã mất hết tác dụng hay sao? Hay là các chủng tử đó chưa chín muồi?
Trả lời: A Lại da thức trải qua nhiều kiếp luân hồi, chứa nhiều vô số chủng tử thiện ác. Các chủng tử thiện ác đó sai khác nhau rất nhiều và không đồng nhất. Trong A lại da thức của cha mẹ hàm chứa các chủng tử. Tuy mang tính di truyền nhưng thần thức thai nhi vẫn mang đầy đủ các chủng tử khác cùng tương ưng với tập khí chủng tử cha mẹ. Cho nên khi gặp chủng tử cha mẹ làm tăng thượng duyên phát khởi hiện hành. Sau khi đứa trẻ ra đời, tính cách mới bắt đầu và tính cách của cha mẹ gióng nhau nên gọi di truyền. Các chủng tử hàm chứa trong thần thức đứa trẻ không giống cha mẹ của nó nhiều và không thọ tính di truyền. Nếu hiền lương thì như Thuấn Vũ, ngược lại thì như Quản Thái, Việc ấy ví dụ như vậy.
24- Hỏi: Các Pháp vô ngã, có phải là duy chỉ có A lại da thức là không sanh diệt nên không thể gọi là ngã hay sao?
Trả lời: A lại da là thức tạp nhiễm sinh ra từ vô minh làm sao mà có thể gọi là bất sanh bất diệt? Ngay khi dùng một từ ngã vốn có sự hạn định, không nên từ một phương diện thông thường mà luận bàn. Người đời thường không rõ chân như nên mê chấp có ngã, đó là thật điên đảo; Hàng nhị thừa dính mắc vào tướng không và mê chấp đó là vô ngã, cũng là vọng tưởng điên đảo.
25- Hỏi: Trong sách có nói rằng: “Thức A lại da khi vừa hình thành sự sống thì đến trước, khi chết thì xuất ra sau cùng, thức ấy là chủ nhân ông của chúng ta”. Căn cứ qua lời khai thị đăng trong tập san kì thứ hai mươi thì nói rằng, chủ nhân ông này cũng có khả năng thay đổi, không phải tồn tại bất biến, vậy cái gì là cái thể sự thọ báo ứng ba đời? Cái thể này có phải là cái không sanh không diệt không? Nó có thể gọi là chân ngã không?
Trả lời: Bản tính chân như vốn là không sanh diệt có thể gọi là chân ngã. Nhưng do ở trong vô minh nhiễm thành thức, thọ nghiệp báo ba thời.
26- Hỏi: Thần thức nhập thai là khi người phụ nữ bắt đầu mang thai hay là lúc sanh sản mới nhập vào?
Trả lời: Cả hai trường hợp có thể xảy ra, nhưng trường hợp nhập thai khi người phụ nữ mang thai là phổ thông nhất. Trường hợp sau xảy ra ngay khi người nữ sanh sản là đối với bậc cao đức đã tự tại không muốn thọ khổ trong thai ngục, nên có một thức thay thế nhập thai, đợi đến thời sanh sản trở lại chuyển đổi.
27- Hỏi: Có phải thức A lại da vãng sanh sau khi người chết vài tiếng đồng hồ, có phải khi thân thể lạnh rồi mới thực sự thoát ra hay không? những chúng sanh khác đều như thế hay sao?
Trả lời: Phải xem thời gian xả hơi ấm nhanh hay chậm mà luận, không phải trường hợp chúng sanh nào cũng giống nhau.
28- Hỏi: Duy thức học nói hai yếu tố ngã không và pháp không để hiển thị “Thắng nghĩa vô tánh”. Từ bản văn mà luận giải thì chưa rõ hết nghĩa, nhưng theo quan điểm nhà Phật thì tất cả pháp tuy huyễn mà còn pháp tánh, nói vậy thì trước sau như có vẽ mâu thuẩn, làm thế nào để giải thích? Hiểu như thế nào để được trọn vẹn?
Trả lời: Tánh là thật thể, ngã và pháp đều không có thật thể, cho nên nói: “Thắng nghĩa vô tánh”; nói cách khác là pháp tánh chân không gọi là viên thành thật tánh. Tánh này có hai tính chất là bất biến và tùy duyên. Bất biến là bản chất của chân không, tùy duyên tức có nương gá lẫn nhau khởi ra các tướng hư huyễn của pháp hữu vi, cho nên nói: “Tất cả Pháp tuy huyễn nhưng còn có pháp tánh”. Pháp tánh tức là “Chân không pháp tánh” và “Thắng nghĩa vô tánh”, cùng nghĩa mà khác tên.
29- Hỏi: Oán là một của mười tập nhân trong kinh Lăng Nghiêm có nói đến(Xem trong quyển tám kinh Lăng Nghiêm), làm chủ yếu của tâm pháp. Ưu là một trong năm món khổ của tâm pháp, Hỉ và Xả thuộc trong mười một tâm thiện. Ưu còn thuộc vào trong phiền não tâm sở. Nhưng thấy Đại Sư Thái Hư giảng về trăm pháp của Duy Thức học thì không xếp hai món tâm Ưu và Oán vào tâm sở pháp. Nếu chiếu theo luận thì tâm sở pháp trong Duy Thức học vẫn còn chưa đầy đủ phải không?
Trả lời: Tâm oán và tâm Ưu thuộc ở tâm sở hữu pháp, trong năm món biến hành có tâm sở Thọ, Thọ này có năm, Ưu thì thuộc yếu tố nhập. Trong tùy phiền não có ba tâm sở: Phẩn, Hận, Não; Oán đã thuộc yếu tố nhập. Tâm không dừng nghỉ trong từng sát na, chỗ nào cũng có, nếu căn cứ vào một quyển sách thì sẽ thấy chướng ngại. Cho nên bản văn trình bày theo phương pháp quy nạp, ngôn từ tuy đơn giản nhưng không thiếu sót ý nghĩa.
30- Hỏi: Hàng mở đầu của chương kinh Pháp Bảo Đàn có nói: “Nào ngờ tự tánh vốn thanh tịnh”. Đoạn cuối của chương này lại nói:”Tự tánh năng chứa vạn pháp, gọi là Tạng thức”. Tạng thức chính là A lại da thức, chân vọng hòa hợp, tại sao có hai câu nói về tự tánh không giống nhau? Có phải đoạn trước nói bổn tánh vốn thanh tịnh là thể, sau nói tánh ấy hàm chứa vạn pháp là dụng?
Trả lời: Chân như là thuộc bản giác, vọng do bất giác mà có vô minh, giống như vàng nằm ẩn trong quặng, tuy vàng và cát tuy một chỗ nhưng vàng vẫn là vàng và cát vẫn là cát. Chân vọng hòa hợp cùng bản tánh thanh tịnh chẳng có gì là mâu thuẩn. Công năng chứa đựng(Hàm tạng)là đứng về phương diện dụng mà nói, đúng như điều ông đã nêu trên.
31- Hỏi: Quan điểm Thiền tông là chỉ thẳng tâm người, kiến tánh tức thành Phật. Như trên đã nói, theo văn giải nghĩa, kiến tánh tức kiến A lại da của chính mình, kiến A lại da tức thành Phật. Trong Bát Thức Quy Củ nói trước quả vị Bất Động Địa mới xả tạng thức, sau địa vị Kim Cang Đạo mới không còn quả dị thục, như vậy ý nghĩa thế nào? Đệ tử có chỗ nghi vấn, kính mong thầy từ bi chỉ dạy.
Trả lời: Tánh là thuộc về thể, A lại da là thuộc về dụng. Như thau rửa mặt, nói cái thau là thể, khi nói thau rữa mặt là nói cái dụng của cái thau. Khi dùng rửa mặt nên gọi là thau rửa mặt, sau khi đổ nước không rửa mặt nữa cũng gọi nó là thau rữa mặt. Hiểu được lý này tức không còn nghi ngờ về tên gọi của Tánh và A lại da. Cho nên người xưa thường nói “Kiến tánh thành phật”, nếu nói “Kiến A lại da thành Phật” chắc rằng mọi người chưa nghe qua.
32- Hỏi: Trong mười hai chi phần nhân duyên, Ý nghĩa Hành trong Vô minh duyên hành của đứng trước chi phần danh sắc, vậy khi chưa có hình sắc làm sao có sự tạo tác của Hành? Xin khai thị điểm này.
Trả lời: Pháp có phân biệt sắc và tâm, Hành có phát khởi sắc tâm, Hành trong Vô Minh Hành là do tâm pháp sanh khởi chẳng phải Hành của bảy món biểu hiện nghiệp của thân và khẩu[5]. Tâm lại phân thành năng và sở. Vậy Hành ở đây lại là thuộc pháp của tâm sở.
33- Hỏi: Tám thức, mỗi thức đều có bốn phần, thế nào là Kiến phần, tướng phần, chứng phần và chứng tự chứng phần của thức thứ tám? Cái gì là Kiến phần, tướng phần, chứng phần và chứng tự chứng phần của thức thứ năm, thức thứ sáu và thức thứ bảy?
Trả lời: Câu hỏi này có nhiều vấn đề, tại sao không đề cập bốn phần của thức thứ một cho đến thức thứ bốn; nếu nói bốn phần của bốn thức mà hiểu được rồi thì có thể suy luận mà biết bốn cái sau. Câu hỏi tuy đơn giản, nhưng muốn biết bốn phần của bốn thức sau, xem ra đối với ý nghĩa bốn phần còn chưa hiểu rõ tường tận. Ở đây khó nói hết ý, tám thức này đối với hàng sơ cơ biết về thức thứ sáu, thứ bảy và thứ tám cũng còn mơ hồ, huống gì luận đến bốn phần là không dễ dàng. Tuy nhiên chỉ giải thích từ thức thứ tám trở xuống với ý nghĩa tổng quát thôi. Tướng phần của thức thứ tám là các chủng tử, kiến phần là thức thứ bảy. Thường biết về thức thứ bảy này là kiến phần của thức thứ tám, còn gọi là Tự chứng phần. Do đây khởi lên tác dụng của năng duyên, khảo chứng lại tự chứng của thức thứ bảy là kiến phần của thức thứ tám, xác nhận một cách đúng đắn, đây là Chứng tự chứng phần của thức thứ tám, các thức khác tương tự như vậy.
34- Hỏi: Sử dụng phương pháp nào để chuyển tám thức thành bốn trí? xin đưa ra bằng chứng để có thể nhận thức và dễ dàng vận dụng.
Trả lời: Cần tu Bát chánh đạo và sáu ba ba mật có thể chuyển thức thành trí. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng có thể chuyển thành Thành sở tác trí. Chánh tư duy, chánh tin tấn có thể chuyển thành Diệu Quán Sát Trí. Chánh Kiến, Chánh Niệm có thể chuyển thành Bình đẳng tánh trí. Chánh định có thể chuyển thành Đại viên cảnh trí. Bố thí và trì giới tương ưng Thành sở tác trí, Tinh tấn tương ưng với Diệu quán sát trí, Nhẫn nhục tương ưng Bình đẳng tánh trí, thiền định và trí tuệ tương ưng Đại viên cảnh trí; lại nữa, ba mươi bảy phẩm trợ đạo đều hổ trợ chuyển hóa tâm thức. Tứ chánh cần, Ngũ căn, Ngũ lực có khả năng hổ trợ chuyển năm thức trước, thất Bồ đề phần hổ trợ chuyển thức thứ sáu, Tứ niệm xứ hổ trợ chuyển thức thứ bảy,Tứ thần túc, Bát chánh đạo trợ chuyển thức thứ tám.
35- Hỏi: Trong bốn phần của Duy Thức, tự chứng phần là cái thể nương tựa của kiến phần và tướng phần (Theo bản Khởi Tín Luận Giảng Nghĩa của học giả Phạm Cổ Nông), chính là cái thể của A Lại Da Thức, vậy thì chứng tự chứng phần là cái gì?
Trả lời: Muốn hiểu rõ vấn đề này, tóm lược mà trả lời để cho dễ hiểu. Bốn phần đều là một hệ tâm thức, chẳng qua phân thành hai nhóm lớn như sau: “Tự thể, tâm vương, năng duyên” và “Khởi dụng, tâm sở, sở duyên”. Kiến phần thuộc trong ba yếu tố của nhóm trước, Tướng phần thuộc trong ba yếu tố của nhóm sau; khi khởi ra tác dụng của năng duyên trong đó lấy kiến phần làm sở duyên, gọi là tự chứng phần; nhưng khi khởi tác dụng của năng duyên trong đó lấy tự chứng phần làm sở duyên, gọi là chứng tự chứng phần. Thực ra, chứng tự chứng phần này là do tự chứng phần sanh khởi, đó là tính chất kiểm định chính xác lại mà thôi, thực chất vẫn lấy tự chứng phần làm thể, kiến phần làm đối tượng duyên trước và chứng tự chứng phần làm đối tượng duyên sau đều là tác dụng của nó(Tự chứng phần).Tự chứng phần như kết quả của bài toán nhân, Chứng tự chứng phần như tính chất bản cửu chương để kiểm tra lại kết quả đó, hai yếu tố này bổ sung cho nhau mà tồn tại
36- Hỏi: Bốn từ “Tâm Vương Tâm Sở” trong Duy thức luận giải thích như thế nào? Người mới học chưa hiểu rõ ràng, mong được chỉ giáo! Xin đưa ví dụ thực tiển chứng minh để hiểu một cách thông suốt hơn!
Trả lời: Tâm gọi là vua, nhân vì vua là đứng đầu cả nước lãnh đạo tất cả mọi việc, tâm cũng như thế. Nói gọn nghĩa tâm sở trong hai từ là “Sở hữu” là chỉ trong tâm còn có hơn mười loại tư tưởng thiện ác xen lẫn rất phức tạp cho nên gọi là “Sở hữu”. Nay đưa ví dụ để diễn đạt nghĩa đó: Giống như tác dụng những điều luật quốc gia phụ thuộc vào vua, ở đây tâm ví như vua. Luật lệ được vua phát ra có thể đưa đến tai họa hoặc là đưa đến phước lành cho người dân, nó có tác dụng sai biệt. Cho nên dụ cho các loại tâm sở phụ thuộc là “Sở hữu”.
37- Hỏi: Trong Duy Thức Tam Thập Tụng có chú giải yếu tố Vô Minh rằng: “Si mê làm chỗ nương gá của phiền não là nghiệp”; ý nói là phiền não nương vào si mê mà sanh, phiền não nương vào si mê mà trụ. Si mê là quán trọ, phiền não là khách đến ở, nếu dẹp bỏ quán trọ thì khách không còn có chỗ đến ở. Giải thích như thế có hợp lý không?
Trả lời: Bạn giải thích chỗ nương gá của phiền não, có nói “Mà sanh” và “Mà trụ”; sau đó lấy quán trọ dụ cho si mê, nghĩa lý này chưa đầy đủ, vì rằng quán trọ có thể tiếp nhận khách đến ở, không thể nói là quán trọ có thể sanh ra khách đến ở.
38- Hỏi: Lúc ngồi thiền những niệm thô không khởi nhưng giống như còn có tri giác vi tế. Vậy tri giác vi tế này là thuộc sự phân biệt của thức thứ sáu hay thuộc sự thấy biết của Tứ trong hai thiền chi Tầm Và Tứ? (Tầm là tâm niệm thô, Tứ là tâm niệm vi tế)
Trả lời: Vẫn là thức thứ sáu.
39- Hỏi: Diệu quán sát trí và ý thức được phân biệt như thế nào?
Trả lời: Khi vọng thì gọi là thức, chuyển vọng thành chân gọi là trí.
40- Hỏi: Thầy thường nói rằng: Người chết trong vòng bốn mươi chín ngày thì phải đi đầu thai chuyển kiếp, nhưng có người chết đã lâu hay vừa mới chết lại về báo mộng với con cháu và người thân, vấn đề này giải thích như thế nào? (Có lúc báo điều lành, có lúc báo điều dữ)
Trả lời: Người chết đã đi đầu thai vào lục đạo thời gian lâu mà người thân còn nằm mộng thấy người đó, vấn đề này có hai trường hợp xảy ra: Một là do người nằm mộng có lòng thương tiếc người đã chết và ấn tượng vào tâm thức khiến phát khởi hiện hành thành tướng trạng trong mộng. Giống như một người nhiều năm trước đã đi dạo núi, nay nằm mộng thấy núi ấy, chẳng phải núi ấy về báo mộng, thực sự đó chỉ là tác dụng ý thức của chính mình. Hai là người đã chết sanh vào cảnh giới ngạ quỹ, có cơ hội thì tiếp xúc với người còn sống.
41- Hỏi: Linh hồn và thân trung ấm khác nhau như thế nào? Nhưng người niệm Phật lúc lâm chung thì linh hồn vãng sanh hay là thân trung ấm vãng sanh?
Trả lời: Trung ấm còn gọi là trung hữu, có nghĩa khi thân này đã chết mà chưa sanh vào chỗ khác, thân trung gian giữa hai kiếp sống chưa định, người đời thường gọi đó là linh hồn, đúng là như vậy. Nhưng người vãng sanh Tây phương nhanh hơn thời gian co duỗi cánh tay thì không có giai đoạn trung gian. Chỉ có thể nói thần thức vãng sanh, không thể nói thân trung ấm vãng sanh. Đương nhiên cũng có trạng thái trung ấm vãng sanh nhưng đó là một trường hợp bất đắc dĩ, giống như chỉ một phần trong trăm ngàn phần mà thôi.
42- Hỏi: Pháp sư Khuy Cơ là một vị Tăng tu diệt tận định trong thời kỳ Pháp Phật Ca Diếp đã diệt, đến thời đại nhà Đường mới may mắn gặp duyên pháp sư Huyền Trang đi thỉnh Kinh, tức đã chuyển kiếp tái sanh vào Trung Quốc, mới mười sáu tuổi đỗ trạng nguyên, thời gian mê lầm an trú trong cảnh giả huyễn, bậc tu hành như thế mà còn mê khi cách ấm. Như vật thì trong thời gian dài tu thiền định như thế, thần thức đã từng đi đầu thai hay chưa? Giả sử không đi đầu thai thì trong lúc nhập định thần thức ở đâu?
Trả lời: Tu theo giáo pháp Bồ tát Đại Thừa chứng quả Thất địa trở lên mới không còn bị cách ấm. Thời gian tu định, thần thức tại trong cảnh định. Định là không bị loạn động, không đến, không đi, thời gian có thể dài có thể ngắn, động là chẳng phải định; không có trường hợp thần thức sanh vào trong cảnh giới Lục đạo.
43- Hỏi: Xin thầy giải thích về đạo lý Luân hồi?
Trả lời: Nếu thần thức chưa chuyển thành trí thì không tránh khởi Luân hồi, tạo nghiệp có thiện và có ác thì sanh vào lục đạo có thăng có trầm. Nghiệp thiện ác của chúng sanh rất phức tạp, tùy theo nghiệp lực mà chiêu cảm cảnh giới tương ưng, thiên biến vạn hóa. Đại khái là như vậy, biết điều này thì suy nghiệm được điều kia.
44- Hỏi: Xưa nay đối vấn đề sự tích cảm ứng hài cốt rất nhiều, nếu người sau khi chết, thần thức do nghiệp lực dẫn vào cảnh lục đạo luân hồi, Thế gian có câu: “Sống không nhận qủy, chết không nhận thây”, Vậy hài cốt làm sao có chuyện cảm ứng?
Trả lời: Cảm ứng hài cốt chỉ hạn định đối với người chết sanh vào đường ngạ quỹ, vì chúng quỷ thần cũng có một phần thần thông nhưng lại chấp vào thân kiến cho nên có duyên tương cảm về hài cốt, đó chẳng phải chuyện thông thường, sự thật cũng có yêu ma khác nương dựa vào hài cốt mà chúng ta khó biết rõ.
45- Hỏi: Hôm nay có người hỏi tôi về ý nghĩa ba hồn bảy vía, rốt cuộc phải trả lời như thế nào?
Trả lời: Hồn vía là vấn đề ngoài Phật giáo, có rất nhiều quan niệm về yếu tố đó. Trong nhà Nho gọi nó thuộc năng lực tinh thần, chuyển bên này biến hóa bên kia, vía hóa vía. Trong văn Dương Viết Hồn chú giải rằng: Nương vào phần linh ảnh là vía, nương vào linh khí là hồn. Y học cổ truyền lại nói hồn liên quan đến gan, vía liên quan đến phổi, cho rằng đó đều thuộc linh khí. Kinh sách nhà Nho nói về nội ảnh và có xác nhận có ba hồn bảy vía. Ngoài ra có nhiều thuyết bàn về hồn vía khác với quan điểm Phật giáo, đâu rảnh mà bàn chuyện đúng sai! Nhà Phật có nói về Tánh, do mê hoặc thì chuyển thành thức. Từ cái thức này mà các nhà ngoại đạo gọi là linh hồn. Thực ra, thức này càng mê thì càng xa tánh giác, từ một mà thành tám thức, nói ra tường tận mới hiểu, không thể vài lời mà giải hết cho bạn được.
46- Hỏi: Trung ấm thân có theo các căn(Phù trần căn) không? Nếu có thì không thể trở lại các căn của sắc thân giả làm duyên cho thấy, nghe, giác, biết; như xem ở người bị mù và điếc mất khả năng thấy và nghe thì có thể nói thân trung ấm có thức mà không có các căn không?
Trả lời: Đã gọi thân trung ấm có là có thân, tự nó có các phù trần căn, thân là một trong các căn. Sắc thân chẳng phải chỉ ở một loại thai sanh mà thôi, vì bốn loài chúng sanh đều có sắc thân. Vậy tác dụng của sự thấy, nghe, giác, biết chẳng phải chỉ thuộc ở phù trần căn, các căn chẳng qua là trợ thêm một duyên, duyên chủ lực là thuộc các tịnh sắc căn.
47- Hỏi: Trung hữu thân thật có không? Nếu có thì thể tướng của nó như thế nào? Nếu như trước khi nó chưa đầu thai thì nương vào chỗ nào mà tồn tại?
Trả lời: Hai từ “thật có”, phương diện học lý thì vạn pháp đều không, chỉ do nhân duyên sanh ra các tướng, trung hữu thân cũng không ngoài nguyên lý đó. Tướng của nó như người nhưng nhỏ hơn, dáng vóc nằm ngang hay nằm đứng thẳng và với nhiều loại khác nhau, Kinh Trung Ấm nói rất rõ về nó, khi chưa đầu thai nương thức mà tồn tại.
48- Hỏi: A lại da thức nương vào chân như không có đến và đi, vậy thì tâm thức đến đài sen như thế nào?
Trả lời: Cổ đức có câu nói:”Sanh thì quyết định sanh, đi mà thật không đi”, “Đi thì quyết định đi, sanh mà thật không sanh” có thể rõ điều ấy. Nếu chưa lĩnh hội được câu đó, nên nghĩ thêm rằng A lại da thức đã có thể đi vào lục đạo, tại sao lại không thể sanh về Tây phương?
49- Hỏi: Chuyển tám thức thành bốn trí, bốn trí thành tam thân. Mấy thức cộng thành một trí, chỉ riêng một thức nào mà thành một trí?
Trả lời: Năm thức trước tổng hợp nên thành sở tác trí; chỉ riêng ý thức thành Diệu quán sát trí, thức thứ bảy chuyển thành bình đẳng tánh trí và thức thứ tám chuyển thành đại viên cảnh trí.
50- Hỏi: Bốn trí chuyển thành ba thân, bao nhiêu loại trí thành một thân, riêng loại trí nào thành một thân?
Trả lời: Thành sở tác trí và Diệu quán sát trí cộng thành hóa thân; riêng loại bình đẳng tánh trí thành báo thân, đại viên cảnh trí thành pháp thân.
51- Hỏi: Nguồn gốc của chủng tử là mới sanh khởi hay là vốn có sẳn? Có phải chủng tử hữu lậu là mới sanh khởi? Có phải vô lậu chủng tử là vốn có sẳn hay không?
Trả lời: Chủng tử là một loại từ ngữ dùng diễn đạt công năng chẳng phải thật có như một vật thể. Các nhà Duy thức phân chủng tử có hai loại, thức thứ tám vốn không có đầu mối, gốc của nó vốn có chủng tử, về sau huân tập các tập khí ấn tượng vào trong thức thứ tám nên có chủng tử vừa huân tập, còn gọi là chủng tử mới sanh khởi; không kể là chủng tử hữu lậu hay vô lậu, đều có hai loại:loại có sẳn và loại mới huân tập.
52- Hỏi: A lại da thức là tuần hoàn không gián đoạn, vì sao thường khi bị hôn mê bất tỉnh mất đi tri giác, rốt cuộc không phải là đã có gián đoạn một lần hay sao?
Trả lời: Ở đây lấy con mắt làm ví dụ, ngay lúc sáng suốt trong sạch không bị bệnh, dụ cho cái gốc của thể tánh chiếu soi tất cả vạn vật đúng như thật tướng; Một khi mắt bị phát bệnh dụ cho A lại da khả năng nhận biết không đúng sự thật nên không thấy rõ chân tướng vạn vật. Nếu khi nhắm mắt hoặc đang ngủ thì không thấy gì, thật sự lúc ấy không khởi tác dụng cái thấy nhưng chẳng phải con mắt bị đoạn diệt, suy nghĩ việc này có thể hiểu rõ.
53- Hỏi: Phật dạy rằng: Tất cả động vật đều có Phật tánh, đã có Phật tánh thì có thần thức. Lại nói: Nhìn trong một bát nước thấy có tám vạn bốn ngàn vi trùng, hiện nay các nhà khoa học dùng kính hiển vi chiếu soi thì quả thật không sai; nhưng có người lại hỏi, nếu bát nước này đổ xuống đất, thế là có nhiều tâm thức của vi trùng hay không? Nếu có nhiều thần thức, vậy thì một bát nước thì có thể biến thành quá nhiều vi trùng?
Trả lời: Thần thức vô hình, nương tựa vào thân hữu hình. Nếu thừa nhận một bát nước có tám vạn bốn ngàn thân vi trùng, sao còn nghi hoặc con số tám vạn bốn ngàn thần thức. Thần thức trong một bát nước không hiện rõ nhiều, nếu đổ nước ra mặt đất nghĩ thấy quá nhiều. Nước rơi xuống đất, thân trùng bị chết thì thần thức chuyển nương chỗ khác sanh, nghĩa lý ấy quá rõ ràng. Nên biết trong hư không pháp giới chỉ trong một sát na có hằng hà sa số không thể nói số lượng chúng sanh trong bốn loại: Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh bị chết; lại có hằng hà sa số không thể nói số lượng chúng sanh trong bốn loài xả thân chỗ này đầu thai hay sanh ở chỗ kia, điều đó cũng dễ hiểu.
54- Hỏi: Kinh Phật nói:”Người chết trong vòng bốn mươi chín ngày thì tùy theo nghiệp lực của mỗi người mà sanh vào cảnh giới tương ưng với nghiệp lực của họ. Còn có trường hợp, khi cơ duyên đầu thai chưa chín muồi, thường ở trong hư không giới trôi nỗi không chỗ nương tựa.” Nhưng mà người ta thường nói: “Ở phần mộ thường phát hiện tượng qoái lạ”. Đây có phải người trong lúc còn sống quá ư chấp trước, mê đắm sắc thân cho nên linh hồn cứ bám víu không rời, cho nên mới có hiện tượng đó xuất hiện phải không?
Trả lời: Trong vòng bốn mươi chín ngày, gọi là “Thân Trung Hữu”, Trãi qua cuộc phiêu du trong hư không, hoặc hiện tướng quái lạ, thì trường hợp người đó đã sanh vào cảnh giới ngạ quỹ. Lại còn tâm luyến ái phần mộ của chính mình là do chấp “Thân kiến” mà có.
55- Hỏi: Phàm phu nương thần thức để đầu thai, nếu như Phật và Bồ tát vì nguyện lực tái sanh, nếu như không dùng thần thức đầu thai, không rõ cách nhập thai như thế nào?
Trả lời: Tánh mê gọi là thức, Thức giác gọi là trí, thức là còn trói buộc vì nghiệp lực nên không được tự do, cho nên có thọ báo từ nguyên nhân trong vòng sanh tử là nhập thai và xuất thai. Bồ tát có nhiều cấp độ, tùy theo sự phân định nên chưa nói hết được. Nhưng Bồ tát từ thất địa trở xuống còn tồn tại thức, tùy nguyện nhập thai, dùng hóa thân để nhập thai, nếu không thì dùng Như Lai Tạng gồm thức và trí mà nhập thai. Nếu như Phật hoặc bậc Đẳng giác đã chuyển thức thành Đại Viên Cảnh Trí, pháp thân bất động, hóa thân vô lượng, dùng hóa thân mà nhập thai. Giống như trường hợp biến hóa loại chim nói pháp trong Kinh A Di Đà, theo đó mà biết.
56- Hỏi: Thần thức của bốn loài thai sanh, noãn sanh, thấp sanh và hóa sanh là giống nhau hoặc có phân biệt lớn nhỏ. Thí dụ như loài súc sanh hổ, sư tử, voi có hình dạng to và khỏe; con kiến con sâu thì dạng nhỏ và yếu; vậy thần thức của chúng vốn có giống nhau không?
Trả lời: Thể tánh giống nhau, thần thức sai biệt, thần thức ô nhiễm sâu cạn của các loài khác nhau, nếu luận to nhỏ thì đều không nghĩ bàn, có lớn bao nhiêu cũng không ngoài tâm thức ấy, không hạn định thọ thân hình lớn hay nhỏ. Cho nên các loài hổ, sư tử, voi to lớn và mạnh khỏe, con kiến con sâu nhỏ và yếu đuối, vẫn là quan hệ thể lực và hình trạng, thần thức không vì đặc điểm ấy mà có thêm hay bớt.
57- Hỏi: Chúng sanh vì nghiệp lực trói buộc, vậy khi kết thúc báo thúc sanh mạng thì phải đọa vào địa ngục hay không? Có phải yếu tố thọ nhận quả báo do nghiệp lực này là thức thứ tám hay không? Chúng sanh đi nhận quả báo là chủ động đi hay bị động? Nếu chủ động thì nhất định đi tìm cảnh giới tốt và lánh xa cảnh giới xấu? Nếu là bị động thì làm sao trong hằng hà sa số chúng sanh mà biết tìm ra chủ nợ để đền tội báo?
Trả lời: Không ra khỏi cảnh lục đạo luân hồi thì tâm thức có thể nhập vào địa ngục, như người ở chung trong nhà thì thường phải gặp lại nhiều lần. Thức thứ tám là chủ nhân ông, nghiệp lực là hạt gióng được chứa trong thức thứ tám, khởi lên hiện hành, gọi là năng lực của nghiệp giống như dây trói ràng buộc thức thứ tám thăng trầm trong lục đạo, đây là nguyên nhân chính yếu; trả nợ oan gia chẳng qua là cái duyên bên ngoài mà thôi.
58 Hỏi- Khoa học cận đại phát minh tất cả quy tắc và nguyên lý; y theo kinh Phật thì vẫn thuộc khả năng phân biệt của thức thứ sáu thì chẳng phải là lý tuyệt đối. Nhưng nếu ứng dụng nó vào thực tế thì phù hợp với sinh hoạt văn minh vật chất, như học môn toán học có thể đo độ cao của núi, độ sâu của nước, biến đổi hành tinh, điều này quá ư rõ ràng. Hiệu quả như vậy, cũng gọi là hư vọng hay sao?
Trả lời: Vọng là vọng niệm mê hoặc, cho đến cảnh giới hư vọng bên ngoài. Cảnh đã không thật, tính toán nhiều cách cũng là lấy vọng duyên vọng. Núi cao, nước sâu vốn là cảnh giả, môn toán học tính toán cũng thực dụng, nhưng không qua sự kiểm soát hành vi trật tự của tâm.
59- Hỏi: Chúng sanh chết không diệt, tùy theo sự tạo nghiệp thiện ác chịu lang thang trong lục đạo luân hồi, nhưng từ vô thủy đến nay, thần thức của chúng sanh có tăng hay giảm? Nếu như không có tăng giảm, nhưng khi tu hành đạt đến địa vị Phật và Bồ tát thì không còn đọa lạc luân hồi, thì rõ ràng là có giảm; Như sinh vật tăng trưởng không ngừng, y số lượng tăng thêm với cấp độ như thế nào thì biết là tăng. Nếu gọi là có tăng giảm, nếu tăng thì từ đâu đến, nếu giảm thì đi về đâu?
Trả lời: Ở đây xin lấy không khí làm ví dụ, không khí khi gặp khí hậu nóng và lạnh lưu chuyển không ngừng, trong quá trình lưu động đó chiếm vạn không gian căn nhà. Như vậy, trong mỗi căn nhà đều chứa đầy không khí, nếu như bớt đi ngàn căn nhà thì có thể nói bớt đi ngàn gian không khí không? Nếu kiến lập tăng thêm mười vạn gian nhà, cũng không thể nói tăng thêm mười vạn gian không khí. Tâm thức chúng sanh giống như không khí trong nhà có phần thơm, thúi, nóng và lạnh. Ví dụ, không khí nhà anh A lưu chuyển sang nhà anh B, nhà anh B lưu chuyển qua nhà anh C, triển chuyển không ngừng. Không khí vô lượng vô biên trong tam thiên đại thiên thế giới đến chỗ này đi chỗ kia. Nên biết hư không này rộng lớn, vấn đề tăng giảm có thiết lập hay không? Tánh của Phật và Bồ tát giống như bản năng không khí bên ngoài căn nhà, không có mùi vị thơm hay thối, cũng không thọ biến đổi nhiệt độ nóng hay lạnh.
60- Hỏi: Bậc thánh nhơn không mộng tưởng có tương tợ với trạng thái như như bất động của nhà Phật hay không?
Đáp: Trình độ thánh nhân cũng có các bậc sai biệt, trạng thái như như bất động đương nhiên là không còn mộng tưởng, nếu chỉ đạt trạng thái không còn mộng tưởng cũng không thể cho rằng là đã chứng như như bất động.
61- Hỏi: Trong thế gian có thánh hiền, có hạng ngu trí và tầm thường, căn tánh vốn sai biệt. Lại có người giàu sang hay nghèo hèn, người có mạng sống lâu dài hay bị chết yểu, tất cả có quả báo khác nhau. Cho đến tất cả chúng sanh bao gồm thai sanh, noãn sanh, thấp sanh và hóa sanh sống ở đất liền hay dưới nước đều có nhiều loại. Nếu như do vô minh làm cái duyên đầu tiên đưa đến cảnh luân hồi sanh tử, như vậy có phải là chân như thật tướng có nhiều thể loại khác nhau, như thể chất của kim loại thì cảm ứng điện từ, thể chất của cây gỗ thì đốt cháy. Cái gọi là vô minh cũng có nhiều thuộc tánh khác nhau, gióng như điện, như lữa và nhiều loại khác nhau ngay khi mới hình thành thế gian. Thứ hai là chúng sanh có nhiều hình tướng sai biệt đều do nghiệp lực mỗi loài mà tạo nên, tức là do đầu tiên của yếu tố vô minh. Nếu tạo nghiệp thiện thì có quả báo thiện, nếu tạo nghiệp ác thì có quả báo xấu ác, phân biệt như thế nào? Thứ ba, Duy thức luận có nói: “Vô minh huân tập chủng tử, chủng tử sanh hiện hành”. Lập luận vô minh làm nhân đầu tiên nên có hai tính chất thiện ác. Nếu do huân tập mà có, nếu duyên điều thiện thì trãi qua nhiều kiếp có thể thành Phật, nếu duyên điều ác thì bị đọa lạc địa ngục càng sâu nặng. Nếu có hai cảnh giới thánh nhân và và địa ngục, thì tại sao có sự phân biệt cảnh chư thiên, cảnh A tu a, cảnh súc sanh và cảnh ngạ quỹ, cho đến trường hợp người chết đầu thai làm con dê, con dê chết đầu thai thành người, thay đổi ăn nuốt lẫn nhau. Thứ tư, Giả sử ban đầu chân như thật tướng giống như một tấm vãi trắng, vô minh dụ như một chậu chứa nhiên liệu nhuộm đủ các màu sắc, do điều kiện nhuộm khác nhau mà có các màu sắc khác nhau. Nếu theo nhà thiền nói: “Tất cả do tâm tạo”, vậy ai là người tạo các màu sắc ban đầu và cái chậu chứa nhiên liệu nhuộm? Xin chỉ giáo.
Trả lời: Câu hỏi này có bốn đoạn, nay phân biệt để trình bày cho rõ ràng. Đoạn đầu hỏi về “Tối sơ vô minh”(Vô minh là yếu tố có đầu tiên), Phật học chỉ nói: “Vô thủy vô minh”(Vô minh không có ban đầu), chứ không nói là vô minh là có đầu tiên. Không có cái nguyên nhân đầu tiên, huống gì nói có nghĩa ban đầu. Nay đưa một vật ra truy cứu, truy tìm tận cùng thì chắc chắn khó thấy cái yếu tố ban đầu trong đó. Người ta thường nói cái ban đầu là cách nói tạm thời mà thôi. Thứ hai là câu: “Thật tướng chân như phải có nhiều cái thể khác nhau”, thật tướng chân như không có nhiều thể khác nhau, do nhiễm có sâu và cạn nên lưu chuyển có tiến và lùi, cho nên hình thành vạn loại. Kế đến đoạn: “Các tướng thiện và ác làm sao mà phân biệt”, tánh thiện, tánh ác đều có đủ trong ba phẩm loại nghiệp bậc thượng, bậc trung và bậc hạ; hoặc là trước thiện sau thì ác, trước thì ác sau thì thiện, nên vô minh khởi thì thấy đủ duyên phần và hoàn cảnh, hình thành duyên thiện và duyên ác thành nhiều loại khác biệt, không thể suy lường hết. Đoạn ba câu nói: “Nên chỉ có hai cảnh giới thánh và cảnh địa ngục…” Hai cảnh thiện ác nói tổng quát thì có thượng, trung và hạ, nếu nói tường tận thì có nhiều đẳng cấp. Cái nhân đã phức tạp như vậy thì kết quả làm sao chỉ đơn giản có hai cảnh thánh và địa ngục. Bậc thánh còn có bốn quả vị thanh văn, Bồ tát còn có năm mươi hai địa vị khác nhau. Địa ngục cũng căn bản có nhiều loại như cận biên, cô độc. Tuy nói hai cảnh thánh và địa ngục nhưng trong đó không giống nhau. Đoạn cuối đã nói: “Tất cả do tâm tạo” Vậy sao đặt câu hỏi ai tạo! Xin vui lòng tự hiểu.
61- Hỏi: Theo tông Duy thức thì tu hành như thế nào? Đến lúc lâm chung đi về đâu? Có phải sanh về thế giới Tây phương?
Trả lời: Tu theo Duy thức chỉ là quán sát, nói đến tường tận rất là phức tạp. Đầu tiên phải hiểu nghĩa lý năm pháp quán ba tự tánh, ba tánh ấy là “Biến kế sở chấp”, “Y tha khởi” và “Viên thành thật”. Ý nghĩa ba tánh ấy như thế nào, ở đây không thể nói hết, chỉ giới thiệu tên, chỉ nói thứ tự cho biết mà thôi. Hành giả phải quán sát ba tánh ấy, từ cạn đến sâu. Lại thêm năm món khác, một là: Bỏ hư vọng thì hiện chân thật (Khiển hư tồn thật), ở đây vẫn là pháp quán tương đối về hư và thật. Hai là: Xả tạp vọng nhiễm lưu thuần tịnh(Xả lãm lưu thuần), đây vẫn là pháp quán về tâm và cảnh tương đối). Ba là: Nhiếp ngọn trở về gốc ( Nhiếp mạt quy bổn), đây vẫn là pháp quán thể dụng tương đối. Bốn là làm mất hạ liệt hiện thù thắng (Ần liệt hiện thắng), đây là pháp quán tâm sở tương đối. Bốn là: Bỏ tướng trở về tánh (Khiển tướng quy tánh), đây là pháp quán tương đối về sự lý. Đến đây là xong. Bốn pháp quán đầu là xả bỏ “Biến kế sở chấp” trở về pháp quán: “Y tha khởi”. Pháp quán sau cùng là xả bỏ “Y tha khởi” để chứng đắc “Viên thành thật”, viên thành thật là tên khác của chân như, còn gọi là Đại viên cảnh trí. Phát nguyện sanh Cực lạc thì được sanh, nếu không có nguyện ấy thì không sanh.
62- Hỏi: Trường hợp lỗ tai bị điếc mất khả năng nghe là tai có bị bệnh; nhưng trường hợp lỗ tai không bị bệnh gì tại sao khi chúng ta đang ngủ cũng không nghe được âm thanh?
Trả lời: Lỗ tai là thuộc về căn, khả năng nghe thuộc về thức, căn và thức đều có chủng tử trong A lại da. Chủng tử có công năng tịnh chỉ và hiện hành, âm thanh là thuộc tướng phần, khả năng nghe thuộc về kiến phần. Kiến phần duyên tướng phần tức là thức nương vào căn mà nắm lấy nhân duyên đó. Bất luận là nghe hay nhìn đều phải mượn duyên để phát khởi chủng tử của thức và chủng tử của căn cùng nương tựa vào nhau phát khởi hiện hành khả năng nghe và thấy. Nếu không có duyên tịnh chỉ thì không có khả năng nghe và thấy. Cho nên lúc ngủ mất các duyên đó và thức không nương vào căn được nên không có khả năng nghe.
63- Hỏi: Thầy thường dạy rằng, chúng ta làm việc lành với thể không tam luân, hạt giống nghiệp không lưu dấu trong tâm thức (Người chuyên làm việc xấu ác lại không biệt hỗ thẹn. Ví dụ như tín đồ ngoại đạo nói: “Loài súc sanh là để cho con người ăn, cho nên họ chủ trương giết vật ăn thịt mà trong tâm không một chút ái ngại, trường hợp đó trong tâm thức tựa hồ như hạt giống nghiệp chưa lưu dấu, như vậy có tội không?
Trả lời: Tam luân thể không vẫn là một pháp hành không chấp tướng, chúng ta nghe pháp và đang tu đây chỉ là công phu đầu tiên, tu thiện mà tâm chưa tự tại, vẫn còn lưu dấu pháp trần trong tâm thức. Tu hành với công phu sâu hơn tâm thức như cảnh vật qua gương soi, cảnh đối trước gương thì bóng hiện, cảnh vật dời đi thì bóng không còn, đạt cảnh giới đó mới gọi chân thể không. Ngoại đạo không rõ thể tánh, chưa từng nghe pháp không và vô tướng thì nhất cử nhất động đều ghi bóng trong tâm thức. Sát sanh ăn thịt mà trong tâm không chút ái ngại chứng tỏ còn si mê không rõ tội phước, chẳng phải là thể tánh không nhiễm chân không. Những thực phẩm có các loại thịt, có đủ các loại máu huyết trong cảnh dao thớt và nấu nướng, đầy đủ các mùi vị khiến mọi người tham lam, mê mờ nhân quả. Những thực phẩm và tâm niệm luôn luôn tương ưng mà tập nhiễm, tại sao nói là trong thức thứ tám không huân tập hạt giống nghiệp đó.
64- Hỏi: Do vô ý hay gián tiếp tạo nghiệp mà bản thân mình không biết, hạt giống nghiệp làm sao mà nhập vào được trong thức thứ tám?
Trả lời: Do vô ý mà tạo tác thì vấn đề tội phước chưa phân biệt, với sự kiện do thân khẩu ý tạo ra, tức có niệm khởi thì hạt giống nghiệp sẽ lạc vào trong thức thứ tám. Tất cả mọi sự tạo tác đều có đủ tánh thiện và tánh ác, thiện ác ở trong sự việc, sự việc ở trong tâm niệm, tâm niệm ở trong tâm thức. Thử hỏi hạt giống thiện ác rơi vào chỗ nào? Chẳng qua dù cố ý hay vô ý thì tội ấy cũng phân ra có lực mạnh hay yếu, cho nên khi khởi lên hiện hành thì có phân biệt tội báo nặng hay nhẹ.
65- Hỏi: Giải thích như thế nào về ý nghĩa duyên hình bóng sáu trần trong tâm thức?
Trả lời: Năm thức của Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, theo duyên bên ngoài tương ưng với năm trần là: Sắc, thanh, hương, vị, xúc thì chủng tử ấn vào trong tâm thức thức tám, gọi là nội pháp trần. Ý thức hướng vào bên trong duyên với hình ảnh đó, tính toán và phân biệt ba thời tương tục, sự mê hoặc phát khởi như lữa cháy. Nên biết thức vốn huyễn vọng, nhân căn trần mà khởi, nếu căn cách li trần thì thức không phát khởi. Phàm phu không liễu ngộ tâm mình, ngộ nhận ý thức là tướng của tâm, gọi là duyên hình ảnh của sáu trần.
66- Đáp: Độc đầu ý thức có chức năng như thế nào?
Trả lời: Trong tám thức, ý thức có năng lực rất lớn, cùng với năm thức trước theo duyên bên ngoài, gọi là Ngũ câu ý thức, lại còn duyên với pháp trần bên trong gọi là Độc đầu ý thức.
67- Hỏi: Nguyên nhân nào mà có thức?
Trả lời: Mê bản tánh là thức, mê tức là nhân duyên của thức.
68- Hỏi: Căn cứ “Bát thức quy củ tụng thích luận”, nói Sắc căn là tăng thượng duyên, sắc trần là sở duyên duyên. Khi căn và trần giao thoa với nhau sanh ra sự thấy biết của thức về tướng phần; nói cách khác, thấy biết về cảnh thì cảnh đó là do thức biến không phải là cảnh của sắc trần. Cảnh sắc trần thật bên ngoài không phải do thức biến, ở đây không phải trái ngược với đạo lý vạn pháp do thức biến của Duy thức hay sao?
Trả lời: Thức và vạn pháp chẳng phải một và chẳng phải hai, như nước và sóng chỉ có tướng bên ngoài khác nhau mà thôi. Trong tám thức đó ví như một cây cổ thụ, thức thứ tám là gốc cây, thức thứ bảy là thân cây, thức thứ sáu và năm thức trước là cành cây. Tuy nói là tám thức nhưng thực sự ra từ một thức mà biến thêm bảy thức. Thức thứ tám hàm chứa tất cả các chủng tử, biến hiện thành sanh mạng và môi trường sự sống, nói vạn pháp duy thức là giải thích rõ gốc tướng trạng của căn và thức. Thức thứ sáu là chủ sự phân biệt do năm thức đầu duyên với trần cảnh mà khởi. Khi khởi lên phân biệt thì phân thành kiến phần và tướng phần, đó là tác dụng của thức vậy. Khi căn trần không duyên thì không có tác dụng tiền ngũ thức, tác dụng không khởi nhưng chẳng phải không có năm thức trước. Khi căn trần giao thoa mà sanh thức là giải thích tướng trạng chi nhánh của thức.
69- Hỏi: Xin chỉ giáo về đạo lý Tâm tạo ra cảnh giới?
Trả lời: Đạo lý tâm tạo ra cảnh giới, thật khó giảng rõ khi dùng vài lời ngắn gọn, giáo lý về hai tông tánh và tướng đã từng nói về vấn đề này. Nếu nói tóm lược và không đi vào chi tiết thì khó nắm được ý nghĩa quan trọng của nó. Theo những lời giải đáp trước có thể hiểu khái quát về đạo lý tâm tạo ra các cảnh giới.
70- Hỏi: Ba cõi duy tâm, vạn pháp duy thức, đạo lý tâm và thức có gì khác nhau.
Trả lời: Ba cõi duy tâm là nói đến phần năng(chủ thể), vạn pháp duy thức là nói đến phần sở(đối tượng), chủ thể là lấy niệm khởi làm thể, đối tượng là cảnh được nhận thức. Thực ra hai câu này có sự diễn đạt riêng của nó, nên thấy ý nghĩa tâm thức tương tự như một. Nếu như không dùng câu nói trên, khi diễn đạt về pháp tướng thì tâm là A lại da thức, thức là sáu thức khi căn trần tiếp xúc với nhau, vậy thì tâm và thức có nội dung khác nhau.
71- Hỏi: Xin hỏi thân thể con người sau khi bị gây mê tâm thức ở chỗ nào? Thức thứ tám có bị lạc mất cảnh tượng hay không? Vì sao bị lạc?
Trả lời: Thức đợi nhân duyên mà khởi, nếu không khởi là do lúc đang hôn mê các căn tạm thời mất tác dụng, lúc ấy thức chỉ tạm thời không khởi mà thôi. Công năng thức thứ tám dung chứa chủng tử. Thức nương vào căn, đợi đủ duyên mới khởi. Lúc hôn mê các căn tạm thời mất tác dụng, thức không đủ duyên nằm ẩn đó mà không khởi. Công dụng của thức thứ tám vốn là dung chứa, thức thứ bảy nắm giữ các duyên, là đều thuộc tư tưởng, tư tưởng có tập khí của nó, có tập khí thì có ấn tượng trong tâm thức. Ngôn ngữ hiện đại, danh tức là ấn tượng, ấn tượng sâu cạn quan hệ với trí nhớ sâu hay cạn, từ điều này mà suy luận ra đạo lý ấy.
72- Hỏi: Ban ngày suy tư điều gì, ban đêm mộng điều ấy, lúc vào giấc mộng thì có phải thần thức đi đến chỗ nào đó phải không?
Trả lời: Thần thức tức là dung lượng của tâm, rộng lớn bao trùm vô cùng, tất cả các sự vật đều chứa trong đó, lúc vào giấc mộng là chủng tử khởi hiện ra, vì đó là hiện tượng của thức, cho nên thức chẳng có đến đi, cái gọi là bóng dáng của sáu trần, mộng là một sự kiện như vậy.
73- Hỏi: Từ đầu đêm đến sáng mai không nằm mộng, không biết thời gian đó thần thức nằm ở đâu?
Trả lời: Nên biết thần thức gồm có thể và dụng, thể của nó vốn là do khi mê lầm và theo vọng tâm, dụng tức là khởi sự phân biệt. Lúc tỉnh ngủ thì theo duyên vọng niệm, lúc ngủ say thì mộng tưởng điên đảo, các hiện tượng này đều thuộc tác dụng của thức, như thế tác dụng của thức lại có hai trạng thái ẩn phục và hiện khởi. Ẩn phục là tiềm ẩn không có điều kiện sanh khởi tác dụng của thức, tuy ẩn nhưng chẳng mất công năng của tác dụng. Khởi là theo điều kiện sanh khởi tác dụng, tuy khởi nhưng vẫn thuộc thể không. Nay đưa ra ví dụ cho dễ hiểu: Khi dùi chuông đánh vào cái chuông thì âm thanh được phát ra, thật ra âm thanh không có tự thể. Khi dùi không đánh vào chuông thì không có âm thanh phát ra. Suy tìm tường tận, chẳng phải không có âm thanh. Nếu thấu hiểu điểm này, nếu có mộng thì sanh khởi tác dụng của thức, khi không có mộng thì tác dụng của thức ẩn phục.
74- Hỏi: Vấn đề thức thứ sáu và thức thứ bảy, khi xuất hiện một niệm (Niệm tưởng), cái nào có trước? Cái nào có sau? Hay là cùng khởi lên một lần, hay là không có sự trước và sau? Có phải một niệm khởi đầu tiên là từ thức thứ sáu? Nếu thức thứ bảy cùng nương tựa vào niệm khởi thì thức thứ bảy là đầu tiên? Tóm lại, khi khởi lên một niệm tưởng là do tác dụng của thức nào trước, hay là không có phân biệt trước sau?
Trả lời: Thức thứ bảy gọi là hằng tư lượng (Tư duy và suy lượng), diễn biến liên tục không ngường, thức này do căn bản của vô minh mà sanh tướng phần, lại còn tiếp nhận thêm từ thức thứ sáu, mà tác dụng thức thứ sáu là phân biệt và lúc thì hiện hữu lúc thì vắng mặt. Thứ hai, luôn nhớ nghĩ, vừa dừng niệm này lại tiếp tục niệm sau, vì vậy rất khó so sánh và thấy được thức nào trước và thức nào sau. Nếu như phân tích rõ ra thì thức thứ bảy hiện khởi trước, thức thứ sáu hiện khởi sau. Hiện khởi trước là lúc ban đầu niệm tưởng khởi, Hiện khởi sau là sau khi niệm khởi.
75- Hỏi: Tại sao “Sanh khởi của sắc pháp phải có hai duyên, nhân duyên và tăng thượng duyên”? Tại sao “ Tâm pháp thì phải hội đủ bốn duyên?
Trả lời: Tâm pháp là tám thức, các thức sanh khởi phải y theo chủng tử, cho nên phải có nhân duyên. Tâm và tâm sở tương tục không gián đoạn, nếu đoạn thì không sanh khởi, nếu sanh thì không đoạn, nên có vô gián duyên. Duyên lự của thức vẫn nhờ tự cảnh của thức mà khởi, duyên lự vào tự cảnh của chính nó, nên gọi là sở duyên duyên. Nương vào pháp khác mà làm duyên giúp sức, hoặc đoạn trừ chướng ngại, làm cho thức sanh khởi dễ dàng và có cơ hội tốt, nên gọi là tăng thượng duyên. Trường hợp này bốn duyên liên quan với nhau, thiếu một duyên cũng không sanh khởi. Sắc là biến tướng của tâm và tâm sở mà thành, khi có tướng thì có thể luận từng giai đoạn, tự nó thành một nhân, còn giữ thức mà trừ duyên nương tựa thì nó hiện bày.
76- Hỏi: Chứng bệnh phân liệt tâm thần tạo ra các nghiệp hoặc cố ý hoặc vô ý, hoặc thiện hoặc ác, tương lai gặp nhân duyên thì có khởi hiện hành không?
Trả lời: Khởi hiện hành là từ chủng tử trong tâm thức con người. Chủng tử này có tồn tại từ đời trước và đời này, gặp duyên thì phát khởi. Sự tác động của căn bệnh tâm thần cũng phân thành trạng thái còn tỉnh và mê loạn. Như người say rượu, chẳng đầy đủ lý trí, lúc tỉnh thì có ý thức xen vào và ấn tượng vào tâm thức, trạng thái cuồng điên tâm thức là vô ý thì không ấn tượng vào trong tâm thức. Có ấn tượng thì có chủng tử, gặp duyên thì khởi hiện hành, không có chủng tử thì làm sao mà có hiện hành. Ở đây chỉ nói tình trạng căn bệnh, nếu bệnh chưa lành hẳn thì sẽ phát sanh trở lại, chủng tử hiện hành thì định kết quả.
77- Hỏi: Mỗi người trong giấc mộng thấy hình ảnh các sự vật, sau khi tỉnh giấc cảm nhận những hình ảnh ấy giống như thật, nhưng thật ra đó là không phải thật, có phải hình ảnh trong mộng là tác dụng phát khởi của các chủng tử thức thứ bảy và thức thức tám của chúng ta hay không? Đối với nhân quả có quan hệ như thế nào?
Trả lời: Tuy những cảnh trong mộng đó là không thực, có lúc cũng ấn tượng thành chủng tử trong tâm, vấn đề xem cảnh mộng đó ấn tượng trong tâm lý sâu hay cạn mới xác định thành chủng tử hay không. Chủng tử có năng lực, gặp duyên thì phát khởi mầm thành nhân. Trường hợp khởi mầm nhân là khi giấc mộng xảy ra có hình ảnh và nội dung trùng lặp với giấc mộng lần trước. Có người nói cảnh huyễn mộng đó không thực thuộc vô ký, không thể tạo thành kết quả. Cảnh mộng liên hệ với tướng cảnh giới, nếu không trải qua sự “Liên tục”,“Nắm giữ”,“Lập danh tự” và “Khởi nghiệp” thì sẽ không sanh quả báo về sau.
78-Hỏi: Có phải từ vô thủy đến nay Phật tánh đã bị nhiễm vô minh hay không? Hoặc giả là có phật tánh bất động thanh tịnh bỗng nhiên sau lại bị nhiễm vô minh? Phật pháp là siêu việt thời gian và không gian, nếu trả lời cho người sau này hiểu rõ thì chắc rất khó trình bày?
-Trả lời: Phật tánh và vô minh đều từ vô thủy mà có. Vô thủy là không thể nói ban đầu của nó. Phật tánh bất động vắng lặng đột nhiên nhiễm vô minh, nhiễm từ lúc nào nói ra không cùng tận, gọi là vô thủy.
79- Hỏi: Do hết thảy thức thứ tám đến thức thứ nhất đều là vô minh, như thế sự tồn tại khách quan của vũ trụ là có thật hay sao? Hay là giả? Sự tồn tại khách quan của vũ trụ chính là lý thuyết này cho rằng vũ trụ sanh ra cảm giác của người và sự vật, vậy vũ trụ làm sao sanh ra cảm giác con người? Làm sao sanh ra sự vật nữa?
Trả lời: Vũ là không gian, trụ là thời gian, hai yếu tố này chẳng phải là sự vật, đó là hai phạm vi bao hàm sự vật. Đây là cảnh, tâm ta khởi niệm theo cảnh cho nên nói: ”Sanh ra cảm giác con người”
80- Hỏi: Tất cả do tâm tạo, câu nói này có phải nói là khi tâm chúng ta chưa khởi động niệm thì vũ trụ không có vạn vật? Giả sử không có vạn vật thì tại vì lý do nào mà thể tính bị ô nhiễm bởi vô minh bên ngoài?
Trả lời: Vô minh phân làm hai loại, một là vô thủy vô minh, hai là hậu lai tăng thượng vô minh. Vô thủy vô minh là một niệm bất giác từ vô thủy, vô minh tự khởi lên, bất giác tức gọi là vô minh, chẳng phải do bên ngoài vào. Giống như người mệt mỏi sanh buồn ngủ, vậy buồn ngủ là do mệt mỏi sanh chứ không phải do từ bên ngoài vào. Hậu lai tăng trưởng vô minh là do Tam tế lục thô(Tam tế: Vô minh nghiệp tướng, năng kiến tướng, cảnh giới tướng; lục thô: Trí tướng, tương tục tướng, thủ chấp tướng,kế danh tướng, khởi nghiệp tướng và nghiệp hệ khổ tướng) mà sanh khởi, rồi sanh ra vạn hữu, mới bắt đầu gặp cảnh tăng thêm vô minh, ví dụ như hiện tại đối với sáu trần mà khởi niệm thương ghét vậy.
81- Hỏi: Mê bản tánh thì biến thành thức, phân thành bốn nhóm bao gồm tám thức. Tất cả mọi hoạt động của chúng sanh đều là do tác dụng của thức thứ tám. Lại nói thức thứ tám cũng chẳng thật có, do niệm niệm sanh diệt. Trong trường hợp này, khi niệm trước diệt, trong sát na niệm sau chưa sanh, có phải chính ngay đó là trở về bản thể?
Trả lời: Vọng niệm và vô minh sanh khởi, hai từ sanh diệt chỉ là tổng tướng. Thực chất tướng “Sanh” và tướng “Diệt” thuộc trong bốn tướng chuyển biến liên tục không gián đoạn. Nếu biết “Sanh-trụ-dị-diệt” là liên tục thì nhận ra sự liên tục của “Trụ-dị-diệt-sanh”, thuộc cái gọi là ”Niệm niệm không dừng”. Dù có sát na của tướng bên ngoài “Chưa sanh”, thực chất không có sát nào thức thứ bảy “Chưa sanh”, dù có sát na của thức thứ bảy “Chưa sanh” Nhưng nghĩa sanh ấy thuộc năng sở (tướng đối đãi) vẫn là là vô minh, vô minh này chưa đoạn trừ, làm sao gọi là trở về bản thể!
82- Hỏi: Tự chứng phần và chứng tự chứng phần hỗ trợ chứng đắc như thể nào?
Trả lời: Ở đây có thể đưa ra một ví dụ làm sáng tỏ vấn đề: Như có hai hình chữ Khẩu viết thiếu nét, một hình thiếu một nét phía trên, một hình khác viết thiếu nét ở dưới. Khi mắt nhìn thấy rõ xác nhận đặc điểm hai chữ khẩu thiếu nét. Từ phương diện con mắt mà nói thì con mắt là “Tự chứng phần”. Nhưng con mắt thấy có chính xác hay không, sau khi xem lại cẩn thận hai chữ khẩu thiếu nét, quả thật là đúng, mắt nhìn không sai. Từ phương diện hai hình mà nhận thức, thì hai hình chữ là dụ cho “Chứng tự chứng phần”, Năng và Sở cùng chứng, không cần tìm cái duyên bên ngoài.
83- Hỏi: Nói thức trước sau đó mới có vạn pháp, có phải là “Vạn pháp duy thức” hay không?
Trả lời: Phật pháp nói rằng giác ngộ chân tướng của vạn pháp. Vạn pháp có tương quan tương duyên với nhau, có đặc điểm khác khau. Nếu dùng văn tự giải thích tức là từ lý nhân duyên xác định, nhưng khác nhau ở ngôn từ diễn đạt, như “Vạn pháp duy thức”, “Vạn pháp giai không”, “Vạn pháp vô thường”, không thể nói hết, nếu chấp vào một phương diện thì có sự vấn nạn; Nếu khởi viên quán, vấn đề càng thực tế hơn. Ở đây đáp lại câu hỏi, thức cũng là pháp, vậy thì thức có trước hay pháp có trước? không thể xác định được. Nếu từ ”Vạn pháp nhất như” mà nói thì không có trước và sau.
84- Hỏi: Con người do từ nhiều điều kiện có nhận biết của các giác quan từ cái nhìn thấy, nghe âm thanh, ngữi mùi,nếm vị,xúc chạm và cảm thọ của sáu thức, tác dụng của sáu thức này không có tính thiện hay ác, thế thì từ xưa tới nay không phải chỉ vì vô minh dẫn khởi. Do đó mà lý “Vạn pháp duy thức” được thành lập và không nhất thiết lấy nguyên nhân “Mê” để giải thích.
Trả lời: Tư tưởng rất cao nhưng lý còn thiếu sót, đó là chỉ có thể phân tích trên lời nói. Một là: “Sáu thức khởi tác dụng không có tính thiện ác”. Theo thế gian pháp mà luận thì: Không hợp lễ giáo chớ nhìn. Không hợp lễ giáo chớ nghe. Không hợp lễ giáo chớ nói, Không hợp lễ giáo chớ làm.(Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động). Ở đây, cho rằng sáu thức không hợp lễ là ác vậy. Nhưng khi nói: Quán sát tư duy rõ biết đối tượng, lắng nghe tư duy hiểu lời người nói, Nét mặt biểu hiện thân thiện ôn hòa, Oai nghi cử chỉ biểu hiện cung kính.(Thị tư minh, Thính tư thông, Sắc tư ôn, Mạo tư cung). Ở đây, sáu thức có tư duy thiện, không thể nói là không phải thiện và không phải ác. Theo pháp xuất thế mà luận: Bản tánh giác ngộ là trí, bình đẳng nhất như là thiện, vô minh là thức, giả dối phân biệt là ác. Tham sân si do thức khởi tác dụng là ác; giới định tuệ do trí tuệ khởi tác dụng là thiện. Cho nên cần tu giới định tuệ, dứt bỏ tham sân si để chuyển thức thành trí.
Hai là nói tác dụng của sáu thức: “từ xưa tới nay không phải chỉ vì vô minh dẫn khởi”. Không biết về thức tức là vô minh, vô minh là mê, mê thì vọng động. Phật dạy A Nan và bà Vi Đề Hy, phát khởi ba thứ tâm liền được vãng sanh. Một là chí thành tâm, hai là thâm tín tâm, ba là phát nguyện hồi hướng tâm; đầy đủ ba tâm này thì được vãng sanh Tây phương. Lại nữa có ba hạng chúng sanh được vãng sanh. Thế nào là ba: Một là từ bi không sát hại, đầy đủ giới hạnh. Hai là đọc tụng kinh điển đại thừa. Ba là tu hành lục niệm, hồi hướng nguyện vãng sanh Cực lạc. Đầy đủ các công đức này, một ngày cho đến bảy ngày tức được vãng sanh./.
(Dịch xong một ngày đầu xuân năm 2015, tại chùa Tam Bảo-Tulsa-Oklahoma-Hoa Kỳ)
________________________________________
[1] Dẫn nghiệp là tổng báo, mãn nghiệp là biệt báo.
[2] Dị thục: Chỉ cho ý nghĩa diễn biến nhân duyên đưa đến quả báo.
[3] Tam tế: Vô Minh Kiến tướng, Năng kiến tướng, Cảnh giới tướng. Lục thô: Tri tướng, tương tục tướng, chấp thủ tướng, kế danh tự tướng, khởi nghiệp tướng, nghiệp hệ khổ tướng.
[4] Thắng nghĩa căn: Hệ thống tinh thần.
[5] Ý này chỉ bảy nghiệp của thân và khẩu: Thân ba: sát, đạo, dâm; khẩu bốn: Nói lời độc ác, nói dối, nói lời hai chiều, dựa lời nói ngụy biện.
Pháp môn niệm Phật với Duy thức học
Như Pháp
1. Tôi nghe các bậc đàn anh nói rằng: "Pháp môn niệm Phật bao hàm các pháp môn khác như pháp Thiền, pháp Giáo, pháp Luật, pháp Mật, và khoa học Duy Thức. Nói tắt là, bất luận nhà Phật có pháp môn nào cũng được pháp môn niệm Phật thu nhiếp tất cả, bởi sáu chữ Di Đà thu nhiếp tam tàng giáo hải.” Lời của các bậc tiền bối nói như thế, là thật chăng? - Thật hay không là do trình độ nghiên cứu của mỗi người. Ai nghiên cứu sâu rộng thì thật, ai ít nghiên cứu thì còn hoài nghi, ai không nghiên cứu thì không tin gì hết.
Ông nên biết rằng, pháp môn niệm Phật chẳng những bao hàm các pháp môn, mà nó cũng bao hàm ba khoa giáo lý như: Tiệm giáo, Đốn giáo và Viên giáo. Ba giáo này bao hàm tất cả vô lượng pháp môn của nhà Phật.
2. Xin ông cho biết pháp môn niệm Phật thu nhiếp pháp Thiền bằng cách nào?
- Nếu pháp môn niệm Phật không kiêm luôn pháp Thiền, thì làm gì có lời nói tận thuở xưa rằng: "Hữu Thiền hữu Tịnh độ, dụ như đới giác hổ.” Nghĩa là có Thiền có Tịnh độ, chẳng khác nào như cọp mọc sừng. Cọp là thứ dữ, lại thêm có sừng, ý nói dữ càng thêm dữ, hung càng thêm hung, chẳng có loài nào hung dữ bằng, có thể nói là vô địch.
Các vị tiền bối thuở xưa nói câu đó để cho người học Phật hậu lai biết rằng: Ai tu Thiền và Tịnh, thì người ấy là bậc trên hết.
3. Pháp môn niệm Phật nhiếp luôn pháp Giáo là sao?
- Giáo là chỉ cho kinh giáo, tức là kinh điển tam tàng giáo hải, là tất cả giáo lý nhà Phật.
Nói rằng pháp môn niệm Phật bao hàm kinh giáo, nó có ý nghĩa là người niệm Phật phải nghiên cứu tu học tất cả tam tàng giáo hải, chớ chẳng phải chỉ có niệm sáu tiếng Di Đà thôi.
4. Thế nào là pháp môn niệm Phật bao hàm cả Luật tông?
- Giáo lý nhà Phật gồm Kinh, Luật, Luận. Luật là pháp luật, nó trở thành một tông phái, tông phái này lấy sự giữ giới làm gốc trong vấn đề tu hành. Do giữ giới tinh nghiêm mà được thanh tịnh, do thanh tịnh mà chứng đắc giải thoát đường luân hồi sinh tử, Kinh Luận chỉ là thứ yếu. Như thế, chúng ta thấy rằng pháp môn niệm Phật cũng đưa đến sự nhất tâm thanh tịnh
5. Pháp môn niệm Phật gồm Mật giáo bằng cách nào?
- Mật giáo là một tông phái trong Phật giáo. Giáo phái này chuyên về trì chú trong sự tu hành. Ở Tây Tạng Mật tông phát triển rất mạnh.
Mật tông chủ trì tam mật trong sự tu hành giải thoát. Tam mật là thân, khẩu, ý. Trong công phu làm cho tam mật được thanh tịnh nhờ tay bắt ấn, miệng niệm chú. Tâm an thì thân cũng an, tam nghiệp tịnh là Phật xuất thế.
6. Pháp môn niệm Phật gồm luôn Duy Thức Học bằng cách nào?
- Vấn đề này tôi xin phép lược giải, không thể nói nhiều được. Vì nói nhiều, nó thành một quyển Duy Thức Học chớ chẳng phải Phật Học Vấn Đáp.
Duy Thức Học cho chúng ta biết rằng: "Hành động tạo tác của ba nghiệp thân, khẩu, ý về sự việc gì, cả thảy đều co gieo hột giống vào đệ bát A lại da thức. A lại da thức ví như một cái kho, cái kho này dành để tàng trữ các hạt giống (chủng tử) do ba nghiệp hành động tạo tác. Ba nghiệp (thân, khẩu, ý) hành động tạo tác cái chi đều có lưu lại hạt giống. Các hạt giống đó được thức thứ bảy là Mạt na thức truyền vào kho A lại da thức tồn trữ không cho hư mất. Lý do đó mà trong tâm A lại da chứa vựa không biết bao nhiêu hạt giống: Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, thiện, bất thiện, tình ái, tình dục, thương, ghét, đạo đức, tu hành, v.v...
Các hạt giống trên đây loại nào tập trung theo loại ấy. Loại nào nhiều, nó có sức mạnh hiện hành, chẳng cần có các duyên ngoại tại đồng tính chất lôi cuốn, kích thích, làm cho hạt giống phát sinh hiện hành (hiện ra hành vi cử chỉ, ngôn ngữ và ý nghĩ suy tư gồm trong ba nghiệp). Trái lại, hạt giống nào ít oi, chẳng đủ sức mạnh tự mình hiện hành, nó phải chờ các duyên bên ngoài kích thích nó mới hiện hành được.
Đến đây chúng ta thấy rằng: "Tất cả hành động của ba nghiệp thân, khẩu, ý đều do chủng tử hiện hành. Ví dụ như một người phóng tâm tham lam trộm cắp, người này trước sau gì cũng thành một người tham lam trộm cắp. Thế thì biết rằng, tư tưởng của con người làm sao, hình thành con người như thế ấy không hề sai. Lý do đó mà nhà Phật bắt buộc người tu hành phải giữ giới để cho thân tâm đạt thanh tịnh, không sái quấy, không bất nhân thất đức, trái lại, phải tư duy đạo đức, hành động đạo đức, phải tu tập nhất thiết thiện pháp. Kinh Kim Cang nói: "Tu cả thảy pháp lành tức đặng đạo vô thượng chính đẳng chính giác.”
Sức mạnh của chủng tử là tâm xui giục kích thích con người, làm cho con người xuôi dạ, yếu ớt, không thể cưỡng lại được. Ai chứa vựa chủng tử xấu nhiều, người đó càng ngày càng xấu xa hèn mạt, không ai chịu nổi. Ai chứa chủng tử chân, mỹ, thiện nhiều, người đó càng ngày càng thánh hóa, rốt ráo được thành Phật.
Hiểu thế lực và sự hiện hành của chủng tử rồi, chừng đó mới có thể tin mình tu hành cũng sẽ thành tựu công đức mà mình có công gieo trồng.
Theo Duy Thức Luận, con người thường hành động, lời nói và ý nghĩ cái chi, con người sẽ trở thành cái đó. Đây là lời nói thông thường theo khoa học. Còn lời nói của môn học này thì, tư tưởng và hành động của con người thuộc tâm lý học, mà khoa tâm lý học thế gian cũng chưa khám phá được. Môn học Duy Thức cho chúng ta biết rằng: "Mỗi thức trong bát thức đều có kiến phần và tướng phần. Kiến phần tức là phần tri kiến, Duy Thức Học nói nó là tâm sở của tâm vương. Tâm vương điều khiển tâm sở hành động theo ý thích của nó, chẳng khác nào vua có quyền lực sai khiến các bề tôi phải thi hành theo lệnh của mình ban ra. Kiến phần của thức vương chuyên về việc duyên qua tướng phần (phần sự tướng). Tướng phần này chẳng phải bỗng dưng mà có, nó do kiến phần biến hóa ra rồi lấy đó làm đối tượng sở duyên. Nghĩa là kiến phần biến hóa ra sự tướng để duyên, chớ kiến phần không thể trực tiếp duyên vào các pháp được. Thế thì biết rằng các tướng sở duyên nó không thật có.
Ví dụ khi ta tưởng tượng đến chiếc xe gắn máy Dream II, thì tâm của thức là kiến phần, nó xuất hiện và biến ra chiếc xe rồi nối duyên vào đó. Thế là tâm ta hiện nguyên hình chiếc xe gắn máy. Ví dụ này nói lên vấn đề khi ta thường xuyên tư tưởng về cái gì thì ta sẽ thành cái đó.
Tác dụng của kiến phần linh động như vậy, nên Hòa thượng Nhất Hạnh nói: "Ta nhìn vật gì, ta là cái đó.” Chỉ nhìn suông một vật mà còn như thế, nếu ta thường niệm tưởng vào sự vật gì, thì ta sẽ trở thành sự vật đó. Ví dụ trên đây cho ta biết rằng: "Ta thường phóng tư tưởng niệm Phật, thì tâm ta đang là tâm chúng sinh sẽ trở thành tâm Phật. Khi ta tỏ ngộ tâm này, Thiền tông gọi là minh tâm kiến tính thành Phật. Vả chăng tâm này là tâm vọng, mà cũng là tâm chân (tức Phật tính). Bởi vì, vọng tâm với chân tâm, chẳng khác nào như sóng với nước. Nếu sóng tức là nước, thì vọng tâm tức chân tâm, bản thể tức hiện tượng, pháp tướng tức pháp tính, chúng sinh tức Phật, phiền não tức bồ đề.
Vì tùy duyên, nên chân tâm trở thành vọng tâm (chân như trở thành vọng tưởng), khác nào nước trở thành sóng nhưng không mất chất nước, cho đến trở thành băng giá cũng không mất bản chất. Cũng như thế, chân như trở thành vọng tưởng, nó đâu có biến mất bản chất thanh tịnh tịch diệt.
Cái lắc léo này, phàm phu và nhị thừa làm sao tỏ ngộ? Vì không tỏ ngộ vọng tưởng tức chân như, lý do đó, trong sự tu hành cứ cong xương sống mà diệt trừ vọng tưởng, thì có khác nào diệt trừ phiền não. Phiền não mà bị tiêu diệt rồi, làm sao chứng được tâm bồ đề. Chẳng khác nào sóng mà bị hủy diệt rồi nước làm sao còn.
Bao nhiêu lý luận và ví dụ trên đây, cho ta biết chắc chắn rằng ta niệm Phật một giây, sẽ thành Phật một giây, niệm Phật một phút thì thành Phật một phút, niệm một giờ thành Phật một giờ, niệm một ngày thành Phật một ngày, niệm một tháng, một năm, v.v...
Chỉ bàn sơ về niệm Phật chớ chưa đi sâu vào chủng tử A Di Đà Phật tích trữ vô lượng vô biên trong tàng thức. Những chủng tử này thuộc chân mỹ thiện thanh tịnh tịch diệt, nó đồng hóa các chủng tử không chân mỹ thiện. Ban sơ chủng tử chân mỹ thiện lấn áp chủng tử không chân mỹ thiện, lần lần chủng tử không chân mỹ thiện bị đồng hóa, hoặc bị loại trừ, khiến cho tâm của hành giả trở thành thanh tịnh vắng lặng. Bản chất thanh tịnh vắng lặng càng ngày càng lớn mạnh, ngoại duyên trần cảnh dù có hấp dẫn kích thích cách mấy cũng không thể nào làm hành giả ô nhiễm được.
Nên biết rằng, bản chất của chân tâm Phật tính là thanh tịnh tịch diệt, niệm Phật đến chỗ thanh tịnh tịch diệt, thanh tịnh là bản chất của bồ đề, tịch diệt là bản chất của niết bàn. Niệm Phật đến chỗ thanh tịnh tịch diệt thì gặt hái được hai quả chuyển y bồ đề niết bàn.
Có một vị Thiền sư Đông Độ nói rằng: "Niệm Phật là lấy máu rửa máu.” Từ cổ chí kim, ai cũng cho rằng Thiền với Tịnh tu chung chẳng khác nào như cọp mọc sừng. Thế mà vị Thiền sư này làm cái việc "hàng thịt nguýt hàng cá,” thật là khi kinh ngạo Phật. Chính đức Từ phụ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni giới thiệu pháp môn niệm Phật, thế mà Thiền sư dám cao ngạo xem Phật tổ không có ký lô nào hết.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rằng: "Tri kiến không dính mắc vào năng sở (kiến tướng phần) thì nhập vào tri kiến Như Lai.” Ngài Tâm Minh nói: "Nếu không cố chấp một chút gì là thật có, dù là chân hay phi chân thì liền được nhập vào pháp tính (chân như) và thành bậc chính giác.”
Niệm Phật đến chỗ thanh tịnh tịch diệt thì cái tâm vọng đâu còn, nó đã hoàn nguyên lại bản thể. Cái tâm vọng mà hết vọng, thì đó là Bồ đề diệu minh chân tâm. Toàn thể vọng niệm tạp tưởng đều do chấp ngã, chấp pháp sinh ra. Nêu nhị chấp đó không còn, người tu hành toàn đạt vô lậu thanh tịnh. Ngã pháp, đồng nghĩa với năng sở, cũng đồng nghĩa với kiến, tướng phần. Nếu niệm Phật mà không chấp có ta niệm, không chấp có ông Phật sở niệm, đó là niệm Phật đạt cảnh giới vô năng vô sở đối đãi, đạt cảnh giới nhị vô ngã.
Nhị vô ngã không còn thì làm gì có nhị chướng (phiền não chướng và sở tri chướng). Nhị chướng không có thì chứng được nhị chân như (sinh không chân như và pháp không chân như), chứng được nhị chân như thì bỏ được nhị sinh tử (sinh tử phần đoạn và sinh tử biến dịch). Thoát ly được nhị sinh tử thì chứng được hai quả chuyển y Bồ đề niết bàn (tạm nói chứng). Đó, niệm Phật mà được như vậy đó, nó hơn vị Thiền sư nói rằng "Niệm Phật như lấy máu rửa máu.”
Niệm Phật như vậy, nó đâu có kém hơn pháp thiền mà Thiền sư đang tu. Bằng cớ là, nếu Thiền sư kiến tính thì đâu có nói câu "hàng thịt nguýt hàng cá.”
Nói rằng niệm Phật như lấy máu rửa máu, nghĩa là không bao giờ trong sạch được. Nói như thế thì dốt quá, tức không hiểu nghĩa lấy vọng trừ vọng (dĩ vọng trừ vọng). Nếu lấy vọng trừ vọng là bất tịnh, thử nghiên cứu câu "lấy huyễn trừ huyễn” trong kinh Viên Giác coi có được hoàn toàn thanh tịnh hay không? Nếu lấy huyễn trừ huyễn mà đặng thành bậc vô thượng Bồ đề, thì lấy vọng trừ vọng của pháp môn niệm Phật cũng đạt đạo vô thượng Bồ đề vậy.
Thanh tịnh cho đến không chấp có thanh tịnh, thử hỏi còn cái gì ở nội tâm mà nói rằng "lấy máu rửa máu thì không bao giờ thanh tịnh tịch diệt.” Thanh tịnh tịch diệt là bản chất của Bồ đề niết bàn, mà hành giả đã thanh tịnh tịch diệt, thử hỏi nơi tâm địa còn cái gì, há chẳng phải là cái không (chân không) ư? Cái không này nó thuộc về tuyệt đối, chẳng phải đối với cái có, thì làm sao gọi là lấy máu rửa máu.
Thanh tịnh cho đến không còn kẹt vào lời nói của kinh Lăng Nghiêm: "Dù cho diệt hết kiến, văn, giác, tri mà bên trong còn chấp giữ cái pháp trần do thức tâm phân biệt phát sinh.” Không dụng công tu hành là bậc tu vô vi (không hành vi động tác) là bậc vô công dụng đạo (không dụng công tu hành), đó là huệ giác Bát nhã ba la mật, tức là vô thượng chính đẳng chính giác rồi, bậc này có phải là Viên Giác chăng?
Niệm Phật như vậy thua Thiền tông chăng? Pháp Thiền được vậy chăng?
Chủng tử sinh hiện hành,
Hiện hành sinh chủng tử
Đến đây chúng ta thấy rằng niệm Phật là gieo chủng tử vô lậu thanh tịnh. A Di Đà dịch là Vô lượng quang, Vô lượng thọ, niệm A Di Đà là gieo chủng tử Vô lượng quang minh, Vô lượng thọ mạng. Quang minh là gì? Là Huệ giác bát nhã ba la mật, tức là trí huệ đáo bỉ ngạn, trí này là độ thứ sáu trong sáu độ ba la mật.
Khi niệm Phật, đó là hiện hành trì niệm A Di Đà, nếu hiện hành thì có gieo là lẽ đương nhiên, Duy Thức Học gọi là "Chủng tử sinh hiện hành, hiện hành sinh chủng tử.” Mỗi lần hành động cái chi của ba nghiệp thân, khẩu, ý, đều có gieo chủng tử. Như thế chủng tử được gieo như vậy từ năm này qua năm kia, đến suốt đời, tức suốt đời tích lũy chủng tử A Di Đà đến vô lượng vô biên không thể đếm tính được là bao nhiêu chủng tử A Di Đà.
Thiền sư mà còn chấp ngã chấp pháp là một việc ít có. Máu để rửa là năng tu, máu bị rửa là pháp tu. Năng sở, ngã pháp còn là công phu của phàm tiểu, nó thuộc về tương đối. Tương đối là pháp có hai, chẳng phải bất nhị pháp môn, nó thuộc hữu vi công phu. Trình độ như thế mà dám đại ngôn phê bình pháp môn niệm Phật bao hàm cả Tiệm giáo, Đốn giáo và Viên giáo.
"Lìa chấp ngã chấp pháp mà công phu tu hành, liền nhập vào Vô thượng chính đẳng chính giác.” Đó, câu nói đó của kinh Lăng Nghiêm nay ứng dụng trong pháp môn niệm Phật. Ai có pháp môn nào tài giỏi, hãy chống đỡ và bác khước câu nói đó xem?
1
0
17
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Aug 25, 2023
In BÀI VIẾT CHUNG VỀ ĐÔNG MẬT
Tác giả: HỨA MINH NGÂN.
(kiêm nhiệm Trợ lý giảng viên ngành Tôn giáo học, Đại học Phụ Nhân)
Việt dịch: Nguyễn Thành Sang.
Phone: 0855.500.131.
Email: thanhsang.nsb@gmail.com(mailto:thanhsang.nsb@gmail.com)
Tóm tắt: Bài viết bắt tay từ góc độ dòng chảy lịch sử, trông xa về tình hình được triển khai về Mật giáo, dựa vào điều này dòm biết sự ảnh hưởng của Mật giáo đối với tạo thành văn hóa ở những nơi như Nam Á, Đông Nam Á, Đông Bắc Á, Trung Quốc và Tây Tạng…
Ở đây chia thành năm chương:
I- Lời tựa;
II- Cơ sở xã hội làm phát sinh tư tưởng Mật giáo;
III- Tình hình chính trị–xã hội ở địa phương Nam Ấn-độ và sự xác lập Mật giáo;
IV- Vương triều Pāla và sự xuất hiện của Kim Cương thừa;
V- Mật giáo cuối thời và sự xâm nhập của tín đồ Hồi giáo.
Do vì Mật giáo chưa thể có báo cáo một cách chính xác nên đã làm gây nên xuyên tạc hoặc hiểu lầm, thực là việc để lại nuối tiếc. Nay thảo bài viết này mong có thể làm giản sử Mật giáo.
Trong đó, đảo Sumatra vào thế kỷ 11 là đất mà Mật giáo thịnh vượng nhất của Phật giáo Nam Hải, trước tác của Kim Châu Pháp Xứng đại sư do A-để-hiệp (982 – 1054) mang vào Ngari của Tây Tạng, dịch sang Tạng văn và thu vào trong Đại tạng kinh Tây Tạng, sự tích này khiến cho người viết giật mình khen mãi khôn thôi! Indonesia và Tây Tạng vào thế kỷ 11 vì duyên Phật mà ký kết tình hữu nghị như chân với tay. Cuối cùng, Phật giáo Tây Tạng chú trọng nhất vào giới luật, do tổng kết “Kinh Thời luân Kim cương” của Ấn-độ đã được chứng minh, vả lại tăng lữ xuất gia của Tây Tạng là giữ giới Tỳ-khưu của Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ (253 điều giới), liệu ai có thể nói họ không phải là người xuất gia chứ?
I. LỜI TỰA
Mật giáo là chỉ Bí giáo của Phật giáo, là gọi tắt của Phật giáo Bí mật. (Nakamura Hajime, Kasahara Kazuo, Kanaoka Shuyu, 1977: 45) Những học giả hải ngoại như Ấn-độ, Âu châu, Mỹ quốc v.v… xưng nó là Phật giáo Bí truyền (Esoteric Buddhism) hoặc Bí giáo của Phật giáo (Buddhist Esoterism). Sử dụng rộng rãi thông thường gần đây nhất là xưng hô Phật giáo Đát-đặc-la (Tantric/Tāntrika Buddhism) hoặc Đát-đặc-la giáo của Phật giáo (Buddhist/Buddhistic Tantrism) cũng như sử dụng Kim Cương thừa (Vajrayāna). (Nakamura Hajime, Kasahara Kazuo, Kanaoka Shuyu, 1977: 45) Kim Cương thừa là ý chỉ giáo thuyết giống như kim cương chẳng hoại ở trong Phật giáo Đại thừa, thường thấy trong nguyên điển Phạn văn của Mật giáo thuộc hệ Kinh Kim Cương Đính.
Phật giáo Đát-đặc-la vì là kinh điển được lấy từ những thánh điển Mật giáo hậu kỳ trở về trước cho nên được gọi là Đát-đặc-la (tantra, Tib. rgyud, nghĩa là tục hay bản tục). Như đã nêu, người ngoại quốc đa phần gọi Mật giáo là Esoteric Buddhism, đó là cách gọi đối ứng với Exoteric Buddhism (Phật giáo Phổ biến/Công khai: Hiển giáo), chúng là những từ ngữ do các học giả cận đại sáng tác, là thuật ngữ đối ứng với Mật giáo và Hiển giáo, trong tiếng Sanskrit không có. Trái lại tiếng Sanskrit để biểu thị Mật giáo thì có: Phật giáo Đát-đặc-la (Tāntric Buddhism), Chân Ngôn thừa (Mantrayāna), Kim Cương thừa (Vajrayāna), Câu Sinh thừa (Sahajayāna, Sahajiyā tức Câu Sinh phái), Thời Luân thừa (Kālacakrayāna) v.v… (Nakamura Hajime, Kasahara Kazuo, Kanaoka Shuyu, 1977: 45).
Phật giáo Ấn-độ kể từ thời đức khai tổ Thích Tôn (463–383 tTL) đến thế kỷ 13 mới bắt đầu bị quân đội Hồi giáo xâm nhập và huỷ diệt, kéo dài suốt hơn 1.700 năm. Tuy nhiên, Mật giáo từ hình thái nguyên sơ (chân ngôn, mạn-đà-la, thủ ấn) bắt đầu khoảng thế kỷ 5–6 đến khi Phật giáo bị diệt vong tại Ấn-độ đầu thế kỷ 13, thật ra đã kéo dài gần 800 năm, có nghĩa là trên thực tế ½ Phật giáo Ấn-độ dường như là thời đại của Mật giáo. Khi nhắc đến Mật giáo trong môn học lịch sử, nó không chỉ đơn giản mang ý nghĩa về thời gian là thời đại cuối cùng của Phật giáo. Mật giáo Ấn-độ đã áp dụng hình thái tổng hợp văn hoá Ấn-độ thời xưa, trong các kinh điển và nghi quỹ của Mật giáo có bao hàm các loại văn hoá Ấn-độ cổ đại, có văn hoá hệ Ārya và cũng có văn hoá hệ phi-Ārya. Nó kế thừa đồng thời các giáo nghĩa Phật giáo trước và sau, nó cũng hấp thu song song các tư tưởng và tôn giáo nằm bên ngoài Phật giáo, cho nên được thể hiện là một hệ thống văn hoá rất phức tạp cồng kềnh, có cả chủ nghĩa thần bí phức tạp về giáo lý lẫn tượng trưng v.v… lập trường của người ta có tán thành Mật giáo hay không là một chuyện khác, nhưng cần phải nói rằng về thời gian Mật giáo là “nền Phật giáo cuối cùng,” về giá trị thì nó tự nhận là “nền Phật giáo cứu cánh nhất.”
Tiếng Sanskrit để biểu thị Mật giáo còn có một vài ví dụ nữa, như: một trong những người khai thác nghiên cứu Mật giáo học Ấn-độ là B. Bhattacharyya (1897–1964) nhắm vào thuyết minh điểm này, ngày nay có thể nói là chưa đầy đủ tất cả. Có nghĩa là, theo ông, ba cách phân biệt lớn về Phật giáo hậu kỳ, tức là phân biệt Kim Cương thừa (Vajrayāna), Câu Sinh thừa (Sahajayāna, Sahajiyā) và Thời Luân thừa (Kālacakrayāna).
Ngoài chúng ra còn có những thừa chi tiết khác có cá tính không rõ ràng như Đát-đặc-la thừa (Tantrayāna), Chân Ngôn thừa (Mantrayāna), Hiền thừa (Bhadrayāna). Vả lại chúng được phát sinh ra từ Kim Cương thừa – là chủ yếu trong tam thừa thuyết minh nhắm vào đặc tính của mỗi thừa hay quá trình lịch sử chúng phát sinh như thế nào thì chưa bao giờ mô tả hoàn toàn được. Lại nữa, ta cũng chưa bao giờ nêu ra được điển cứ danh xưng của các thừa, nên không thể nào truy nguồn để xem xét nguồn gốc nguyên điển.
Tương tự, chúng ta có kiến giải của S. B. Dasgupta – một học giả Mật giáo, theo ông thì học phái Chân ngôn Lí thú (Mantranaya) hay Chân Ngôn thừa (Mantrayāna) là giai đoạn chuẩn bị của tất cả các phân phái khác sau này như Kim Cương thừa, Thời Luân thừa, Câu Sinh thừa… từ đó phái sinh ra Phật giáo Đát-đặc-la (Tāntric Buddhism) . Hay nói cách khác, ông cho rằng Chân ngôn Lí thú hay Chân Ngôn thừa nằm ở giai đoạn thứ nhất của Phật giáo Đát-đặc-la, điều này lại tương phản với thứ tự phái sinh theo chủ trương của Bhattacharyya.
Một phương diện khác là đại học giả G. Tucci của Italia (1894 – 1984) nhắm vào Tiểu thừa và Đại thừa chủ trương hệ thống sản sinh và hình thành Đệ tam thừa, chúng được gọi bằng những danh xưng khác nhau là Kim Cương thừa, Chân Ngôn thừa, Quả thừa (Phalayāna), Trì Minh thừa (Vidyādharayāna), Bí Mật Chân Ngôn thừa (Guhyamantrayāna) . Về điểm này, H. v. Glasenapp của Đức đại để có quan điểm tương đồng, ông cho rằng Kim Cương thừa hoặc Chân Ngôn thừa không xếp vào Tiểu thừa hoặc Đại thừa mà là một thừa đặc biệt vượt khỏi chúng.
Các học giả Phật giáo ở Ấn-độ và châu Âu ấy có trình độ rất sâu đối với Mật giáo, họ đều không sử dụng các từ tiếng Sanskrit để phân biệt một cách khắt khe Mật giáo là Chân Ngôn thừa hay Kim Cương thừa… Lại thêm sự nắm bắt các khái niệm này cũng rất lộn xộn. Phản ánh tình hình này, các thuật ngữ được sử dụng một cách lộn xộn, hoặc nói rằng Mật giáo của Kinh Đại Nhật hay Kinh Kim Cương Đính là Chân Ngôn thừa, gọi Mật giáo hậu kỳ Ấn-độ – Mật giáo Tả đạo – là Kim Cương thừa, những cách nói đại loại như vậy không thấy trong nguyên điển, cũng chưa bao giờ thấy trong học thuyết của các học giả ngoại quốc. Ở đây cần phải chỉ ra trước rằng, Mật giáo Ấn-độ thời hậu kỳ tức là Phật giáo Đát-đặc-la, Phật giáo Tây Tạng thuộc về giai đoạn này nên đặc biệt gọi đó là Phật giáo Kim Cương thừa.
Sự xưng hô Kim Cương thừa đích xác là biểu hiện tự giác “của nền Phật giáo cuối cùng nhất, cứu cánh nhất, viên mãn nhất.”
Thực trạng của Mật giáo tại Ấn-độ có thể nói những chỗ chưa được làm rõ còn rất nhiều. Vì vậy bài viết này bắt tay vào từ góc độ quy trình lịch sử để nhìn ra tình hình triển khai về Mật giáo, từ đó xem xét ảnh hưởng được tạo nên trong văn hoá các khu vực Nam Á, Đông Nam Á, Đông Bắc Á, Trung Quốc và Tây Tạng…
II. CƠ SỞ XÃ HỘI LÀM PHÁT SINH TƯ TƯỞNG MẬT GIÁO
1. Nguồn gốc của Mật giáo
Mật giáo của Ấn-độ thường có thể nêu ra hai đặc sắc. Một là sự tổ chức hoá các nghi lễ chú thuật thấp kém, và đặc sắc kia là chủ nghĩa thần bí được phát đạt đến cao độ. Thời điểm nửa sau thế kỷ 7 đã xác lập tư tưởng Mật giáo thuần tuý, nhưng thực ra Mật giáo đã phát triển trước thời điểm đó mấy thế kỷ rồi, tính chú thuật đã cực kỳ dày đặc . Dẫu cho Mật giáo đã dựa vào chất liệu của tôn giáo Vệ-đà (Veda) nhưng nó quyết không phải là Bà-la-môn giáo (Brahmanism). Nó là phần dinh dưỡng sinh trưởng trong Phật giáo chụp thêm Bà-la-môn giáo và thế là sản sinh Mật giáo. Mật chú như những lý niệm Mật giáo được thể hiện một cách tượng trưng (chân ngôn/mantra, đà-la-ni/dhāraṇī, minh chú/vidyā) cấu thành yếu tố quan trọng của Mật tông.
Mô hình gốc của chân ngôn Mật giáo có thể được chúng ta truy nguồn các văn bản tôn giáo cổ xưa nhất của Ấn-độ, như chân ngôn (mantra) của Ṛg-Veda (Lê-câu Vệ- đà). Có thể xem xét thêm nữa, đó là truy nguồn đến thời đại trước khi người Ārya xâm nhập Ấn-độ và chung sống với người Iran. Đối với người Ấn-độ cổ đại, nghi lễ tôn giáo và chú pháp về bản chất thì như nhau, đều là phương pháp để đạt được ước nguyện. Đương nhiên tế tự trong Veda cũng có sự kết hợp mật thiết với chú pháp. Trong chân ngôn hiến dâng cho các vị thần của Lê-câu Vệ-đà đã có khoảng 30 bài tán ca là chú pháp. Chúng là những bài chú nhằm chữa bệnh, xua đuổi kẻ thù, trừ khử nguy hại, hoặc để cầu mưa, chiến thắng.
Tiếp theo là Atharva- Veda (A-thát-bà Vệ-đà) được thành lập cách nay khoảng 3000 năm trước, chú pháp của nó được chia thành 9 loại tức là: phép chữa bệnh (bhaiṣajya), phép tức tai trường thọ (āyuṣya), phép điều phục (abhicārika), phép phụ nữ (strīkarman), phép hoà hợp (sāṃmanasya), phép quốc vương (rājakarman), phép Bà-la-môn, phép tăng ích (pauṣṭika), phép chuộc tội (prāyaścitta) .
Từ chân ngôn (mantra: tán ca, chú văn) được biểu hiện trong câu chú bài chú (spell) vốn là ý chỉ “từ ngữ linh thiêng,” “tán ca đối với các thần.” Giữa tế tự và chú pháp của Ấn- độ không có sự phân biệt nào về bản chất. Nhờ vào hiệu quả của sức thần bí (brahman) chân ngôn và hành động nhất định chắc chắn sẽ đạt được ước nguyện, điều đó vốn dĩ thừa nhận chú pháp có chú lực tương quan vượt lên tất cả mọi sự vật và hơn người. Vì vậy Ấn-độ với bề dày lịch sử hàng nghìn năm, đã tạo thành đáy của kim tự tháp với những tư tưởng triết học sâu sắc và niềm tin tôn giáo cao cả làm đỉnh cao, không gì khác hơn là mật pháp chú thuật khiến người ta hoa mắt chóng mặt .
Từ ngữ không chỉ có chức năng biểu đạt ý nghĩa, niềm tin rằng nó có một sức mạnh huyền bí nào đó đã được nhìn thấy trên thế giới, ở Ấn-độ có quan điểm này và suy đoán về từ ngữ đã phổ biến từ thời cổ đại nhất. Trong Lê-câu Vệ-đà có từ ngữ nữ thần Vāc tạo hoạt lực cho các thần, nâng đỡ các loại mưu cầu của người ta, thẩm thấu đến trời đất, được tôn thờ như thần linh mở rộng ra vạn vật; hơn nữa, việc điều tra nguồn gốc của ngôn ngữ và những hiểu biết cho thấy 3/4 ngôn ngữ là bí mật của con người.
Suy xét về nghi thức tế tự và chú pháp trong thời đại Phạm thư (Brāhmaṇa, lấy năm 800 tTL làm thời điểm trọng tâm thành lập), quan niệm chú lực ngôn ngữ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Chân ngôn (mantra) như đã nói là chỉ bốn bản tập (Saṃhitā) Vệ- đà lớn: Lê-câu Vệ-đà, Sa-ma Vệ-đà (Sāma-Veda), Dạ-nhu Vệ-đà (Yajur-Veda) và A-thát- bà Vệ-đà. Bản tập bao hàm các tán ca, tế từ, chú từ trong tôn giáo và cũng được gọi là chân ngôn (mantra).
Vì vậy, người ta tin rằng nền tảng của niềm tin vào chân ngôn, và ngôn ngữ đặc biệt mà chúng ta sở hữu được coi là có mối quan hệ tích hợp trực tiếp với thế giới thực tại. Nếu ngôn ngữ đặc biệt được đọc trong miệng, ngôn ngữ có thể ảnh hưởng đến thực tế. Theo cách này, tín ngưỡng chân ngôn thừa nhận rằng ngôn ngữ có khả năng nhiệm mầu và đáng kinh ngạc (ngôn linh) thực sự chủ yếu kết hợp với chú thuật. Trong bất kỳ thế giới nào của con người, đó là coi những điều cát hung hoạ phúc của cuộc sống hàng ngày là mối quan tâm lớn nhất, và tạo thành một thực thể tôn giáo của những người bình dân đại chúng tồn tại.
Vì vậy, thuyết thường trú ngôn ngữ, thuyết vô thường ngôn ngữ và thuyết thường trú âm thanh, thuyết vô thường âm thanh, bao gồm cả Phật giáo, đã được tranh luận và biết đến trong lịch sử tư tưởng Ấn-độ.
Phật giáo ở Ma-yết-đà (Magadha) không gì khác hơn là một tôn giáo địa phương, và dưới triều đại Maurya (vương triều Khổng Tước: khoảng từ 317 TCN đến khoảng 180 tTL), đời thứ ba là vua A-dục (Aśoka, cai trị trong khoảng thời gian năm 268–232 tTL) đã trở thành một cơ hội để thống nhất đất nước Ấn-độ cổ đại, lan rộng khắp Ấn- độ với tốc độ kinh người. Các truyền đạo sư Phật giáo được viễn phái đến Hy-lạp, Syria, Ai-cập. Nhưng lãnh thổ của vua A-dục quá rộng lớn, chế độ thị tộc chưa hoàn toàn tan rã trong xã hội nông thôn tại địa phương. Các hệ phái Phật giáo bảo thủ như Độc Tử bộ (Vātsīputrīya-vādin), Pháp Tạng bộ (Dharmaguptaka-vādin) đều thực hiện tập đại thành Phật giáo, ví như: các mật chú ngăn ngừa rắn độc… được quy cho lời chỉ dạy của đức Thích Tôn. Tuy nhiên, đến năm 327 tTL, Alexander đại đế xâm nhập trận doanh vùng Tây Bắc Ấn-độ (năm 356–323 tTL), những binh lính Hy-lạp được cho là đã được chữa trị rắn cắn bởi các thầy thuốc Ấn-độ. Sau khi Thích Tôn nhập diệt chưa đến hai thế kỷ, tín đồ Phật giáo vì sao thực hành tín ngưỡng mật chú? Ta có thể phải tin rằng Phật giáo mở rộng ra khỏi các quốc gia đô thị ở trung lưu sông Hằng là một xu hướng tất yếu, bắt rễ vào những nơi để lại các thiết chế của thị tộc và xã hội cũ còn chú thuật.
Khoảng năm 180 tTL, sau khi vương triều Khổng Tước diệt vong đến vùng Tây Bắc Ấn-độ vào đầu Tây lịch, người Hy-lạp, người Tắc Chủng (Śaka, Saka), người An-tức (Parthian, Skt. Phahlva)… nối tiếp nhau đến xâm nhập và thống trị. Những sự thật lịch sử này đối với sự phát triển tư tưởng Mật giáo chí ít có thể cân nhắc rằng có ba ý nghĩa quan trọng.
Ý nghĩa thứ nhất là với trung tâm vùng Đại Hạ (Bactria) ở Trung Á, khoảng cuối thế kỷ 3 tTL đã thành lập thế giới Dữu-na (Yavana, P. Yona) là thuộc địa của thực dân Hy- lạp, vùng tây bắc Ấn-độ vào cuối thế kỷ 1 đã hưng khởi nghệ thuật Phật giáo Greco- Gandhāra mang phong cách Hy-lạp. Cùng thời kỳ tại vùng Mathurā đã bắt đầu chế tác tượng Phật và tượng Bồ-tát mang phong cách thuần Ấn-độ. Sự an trí tượng Phật đương nhiên là xúc tiến cho sự thành lập nghi thức lễ bái tượng Phật, không lâu sau tín đồ Phật giáo chắc chắn đã lấy luôn phép cúng dường và tác pháp lễ bái của các thầy tế tư Bà-la-môn giáo. Lúc này, Chi-lâu-cà-sấm (Lokakṣema) thời Hậu Hán đã dịch Kinh Bát chu Tam-muội tuyên thuyết về phương pháp quán tưởng Phật, Bồ-tát để đắc được tam-muội làm đề tài thứ nhất, có nhắc đến sự chế tác tượng Phật. Nhờ có tư trào thời đại lớn chế tác tượng Phật theo kiểu Hy-lạp trang nghiêm nên đức Thích Tôn ngày càng được thể hiện siêu nhân hoá, thần cách hoá. Tạo lập tượng Phật và Bồ-tát đã có mối quan hệ không thể tách rời với nghi thức lễ bái chúng. Vào khoảng thế kỷ 2, việc cúng dường hương hoa đèn đuốc trước tượng Phật dường như đã thịnh hành, đã có nghi lễ đọc tụng đà-la-ni (dhāraṇī) một cách đơn giản.
Ý nghĩa thứ hai, do những tư tưởng dị chất của người An-tức, người Tắc Chủng, người Hy-lạp đã giao lưu tiếp xúc với tư tưởng Ấn-độ, Phật giáo Đại thừa hưng khởi, sự thật do vậy mà Phật giáo đã xuất hiện lập trường từ vô thần luận quá độ thành vị thần nhân cách hoá và thần cách chí thượng. Cuối cùng, tiếp nhận ảnh hưởng từ xã hội và tư tưởng của các dân tộc du mục phương Bắc theo kiểu Shaman giáo của người Tắc Chủng, An-tức… đã thúc đẩy sự chú thuật hoá Phật giáo.
2. Động hướng của Mật giáo và các dân tộc du mục
Thời đại giàu tính quốc tế xuyên suốt cả Ấn-độ cổ đại lẫn trung đại là thời đại Quý- sương (Kuṣāṇa). Khởi đầu Tây lịch không bao lâu sau, tộc Quý-sương thống trị Afghanistan miền Trung Á tiến tới tây bắc Ấn-độ và cũng kiểm soát luôn miền Bắc Ấn- độ, thành lập đế quốc Quý-sương (giữa thế kỷ 1 đến tiền bán thế kỷ 3) bao dung và thu nhận các nền văn hoá dị chủng. Thời kỳ toàn thịnh trong đó là vào thời vua Ca-nị-sắc-ca (Kaniṣka, thời gian tại vị khoảng năm 129–152). Tộc Quý-sương là một chủng của tộc Nguyệt Thị. Nguyệt Thị vốn dĩ là một giống dân du mục ở Trung Á, học giới ngày nay thường cho rằng tộc Nguyệt Thị nói ngôn ngữ Iran . Đầu tiên, vua Ca-nị-sắc-ca đã chi tiền đúc tượng Phật tại Ấn-độ, phán đọc ra văn tự là BODDO (Buddha, Phật-đà). Lúc này, vùng Tây Bắc Ấn-độ với sự che chở của vị vua này đã tiến hành biên soạn bộ Bách khoa toàn thư của Tiểu thừa bộ phái là A-tì-đạt-ma Đại Tì-bà-sa Luận (Hán dịch 200 quyển hiện còn), trở thành nghiên cứu học vấn Phật giáo vừa chi tiết vừa trọn vẹn. Nhưng một mặt khác các nhân sĩ thực hành Phật giáo Đại thừa nỗ lực không ngừng muốn giáo thuyết của đức Thích Tôn có thể được dân chúng hoá. Vì vậy những người xuất thân Bà-la-môn trong số họ đã ấp ủ ý tưởng đem chú văn truyền thống và tế tự cúng dường do mình sử dụng “Phật giáo hoá.” Điều rất không may là cuối thời kỳ Quý-sương đã phát sinh bi kịch lịch sử ngoài ý muốn. Thường người ta cho rằng đó là trận đại dịch thế giới xảy ra vào năm 167, nó đã ảnh hưởng và gây khủng hoảng cho đời sống của dân chúng Ấn-độ một cách sâu sắc. Có lẽ ta sẽ không khó tưởng tượng Phật giáo chú thuật nằm trong những người Ấn-độ này đã phát huy cơ hội may mắn như thế nào .
Vương triều Quý-sương không chỉ giao lưu với các dân tộc Trung Á và Tây Á mà còn thông thương với đế quốc La-mã, thậm chí giao thiệp nhiều lần với đế quốc Hậu Hán thông qua Con đường Tơ lụa. Ban đầu những người phiên dịch Phật điển sang Hán văn như An Thế Cao, Chi-lâu-cà-sấm, Chi Khiêm, Khang Tăng Khải, Trúc Pháp Hộ, Bạch-thi-lê-mật-đa-la… đều là những người sinh ra tại Trung Á thuộc các chủng An- tức, Nguyệt Thị, Túc-đặc (Sogdia), Cưu-tư, Vu-điền… Đây cũng là thuyết minh như thật rằng Phật giáo Đại thừa thuở ban đầu thịnh hành tại địa phương Trung Á và Iran. Phật giáo thẩm thấu đến dân chúng địa phương, đặc biệt là đến với các dân tộc du mục và bán du mục có truyền thống dạng Shaman giáo, giáo nghĩa và nghệ thuật mang hình thái Mật giáo rất dễ được tiếp nhận và trở nên hiếu kỳ trong mắt dân chúng. Cứ như thế, các đô thị xung quanh khắp miền sa mạc và thảo nguyên vùng lòng chảo Tarim cũng lưu hành Mật giáo. Khuynh hướng chú thuật của các dân tộc du mục Trung Á kiểu Shaman giáo cũng có tạo ảnh hưởng trong sự phiên dịch Phật điển Đại thừa. Khi này kinh điển Phật giáo Đại thừa có mang khuynh hướng Mật giáo không ít được phiên dịch thành Hán văn. Theo sử dịch kinh của Trung Quốc, Chi Khiêm đời Ngô là người Quy Hoá, tổ tiên là người Nguyệt Thị, từ năm 223–253 làm công việc dịch kinh tại Trung Quốc. Mấy bộ được ông phiên dịch, như Hoa tích Đà-la-ni thần chú Kinh… là kinh điển Mật giáo độc lập, có thể là thuộc vào thời kỳ sơ khai nhất.
Mặt khác, vào quãng thế kỷ 2 tTL tại Nam Ấn-độ đã xuất hiện vương triều An-đạt- la (Andhra). Vương triều này kiến thiết một đế quốc kiểu Ấn-độ thuần tuý, lấy Bà-la- môn giáo làm quốc giáo, bảo hộ Bà-la-môn; nhưng trong vương triều cũng lưu hành Phật giáo và Kỳ-na giáo. Các bộ phái thuộc hệ thống Đại Chúng bộ phồn vinh tại Nam Ấn-độ không bao lâu chúng đã hình thành cơ sở của Phật giáo Đại thừa. Kinh Bát-nhã là một trong những kinh điển Đại thừa sản sinh sơ kỳ, cũng như sự xuất hiện của Long Thụ (Nāgārjuna, khoảng 150 – 250) được tôn xưng làm tổ của phái Trung Quán đều là tại Nam Ấn-độ.
Ước khoảng chừng thế kỷ thứ 2 tTL đến thế kỷ 2 TL, thế lực Bà-la-môn lại trở nên chiếm ưu thế, nó tăng cường hơn quyền phát ngôn về các phương diện xã hội, văn hoá, tôn giáo… Vì vậy, văn hoá Ārya một mặt thì bao dung tín ngưỡng bộ tộc hay tín ngưỡng dân gian, một mặt thì Ārya hoá chúng. Đồng thời, xã hội nông thôn khép kín và tư tưởng tiềm tàng của đám thổ dân sống bên cạnh những cư dân đô thị cũng dần dần được thể hiện ra. Tôn giáo mới hỗn hợp giữa văn hoá Ārya và phi-Ārya, tức Ấn-độ giáo (Hinduism), đã hình thành như thế. Nghi lễ tôn giáo của Bà-la-môn giáo, tín ngưỡng dân gian của Ấn-độ giáo đã mang lại không ít sự kích thích cho Phật giáo Đại thừa, kinh điển Đại thừa cũng bắt đầu thể hiện sắc thái nghi lễ, chú thuật và chủ nghĩa thần bí một cách nồng hậu hơn (Matsunaga Yūkei, 1984: 30–31).
Bước vào thế kỷ 3, vương triều Quý-sương ở Bắc Ấn-độ đã suy vi, tiếp theo thì vương triều An-đạt-la ở Nam Ấn-độ sụp đổ. Trong khoảng 100 năm sau, toàn Ấn-độ các nơi đều xuất hiện thời đại phiên hầu cát cứ nhiều như ong. Tư tưởng Mật giáo trong lúc loạn thế này đã thể hiện rất rõ ràng, mô phỏng theo nghi thức lên ngôi quốc vương chấp chưởng Tăng chức trong cung đình Bà-la-môn, tuyên thuyết nghi thức quán đỉnh (abhiṣeka, abhiṣecana) đăng Phật vị. Ví như Kinh Đại thừa Bi Phân-đà-lợi (Tây Tấn, không rõ người dịch) là vậy. Vào thời đại này Trúc Pháp Hộ (Dharmarakṣa, Đôn Hoàng Bồ-tát) ở Đôn Hoàng, cũng như dịch giả kinh điển Mật giáo sang Hán văn lấy vương tử nước Cưu-tư ở Trung Á – Bạch-thi-lê-mật-đa-la (Śrīmitra) làm đầu, đều tự xưng là sinh ra ở “Tây Vực,” “Kế-tân,” “Bắc Thiên-trúc,” đặc biệt là vùng Tây Vực. Điều này so với bản đồ vương triều Quý-sương trước kia thì không có quan hệ gì với vùng Trung Á và Iran. Các dân tộc du mục Trung Á thì không cần đến triết lý Phật giáo cao siêu sâu sắc. Do thiếu tính sản xuất nên giao dịch với các dân tộc nông canh rất dễ bị phá mất cân bằng, kết quả là không ngừng dẫn tới chiến tranh xâm lược nhiều lần, do đó chỉ có yếu tố lợi ích hiện đời của Mật giáo mới có thể khiến họ mê đắm. Ví như: năm 310, nhà sư Tây Vực Phật-đồ-trừng (232–348) đi đến Lạc Dương chính là một thầy Shaman thành thạo về chú thuật .
3. Nghi lễ Mật giáo trong thời đại vương triều Gupta
Vương triều thống nhất Ấn-độ thời xưa lại xuất hiện thêm vương triều Gupta (khoảng 320–550). Từ khi vua Candragupta (Nguyệt Hộ) đệ nhất hưng khởi tại Ma- yết-đà lên ngôi năm 320 thành lập vương triều Gupta. Đời tiếp theo là vua Samudragupta (Hải Hộ, lên ngôi khoảng năm 330) đã chinh phục toàn cõi Ấn-độ, thế là sau vương triều Khổng Tước lại hình thành một quốc gia thống nhất lần nữa. Vương triều này lấy Bà-la-môn giáo làm quốc giáo, là thời kỳ phục hưng văn hoá Ấn-độ. Tiếng Sanskrit được Bà-la-môn giáo sử dụng trở thành tiếng dùng chung, trật tự xã hội đặt nền tảng trên sự khác biệt giai cấp bảo thủ và truyền thống, pháp lý được biên thành dựa trên bộ luật Bà-la-môn để tiến hành xác định. Lại nữa, cộng đồng làng xóm trong nông thôn cố hữu thành lập tại Ấn-độ, còn chế độ thị tộc thì bị giải thể.
Kết hợp hỗ tương với giáo học Bà-la-môn, hệ thống lý luận và tu đạo Phật giáo do Di-lặc (Maitreya), Vô Trước (Asaṅga) và Thế Thân (Vasubandhu)… đã cấu thành. Cùng lúc này Phật giáo đã hấp thu diện rộng các nghi lễ Bà-la-môn, bao dung các thần Ấn- độ giáo, bắt đầu hiển thị một cách rõ ràng khuynh hướng đa thần giáo. Phật giáo đã mạnh dạn áp dụng tạp pháp của ngoại đạo, tin thờ các tạp thuật tà pháp của thế tục và hay cho đó là phương tiện để giáo hoá những chúng sinh chưa bày tỏ ý nguyện đối với việc học tập Phật pháp.
Phép cúng dường, phép quán Phật, phép kết giới làm đàn, phép gọi mưa ngừng mưa được hình thành, các kinh điển chữa trị mang tính chú thuật được thành lập, trở thành sự xuất hiện của bốn vị Phật làm cơ sở cho mạn-đồ-la sau này, điều đó không thể bỏ sót đây là đặc sắc Phật giáo của thời đại vương triều Gupta.
Nghi thức quán đỉnh được thực hiện trong lễ lên ngôi của vua chúa thời xưa bước vào Phật giáo, tiến hành vận dụng trong nghi lễ kế thừa Phật vị là vào thời đại vương triều Quý-sương. Nhưng nó được hoàn thiện như là một nghi lễ Mật giáo thì phải đến thời đại vương triều Gupta. Về phương pháp cúng dường hương hoa… trước Phật đã thịnh hành vào khoảng thế kỷ 2 rồi. Xếp ba chồng đất làm đàn tròn vẽ theo hình tròn, dùng dao, phướn, mũi tên, đèn, gương, hương tạo nên phép kết giới làm đàn, cũng như dùng phân bò trải lên đất rồi quăng hột cải đốt để làm phép hộ-ma tế lửa từ thế kỷ 3 đến đầu thế kỷ 4 đã hoàn bị. Đây là lý do vì sao hộ-ma ngoại đạo được nói đến trong Kinh Ma-đăng-già đã được Phật giáo áp dụng.
Lại thêm những quy định về tắm gội, tịnh y, đoạn thực, mỗi vị chư tôn đã bắt đầu trở thành đối tượng được cầu nguyện. Vào thế kỷ 4, sau khi cúng dường tượng Phật đã chế định phương pháp quán tưởng Phật một cách giản đơn. Phép quán tưởng đối với các đấng Bồ-tát như Quan Âm, Di- lặc, Phổ Hiền, Hư Không Tạng, Dược Vương, Dược Thượng… và với các vị Phật như A-di-đà hoặc Dược Sư… đến thế kỷ 5 cũng nối tiếp nhau được giới thiệu sang Trung Quốc.
Hậu bán thế kỷ 5, Kinh Đại cát nghĩa Thần chú được Đàm Diệu dịch sang Hán văn là một cuốn kinh điển có dấu vết của sự phát triển nghi lễ Mật giáo trong thời đại vương triều Gupta cần được chú ý. Nó tường thuật phép kết giới và cũng trình bày tác pháp bảy tầng giới đàn, nó lại nói về sự cầu nguyện chủ yếu là để trừ tai trước kia, tuyên thuyết về phép cúng dường – là phương pháp cầu thỉnh đối với những nguyện vọng khác nhau, thuận ứng với vị Bổn tôn được cầu khấn. Nghi quỹ Mật giáo đã từ từ có hình thái chỉn chu.
Lại nữa, Đàm-vô-sấm (Dharmakṣema, 385–433) là người Trung Ấn-độ đã dịch sang Hán văn bộ Kinh Đại phương đẳng Đại vân. Đây là kinh điển chú thuật cầu mưa, là một sự khởi nguồn. Tương tự, ông còn dịch bộ Kinh Đại phương đẳng Vô tưởng sang Hán văn, là một trong những kinh điển Phật giáo sơ kỳ nhất có liên hệ đến chú thuật gọi mưa ngừng mưa. Vào hậu bán thế kỷ 6, phẩm Thỉnh vũ trong Kinh Đại phương đẳng Đại vân được Xà-na-da-xá dịch sang Hán văn, rõ ràng đã có bổ sung thêm.
Đời sống kinh tế của những cư dân sống tại địa phương lưu vực trung du sông Hằng là nông nghiệp cày cấy, các chú thuật cầu thoát khỏi hạn hán hoặc lũ lụt, cầu mưa hay ngừng mưa đã được áp dụng vào Phật giáo, đặc biệt là chú thuật nông canh giáng mưa ngừng mưa đại quy mô trong vương triều Gupta được lưu hành nếu tách rời với cộng đồng làng xóm nông thôn cố hữu được thành lập trong thời đại này thì sẽ không thể nào tưởng tượng được.
Những kinh điển cầu mưa này đã được tiến hành phiên dịch sang Hán văn từ thời Bắc Chu (556 – 581), nhà Tuỳ (581–618) đến đời Đường (618–907). Những kinh điển này là nguyên nhân căn bản được giai cấp thống trị Trung Quốc lợi dụng để làm công cụ trị quốc, chẳng qua là phổ biến việc cầu mưa, ngừng mưa, điều đó là do trường hợp người Ấn-độ với dân tộc Trung Quốc nông canh có hoạt động sản xuất dựa trên điều kiện tự nhiên là hoàn toàn nhất trí. Lại nữa, nghi lễ nông canh có nguồn gốc phi-Ārya xua đuổi rồng hoặc chim công trong thời kỳ này hoàn toàn là chú pháp của Phật giáo, được cố định trong những người nông dân.
Y học Ấn-độ vào thời cổ đại có thành tựu trong danh tập Thọ mạng Vệ-đà (Āyurveda), trong đó có rất nhiều điều học từ cư dân nguyên thuỷ. Ngay cả người Ả- rập phát đạt về y học cũng là phiên dịch từ sách vở y học của Ấn-độ bằng tiếng Phạn. Y học Ấn-độ phát triển mà không có liên hệ gì với chú thuật thì không có khả năng. Kỳ Vực từ Ấn-độ đi đến Lạc Dương vào thế kỷ 4 nổi tiếng với những năng lực kỳ tích, trước khi vào Lạc Dương tiếng tăm đã lan truyền khắp Trung Quốc với danh nghĩa thầy thuốc. Cuối thế kỷ 4, trong kinh điển được Đàm-vô-lan (Dharmarakṣa, Pháp Chính) của Tây Vực phiên dịch có các kinh điển thần chú như Kinh Chú thời khí bệnh, Kinh Chú xỉ, Kinh Chú mục, Kinh Thỉnh vũ chú… Các mật chú được sử dụng để trị nội chướng, sâu răng, chữa bệnh… đã phản ánh đúng mong ước đạt được hạnh phúc và nguyện vọng trong đời sống thường ngày của người Ấn-độ vào khoảng thế kỷ 4 .
4. Xã hội Ấn-độ và Mật giáo trong thời kỳ biến động
Đến cuối thế kỷ 5, vương triều Gupta suy vi và tan rã. Từ khoảng năm 480, người Bạch Hung-nô Hephthalite/Ephthalitai thuộc hệ Hung-nô (Hūṇa) đã xâm nhập Tây Bắc Ấn-độ. Nghiên cứu gần đây nhất thì người Hephthalite là dân tộc hệ Iran. Mihirakula/Mihiragula (thời gian tại vị từ năm 515–550) của đế quốc Bạch Hung-nô hung mạn bạo ngược, có một mô tả hồi tưởng nổi tiếng trong Kinh Liên hoa diện: mắt thấy vô số chùa Phật và tháp Phật tráng lệ bị phá huỷ, bị ngọn lửa hung tợn bủa vây một vòng nối một vòng cháy trụi trên mặt đất, điều đó khiến tín đồ Phật giáo cảm thán sâu sắc về “thế giới Mạt pháp.”
Người Bạch Hung-nô Hephthalite bị vua Yaśodharman đánh lui vào năm 533, thế nhưng vương triều Gupta đã tan vỡ, Ấn-độ lại một lần nữa rơi vào tình cảnh chia năm xẻ bảy.
Đặc trưng toàn diện của thời đại này là sau khi đế quốc Tây La-mã diệt vong, mậu dịch với Tây phương bị thụt lùi, kết quả là quan hệ đẳng giá (dīnāra=denarius) giữa tiền tệ hàng hoá Ấn-độ với đế quốc La-mã cũng biến mất, điều đó cũng gây phá hoại sự thống nhất tiền tệ hàng hoá của Ấn-độ, kinh tế hàng hoá bị suy thoái toàn diện. Nó mang lại sự tàn lụi và suy kiệt nền tư bản thương nghiệp trong xã hội, ngược lại, những thế lực về chính trị và văn hoá ở nông thôn đình trệ của Ấn-độ xưa nay có dịp được bành trướng. Sự thật xã hội này đã xuất hiện về mặt tư tưởng sự suy thoái của Phật giáo và Kỳ-na giáo (Jaina/Jainism) vốn ủng hộ tư bản thương nghiệp, làm kéo dài tư duy bảo thủ. Văn hoá trong thời đại này thường là đình trệ, lý luận của Phật giáo Đại thừa Trung Quán và Du-già hành Duy Thức cũng như các hệ thống triết học của sáu phái thành lập cho đến nay chỉ có những giáo thuyết nào đã xác định thì vẫn tiếp tục phát triển, không thấy có tiến bộ mới. Phật giáo và Kỳ-na giáo có lúc còn bị chèn ép hoặc bị tịch thu đất đai, buộc lòng phải thích ứng để thoả hiệp với xu thế trong thời đại này. Vì vậy Phật giáo với hình thức Mật giáo đã thu nhận và dung hợp tín ngưỡng dân gian được hưng thịnh, Kỳ-na giáo cũng chịu ảnh hưởng của Ấn-độ giáo. Phật giáo cũng càng thể hiện rõ sắc thái Bí giáo và nghi lễ hơn .
Đầu thế kỷ 6, Bồ-đề-lưu-chi (Bodhiruci, Đạo Hi, ?–527) và Phật-đà-phiến-đa (Buddhaśānta, Giác Định) vượt nghìn dặm đến Trung Quốc phiên dịch kinh điển Mật giáo sang Hán văn, họ đều sinh ra ở Bắc Ấn-độ. Đại bộ phận những kinh điển Phật giáo mà họ đem đến so với các bản Hán dịch của những nhà sư Tây Vực thì cùng phiên bản, đó là điều đáng chú ý. E rằng do sự xâm nhập của người Hephthalite gây chiến loạn càn quét nên buộc họ phải tỵ nạn sang Trung Quốc.
Khi thế lực vua Yaśodharman đánh đuổi người Hephthalite như đã nêu và thành lập chính quyền địa phương, bản thân nhà vua là một người sùng bái thần Śiva. Hậu bán thế kỷ 6, Kinh Thập nhất diện Quán Thế Âm thần chú được Da-xá-quật-đa Mihirakula kế thừa cha mình là vua Toramāṇa làm vua của đế quốc Bạch Hung-nô Ấn-độ vào năm 515 tTL. Đó chính là vị Sắc Cần vương (勅懃王) “hung mạn vô lễ, ngồi nhận chiếu thư” thấy có đề cập trong “Càn-đà-la quốc” của Tống Vân. Bộ sách Dòng sông của đức Vua (Vương Hà:Rājataraṇgiṇī І, 306-307) của Kalhaṇa người Ấn-độ cũng gọi hắn là “vị thần phá hoại những giá trị chân thật.” .
(Yaśagupta, nhà sư Kiện-đà-la) đã bổ sung thêm pháp Biện Tài Thiên được nói đến trong Kinh Kim Quang Minh, pháp Thập nhất diện Quan Âm bắt đầu xuất hiện, có quy định về tôn hàng và đàn pháp. Khoảng một thế kỷ sau đó thì xuất hiện các loại Quan Âm biến hoá khác nhau và giới định ra các nghi quỹ. Điều này cho thấy rằng tín ngưỡng thần Śiva của Ấn-độ giáo đã phổ biến ngày càng bình hành với tín ngưỡng Quan Âm. Lại nữa, thời này đã hoàn thành đàn pháp mạn-đồ-la (maṇḍala). Mạn-đồ-la thực ra là những bề mặt đàn đất được xây dựng có vẽ Phật Bồ-tát và các thần, là một loại chúng thần (pantheon) trong thế giới chân thật của tôn giáo tượng trưng.
Tổ chức quyến thuộc và bộ (kula) của chư Phật Bồ-tát được thấy trong đó là những thứ đã được cấu thành quy phạm từ xã hội gia tộc của cộng đồng làng xóm nông thôn cố hữu Ấn-độ được định hình hoá sớm từ thời đại vương triều Gupta. Các làng xóm nông thôn Ấn- độ đã trở thành một làng trung tâm quy tụ theo xung quanh những ngôi làng nhỏ hơn. Hơn nữa cấu tạo của các làng xóm đại để là thuộc về gia tộc của cùng một bộ (kula) làm đơn vị để sắp xếp cấu thành. Trung tâm của gia tộc là gia trưởng, gia tộc đó là đơn hôn.
Mạn-đồ-la có thể được xem là hình ảnh phản chiếu của một trong những thể cấu thành xã hội cộng đồng sau khi chế độ thị tộc tan rã. Viền ngoài của mạn-đồ-la không cần nói cũng biết là mô phỏng theo đô thành của Ấn-độ thời xưa. Nhắc kèm thêm một điều, từ kula trong tiếng Sanskrit dịch là bộ, có nghĩa là chỉ một tộc có quan hệ huyết thống. Tại Ấn-độ đã sáng tạo ra ngôi nhà Mật giáo mạn-đồ-la không hài lòng với việc chỉ cấu hình các vị Phật và Bồ-tát khác nhau, mà còn tập hợp các vị Phật và Bồ-tát có mối quan hệ sâu sắc với nhau để mô tả chúng. Hơn nữa nhóm này được gọi là một “bộ” phỏng chiếu theo quan niệm bộ tộc của thế gian .
Đầu thế kỷ 7, vua Giới Nhật (Śīlāditya, Harṣa-vardhana, Hỷ Tăng, thời gian cai trị: 606–647) đã thống nhất Bắc Ấn-độ, lấy thành Khúc Nữ (Kānyakubja, Kanauj, Yết- nhược-cúc-xà quốc) làm thủ đô, nỗ lực vào sự phục hưng văn hoá. Lấy đại già-lam Nālandā (Na-lan-đà) làm trung tâm, giáo học Phật giáo rất thịnh hành. Bản thân vua Giới Nhật là văn nhân, có lưu lại vài tác phẩm biên kịch như Long hỷ ký (Nāgānanda); song thực trạng Ấn-độ vào thời ông cai trị có thể biết được thông qua Giới Nhật vương truyện (Harṣacarita) trong bộ Bāṇa của thi nhân cung đình và nhật ký du hành Đại Đường Tây Vực ký của Huyền Trang tam tạng (600–664). Huyền Trang (629–645 tại Ấn) khi du học Ấn-độ trùng với thời đại của vua Giới Nhật. Trong Đại Đường Tây Vực ký của Huyền Trang không có báo cáo gì liên quan đến Mật giáo. Người ta không thể tin rằng đó là những ghi chép trung thực về tình trạng Phật giáo Ấn-độ đương thời. Huyền Trang hình như không mấy quan tâm đến Mật giáo. Kinh điển Mật giáo được ông phiên dịch chỉ gói gọn vài bài đà-la-ni ngắn, nếu nhìn vào toàn thể kinh Phật được Huyền Trang phiên dịch thì số lượng không đủ. Theo tư liệu Hán văn có thể thấy, vùng Trung Ấn-độ đã cấu thành trung tâm địa tín ngưỡng Mật giáo một cách phồn tạp. Hơn nữa trong thời gian này kinh điển Mật giáo với số lượng khá nhiều đã được mang đến Hán địa.
III. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ–XÃ HỘI Ở VÙNG NAM ẤN-ĐỘ VÀ SỰ XÁC LẬP MẬT GIÁO
1. Sự xác lập Mật giáo
Bước vào thế kỷ 7, Mật giáo và Bà-la-môn giáo tại các nơi thuộc Ấn-độ đã đi bình hành với Ấn-độ giáo, giáo lý của họ được thuần hoá dần dần, tiến tới xây dựng hệ thống khổng lồ với những tư biện và thực tiễn được hoàn thành. Từ sau thế kỷ 7, Phật giáo Đại thừa dường như đều đã hoàn toàn Mật giáo hoá, thế nhưng cơ sở xã hội của nó vẫn chưa rõ ràng trọn vẹn. Từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 8 tại Ấn-độ và các khu vực xung quanh đã nghênh tiếp thời kỳ phồn vinh của Mật giáo. Trong thời kỳ này các phép đà- la-ni, chú thuật, pháp quán du-già, nghi thức tôn giáo… từ từ được vun bồi xuất hiện trong Phật giáo Đại thừa, cơ hội để tổng hợp chúng thành tổ chức nhất định đã dần dần chín muồi. Cùng vào lúc này, Phật giáo Đại thừa đã bắt đầu thể hiện sắc thái chủ nghĩa thần bí một cách dày đặc.
Phải chăng do thế giới hiện tượng bị kiểm soát bởi kinh nghiệm thế tục nên học phái Trung Quán đã đắm mắt vào sự đạt đến trí tuệ Bát- nhã siêu việt khỏi kinh nghiệm thường nhật, cũng như học phái Duy Thức có ý đồ muốn chuyển hoán chất từ nhận thức thế tục sang trí tuyệt đối, tất cả đều phải thông qua trực quan thần bí thì mới có thể đạt được mục đích hay sao. Hệ thống thực hành Mật giáo được bảo đảm bởi trực quan thần bí là một mặt nghiêng không thể thiếu đối với Phật giáo Đại thừa, cũng là một điểm chạy về tất nhiên của triết học Đại thừa. Các vị luận sư Đại thừa ra đời vào lúc này tuy y cứ Trung Quán, Duy Thức hoặc là y cứ Trung Quán Du-già hành phái về mặt tư tưởng, nhưng về hành pháp thì đã theo pháp tu của Mật giáo .
Bối cảnh xã hội để thành lập Mật giáo có thể nói là chưa được rõ ràng đầy đủ về mặt học vấn. Nhưng chí ít hiện nay có thể chỉ ra những sự thật hiển nhiên có bốn điểm như sau:
(1) Sự suy thoái của tư bản thương nghiệp;
(2) Sự phân lập các quốc gia chuyên chế;
(3) Sự thành lập nền kinh tế khép kín nông thôn;
(4) Sự phồn vinh của Ấn-độ giáo, Bà-la-môn giáo.
Như trước đã nêu, mậu dịch Tây phương suy yếu do sự diệt vong của đế quốc Tây La-mã, tiếp theo là nạn hải tặc ở Ả-rập công kích các đô thị hải cảng ở bờ Tây Hải Ấn-độ từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 9 khiến nó bị tiêu huỷ toàn bộ, nền tư bản thương nghiệp dựa vào mậu dịch hải ngoại bị đẩy lùi toàn diện. Do đó, một nền kinh tế khép kín của xã hội nông thôn khu vực đã được thiết lập, và có thể thấy sự phục hưng của văn hóa Ấn-độ đứng trên đó.
Về mặt chính trị, thậm chí có những quốc gia chuyên chế ở khắp mọi nơi, vì vậy văn hóa của nhiều nơi đã đẩy nhanh sự bảo thủ và trì trệ của nó. Trong hoàn cảnh đó, Phật giáo Đại thừa nhất định phải có thái độ thỏa hiệp với các tôn giáo truyền thống và tín ngưỡng dân gian của Bà-la-môn. Và để có được quyền lực xã hội, cần phải kết hợp với quyền lực nhà nước chuyên chế. Mật giáo tuyên truyền tư tưởng hộ quốc (bảo vệ đất nước), vì vậy, trong hiện trạng đối lập giữa các quốc gia này, Mật giáo được các quốc gia cụ thể ủng hộ và mang tính cách của tôn giáo cung đình.
Cho nên Mật giáo tại phương Nam được sự bảo hộ của vương triều Pallava (Bạt-la-bà), song lại bị bài xích bởi vương triều Chola (Khâu-lạp). tại phương Bắc, Mật giáo rất được phát triển nhờ sự bảo hộ của các vị vua thuộc vương triều Pāla (750–1155). Song vương triều Pāla hưng khởi từ hai địa phương Bihār và Bengal ngày nay, hơn nữa từng chi phối khu vực thượng lưu sông Hằng nhưng lại chưa bao giờ tiến vào lãnh thổ của lực lượng vũ trang vùng Tây Bắc Rājpūt (ngày nay là Rajastan), đây là một điểm đáng chú ý.
Giai đoạn phát triển của tư tưởng Phật giáo Đại thừa vướng vào những nền tảng xã hội và chính trị của Mật giáo này là gì? Vào giữa thế kỷ 7, các kinh điển quan trọng như Trung Quán, Duy Thức, Hoa Nghiêm, Như Lai Tạng đều đã xuất hiện và trở thành tư tưởng, tín ngưỡng được lưu truyền rộng rãi, thẩm thấu đến xã hội Ấn-độ. Một bộ phận các bộ phái Phật giáo Tiểu thừa tồn tại song hành và chất vấn luận nạn nhau với Đại thừa thì có Hữu bộ và Kinh Lượng bộ… giáo lý của họ đã đạt đến mức hoàn thiện, thế nhưng toàn bộ cộng đồng Phật giáo đang trong thời kỳ bắt đầu có dấu hiệu từ hoàn thiện đến suy tàn. Hai dòng phái lớn đại diện cho Phật giáo Đại thừa là Trung Quán phái và Du-già hành Duy Thức phái đều xử lý triết học và nhận thức luận từ lập trường của chủ nghĩa thần bí tượng trưng, từ đó hiện thực hoá triết học Phật giáo Trung Quán và Duy Thức theo hệ thống thực hành riêng biệt .
Mở đầu tác phẩm Chân thật Bảo man (Tattvaratnāvalī), Bất Nhị Kim Cương (Advaya-vajra/Avadhūtipā) đã nói: “Chân ngôn Lí thú (Mantra-naya) đã được thuyết minh trên lập trường của phái hành giả du-già (Duy Thức phái) và Trung Quán phái.” Đây là một bằng chứng đích xác cho sự thật này. Tương tự, trong Bất Nhị Kim Cương
4 Vương triều Chola là nước Châu-lợi-da (珠利耶國) ghi trong Đại Đường Tây Vực ký quyển 10, Châu-lợi-da là âm dịch của tiếng Sanskrit Colya, còn ký âm là Coḍa, Coḷa, Cola, Choḷa, chữ Tamil ghi là Śōla. Chư phiên chí (諸蕃志), Văn hiến Thông khảo (文獻通考), Tống sử (宋史) đều ghi là Chú-liễn (注輦, Cola-maṇḍala); Doanh Nhai thắng lãm (瀛涯勝覽) ghi là Trấn-lí (鎖里), tức là Coromandel hiện nay.
Đại thừa được chia thành hai học phái tức là Ba-la-mật Lí thú (Pāramitā-naya) và Chân ngôn Lí thú. Khinh bản Tục thời luân Tục vương thích sớ (Laghu-kālacakra-tantra-rāja-ṭīkā) với nhan đề ghi là Vô Cấu Quang (Vimala- prabhā), trong đó viết bằng tiếng Sanskrit đề cập đến toàn bộ giáo nghĩa của Ba-la- mật Lí thú và viết bằng các tiếng Sanskrit, tiếng Prākṛta (tục ngữ), tiếng Apabhraṃśa (ti tục ngữ, tức là ngôn ngữ trệch chuẩn, sai ngữ pháp) về giáo nghĩa của Chân ngôn Lí thú, và nó còn được thuyết minh bằng ngôn ngữ phi-Ārya như tiếng Mleccha… (asaṃkṛta-śavarādi-mleccha-bhāṣayā) .Những ngôn ngữ này đã cho thấy rằng tình hình Phật giáo Đát-đặc-la đã đột phá khỏi vòng văn hoá Bà-la-môn sử dụng tiếng Sanskrit mà mở rộng đến vòng văn hoá thứ dân quảng đại sử dụng những ngôn ngữ địa phương thông tục.
2. Sự thành lập Kinh Đại Nhật
Từ những dấu vết triển khai tư tưởng Phật giáo Đại thừa sang Mật giáo thì chưa thể truy nguồn một cách minh xác trong giai đoạn này. Tuy nhiên, đặc sắc của Mật giáo không phải tìm được trong sự phát triển tư tưởng của Phật giáo Đại thừa, người ta cần phải thừa nhận rằng Phật giáo Đại thừa xưa nay vốn có khuynh hướng chủ nghĩa thần bí và những yếu tố cường điệu cực đoan về nghi lễ, triết học Phật giáo Đại thừa phát đạt cao độ bên trong hệ thống thực hành riêng biệt đã cụ thể hoá vào những quan điểm này.
Trong ý nghĩa này, sự thành lập Kinh Đại Nhật và Kinh Kim Cương Đính có thể nói là một thời kỳ riêng trong lịch sử Mật giáo. Căn cứ truyền thống của Mật giáo Trung Quốc, Chân Ngôn tông của Nhật Bản gọi Kinh Đại Nhật và Kinh Kim Cương Đính là “hai bộ đại kinh,” tôn ngưỡng nó là các thánh điển căn bản. Điểm này thì tương đối khác với giáo lý quan của Mật giáo Bu-ston Tây Tạng (1290–1364). Nhật Bản thì gọi Mật giáo của Kinh Đại Nhật và Kinh Kim Cương Đính là thuần Mật, nó có nghĩa là Mật giáo thuần chính. Đối lập với thuần Mật thì những loại Mật giáo phi tổ chức, rời rạc kia gọi là tạp Mật, tức thông thường gọi là Tạp bộ Mật giáo. Một mặt thì tại Ấn-độ và Tây Tạng cũng có phép phân loại kinh điển và nghi quỹ Mật giáo như nhau, đại thể thì đối ứng với kinh điển và nghi quỹ được Nhật Bản nói đến đó là Sự tục (kriyā-tantra, bya ba’i rgyud), đối ứng với những gì thuộc Kinh Đại Nhật đó là Hành tục (caryā-tantra, spyodpa’i rgyud), Kinh Kim Cương Đính thì sắp xếp vào Du-già tục (yoga-tantra, rnal ’byorrgyud). Lại nữa, các thánh điển Mật giáo thuộc hệ thống Kinh Kim Cương Đính được phát triển sau này lại được gọi là Vô thượng Du-già tục (anuttarayoga-tantra, rnal ’byor bla na med pa’ i rgyud).
Những cách phân loại kinh điển Mật giáo của Nhật Bản hoặc Ấn-độ, Tây Tạng chủ yếu là phân chia theo nội dung, trong đó có bao gồm một số phán đoán giá trị. Nếu cân nhắc theo trình tự lịch sử hình thành kinh điển thì ta gọi Mật giáo của Kinh Đại Nhật và Kinh Kim Cương Đính là Mật giáo trung kỳ của Ấn-độ, trước thời kỳ đó là Mật giáo sơ kỳ, còn sau nó là Mật giáo hậu kỳ, như vậy là ổn thoả nhất.
Từ Mật giáo sơ kỳ sang Mật giáo trung kỳ được triển khai theo dạng tiệm tiến nên rất khó phân biệt rạch ròi lập trường của mỗi bên. Nhưng nếu miễn cưỡng phải nêu đặc sắc của cả hai thì xin nêu ra mấy điểm, tức là: Mật giáo sơ kỳ áp dụng hình thức thuyết giáo của đức Thích- ca, chủ yếu lấy mục đích là trừ tai ách, gọi phúc lành, nghi lễ trở thành trung tâm. Vả lại, nó vẫn chưa tích cực chú ý đến tính liên kết hữu cơ giữa đà-la-ni, ấn khế và quán pháp, mạn-đồ-la vẫn đang trong quá trình hình thành.
Đối lập lại, Mật giáo trung kỳ với đại diện là Kinh Đại Nhật và Kinh Kim Cương Đính đã lấy giáo chủ là Đại Nhật Như Lai (Vairocana), thành Phật được xem là trở thành mục tiêu cứu cánh, mưu cầu sự dung hợp khăng khít giữa tư tưởng Phật giáo Đại thừa với nghi lễ Mật giáo. Hơn nữa về quán pháp thì xem trọng sự tương tức của tam mật thân–khẩu–ý, chư tôn theo một khái niệm nhất định được đưa vào trong tổ chức mạn-đồ-la .
Kinh Đại Nhật được xác định là đã thành lập tại vùng Tây Nam Ấn-độ sau khi Huyền trang ròi khỏi ấn độ.
Vùng Tây Nam Ấn-độ từng có qua lại mậu dịch với Tây La-mã, có rất nhiều cảng thị phồn vinh, sau đó nhất thời suy yếu đi, tuy nhiên trong nhật ký du hành Ấn-độ Đại Đường Tây Vực ký của Huyền Trang lại chép chi tiết về sự phồn vinh trong hoạt động thương nghiệp của địa phương này, đặc biệt là ghi chép về nước Phạt-lạp-tì (Valabhī) nằm trên bán đảo Kathiawar là “những thứ hàng hoá lạ nơi xa đều tập trung về xứ này” (遠方奇貨,多聚其國: viễn phương kỳ tư,đa tụ kì quốc.) Cũng như mô tả về cảnh tượng phồn vinh của nước Tô-lạt-sá (Suraṭṭha/Surāṣṭra) là “nước ấy nằm trên con đường băng qua Tây Hải, mọi người đều kiếm lợi từ hàng hải, làm ăn với nghề buôn bán.” (國當西海之路,人皆資海之利, 興販為業: Quốc đương Tây Hải chi lộ, nhân giai tư hải chi lợi, hưng phiến vi nghiệp.)
( Bốn cách phân chia này rất nổi tiếng trong phép phân loại Mật giáo bộ của Đại tạng kinh Tây Tạng. Đầu tiên là Bu-ston (1290–1364) đã chỉnh lý thuyết của các sư Ấn-độ và Tây Tạng rồi đem tất cả thánh điển Mật giáo phân loại thành bốn: Sự, Hành, Du-già, Đại Du-già tục (rnal ’byor chen po’i rgyud, mahāyoga). Có thể nói học thuyết của ông là tiên phong cho “phép phân tư Thánh điển Mật giáo” (rgyud sde bzhi) thịnh hành tại Tây Tạng sau này. Sự thật thì bốn pháp phân loại này khởi nguyên từ Ấn-độ, với Yếu nghĩa thích (bản Đông bắc Đức-cách, No.2662, 3b) và Quảng thích (đồng, No.2663, 261 a. b) của sư Phật Mật (Buddhaguhya) vào thế kỷ 8 có thể tìm thấy manh mối của nó.)
Tình hình địa lý và kinh tế của các địa phương này đã chứng minh cho tình hình các loại tâm được mô tả trong Kinh Đại Nhật như là “thương nhân tâm” (tâm con buôn), “diêm tâm” (tâm bán muối), “hải đẳng tâm” (tâm đi biển) v.v… Nguồn vốn lớn được tích luỹ qua mậu dịch với Tây phương được ghi chép tại mục nước Phạt-lạp-tì là “những kẻ chất của cải trăm ức thì có hơn trăm nóc nhà.” (積財百億者,乃有百餘室矣: tích tài bách ức giả, nãi hữu bách dư thất hĩ.) (cùng sách, quyển 11)
Nền tư bản thương nghiệp này đã giúp cho các chùa hang như Ajaṇṭā, Ellora, Nāsik… duy trì phát triển. Hơn nữa, những địa phương này theo Đại thừa và Tiểu thừa, đặc biệt là Chính Lượng bộ lấy tiếp cận Ấn-độ giáo làm đầu, thịnh hành Śiva, Viṣṇu cũng như các loại tín ngưỡng thần khác trong dân gian; tộc người Pārsī/Parsis tin thờ Bái Hoả giáo Ba- tư (Zoroastrianism, Hiên giáo) bị tín đồ Hồi giáo xua đuổi di cư sang vào thế kỷ 8. Do vậy nghe nói Phạt-lạp-tì là một quốc gia địa phương được kiến lập bởi tộc người Maitraka hệ Iran.
Kinh Đại Nhật có tên đầy đủ là Đại Tì-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì Kinh (大毘盧遮那成佛神變加持經). Nguyên điển tiếng Sanskrit hiện vẫn chưa được phát hiện,nhưng dựa vào trích dẫn trong những kinh điển hoặc luận sớ khác ta có thể biết được một phần sự xuất hiện của Kinh Đại Nhật được xem là sự độc lập của Mật giáo.
Kinh Đại Nhật không phải là Thích-ca thuyết pháp, nó được xem là thuyết pháp của Đại Tì-lô-giá-na Thế Tôn (Đại Nhật Như Lai). Giáo chủ đã khác với Phật giáo Đại thừa, hơn nữa cũng khác với cáo chúng. Trong Kinh Đại Nhật cũng liệt kê những vị đại Bồ-tát như Phổ Hiền… nhưng chủ yếu đó là tất cả những vị trì kim cương (Vajrapāṇi, Kim cương thủ) lấy Bí Mật Chủ làm thượng thủ. Nơi thuyết pháp cũng là cung pháp giới Quảng Đại Kim Cương được đức Như Lai gia trì, chứ không phải tại nhân gian. Sự thuyết pháp này là do Pháp thân Tì-lô-giá-na Như Lai, điều đó ngay cả những hạng Thanh văn như Xá-lợi-phất, Mục-liên… cũng không thể biết, cho nên Thanh văn và phàm phu vẫn chưa được liệt vào hội toà thuyết pháp. Điểm này cũng đã khác với kinh điển Đại thừa. Như thế, về hình thức kinh điển, Kinh Đại Nhật đã vạch ra một ranh giới với kinh điển Đại thừa .
Kinh Đại Nhật được cấu thành gồm 7 quyển, đến quyển 6 phẩm 31 là trọng tâm của kinh điển, phẩm 5 của quyển 7 là nghi quỹ phụ thuộc vào nó. Phẩm 1 Trụ tâm trình bày khá nhiều về tư tưởng. Từ phẩm 2 Cụ duyên trở đi, những ghi chép về mặt tu đạo liên quan đến mạn-đồ-la, ấn khế, chân ngôn… đã trở thành trung tâm. Kinh Đại Nhật đã sử dụng hình thức Kim cương Bí Mật Chủ chất vấn và Tì-lô-giá-na Phật trả lời để thuyết minh phương pháp đạt được Nhất thiết trí trí (thành Phật), và căn cứ cho những lý luận đó. Ba câu “Phật nói Bồ-đề tâm là nhân, đại bi là căn bản, phương tiện là cứu cánh” đã trở thành cốt rễ của phẩm Trụ tâm. Dựa vào ba câu này để thực hành tu đủ Bát-nhã và phương tiện, thành Phật là điều có khả năng. “Bí Mật Chủ! Bồ-đề là thế nào? Đó là như thật biết tự tâm (citta).” Hơn nữa cần nhận thức rằng tâm của mình là tính không (śūnyatā). Tóm lại, có thể nói đó là sự thực tiễn “vô ngã” của Phật giáo Nguyên thuỷ từ xưa nay.
Kinh Đại Nhật nói “phương tiện là cứu cánh,” xem trọng hiện thực, Nhất thiết trí trí của Như Lai lấy đại bi làm “phương tiện” để cứu tế chúng sinh không có điểm dừng, xem đó là một đặc sắc có giá trị tối cao. Phương tiện này là cứu cánh, cho nên thế giới trong Kinh Đại Nhật cho rằng thế giới hiện thực sẽ trở thành thế giới của đức Tì-lô-giá-na Phật. Thế giới chân lý này sẽ nghiễm nhiên tồn tại trong hiện thực. Vì chủ trương này là có khả năng nên dùng cấp độ tâm này để nhìn thế giới. Thế giới “Phật tâm” thuần tuý thanh tịnh được ánh chiếu trong sự giác ngộ cũng là sự hiển hiện của thuần tuý thanh tịnh và chân lý, cũng tức là thế giới của Tì-lô-giá-na Phật. Do đó điều này không có khác biệt với hiện thực.
3. Truyền bá Mật giáo
Mật giáo dưới triều đại Gupta cũng lan đến các nước phương Nam. Ta có thể biết điều này từ cuối thế kỷ 5, khi nhà sư Mạn-đà-la-tiên (Mantrasena) với nhà sư Tăng- già-bà-la (Saṃghapāla) người Phù-nam vượt sang Trung Quốc. Phù-nam là quốc gia do người Khmer kiến lập, đến thế kỷ 6, Chân-lạp vốn dĩ là thuộc quốc của Phù-nam (cùng là người Khmer) đã ngóc đầu, do vua Bhavavarman І (thời gian tại vị: 550–600) thôn tính Phù-nam. Kết quả là tín ngưỡng thần Śiva ở Phù-nam trở nên cực kỳ hưng thịnh, thế lực xã hội của Phật giáo bị suy yếu. Trong trường hợp này, nó phản ánh tình hình tôn giáo bản địa ở Ấn-độ lúc bấy giờ ở một mức độ nào đó.
Lại nữa, một trong những động hướng truyền đạt tín ngưỡng Mật giáo vào cuối triều đại Gupta đó là Kinh Đại cát nghĩa Thần chú của Đàm Diệu dịch vào năm 462 (năm Hoà Bình thứ 3 đời Bắc Nguỵ Văn Thành Đế). Kinh điển này tuyên thuyết về pháp tu dựa theo đối tượng thay đổi mục đích cầu đảo. Ví như: khi tu pháp cầu mưa trước Long vương thì thực hiện cầu xin ẩn hình đối với Thiên vương Ma-ê-thủ-la (thần Śiva), cầu ngưng gió mạnh mưa bão đối với vua La-sát Tì-phù-sa, có thể nói là phát mở đầu của pháp chư tôn. Đồng thời, ở đằng sau nó có các vị thần nhưng đó là tư tưởng rằng có sự hiển hiện của vị Phật thần cách chí thượng. Đúng lúc Trung Quốc đang là thời đại Bắc Nguỵ (386–534), tại núi Vũ Chu đã có những điêu khắc sườn núi đá chư thần Ấn-độ như Śiva, Viṣṇu… mặt khác tại núi Mạch Tích có chế tác tượng Phật nặn theo phong cách thuần Trung Quốc, bắt đầu đục hang, đó là sự đối chiếu cho thấy rõ rệt .
Tư trào Mật giáo ở miền Tây Nam Ấn-độ đã tuôn ra miền Bắc và miền Nam. Thứ nhất là hướng theo con đường thương mại xa xôi từ Ujjain [tức Ổ-xà-diễn-na (Ujjayanī/Ujjainī) trong Đại Đường Tây Vực ký] hướng lên phía đông bắc, đi đến lưu vực trung du sông Hằng thì trở thành Mật giáo của trường đại học Nālandā. Người ta thấy Nghĩa Tịnh tam tạng (635–713) có ghi chép trong Đại Đường Tây Vực cầu pháp Cao tăng truyện viết về nước Thất-lợi-phật-thệ (Śrīvijaya, nay là Sumantra), thiền sư Vô Hành vượt biển sang Thiên-trúc vào năm Càn Phong thứ 2 (667) đi học tại Nālandā. Trong ghi chép của các học giả Trung Quốc, ông là người duy nhất học Nhân minh của Trần-na (Dignāga/Diṅnāga, khoảng năm 480–540) và Pháp Xứng (Dharmakīrti, khoảng năm 650), lại có ghi rằng ông mang bản Sanskrit của Kinh Đại Nhật trên đường quay về, nhưng đáng tiếc là mất trên đất khách tại Bắc Ấn-độ (685). Bản Sanskrit sau này được mang đến Trung Quốc và do Thiện Vô Uý (Śubhakarasiṃha, Tịnh Sư Tử, 637–735) dịch sang Hán văn, lại thêm bản thân ông có được bản Sanskrit dịch sang Hán văn ở Bắc Ấn-độ, gồm có 7 quyển. Bản dịch Tây Tạng là vào thời Sơ-xích-tổ-đức- tán (Khri gtsug lde btsan/brtsan, Ral pa can, Nhiệt-ba-cân, 806–841), do Giới Vương Bồ-đề (Śīlendrabodhi) và sKa ba dPal brtsegs cùng dịch.
Phần tương ứng với 6 quyển trước trong bản dịch Hán văn là bản dịch Tạng được cấu thành từ 7 quyển 29 phẩm. Ngoài ra, 7 phẩm về nghi quỹ có liên quan đến hộ-ma… được thêm vào bản dịch Tạng văn. Cũng có thuyết cho rằng quyển 7 của bản dịch Hán văn là do Thiện Vô Uý soạn ra, còn bản dịch Tạng văn thì liệt những phần đối ứng với quyển 7 của bản dịch Hán văn vào Đan-châu-nhĩ (bsTan-’gyur, Luận sớ bộ), người biên soạn còn nêu ra một cái tên người khác. Trong bản dịch Hán văn hoặc Tạng văn, ngoài phần nghi quỹ tương quan với Kinh Đại Nhật còn có một số nữa.7 Nam Hải ký quy Nội pháp truyện của Nghĩa Tịnh quyển 4 ghi: “Chùa Nālandā có rất đông người, tăng đồ có hơn ba nghìn người… chùa có tám viện, có ba trăm phòng.” Thời gian ông lưu lại Thiên-trúc và Nam Hải (671– 695), chùa Nālandā là ngôi già-lam lớn bậc nhất Ấn-độ, sớm đã trở thành một đạo tràng căn bản của Mật giáo.
Mật giáo miền Tây Nam Ấn-độ một mặt khác lại xuôi dòng xuống bên bờ sông Kṛṣṇa (Krishna hay Kistna) tiến vào đại đô thị Kāñcī (Kāñcīpura, Kiện-chí-bổ-la), mở rộng xuống Nam Ấn-độ, hơn nữa lại vượt qua biển khơi đến đảo Tích-lan. Song về sau Mật giáo lại chưa được phồn vinh tại Tây Bắc Ấn-độ. Lý do lớn nhất có thể cân nhắc đó là vì các chủng tộc hệ Trung Á bắt nguồn từ lần xâm nhập Ấn-độ theo dấu chân người Hephthalite, cùng với người Rājpūt là chủng tộc thượng võ lai các chủng tộc thổ dân, lúc bấy giờ họ đã thành lập quốc gia vũ lực và đã xuất hiện thế lực hùng mạnh. Do đó, Mật giáo phương Nam có ý nghĩa to lớn. Nālandā tại Nam Ấn-độ và Trung Ấn-độ có dạo đã trở thành vũ đài trọng yếu trong hoạt động Mật giáo.
7 Thuyết quyển 7 bản dịch Hán văn do Thiện Vô Uý soạn ra, xem Đại Nhật Kinh dịch thích 8 (Vạn tục tạng I: 36, IV: 380 đinh). Trong bản dịch Hán văn hoặc Tạng văn, nghi quỹ tương quan Kinh Đại Nhật: số 849–864 trong Đại Chính tạng, trong đó gồm có Trung Quốc soạn thuật. Số 495–501 Đông Bắc, cũng như số 2665… Mối quan hệ của Kinh Đại Nhật quyển 7 với “Trì tụng thứ đệ nghi quỹ” rõ ràng là cùng bản gốc khác bản dịch, nhưng mối quan hệ của Kinh Đại Nhật quyển 7 với Yếu lược Niệm tụng Kinh thì rất khó nhận định là cùng bản gốc khác bản dịch.
Đi đôi với Kinh Đại Nhật là Kinh Kim Cương Đính – một trong những cây trụ chống hệ thống hoá Mật giáo, nó được cho là thành lập tại vùng Amarāvatī ở Nam Ấn-độ Kinh Kim Cương Đính không phải là kinh điển đơn độc, nghe đồn nó là tên gọi chung của kinh điển Mật giáo khổng lồ gồm 18 hội 100.000 bài tụng. Tại Ấn-độ có thói quen vựng tập Phật điển thành một bộ tùng thư, chẳng hạn như Kinh Đại Bát-nhã, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Đại Bảo Tích… là biên tập rất nhiều kinh điển theo một nguyên tắc nhất định. Kinh Kim Cương Đính cũng như thế, đem 18 loại kinh điển vựng tập làm một. Thông thường nhắc đến Kinh Kim Cương Đính là chỉ cho bài kinh thuộc sơ hội (hội thứ nhất) trong đó. Ngày nay nó được xem như rất quý giá trong kinh điển Mật giáo, có nguyên bản tiếng Sanskrit, bản dịch Tạng văn, bản dịch Hán văn (có 3 loại) đều đầy đủ cả. Ba bản Hán dịch đó là Kim Cương Đính Du-già trung lược xuất niệm tụng Kinh 4 quyển do Kim Cương Trí (Vajrabodhi, 671–741) dịch, Kim Cương Đính nhất thiết Như Lai chân thật nhiếp Đại thừa hiện chứng Đại giáo vương Kinh 3 quyển do Bất Không (Amoghavajra, 705–774) dịch, Nhất thiết Như Lai chân thật nhiếp Đại thừa hiện chứng Tam-muội Đại giáo vương Kinh 30 quyển do Thi Hộ đời Tống dịch, chúng được gọi là các kinh điển thuộc “Sơ hội Kim Cương Đỉnh Kinh,” thường được gọi chính thức là Chân thật nhiếp Kinh (Tattvasaṃgraha). Bản của Kim Cương Trí dịch và Bất Không dịch đều là dịch một phần của Chân thật nhiếp Kinh, còn bản dịch của Thi Hộ là dịch toàn bộ.
Phần trung tâm của Chân thật nhiếp Kinh theo cách nói truyền thuyết thì tương đương với những phần được Kim Cương Trí dịch và Bất Không dịch, được thành lập tại Nam Ấn-độ khoảng trước cuối thế kỷ 7, hiện nay đã trở thành định luận. Xem qua bản dịch trọn vẹn Chân thật nhiếp Kinh của Thi Hộ, cách nói truyền thống cho rằng nó đã hoàn thành từ thời của Bất Không, nhưng trên thực tế hình như từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 9 nó mới dần dần được hoàn thành. Lại nữa, đề kinh 18 hội của Kinh Kim Cương Đính như sau:
1. Nhất thiết Như Lai chân thật nhiếp giáo vương (一切如來真實攝教王);
2.nhất thiết Như Lai bí mật vương du-già (一切如來秘密王瑜伽);
3. Nhất thiết giáo tập du-già (一切教集瑜伽);
4. Hàng tam thế Kim cương du-già (降三世金剛瑜伽);
5. Thế gian xuất thế gian Kim cương du-già (世間出世間金剛瑜伽);
6. Đại an lạc Bất không tam-muội-da chân thật du-già (大安樂不空三昧耶真實瑜伽);
7. Phổ Hiền du- già (普賢瑜伽);
8. Thắng sơ du-già (勝初瑜伽);
9. Nhất thiết Phật tập hội noa-cát-ni giới võng du-già (一切佛集會拏吉尼戒網瑜伽); 1
0. Đại thừa hiện chứng du-già (大乘現證瑜伽);
11. Tam-muội-da tối thắng du-già (三昧耶最勝瑜伽);
12.đại tam-muội- da chân thật du-già (大三昧耶真實瑜伽);
13. Đại tam-muội-da du-già (大三昧耶瑜伽);
14. Như Lai tam-muội-da chân thật du-già (如來三昧耶真實瑜伽);
15. Bí mật tập hội du-già (祕密集會瑜伽);
16. Vô nhị bình đẳng du-già (無二平等瑜伽);
17. Như hư không du-già (如虛空瑜伽);
18. Kim cương Bảo quán du-già (金剛寶冠瑜伽). Theo
Kim Cương Đính Kinh du-già thập bát hội chỉ quy của Bất Không dịch ta được biết nội dung 18 hội của Kinh Kim Cương Đính, nhưng không hề tồn tại kinh điển ghi đủ 18 hội. Tuy nhiên, người ta thấy thứ tự sắp xếp 18 hội của Kinh Kim Cương Đính từ 1-5 là thuộc hệ “Sơ hội Kim Cương Đính Kinh,” 6-9 là thuộc hệ “Lí thú Kinh,” 15-16 là hệ “Tập Mật,” nên biết được sự sắp xếp theo quy tắc nhất định của nó.
Lại nữa, 5 được trích dẫn theo tên đề Nhất thiết thế gian xuất thế gian tục (Sarvalaukikalokottara Tantra) trong Chân thật Thành tựu (Tattvasiddhi) của sư Tịch Hộ (Śāntarakṣita), nên ta có thể biết chí ít rằng nó có tồn tại thực tế. Một mặt thì phái Ninh-mã (rNying ma pa) của Tây Tạng rất tương tự với Chân Ngôn tông Nhật Bản, nó có truyền truyền thừa Đại du-già tục (Mahāyoga Tantra) của 18 hội. Những gì được Nhật Bản và phái Ninh-mã truyền lại, 6-8, 9 và 15 là chung, những cái khác thì không nhất trí. Đây có lẽ là những bản được thành lập và lưu truyền cá biệt, về sau mới được tiến hành vựng tập .
Kinh Kim Cương Đính này là bộ kinh kế thừa sự thành lập Kinh Đại Nhật, nhưng hệ thống của nó không phải đặt chân đứng tại kinh Bát-nhã của Trung Quán, mà lại theo nhận thức luận từ triết học Du-già hành Duy Thức phái. Kinh này nương nhận thức của ngoại giới và dựa vào sự thể nhận trong du-già (yoga, minh tưởng tôn giáo) làm đề mục trọng tâm, triển khai hệ thống triết học thực tiễn khổng lồ theo quán pháp “ngũ tướng thành thân quán,” mà tư tưởng tiên phong của nó đã xuất hiện trong Kinh Đại thừa Bản sinh Tâm địa.
Kinh Đại Nhật trước đó thể hiện lập trường của mạn-đồ-la Thai Tạng, để đối lập thì Kinh Kim Cương Đính đứng chân vào mạn-đồ-la Kim Cương giới, và còn tuyên thuyết tư tưởng đại lạc. Mạn-đồ-la Thai Tạng được nói đến trong Kinh Đại Nhật là do ba bộ Phật bộ, Liên Hoa bộ và Kim Cương bộ cấu thành, còn mạn- đồ-la Kim Cương giới được nói đến trong Kinh Kim Cương Đính thì cộng thêm Bảo bộ, Yết-ma bộ, tương đồng với Kinh Bất Không Quyến Sách, cấu thành từ năm bộ.
Kinh Bất Không Quyến Sách thường trích dẫn Kinh Đại Nhật nên có thể thấy tuần tự thành lập theo quá trình từ Kinh Đại Nhật → Kinh Bất Không Quyến Sách → Kinh Kim Cương Đính. Điều đó đã phản ánh như thật về chế độ bộ tộc thuộc cộng đồng làng xóm được đặc biệt củng cố tại miền Nam Ấn-độ .
Tại Nam Ấn-độ, dưới sự bảo hộ của vương triều Pallava, Mật giáo lại tiếp tục phồn vinh. Đó là việc quốc vương Pallava Nandīvarman đệ nhất (Hỷ Khải) xuất hiện vào tiền bán thế kỷ 6 quy y Phật giáo, vua Narasimhavarman đệ nhị (695–722), và vị quốc vương quy y với sư Kim Cương Trí (Vajrabodhi, 671–741) sau này vượt biển sang Trung Quốc truyền bá Mật giáo. Narasimhavarman đệ nhị từng kiến lập quan hệ hữu hảo với Trung Quốc và được nhà Đường sách phong. Cựu Đường thư quyển 198 Tây Nhung truyện: “Năm (Khai Nguyên) thứ 8 (720), nước Nam Thiên-trúc sai sứ hiến con chim vẹt năm sắc biết nói. Năm đó, quốc vương Nam Thiên-trúc Thi-lợi-na-la-tăng-già(Śrīnarasiṃha, đoạn sau gọi là Thi-lợi-na-la-tăng-già-bảo-đa-chi-ma/ Śrīnarasiṃhapotavarman, tức là Narasimhavarman đệ nhị), xin dùng voi chiến và binh mã đi hỏi tội Đại Thực và Thổ-phồn, bèn xin danh nghĩa cho quân đội của họ, vua Huyền Tông rất khen ngợi, đặt tên cho đội quân ấy là Hoài Đức quân.
Tháng 9, Nam Thiên-trúc vương Thi-lợi-na-la-tăng-già-bảo-đa-chi-ma dựng chùa cho đất nước, dâng biểu lên xin đề biển ngôi chùa. Hoàng đế sắc ban cho tên gọi là Quy Đức. Tháng 11 sai sứ sang sách phong (Thi)-lợi-na-la-(tăng)-già-bảo-đa-(chi-ma) là Nam Thiên- trúc quốc vương, sai sứ sang chầu.” Khi Huyền Trang hành hương đến nước Đạt-la-tì- đồ (Draviḍa), khu vực này là căn cứ địa của vương triều Pallava, lúc này đang là thời kỳ của vua Narasimhavarman đệ nhị (khoảng năm 630–668). Đạt-la-tì-đồ dưới sự cai trị của Pallava vào thế kỷ 7 chính là một nước lớn xưng hùng ở miền Nam Ấn-độ.
Lại nữa, thời kỳ này Mật giáo ở Nam Ấn-độ truyền vào đảo Tích-lan, tương đương với thời vua Đường Cao Tông (649–683), ta có thể biết điều đó từ chuyện quốc vương nước Sư Tử (Siṃhala) hiến dâng Kinh Đại thừa Bản sinh Tâm địa quán. Kinh này nổi tiếng về tuyên thuyết bốn ơn, đứng đầu là ơn quốc vương. Điều này rất có thể thể hiện tính cách quốc gia của Mật giáo đương thời (Kinh Tâm địa quán nói: “Ơn trong thế và xuất thế có bốn loại, một là ơn cha mẹ, hai là ơn chúng sinh, ba là ơn quốc vương, bốn là ơn Tam bảo.” (Đại Chính tạng III: 29 thượng). Tích-lan vốn là căn cứ địa vững chãi của Thượng Toạ bộ (Theravāda) thuộc Phân biệt thuyết bộ vừa truyền thống vừa bảo thủ, do đó Mật giáo ở nơi này vẫn chưa phát triển.
Mật giáo phương Nam Ấn-độ hậu kỳ vào thế kỷ 7 với đại diện là Kinh Đại Nhật (thành lập năm 650) và Kinh Kim Cương Đính (thành lập năm 680–690) là Mật giáo thuần tuý được gọi là học phái Chân Ngôn thừa (Mantra-yanism), Chân Ngôn tông được sư Không Hải (Hoằng Pháp đại sư, 774–835) từ nhà Đường trở về Nhật Bản khai sáng (Đông Mật) là Mật giáo thuộc hệ thống này. Lại nữa, phái Cách-lỗ (dGe lugs pa) Tây Tạng xem Tập Mật căn bản tục (Guhyasamājatantra) là căn bản của tất cả các Vô thượng du-già tục, là vua của tất cả thánh điển Mật giáo. Trong bài hội 15 thuộc Thập bát hội chỉ quy của sư Bất Không đã nói trên nói rằng hội 15 tên là Danh bí mật tập hội
du-già (名秘密集會瑜伽, Đại Chính XVIII: 278 thượng), nó cho thấy rằng hội thứ 15trong 18 hội Kinh Kim Cương Đính chính là Tập Mật căn bản tục (gọi tắt là Tập Mật). Bí mật tập hội du-già của Bất Không nói là do các học giả luận chứng thấy trùng khớp với Tập Mật căn bản tục (Guhyasamājatantra) hiện nay. Do đó Tập Mật căn bản tục được cho là vào thời đại của Bất Không, có nghĩa là nói nó đã thành lập vào tiền bán thế kỷ 8. Tập Mật rất phổ biến tại Ấn-độ và Tây Tạng, cho nên người ta đã soạn nhiều sách chú giải và chúng được biên vào Tây Tạng đại tạng kinh. Tập Mật có bản dịch Hán văn, tức là Phật thuyết Nhất thiết Như Lai kim cương tam nghiệp Tối thượng Bí mật Đại giáo vương Kinh 7 quyển (Đại Chính XVIII: No.885) do Thi Hộ dịch vào năm Hàm Bình thứ 5 (1002) đời Tống. Nhằm tiêu hoá và thực hành kinh điển Vô thượng du-già tục cần phải có nghi quỹ và pháp cúng dường tất yếu, vì Trung và Nhật không truyền vào nghi quỹ và pháp cúng dường tương quan nên Vô thượng du-già tục chưa được lưu truyền tại Trung Quốc và Nhật Bản, ngược lại, Phật giáo Tây Tạng có Vô thượng du-già riêng và còn tự hào vì điều đó.
4. Ánh sáng Á châu
Mật giáo ở Trung Quốc và Nhật Bản về lịch sử là tiền bán thế kỷ 8, về địa lý là áp dụng hệ thống Nālandā làm chủ lưu; đối lập điều này, Phật giáo Tây Tạng về thời gian là từ sau hậu bán thế kỷ 8, Mật giáo lấy hệ thống hai chùa Siêu Nham (Vikramaśilā) và Nālandā làm chủ lưu. Tại Trung Quốc, Thiện Vô Uý (Śubhakarasiṃha, 637–735) có tổ tiên thuộc huyết thống nhà vua nước Ma-yết-đà (Magadha), ông đã tới Nālandā học Mật giáo với Đạt-ma-cúc-đa (Dharmagupta). Vào năm Khai Nguyên thứ 4 (716), ông mang các nguyên bản chữ Sanskrit của Mật giáo đi qua Trung Á đến Trường An, ông bắt đầu sống tại chùa Đại Phúc Tiên ở Lạc Dương vào năm Khai Nguyên thứ 12 (724), phiên dịch Kinh Đại Nhật 7 quyển sang Hán văn nhờ sự giúp đỡ của đệ tử là Nhất Hạnh. Đây cũng là lúc Thiện Vô Uý đồng thời truyền dạy Kinh Đại Nhật cho Nhất Hạnh. Nhất Hạnh đã biên tập và hoàn thành bộ Đại Nhật Kinh sớ gồm 20 quyển. Tiếp theo, vào năm Khai Nguyên thứ 14 (726) dịch ra Kinh Tô-tất-địa 3 quyển, Kinh Tô-bà-hô đồng tử 3 quyển. Thời Đường Huyền Tông (712–756), có một ngôi sao sáng khác của Mật giáo là Kim Cương Trí (Vajrabodhi, 671–741), nói là vương tử Trung Ấn-độ, lại được cho là người sinh ra ở nước Ma-lại-tà miền Nam Ấn-độ (nó có nghĩa là nước Quang Minh, nước ấy gần với núi Bổ-đà-lạc cung điện Quan Âm), ông học giáo học Đại thừa ở Nālandā, lại tu tập Mật giáo theo hệ Kinh Kim Cương Đính ở Nam Ấn-độ, ông sang Trung Hoa theo đường biển và đến Lạc Dương vào năm Khai Nguyên thứ 8 (720).
Dưới sự chi viện của vua Huyền Tông, ông đã ở Lạc Dương và Trường An suốt quãng thời gian khoảng 20 năm kể từ năm Khai Nguyên thứ 11 (723), phiên dịch lấy Kim Cương Đính du-già trung lược xuất niệm tụng Kinh 4 quyển làm đầu, chủ yếu là các kinh điển và nghi quỹ thuộc hệ thống Kinh Kim Cương Đính. Trong thời vua Huyền Tông, các kinh điển Mật giáo có tổ chức thuộc trung kỳ Mật giáo Ấn-độ của Kinh Đại Nhật và Kinh Kim Cương Đính liên tục được phiên dịch và giới thiệu. Điều này đã thành sự mở đầu chủ chốt cho tư tưởng hình thành Mật giáo tại Trung Quốc (Đường Mật).
Việc bắt đầu phiên dịch và giới thiệu Kinh Đại Nhật và Kinh Kim Cương Đính tại Trung Quốc có công lao rất lớn của Thiện Vô Uý và Kim Cương Trí. Nhưng để khiến nó được thành lập vững chắc hơn trong xã hội đời Đường thì người đã sửa đổi Mật giáo sang mô thức Trung Quốc, đó là Nhất Hạnh và Bất Không – đệ tử của họ. Nhất Hạnh (683/673–727) để tang cha mẹ vào năm 20 tuổi, xuất gia với Cảnh thiền sư từ Kinh Châu, thụ thiền pháp với sư Tịch Thâm (Phổ Tịch) ở Tung Sơn thuộc Thiền Bắc tông, học luật với sư Ngộ Chân đến từ núi Đương Dương, học Thiên Thai với sư Hoằng Cảnh chùa Ngọc Tuyền ở Kinh Châu, ông lại tinh thông các môn học như lịch tượng, âm dương, ngũ hành, rồi học Mật giáo với Thiện Vô Uý, có biên soạn Đại Nhật Kinh sớ, rồi lại học bí ấn đà-la-ni với Kim Cương Trí.
Học vấn về Phật giáo của ông không chỉ liên quan đến Thiền, Luật, Thiên Thai, Mật thôi, thậm chí còn tu học Đạo giáo với đạo sĩ Doãn Sùng. Vua Huyền Tông đang sùng tín Đạo giáo và trong xã hội thượng lưu đương thời, vì nguyên do đó với nhựa sống học hỏi tràn trề nên Nhất Hạnh có tinh thông Đạo giáo cũng không lấy gì làm lạ. Ông còn học toán học và lịch học ở chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai. Sự hàm dưỡng của ông cũng có liên quan đến việc hoàn thành bộ lịch Đại Diễn 52 quyển vào năm Khai Nguyên thứ 15 (727) sau này, cho sửa chữa lịch pháp trước đó và chế ra lịch mới, đến nay thanh danh học giả thiên văn của Nhất Hạnh vẫn còn bất hủ. Ông được một số người truyền trì Chân Ngôn tông Nhật Bản gọi là Tổ thứ sáu. Tháng 10 năm Khai Nguyên thứ 15 (727), khi Nhất Hạnh qua đời tại chùa Hoa Nghiêm ở Trường An, vua Huyền Tông ban thuỵ hiệu là Đại Tuệ thiền sư, nhà vua đích thân soạn bài văn bia cho ông .
Tiếp theo, Bất Không Kim Cương (Amoghavajra, 705–774) là tên gọi chính xác của Bất Không tam tạng, nhưng cách gọi tắt Bất Không thì đã thông dụng rộng rãi. Bất Không tam tạng hầu với các vua Huyền Tông (712–756), Túc Tông (756–762) và Đại Tông (762–779), dâng hiến cả đời mình vì để cho Mật giáo được cắm rễ khắp trong triều ngoài ngõ nhà Đường. Bất Không đã để lại công lao rất lớn cho lịch sử Mật giáo Trung Quốc. Ông đã truyền thụ quán đỉnh riêng cho ba vị hoàng đế trên, nhìn từ góc độ kết duyên với Mật giáo, người ta thường nghĩ ông là quốc sư ba đời hoặc là tam triều quán đỉnh quốc sư. Phụ thân của Bất Không là Bà-la-môn ở Bắc Ấn-độ, mẫu thân là người nước Khang ở Samarkand Trung Á, ông sinh ra ở phủ Tây Lương (Lương Châu thời Đường, nay là huyện Vũ Uy). Thuở bé mất cha, đi theo chú vào năm Khai Nguyên thứ 10 (714) vào Trung Hoa lúc 10 tuổi (quận Vũ Uy, tỉnh Cam Túc), năm 13 tuổi (717) đến thủ đô Trường An, được gặp Kim Cương Trí lúc đang vào kinh, trở thành đệ tử ông ấy, năm Khai Nguyên thứ 12 (724) lúc 20 tuổi thì quy y với Kim Cương Trí, thụ giới cụ túc theo luật Hữu bộ bắt nguồn từ hệ thống Nghĩa Tịnh. Sau khi Kim Cương Trí mất, ông và nhóm đệ tử Hàm Quang đi sang Ấn-độ và đến Tích-lan. Suốt mấy năm đó cứ học đi học lại hệ thống Kinh Kim Cương Đính, ông mang về rất nhiều nguyên điển chữ Sanskrit đến Trường An, đó là vào năm Thiên Bảo thứ 5 (746). Trong số những người phiên dịch kinh điển Mật giáo tại Trung Quốc, số lượng kinh luận được Bất Không tam tạng phiên dịch luôn vượt xa người khác. Ngày 12 tháng 10 năm Đại Lịch thứ 6 (771), tam tạng có dâng lên mục lục kinh quỹ do tự mình phiên dịch gồm 77 bộ 101 quyển (hiện tại thực tế là 71 bộ, 99 quyển), được sắc lệnh cho biên tập vào Đại tạng kinh .
Ba bậc thầy giỏi Mật giáo là tăng nhân ngoại quốc nêu trên không hẹn mà gặp, đúng vào thời đại Đường Huyền Tông. Người ta cũng sẽ chú ý tới đời Đường lấy Mật giáo làm trung tâm, đồng thời văn hoá phức hợp được chuyển vào Phật giáo. Chúng bao gồm có thiên văn, lịch pháp, âm vận học, âm nhạc (nhạc Cưu-tư của Trung Á, âm nhạc Phật giáo của Đông Nam Á), công nghệ mỹ thuật của Mật giáo v.v… bắt nguồn từ Ấn- độ với trọng tâm là Mật giáo. Văn hoá Ấn-độ cũng dung nhập các yếu tố của Iran (Ba- tư), chính những điều này là tính quốc tế hình thành văn hoá Đường với chất xúc tác là Mật giáo. Ngoài ra, trong cấp độ đồng hoá giao lưu giữa tín ngưỡng của dân chúng tầng lớp thấp nhất Trung Quốc, Đạo giáo với Phật giáo, vai trò đảm nhận của Mật giáo đích thực là rất lớn
Vị tổ của Mật giáo Tây Tạng là Liên Hoa Sinh (Padmasaṃbhava/Padmasambhava, Padma ’byung gnas) là một hành giả Đát-đặc-la (Tantrist). Theo truyền thừa Tây Tạng, ông sinh ra ở Ô-trượng-na (Udyāna/Uḍḍiyāna, U rgyan), vào đất Tạng cùng thời với lần đi vào thứ hai của sư Tịch Hộ khoảng năm 770. Đó là do lần thứ nhất Tịch Hộ vào đất Tạng bị thất bại do sự chèn ép của thế lực chống Phật giáo của các giáo đồ đạo Bon (Bổn giáo, Bon po), do đó Liên Hoa Sinh đã được mời theo lời khuyến thỉnh của Tịch Hộ dùng chú thuật của mình để điều phục chư thần và ác ma của đạo Bon. Ông và sư Tịch Hộ cùng tham gia nghi thức đặt móng xây chùa Tang-da (bSam yas) năm 775.
Theo cuốn Sử Phật giáo Bu-ston nói rằng: sau đó ngài thể hiện những phép lạ như làm cho nước sông Tạng-bố (Yarlung Tsangpo – ND) chảy ngược, điều đó khiến các đại thần không vui nên ngài bị đuổi ra ngoài nước. Nghe nói ngài đã nán lại đất Tạng suốt 18 tháng. Liên Hoa Sinh hiện nay được sự gần gũi của mọi người bất kể tông phái với tôn xưng là “Guru Rinpoche” (Thượng sư bảo). Ông là nhân vật thần bí tượng trưng cho Mật giáo lúc sơ truyền vào Tây Tạng. Tịch Hộ (khoảng 725–783) là tư tưởng gia phái Trung Quán hậu kỳ, là đại học giả của chùa Nālandā, sau này được mời sang đất Tạng, và đã có cống hiến rất lớn trong việc dẫn nhập Phật giáo Ấn-độ vào đất Tạng. Tịch Hộ thường được đánh giá là một triết học gia tối cao trong lịch sử triết học Ấn- độ.
Ông có được tiếng tăm ấy là nhờ bộ danh tác với nhan đề Chân lý Cương yếu (Tattvasṃgraha, Nhiếp chân thật luận; nó khác với Sơ hội Kim Cương Đính Kinh = Nhiếp chân thật Kinh) mà trong đó ông đã giới thiệu chính xác chủ trương của từng trường phái Ấn-độ; trong bộ danh tác này, từ bất kỳ một tri thức nào trong các phái triết học Ấn-độ cũng dẫn ra được sự thù thắng của triết học Trung Quán mà ông tin thờ.
Sách này cuối cùng đã thiết lập một chương luận chứng về bậc toàn trí (Như Lai, Phật-đà), nối tiếp mối quan hệ với lập trường Mật giáo, là luận thư thuộc về Du-già hành Trung Quán phái (Yogācāra-mādhyamika). Ngoài ra nhắm vào nó còn có bộ Tế sớ (Pañjikā) của Liên Hoa Giới (Kamalaśīla) – đệ tử ngài, sau này cũng vào đất Tạng truyền bá Mật giáo.
Dưới thời cai trị của vua Xích-tùng-đức-tán (Khri srong lde brtsan, 742–797) của Tây Tạng (Thổ-phồn), lực lượng chính trị và quân sự của vương quốc Thổ-phồn đạt đến đỉnh cao nhất.10 Trong năm đầu ông lên ngôi, tức năm 761, Phật giáo đã trở thành quốc giáo. Năm 794, thiền pháp Phật giáo đốn ngộ của hoà thượng Trung Quốc Ma- ha-diễn bị thua trong cuộc tranh luận tông phái ở chùa Tang-da, (quốc vương) Tán- phổ ra lệnh rằng: “Từ nay về sau, về tri kiến cứ hành trì theo tông quy của Long Thụ, về thực hành hãy tu học với pháp thập hạnh và Bát-nhã ba-la-mật, không cho theo tông quy của Đốn môn (ton mun) nữa.” Đây chính là một đặc sắc lớn của Hiển giáo Phật giáo Tây Tạng, các giáo phái Phật giáo Tây Tạng sau này, Hiển giáo nhất loạt quy về với Trung Quán của Long Thụ, tức là chủ nghĩa Trung Quán chí thượng; Hiển giáo sau đó tất thảy tiến vào Mật giáo. Từ Hiển vào Mật tuần tự tiệm tiến chứ không đi vội, đó là yêu cầu chung của các phái Phật giáo Tây Tạng.
Cứ như thế, Mật giáo Ấn-độ vào giữa thế kỷ 8 tràn trề sinh khí tôn giáo đã lan truyền khắp toàn bộ Đông Á, Trung Á một cách huy hoàng, nó đã trở thành ánh sáng của dân chúng Á châu.
IV. VƯƠNG TRIỀU PĀLA VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA KIM CƯƠNG THỪA
1. Kim Cương thừa và Phật giáo Đát-đặc-la
Sau khi vua Giới Nhật (thời gian cai trị năm 606–647) băng hà, Ấn-độ đã chia rẽ thành một số vương triều. Trong đó có những vương triều khá lớn như triều đại Rāṣṭrakūṭa chiếm cứ cao nguyên Deccan, vương triều Pratīhāra có thế lực hùng hậu từ vùng Tây Bắc Ấn-độ đến lưu vực thượng du sông Hằng kế thừa hệ thống Rājpūt, và vương triều Pāla (khoảng 750–1155) lấy vùng Đông Ấn-độ làm trung tâm, chúng đều là hưng khởi từ kỳ giữa cho đến hậu bán thế kỷ 8, một mặt thì chống lại cuộc xâm nhập của tín đồ Hồi giáo, một mặt thì duy trì các vương triều từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 3.
Trong đó các vua của vương triều Pāla lấy vùng Bengal (Bangladesh) và Orissa làm trung tâm đều tận lực vào bảo hộ Phật giáo, do đó đây là thời kỳ phồn vinh mà miền Đông Ấn-độ nghênh tiếp Mật giáo. Ngoài ra ở vùng lưu vực sông Swat/Swāt miền Tây Bắc Ấn-độ dễ dàng chịu kích thích bởi văn hoá ngoại lai, Mật gíao cũng rất hưng thịnh.
Theo Đại Đường Tây Vực ký quyển 9 của Huyền Trang (tại Ấn năm 629–645) ghi lại, Thước-cà-la-a-điệt-đa (Śākrāditya Đế Nhật = Mahendrāditya), người này chính là quốc vương đời thứ 4 của vương triều Gupta, Kumāragupta đệ nhất (thời gian tại vị 415–455) đã cho xây tăng-già-lam Nālandā, nơi đó đã sản sinh rất nhiều bậc học tăng Phật giáo Đại thừa.
Tuy vậy, những người nghiên cứu Mật giáo vào hậu bán thế kỷ 7 cũng rất nhiều. Những người như Đạt-ma-cúc-đa, Thiện Vô Uý, Kim Cương Trí,… cũng học tập tại đây. Hơn nữa, từ giữa thế kỷ 8 đến đầu thế kỷ 9, chùa Phi Hành (Odantapurī, Uddaṇḍapura, Odantapuri, còn được dịch là chùa Cao Tường) được vua Gopāla (thời gian cai trị khoảng 750–770) cho xây tại Ma-yết-đà, tiếp theo là chùa Siêu Nham (Vikramaśіlā) được vua Dharmapāla (thời gian cai trị khoảng 770–810) cho xây, chùa Nguyệt Thành (Somapurī) được vua Devapāla (thời gian tại vị khoảng 810–850) cho xây dựng. Cho đến thời đại của vị vua đời thứ 14, Rāmapāla (thời gian tại vị khoảng năm 1077–1120) là thời đại huy hoàng cuối cùng của vương triều Pāla, đồng thời cũng là thời kỳ thịnh vượng cuối cùng của Phật giáo Ấn-độ.
Lúc này ở Varendra có tăng viện Jagaddala, Mật giáo đã có những sự phát triển đáng kinh ngạc (Matsunaga Yūkei, 1984: 82–83).
Từ trước tiền bán thế kỷ 8, Mật giáo Ấn-độ vẫn duy trì quy mô có tính toàn quốc. Nhưng từ khoảng năm 750, tình thế đã có sự thay đổi nhanh chóng. Vốn dĩ vương triều Pāla bị diệt vong do sự công kích của vương triều Chola ở phương Nam, trong nháy mắt Mật giáo phương Nam trở nên suy yếu, tín đồ Mật giáo phải chạy trốn sang Orissa miền Đông Bắc.
Sau này các tín đồ Mật giáo vùng Tây Bắc Ấn-độ đã suy sụp cũng tụ tập đến địa phương này, cho nên Mật giáo Ấn-độ sau này lấy đại diện là Mật giáo vùng Bengal và Orissa. Quốc vương Orissa là Indrabhūtī (Đế Thích Cát, thế kỷ 8) thường được cho là khai tổ của Kim Cương thừa (Vajrayāna) – một phái thuộc Phật giáo Đát- đặc-la. Bản thân nhà vua có những trước tác liên quan đến Kim Cương thừa, hiện nay còn 23 bộ tác phẩm, tiêu biểu là Trí thành tựu (Jñānasiddhi) và Pháp thành tựu Kurukullā (Kurukullāsādhana, D. No.3214) . Mật giáo Ấn-độ hậu kỳ tức là Phật giáo Đát-đặc-la, còn thuật ngữ Kim Cương thừa là danh xưng của Phật giáo Đát-đặc-la nói chung. Mật giáo hậu kỳ cho rằng kim cương là tính không (śūnyatā), là sự thật tối cao. Áp dụng cụ thể vào hình dạng của ngũ cổ kim cương (chuỳ phổ ba – ND), nhìn nó như tượng trưng cho ngũ trí của Như Lai. Gắn vào trước khái niệm kim cương, triết học tượng trưng riêng biệt của Mật giáo đã được hoạt dụng một cách khéo léo trong đó. Từ ngữ kim cương (vajra) là một dụng ngữ trọng yếu của Mật giáo. Ở bên Kinh Đại Nhật thì đối với cáo chúng được thuyết pháp chủ yếu là những Bồ-tát được xưng là Chấp kim cương, Chấp kim cương Bí mật chủ, Kim cương tát- đoả… Và rồi đến Kinh Kim Cương Đính thì tuyên thuyết “tu kim cương tâm” trong giai đoạn thành Phật, ví dụ cho trí tuệ thành Phật với sự cứng cáp của kim cương. Ngay đến thuật ngữ Kim Cương thừa (Vajrayāna) có khi cũng xuất hiện không rõ ràng. Chí ít đó không phải là một thuật ngữ cũ xưa, mà từ ngữ này thường được cho là thuật ngữ được sử dụng giới hạn trong Mật giáo thuộc hệ Kinh Kim Cương Đính.
Do vậy ý nghĩa gốc của Kim Cương thừa là chỉ những kinh điển đại diện cho Mật giáo trung kỳ Ấn-độ, nó bao hàm Kinh Kim Cương Đính thuộc về Mật giáo du-già tục và Mật giáo hậu kỳ kế thừa hệ thống đó, cũng có thể nói đó là tên gọi chung bao gồm cả Mật giáo Vô thượng du-già tục. Nhằm đưa tính không là sự thật tối cao này vào đời sống tinh thần của dân chúng bình thường thì cần phải kết hợp với tôn giáo thứ dân. Thế là Mật giáo đã áp dụng hình thái hỗn hợp với Đát-đặc-la giáo (Tantrism) được dân chúng ở tầng lớp thấp tại vùng Bengal tín ngưỡng. Vì vậy các thánh điển Mật giáo cũng đã được viết lại bằng tiếng Bengal, đặc biệt là với thể loại Dohā (ca dao)…
Thánh điển của Đát-đặc-la giáo được gọi là tantra (Tib. rgyud, đát-đặc-la), các tác phẩm của Mật giáo cũng bắt chước và gọi là đát-đặc-la vương (tantrarāja), hoặc chỉ gọi là tantra thôi.
Trong lịch sử tư tưởng Ấn-độ giáo, tantra là một trong những thuật ngữ rất khó để định nghĩa. Lý do của sự khó khăn này đầu tiên là Đát-đặc-la giáo (Tantrism), tuy gọi là vậy nhưng nó không đơn giản chỉ là một thể hệ tư tưởng được đại diện bởi các thánh điển được gọi là tantra, hay là chỉ cho một trường phái cố định nào. Với những tác phẩm được gọi là tantra nhưng cũng có rất nhiều cái không liên quan gì đến tantra mà cũng được xem như nằm trong văn hệ tantra, phái Ngũ Nhật Dạ (Pāñcarātra) thuộc Tì-thấp-nô giáo (Viṣṇava) thường gọi chúng là “bản tập” (Saṃhitā), trong khi Thấp-bà giáo (Śaiva, Śivaism) thì gọi chung chung chúng là “thánh truyền” (Āgama). Song Đát-đặc-la giáo đầu tiên nhất được phát hiện đó là đát- đặc-la thuộc về phái Tính Lực (Śākta), cho nên nó mới được ban cho tên gọi là Đát- đặc-la giáo (Tantrism) . Từ ngữ Đát-đặc-la giáo (Tantrism) xuất xứ từ tiếng Sanskrit tantra, giải thích về ngữ nguyên học của từ tantra này có thể chỉ ra một cách rõ ràng và đủ chắc chắn từ những văn bản cổ đại, khi mới đầu tantra chưa hề có hàm nghĩa đặc biệt nào về tôn giáo hay siêu hình học cả.
Trong nguyên điển Vệ-đà, chữ tantra chỉ xuất hiện với nghĩa là máy dệt (loom), sợi dọc (the warp) mà thôi, rồi nó chuyển sang danh từ phổ thông chỉ cho giáo nghĩa nói chung, nên nó không chỉ cho hệ tư tưởng nào cụ thể. Rõ ràng thì sợi dọc (the warp, kinh tuyến) là nghĩa đối lập với sūtra (the welf, sợi ngang, vĩ tuyến) thôi. Về phía Phật giáo, trong phẩm (phần) 18 Vô thượng bản tục (Uttaratantra: Thượng đát-đặc-la) của Tập Mật căn bản tục (Guhyasamājatantra) diễn tả tantra nghĩa là tương tục (prabandha). Ngoài ra những giải thích khác đối với từ ngữ này nhiều không kể xiết.
Từ sau thế kỷ 8, tantra được sử dụng trong Phật giáo với ý nghĩa chỉ thánh điển Mật giáo (B. Bhattacharyya, 1988: 257–258). Những tác phẩm tantra trong Mật giáo, theo Tây Tạng đại tạng kinh được chỉnh lý bởi sự sắp xếp của đại học giả Tây Tạng Bu-ston Rin chen grub (Bố-đốn Bảo Thành, 1290–1364) thì chủ yếu là100.000 tục bộ (rGyud ’bum) được thu vào trong Cam-châu-nhĩ (bKa’ ’gyur, Phật thuyết bộ). Đại tạng kinh của Tây Tạng tách rời kinh (sūtra, Tib. mdo) với tục (tantra, Tib. rgyud) ra.
Song các tín đồ Mật giáo Ấn-độ dường như không có ý thức phân biệt một cách nghiêm cẩn như thế. Ví dụ: trong văn bản tantra cũng có kèm tên đề kinh để đảm bảo thẩm quyền cho nó, vả lại nó cũng viết câu “như vầy tôi nghe” hệt các kinh Đại thừa. Lại nữa, Kinh Kim Quang Minh của Đàm-vô-sấm thành lập khoảng thế kỷ 5 được liệt vào Kinh tập bộ là một trong các kinh điển Đại thừa thuộc Đại tạng kinh Hán dịch, trong Tây Tạng đại tạng kinh thì nó lại được phân loại vào Sự tục (kriyātantra, bya ba’i rgyud). Với lại, những bài tán ca (stotra), thệ nguyện văn (praṇidhāna) của Bồ-tát cũng được gọi là tantra. Điểm bất đồng của chúng so với tantra của Ấn-độ giáo là không sử dụng hình thái đối thoại giữa các vị thần với nữ thần.
2. Trào lưu tư tưởng của Đát-đặc-la giáo
Người ta thường nghĩ về nỗi lo sợ nghi thức tế tự trang trọng của Vệ-đà cổ xưa sẽ dần dần bị mất thẩm quyền, khi nó đã bắt đầu suy yếu từ từ, nó vẫn một mặt dựa vào thẩm quyền truyền thống, một mặt thì kế thừa những gì đã có trước, nhưng đồng thời cũng lấy vào những yếu tố dị chất khác e rằng có bắt nguồn từ các thổ dân Ấn-độ, vừa không phủ nhận thẩm quyền truyền thống trước đó vừa không tự xem mình là quy luật cao siêu bất biến, trong một tình hình mới nó đã gợi lại tình cảm tôn giáo của người Ấn-độ, đặc biệt là những người ưa thích với sự thoả mãn nghi lễ, đó chính là trào lưu hình thành Đát-đặc-la giáo. Các thánh điển của Đát-đặc-la giáo sử dụng các câu thánh trong thánh điển Vệ-đà, mặc dù chấp nhận thẩm quyền của nó nhưng mặc khác họ cũng bị dè bỉu là “những kẻ đứng bên ngoài vòng Vệ-đà,” “những hạng rao bán Vệ-đà.” Nó vừa là Bà-la-môn giáo nhưng cũng chẳng phải là Bà-la-môn giáo, tính chất của nó không được gán cho bất kỳ một bên nào cả.
Định nghĩa về tantra cũng có khác biệt giữa các học giả với nhau, huống gì việc nó thành lập vào thời điểm nào, thực không thể xác định được niên đại. Có thuyết phổ thông thì nói thế kỷ 7-8, nhưng nếu xem xét về niên đại thành lập “bản tập” cổ xưa nhất của phái Ngũ Nhật Dạ cũng như niên đại phiên dịch những kinh điển Mật giáo trong Phật giáo rất nhiều loại bao hàm “các yếu tố tantra” thì có thể hạn mức truy nguồn có khả năng là vào khoảng thế kỷ 5. Tuy nhiên, trước khi có sự tuyên thuyết hệ thống bằng văn bản thì nhất định phải có thời kỳ tập luyện và phổ cập, sự xuất hiện của những khái niệm chính có khả năng làm ta truy nguồn đến sự thể hiện trong thực hành nghi lễ trên thực tế trước khi chúng được thành lập văn bản kia.
Dẫu có độ khó về định nghĩa ra sao, và khó mà truy dấu nguồn gốc lịch sử của chúng, cho đến nay các học giả vẫn nỗ lực để làm rõ đặc trưng của Đát-đặc-la giáo. Vì người ta đã tìm ra những đặc trưng gì của Đát-đặc-la giáo? Chúng ta sẽ thử phác hoạ trào lưu tư tưởng này sau đây.
Như trước đã nêu, tất cả các văn bản về tantra không phải đều công nhiên bài xích Vệ-đà, nhưng tính từ tāntrika thì lại mang nghĩa tương phản với tính từ vaidika. Các văn bản tantra với ý nghĩa này thì không liên quan gì với thánh điển Vệ-đà, nhưng những người được xem là đấng được các vị thần Ấn-độ giáo trực tiếp khải thị thì sự thật họ tuyên thuyết những nghi lễ khác với những gì được nói trong thánh điển Vệ- đà, cũng như họ nói về các loại cứu tế và giải thoát đạo khác với những thuyết của các phái chính thống. Thời đại hoàng kim (kṛta, đệ nhất kỳ) đã ngày càng lùi về xa, trong thời kỳ dần dần có sự hủ bại và những điềm báo suy đồi (kali: thời kỳ đấu tranh hay đệ tứ kỳ của thế giới), thế là họ mô tả về những con đường giải thoát ngày càng dễ đi hơn theo nhu cầu thời đại. Cứ như thế họ nêu lên ngọn cờ dẹp bỏ giai cấp (caste) và phân biệt nam nữ, về nguyên tắc mọi người đều được cởi mở. Tính cởi mở của con đường dễ đi này mang một diện mạo khác hẳn với tính khép kín trang trọng điển nhã của Vệ-đà và Áo nghĩa thư (Upaniṣad), nhưng nhìn vào các điểm lớp đáy thì ta có thể nói rằng Đát-đặc-la giáo đã kế thừa truyền thống của Vệ-đà và Áo nghĩa thư.
Đầu tiên, nó không đồng nhất với thế giới quan yếm thế và lánh đời được thấy trong Áo nghĩa thư và Phật giáo Nguyên thuỷ, hiện thế với sinh tồn ngay đời này chắc chắn là tiền đề lớn của Đát-đặc-la giáo, nó đã kế thừa thế giới quan vừa sáng sủa vừa hào phóng của Vệ-đà cổ xưa. Tuy nhiên, Đát-đặc-la giáo đồng thời cũng tận dụng truyền thống giải thoát tri kiến được các triết nhân Áo nghĩa thư truy cứu. Sự kết hợp liên quan giữa đại vũ trụ và tiểu vũ trụ, được nghiền ngẫm kỹ lưỡng về tính đồng nhất của Brahma và bản thân (Phạm–ngã nhất như), nó tạo thành cơ sở của thế giới quan Đát- đặc-la giáo, và các chủ nghĩa tượng trưng khác nhau tạo nên đặc điểm của nó dựa trên sự kết hợp của cả hai. Nhưng hành giả Đát-đặc-la giáo thì khác với triết nhân Áo nghĩa thư, không đặt điều kiện là lánh đời, cho nên đối với họ, họ không chỉ cần giải thoát (mukti, mokṣa) mà còn muốn hưởng thụ hiện đời (bhukti, bhoga), nó trở thành mối bận tâm lớn của họ, đặc trưng của Đát-đặc-la giáo chính là làm sao để điều hoà cả hai. Như vậy, khi còn sống thì bậc hành giả sẽ lấy mục tiêu là giải thoát, họ ở lại nhân gian cũng vì cố gắng muốn kiểm soát nó. Họ không chỉ có giải thoát tri kiến thôi mà họ còn tham cứu về tự tại lực căn cứ vào đây. Một mặt thì họ đồng hoá với đấng siêu việt, một mặt thì họ bọc nó vào trong chính mình, sinh trụ diệt tuỳ ý, không chỉ bản thân mà còn lấy việc trở thành Chúa của toàn thể vũ trụ làm mục tiêu. Cách thức đạt thành mục tiêu này dựa vào chuỗi nội dung được thể hiện qua từ “thành tựu pháp” (sādhana),
sức mạnh thần thông được hiển thị bằng từ “tất-địa” (siddhi, thành tựu) là nguyên nhân mà những văn bản này được hoan nghênh. Trong đó, các yếu tố của tín ngưỡng dân gian nào là chữa bệnh, hồi sinh, rồi chiêm tinh, ma thuật… đã kết hợp lại cùng với Đát-đặc-la giáo.
Liên quan tới tự tại lực, sức mạnh thần thông này, một khái niệm quan trọng khác đối với Đát-đặc-la giáo đó là “lực.” Nó không chỉ là nguyên động lực của vũ trụ và sự sống cá thể, mà những thuộc tính được xem là của thần và gán cho nguyên lý với tướng mạo tính nữ. Chính như trong triết học Số luận (Sāṃkhya), do vị thần nguyên lý tối cao của vũ trụ là vĩnh viễn bất biến, bản thân không có sự hoạt động nên sự sinh trụ diệt trong vũ trụ là “lực” (śakti) trong một tướng mạo của nó thôi, và được ví như là thần phi. Lực động của vũ trụ vốn dĩ là nữ tính, bắt đầu với nữ thần tối cao rồi đến ma nữ, yêu tinh, tính lực động thảy đều quy về nữ tính, sự trói buộc hay giải thoát của con người đều nằm ở trong đó. Hành giả vượt qua chướng ngại giải thoát này, họ lại vừa vỗ về vừa kiểm soát để những nguyên lý sự sống lực động này trở thành công cụ cho họ chi phối vũ trụ. Như thế, khái niệm lực động nữ tính này đã trở thành chủ nghĩa tượng trưng có tính bổ sung mang sắc thái dâm loạn cuống cuồng trong Đát-đặc-la giáo.
Ở một khía cạnh, sự nhìn nhận đại vũ trụ và tiểu vũ trụ như đã nêu là như nhau khiến cho sinh lý học nhân thể thần bí độc đáo của Đát-đặc-la giáo trở nên phát đạt. Sinh mệnh lực của vũ trụ đã trở thành hơi thở (prāṇa) khiến cá thể có sự sống, tuần hoàn bên trong cá thể, lưu động trong các mạch quản (nāḍī) và hội tụ ở các luân xa (cakra, mạch luân). Có ba loại quan trọng trong mạch quản là suḍumnā (động mạch cổ, mạch giữa), piṅgalā (bên phải) và iḍā (bên trái). Mỗi vị trí luân xa ở các đầu xương sống tạo nên hình dạng hoa sen, từ Hội âm (mūlādhāra) ở phần đáy đến Thiên bức liên hoa (sahasrāra-padma) trên đỉnh đầu gồm có 5 cái, tổng cộng là 7 luân xa. Phần dưới đáy của cơ thể người là Hội âm (mūlādhāra), hình dạng hoa sen có bốn cánh nằm ở phần Hội âm tượng trưng cho trục cơ thể của núi Tu-di (Sumeru), tức là nó chống đỡ cho xương sống. Mạch quản suṣumnā (mạch giữa) đi qua xương sống tạo nên hình dạng hoa sen nghìn cánh ngược, đi đến mạch quản Thiên bức ở đỉnh đầu thì nó sẽ liên kết lại với Hội âm. Từng iḍā và piṅgalā sẽ tuôn ra từ bên trái và phải của Hội âm xoay chuyển quanh xương sống tức là núi Tu-di, cuối cùng đi ra từ lỗ mũi trái và phải. Cái trước có tính nguyệt, màu trắng, có tính tô-ma (soma) cam lộ, còn cái sau có tính nhật, màu đỏ, có tính mãnh độc. Vả lại người ta thường nghĩ ba mạch quản này là tượng trưng cho ba con sông thiêng của Ấn-độ: sông Sarasvatī (Sa-la-thất-phạt-để hà), sông Gaṅgā (Hằng hà) và sông Jumnā (Yamunā, Diêm-mâu-na hà). Hội âm là nơi có lực (śakti) của thần Śiva, lấy khuôn mặt của một con rắn cái và nằm thành một quả bóng trong ba tuần rưỡi, gọi đó là Kuṇḍalinī/Kuṇḍalī (Quân-đồ-lợi).
Sinh lý học nhân thể thần bí này chính là ý đồ căn bản cấu tưởng nên tiểu vũ trụ, nó dựa vào yoga để đánh thức nữ thần Kuṇḍalinī. Khi nữ thần thức dậy sẽ đi lên men theo mạch giữa và xuyên qua sáu luân xa trên đường đi, hợp nhất với thần Śiva trụ ở Thiên bức liên hoa. Sự kết hợp của cả hai cuối cùng sẽ sinh ra tại soma, thường thì cho rằng hành giả tuôn chảy ra soma thì sẽ cảm thụ niềm vui của pháp (pháp duyệt). Sau sự kết hợp thần bí của Kuṇḍalinī thì nó sẽ đi ngược xuống theo chiều xuôi thứ tự, và người ta nói nó sẽ trở về Hội âm và dừng lại đó.
Quan hệ với hành pháp (yoga) này Đát-đặc-la giáo đã sáng tạo ra nhiều đạo cụ và vật phụ thuộc thần bí, đó là những thứ như maṇḍala (mạn-đồ-la), yantra (hộ phù), cakra (luân xa), mudrā (ấn khế) v.v… chúng đã được gán cho những ý nghĩa thần bí và tượng trưng. Loại mantra (thánh tụng, chân ngôn) cũng có đặc trưng của Đát-đặc-la giáo với việc sử dụng các chủng tử (bīja), về những tính tượng trưng dẫn đến tính bí nghĩa thần bí này, sắc thái dạng nhập tín thánh biệt (dīkṣā) tuân theo vị thượng sư (Guru) biến thành bí nghĩa đã cực kỳ nồng đặc. Mặt khác thì sự suy tư triết học ngôn ngữ về nó được thúc đẩy phát đạt đến mức độc đáo.
Các nhà thần học Vệ-đà cổ đại đã nhìn thấy lực động của vũ trụ và tượng trưng vận hành trong nghi lễ tế tự, còn về phía Đát-đặc-la giáo thì như những gì đã thấy qua sinh lý học nhân thể này, nhân loại đã tham gia vào đây. Trình tự giống như các nghi thức tế tự cổ đại có liên quan với sự vận hành của vũ trụ đã được tương quan lại và thậm chí là xem như nhau đối với sinh mệnh lực cá thể với sinh mệnh lực vũ trụ trong Đát- đặc-la giáo. Về ý nghĩa này, người ta có thể đặt Đát-đặc-la giáo vào trong quy trình của Vệ-đà trong lịch sử tư tưởng Ấn-độ xưa nay.
Tóm lại thì Đát-đặc-la giáo một mặt có tư tưởng thần bí tương quan với đại vũ trụ và tiểu vũ trụ (cái tôi cá nhân) được đại diện rõ ràng bởi Phạm–ngã nhất như theo Áo nghĩa thư cổ đại, một mặt suy xét nguyên lý tối cao tuyệt đối, dựa vào sự dung hợp và hợp nhất này để đạt được giải thoát ngay trong cuộc sống, khẳng định hiện thế, không ra ngoài hệ thống giáo lý và thực hành kiểm soát nó một cách tự tại. Đồng thời nó rất sẵn sàng tiếp nhận những yếu tố mới lạ và dựa vào lối giải thích uyển chuyển vượt lên khỏi giới hạn của giai cấp và giới tính, mở ra một bộ mặt sinh khí mới cho lịch sử tư tưởng. Với khí thế lan tràn của lực (śakti) được tượng trưng cho nữ tính, không những vừa giải thoát vừa khẳng định sự hưởng thụ đời sống, có thể nói một trào lưu thời trung đại đã mang lại sức sống dồi dào sôi sục cho lịch sử tư tưởng Ấn-độ chính là bộ mặt của Đát-đặc-la giáo. Nhưng ở khía cạnh khác, sự thể nghiệm tự tại lực và thần bí lực đã thúc đẩy sự phát đạt của pháp hành như bí nghĩa và chân ngôn, khế ấn, mạn- đồ-la v.v… nó chấp nhận tính bí mật được truyền thụ với dạng nhập môn. Những hành vi quái gở hát ca khi mang thai với sự hăm hở khi sinh ra được lý giải thành tính là điều nguy hiểm, cùng với sức mạnh thần bí mang lại sự kết hợp với các tín ngưỡng cấp thấp như chiêm tinh học, ma thuật với Đát-đặc-la giáo. Bí nghĩa siêu việt thường thức khiến cho con người xâm phạm vào những cấm kỵ của xã hội, dám trở nên ăn thịt, uống rượu, tình dục bừa bãi, rơi vào trạng thái cuồng dục, sung sướng với những trò thác loạn quên đi bản thân. Cuối cùng những mặt trái tối tăm và u ám dâng cống phẩm bằng thân người kia cũng không quan hệ gì với Đát-đặc-la giáo .
Đát-đặc-la giáo còn gọi là phái Tính lực (Śākta/Śaktism), tôn thờ bà phi Nan Cận Mẫu (Durgā) hoặc Thời Mẫu (Kālī) – vợ thần Śiva. Theo giáo thuyết ấy cho rằng đấng Śiva là thực tại tối cao vĩnh viễn được xem như đồng nhất với Phạm (brahman), ngài hoàn toàn không phải là đấng hoạt động, mà ngược lại, vị thần phi của ngài mới chính là hoạt động. Trong đó chú trọng đến sức mạnh hoạt động (śakti), tuyên thuyết về sự cứu tế dựa trên sức mạnh hoạt động (hoạt động lực). Hoạt động lực này là căn nguyên của vạn hữu, toàn bộ thế giới chẳng qua chỉ là sự triển khai của hoạt động lực này. Người ta thường cho rằng sự tôn thờ thần nữ giới như vị thần phi này không phải là bắt nguồn từ Ārya, trong đó còn lưu lại dấu vết của tôn giáo nguyên sơ cầu nguyện sinh sản. Đát-đặc-la giáo xem vị thần phi (thần phối ngẫu) của đức Śiva là nguyên lý vũ trụ, những từ như Durgā (Nan Cận Mẫu) hay Kālī (Thời Mẫu) đã là bổn tôn xuất hiện từ trong sử thi tự sự Mahābhārata.
Theo Từ Ân truyện quyển 3 ghi lại, Huyền Trang sau khi hành hương ở nước A-du-đà (Ayudhā, Ayodhyā) đã cùng với khoảng 80 người xuôi thuyền đi xuống phía đông sông Hằng, những người đó trên đường đi đã bị các tín đồ Ấn-độ giáo tin thờ thần Durgā sát hại để làm tế phẩm, sự mô tả điểm xuyết này rõ ràng cho thấy việc giết người để tế thần còn tồn tại ở Ấn-độ thời bấy giờ
3. Lý luận sinh lý học tinh thần của Phật giáo Kim Cương thừa
Như trước đã nêu, các vua của vương triều Pāla bảo hộ Mật giáo, đầu tiên vua Gopāla I cho xây chùa Phi Hành, các đời vua cũng noi theo điều này và đã cố gắng khuyến khích bảo hộ Mật giáo về sau đến 4 thế kỷ rưỡi. Người ta thường cho rằng bang Bihār của vùng Bengal do có rất nhiều chùa chiền Phật giáo (Vihāra) nên mới được mang tên như vậy. Tiếp theo, vua Dharmapāla đã xây trường đại học Phật giáo chùa Siêu Nham biểu tượng của vương triều Pāla. Có thuyết cho rằng chùa Siêu Nham (Vikramaśilā) là biệt danh của vương triều này. Tại đây sư Phật Trí (Buddhajñāna) đã làm trụ trì đời thứ nhất, không lâu sau thì trở thành đạo tràng căn bản của Kim Cương thừa.
Nếu không có trường đại học tự viện này thì có lẽ sẽ không tồn tại đại tạng kinh Tây Tạng phi thường sách vở chất đầy như núi. Dãy núi Himalaya quanh năm chất đầy tuyết đã nhờ có nhiều bậc cao tăng cự tượng đi vào Tây Tạng truyền dịch Phật điển, phần lớn là được lấy từ đại học tự viện này. Phật giáo Kim Cương thừa truyền vào Tây Tạng, chủ yếu là đến từ khu vực thuộc quyền cai trị của vương triều Pāla. Lại nữa, trường đại học Phật giáo chùa Siêu Nham đã có nhiều tăng chúng cắp sách đến du học, họ đến từ các vùng như Tây Tạng, Nepal, nước Thất-lợi-phật-thệ của Nam Hải, Trung Quốc… trường đại học quốc tế đặc sắc này luôn tiếp diễn sự phồn vinh đến đầu thế kỷ 13. Nhìn từ lịch sử giáo dục thế giới thì đây là trường hợp ít có, nó đáng được ghi nhận là chi tiết quan trọng.
Mật giáo Ấn-độ được chia làm ba theo các thời đại lưu truyền kinh điển: trước tiền bán thế kỷ 6 chính là sơ kỳ, thế kỷ 7 đến giữa thế kỷ 8 là trung kỳ, hậu bán thế kỷ 8 trở đi là hậu kỳ. Đại thể thì có thể nói Sự tục là sơ kỳ, Hành tục và Du-già tục là trung kỳ, Vô thượng du-già tục thuộc về hậu kỳ. Như trước đã nêu, Mật giáo Ấn-độ vào hậu kỳ tức là Phật giáo Đát-đặc-la, song Phật giáo Tây Tạng thuộc về giai đoạn này thường được đặc biệt xưng là Phật giáo Kim Cương thừa (Vajrayāna Buddhism) chứ không gọi là Phật giáo Đát-đặc-la.
Đầu tiên, Vô thượng du-già tục là du-già tục được phát triển thêm, cũng có nghĩa là được phát triển kế tục từ các kinh điển thuộc hệ thống Kinh Kim Cương Đính.
Trong Mật giáo tại Tây Tạng đặc biệt chú trọng vào Vô thượng du-già tục, xem nó như con đường tắt nhất để đạt thành Phật, thủ hộ và truyền thừa giáo thuyết ấy một cách quý trọng xem như châu báu. Lý luận và phương pháp truyền thừa này chưa được lưu truyền đến Trung Quốc và Nhật Bản. Du-già song nhập (không hai không khác) nhấn mạnh bổn tôn và hành giả đối lập với du-già tục có khuynh hướng chú trọng bên trong hơn là bên ngoài. Đặc trưng của Vô thượng du-già tục xem trọng đến du-già thuộc bên trong hơn du-già tục, quan niệm thực hành này dường như không câu nệ vào bên ngoài. Du-già thuộc bên trong thì không ngoài việc nhất thể hoá bổn tôn và hành giả, thiết lập hai thứ lớp là sinh khởi và viên mãn nhằm nhanh chóng thành tựu điều này. Lời khuyên dạy tu hành lần lượt theo viên mãn thứ đệ này thì ngay đời này cũng có thể đạt trạng thái thành Phật. “Sinh khởi thứ đệ” (utpannakrama/utpattikrama, bskyed rim) là quá trình tâm sinh khởi bổn tôn trong minh tưởng, xem bản thân nhất thể với bổn tôn. Hành giả tiếp nhận quán đỉnh từ thượng sư thì phải tu hành sinh khởi thứ đệ cho trọn vẹn. Nhờ đó có sự nhất định đạt được tự giác kiên cố “chính ta là bổn tôn.” Tsong kha pa (Tông-khách-ba, 1357–1419) nhấn mạnh đến ý nghĩa sinh khởi thứ đệ như thế, cảnh báo rằng đừng bao giờ xem thường nó thì chúng ta sẽ tiến vào viên mãn thứ đệ.
Viên mãn thứ đệ (niṣpannakrama/saṃpannakrama, rdzogs rim) là kiểm soát các luân xa (cakra, rtsa’khor), mạch quản (nāḍī, rtsa), phong (prāṇa, rlung), minh điểm (bindu, thig le)… thứ nguyên vi tế tồn tại trong cơ thể, thông qua chúng để mưu cầu tâm hướng thượng, cuối cùng đạt đến mục đích là giác ngộ thành Phật.
Mạch quản là các đường lưu động bên trong cơ thể với năng lượng (energy) sinh lý tinh thần, trở thành cái cốt cán đi cùng với đốt xương sống, có ba dải trung tâm, phải và trái.
Khi dùng theo thuật ngữ của Đát-đặc-la trong Phật giáo, trung mạch là a-phọc-để (avadhūtī, dbu ma), tả mạch là la-la-noa (lalanā, rkyang ma: tinh mạch), hữu mạch là lạt-sa-noa (rasanā, ro ma), cũng như tán-noa-lê ở trung tâm (caṇḍālī, chiên-đà-li: hạ tiện nữ).
Cuối cùng, tán-noa-lê khác với a-phọc-để, nó là phần dưới nhất của a-phọc- để, là thế lực tiềm tại được thiết định để chỉ cho cơn lửa thiêu cháy. Các luân xa là nơi đả kết của mạch quản, nằm ở 5 vị trí là đỉnh đầu, cổ họng, cuống tim, rốn, đáy chậu (tức hội âm).
Từ luân xa trên đỉnh đầu lần lượt đi xuống gọi là đại lạc luân, thụ dụng luân, pháp luân, biến hoá luân, thủ lạc luân. Lại nữa, trong Kinh Thời luân Kim cương cũng thiết định luân xa nằm ở giữa chặng mày (trên trán). “Phong” là năng lượng sinh lý tinh thần lưu động bên trong mạch quản, nó là căn nguyên của hoạt động sự sống. Theo lý luận của Tập Mật căn bản tục (Guhyasamājatantra) cho rằng vào lúc thông thường, luồng khí chạy lưu động trong mạch quản tả và hữu, trong quá trình chết đi, hoặc giả khi thực hành yoga viên mãn thứ đệ, thì phong chạy vào trung mạch.
“Minh điểm” là vật chất có kích thước như hạt cây anh túc, nó tiếp nhận từ cả hai năng lượng của phong và vi tế tâm rồi bắt đầu chuyển động, tác dụng của nó là nền tảng để duy trì sự sống. Minh điểm có hai loại là trắng và đỏ, một loại xưng là “bạch bồ-đề” (byang sems dkar po, nam tinh) nằm ở phần đỉnh đầu, còn loại “hồng bồ-đề” (byang sems dmar po, nữ huyết) thì nằm ở bộ phận sinh dục. Tại cuống tim thì hồng–bạch bồ-đề (byang sems dkar dmar) tồn tại hỗn hợp, lấy đó làm cơ sở để duy trì sự sống. Minh điểm có thể được xem xét như là yếu tố vật chất vi tế, mặt khác nó cũng có quan hệ mật thiết với yếu tố tinh thần (vi tế tâm).
Khi tịnh hoá thông qua tu hành Vô thượng du-già tục nếu đạt thành minh điểm thì nó sẽ biến thành tinh tuý của Bồ-đề tâm (bodhicitta, byang sems). Lúc này, bạch bồ- đề phương tiện (từ bi) và hồng bồ-đề bát-nhã (trí tuệ) được phú cho tính gắn kết. Lại nữa, phương tiện (từ bi) được gán cho là nguyên lý nam tính, bát-nhã (trí tuệ) là nguyên lý nữ tính, vả lại hồng–bạch nhị bồ-đề là nơi cả nam tính lẫn nữ tính đều tồn tại. Ví dụ: viên mãn thứ đệ trong Thời luân đã nói về sáu thứ đệ gọi là sáu chi yoga, nó là sự mường tượng thông qua kiểm soát các minh điểm để thành tựu thân Phật của vị bổn tôn. Trong tu hành minh tưởng, khi làm cho năng lượng của phong chạy vào trung mạch thì nửa thân dưới sẽ phát nóng. Sự nóng ấy lập tức sẽ sinh ra cơn lửa đi lên các mạch quản và hoà tan vào bạch bồ-đề trên đỉnh đầu.
Bạch bồ-đề được hoà tan– tinh tuý của Bồ-đề tâm, từ đỉnh đầu lại chảy dần xuống và bắt đầu tích luỹ từ phần nền đáy của trung mạch. Nó càng gia tăng bao nhiêu thì trạng thái yoga càng tăng bấy nhiêu, cuối cùng ta có thể viên mãn thân Phật thuần tuý của vị bổn tôn.
Đặc trưng của Vô thượng du-già như vậy đã làm cho sinh lý cơ thể được hoạt dụng với mức cao nhất nhằm mưu cầu tâm hướng thượng. Nhưng cơ thể được nói đến ở đây không phải là những hành động thô tháo bề ngoài “làm bộ dung mạo như bổn tôn” đâu, nó là cơ thể vi tế tiệm cận với bề trong vô hạn trong mối liên hệ khăng khít với chính tâm ta với trung gian là năng lượng sinh lý tinh thần. Song Vô thượng du-già tục đặt trọng điểm của giáo thuyết vào đâu mà có thể chia thành Phụ tục (pha rgyud) và Mẫu tục (ma rgyud)?
Phụ tục là giáo thuyết lấy trọng tâm là pháp tu hành đặt vào “huyễn thân” (sgyu lus);
Mẫu tục là giáo thuyết lấy trọng tâm là pháp tu hành đặt vào “ánh sáng của tâm” (sems kyi ’od zer).
Để lý giải điểm này chính xác hơn, ta có thể thuyết minh cặn kẽ chi tiết thêm ở đây về thân thể và tâm được Vô thượng du-già tục chủ trương. Lý luận của Vô thượng du-già tục có thể khảo sát với ba lớp được chia thành từ trạng thái thô tho đến trạng thái vi tế nhất khi nói về trạng thái của cơ thể với tâm con người.
“Thô phần tâm” (sems rags pa) như chúng ta thường trải nghiệm, là tâm suy nghĩ lung tung chịu ảnh hưởng từ năm cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc). “Thô sắc thân” (gzugs rags pa, thô sắc) là những đối tượng mà chúng ta thường nhận thức là thân thể của mình, cũng tức là nhục thể được cấu thành từ những bộ phận như da, thịt gân, nội tạng, thể dịch, xương đốt, thần kinh… Thô phần tâm và thô sắc thân đều do nghiệp và phiền não của chúng nằm trong trạng thái bị chế ước rõ rệt, không dễ đạt được hoạt động tự do tự tại.
Ví dụ: với tính không suy cùng tới chân lý thì đầu óc có thể sẽ hiểu được nó, nhưng để thể nghiệm hình thái của nó hoàn toàn thì cực kỳ khó khăn. Vì vậy miệng tuy hay nói là “không” hoặc “vô tự tính” nhưng trong đời sống hiện thực lại chấp trước những chuyện không thoả mãn, do đó mà dẫn đến những phiền não như phẫn nộ… Chúng ta bình thường luôn dựa cả vào thô phần tâm và thô sắc thân, ta có thể hiểu rằng việc đó không chỉ là chuyện đương nhiên mà có thể nói đó phạm vi giới hạn của thô phần tâm và thô phần sắc.
Trái lại, “tế phần tâm” (sems phra ba) chính xác là tâm ở trạng thái thực hành theo minh tưởng. Tế phần tâm không rung động do ảnh hưởng của năm cảnh, có thể hiểu một cách như thật về đối tượng.
“Vi tế thân” (gzugs phra mo) là thân thể được chi phối thông qua các yếu tố sinh lý tinh thần đã thuyết minh phần trước như luân xa, mạch quản, phong, minh điểm… Đối với các yếu tố sinh lý tinh thần tồn tại ở mức vi tế trong cơ thể người nếu tu hành dựa theo Vô thượng du-già tục sẽ nhanh chóng thành Phật, nó ẩn chứa năng lực tiềm tại phát huy tác dụng tuyệt diệu. Chính vì như vậy, chúng ta phải trân trọng thân người quý giá này. Phật giáo đã định vị sự được sinh làm người là đã có đầy đủ những điều kiện quan trọng, chẳng qua ý nghĩa sâu xa của Mật giáo kỳ thực là ở điểm này.
Thô phần tâm và tế phần tâm cũng như thô sắc thân và vi tế thân, cả hai tâm và thân ở mức độ khác nhau cùng tồn tại đồng thời trong chúng ta. Những tồn tại đích xác này dù có tác dụng trên cơ sở khiến thô phần tâm hoạt động cùng với thân, nhưng không thể hiện ra bên ngoài. Nhưng cũng có lúc nó xuất hiện một cách không ngờ, ví như khi nằm mơ, kinh nghiệm cận tử, thực tế là khi cận kề với cái chết… Nhưng những trường hợp này chúng ta không thể cố ý kiểm soát tâm và thân vi tế. Nó chỉ là khả năng, chỉ có một sự thực hành phải dựa vào minh tưởng. Ở trong minh tưởng, chúng ta dẫn xuất tế phần tâm từ tầng bậc sâu có thể khiến nó được hoạt động tự do tự tại. Vả lại, không chỉ tế phần tâm, chú ý vào năng lực tiềm tại của vi tế thân, với đặc trưng lớn của minh tưởng trong Vô thượng du-già tục, là muốn thử tuỳ ý kiểm soát luân xa, mạch quản, phong, minh điểm. Khi tu hành tích luỹ với hai thứ đệ là sinh khởi và viên mãn, ta sẽ hoá tâm và thân thành trạng thái vi tế, như vậy sẽ tuỳ ý kiểm soát được chúng.
Mục tiêu của sự tu hành minh tưởng đó là gì? Đó chính là tâm và thân trong giai đoạn tế phân nhất với ba cấp độ. “Tối tế phần tâm” không gì khác là ánh sáng của tâm thuần tuý.
“Ánh sáng của tâm” (sems kyi ’od zer) có sự thể hiện rất dễ gây hiểu lầm, cho nên cần lưu ý. Nó quyết không phải là tia sáng trên thực tế, lại nữa, không thể hiểu nó là “thực thể trong bản chất của tâm.” “Ánh sáng của tâm” ở đây là chỉ cho trạng thái có thể hiểu chính xác ngay như chớp mắt đối với bất kỳ sự việc nào mà không bị ràng buộc một cách hoàn mỹ.
Do vậy cũng có thể hoàn toàn thể hội chân lý rốt cùng – tính không, nếu thực hiện điều này thì có thể đạt thành sự giác ngộ Phật-đà. Chỉ cần chúng ta còn có thô phần tâm và thân thì ánh sáng của tâm tuyệt đối sẽ không hiện ra. Song bất cứ ai khi sắp qua đời có thể sẽ nhìn thấy ánh sáng của tâm.
Trong quá trình ta chết đi thô sắc thân sẽ từ từ tan rã, tâm sẽ dần dần chuyển sang trạng thái tế phần. Trong phút chốc tử vong thật sự, ánh sáng của tâm xuất hiện thành trạng thái vi tế nhất. Nếu trong lúc này ta có thể kiểm soát ánh sáng của tâm một cách có ý thức thì sẽ hiểu ngay tính không, điều đó có thể. Nhưng đáng tiếc rằng trong lúc chúng ta chết đi lại không thể kiểm soát tâm tuỳ ý. Ánh sáng của tâm xuất hiện trong chớp nhoáng ta chết đi thì sức mạnh của nghiệp và phiền não kéo theo làm ta không thể kiểm soát và dần dần tiến sang thế giới trung hữu.
Việc tu hành Vô thượng du-già tục với trạng thái có thể kiểm soát tuỳ ý trong sự minh tưởng, việc vận hành các luân xa, mạch quản, phong, minh điểm sẽ dần dần làm vi tế hoá tâm và thân. Ta có thể nói đây là sự bắt chước “thể nghiệm cận tử” (trải nghiệm gần như chết đi), trong khi hoàn toàn đạt được quá trình này, ánh sáng của tâm xuất hiện khi ta vẫn đang sống, nhờ đó chắc chắn ta có thể hiểu về tính không ngay lập tức.
Nếu nói theo sự thành tựu hai thứ đệ sinh khởi và viên mãn trong Vô thượng du-già tục thì có thể cho đó là sự giác ngộ thành Phật ngay trong đời này. Dẫu không thể đạt được điều đó nhưng lúc sinh tiền đã tích chứa sự tu hành minh tưởng chính xác như vậy thì trong khoảnh khắc khi chết ta sẽ nắm bắt chính xác ánh sáng của tâm xuất hiện, nhờ đó ta có thể được giác ngộ (đắc Bồ-đề). Thế thì cái chết là một cơ hội tốt nhất để đạt được giác ngộ, ta sẽ hoàn toàn khắc phục được nỗi sợ cái chết.
Ánh sáng của tâm là cần thiết để trở thành căn cứ cho “tối vi tế thân.” Phong trong căn nguyên đó là được hình thành bởi chính năng lượng sống tinh túy. Tuy nhiên, “thân” không phải là ngoại hình có thể nhìn thấy bằng mắt, vì vậy nó có thể tự do đi qua chất rắn, hoặc có thể di chuyển trong không khí ngay lập tức.
Khi chúng ta chào đón cái chết, phong ở toàn thân tiến vào trung mạch, đi vào minh điểm bất hoại nằm trong cuống tim – nền tảng duy trì sống. Hơn nữa, bạch bồ-đề nằm trên đỉnh đầu với hồng bồ-đề nằm ở bộ phận sinh dục cũng thông qua trung mạch từ từ đi vào hoà tan trong minh điểm bất hoại. Khi nó kết thúc, để chào đón khoảnh khắc của cái chết thực sự, ánh sáng của tâm hiện ra.
Trong thời gian nhất định sau khi bảo tồn trạng thái này, phong được tập hợp trong minh điểm bất hoại sẽ tạo ra thân cực kỳ vi tế. Nó đóng vai trò là căn cứ của tối tế phần tâm, làm nhiệm vụ như chiếc thuyền chở vật. Trong quá trình khi chết bình thường đến khi tái sinh, thân cực kỳ vi tế trong chính luồng phong này tuỳ theo sức mạnh của nghiệp và phiền não mà đi dần vào trong thế giới trung hữu, như một chiếc thuyền nhỏ tiếp tục dập dìu trong cơn sóng. Khi đó “ánh sáng” trong tâm sẽ sớm biến mất rồi khi nó tái sinh vào kiếp sống gần nhất nó sẽ từ từ hoá thành trạng thái thô tháo.
Thân cực kỳ vi tế sẽ đưa tâm đến nơi chốn của kiếp mới, sự sống mới phát sinh, nhiệm vụ sẽ hoàn thành.
Về mặt Viên mãn thứ đệ trong Vô thượng du-già tục, sau khi thể nghiệm ánh sáng của tâm thì thân vi tế cuối cùng sẽ sinh khởi “huyễn thân” (thân xác ảo), nó gần giống với trải nghiệm trong thế giới trung hữu. Tiếp theo, cho dù ở trong Viên mãn thứ đệ, giai đoạn cuối cùng cũng sẽ đạt thành cảnh giới vô sai biệt (song nhập) của huyễn thân và ánh sáng.
Đến giai đoạn này ánh sáng dựa vào tâm sẽ trải nghiệm hoàn toàn với tính không, nó có tình trạng khác hẳn với sự tái sinh vào thế giới luân hồi tuỳ theo nghiệp và phiền não. Huyễn thân từ trạng thái tối vi tế triển khai sang báo thân Phật- đà đầy đủ 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, từ đó hiện ra ứng thân Phật-đà, là diện mạo của các bậc Bổn tôn trong Mật tục để bước đi cứu độ tất cả chúng sinh.
Trên đây chúng ta đã nói chi tiết lý luận của Vô thượng Du-già tục, những lý thuyết được giới thiệu trong đó chủ yếu căn cứ theo truyền thống của Thánh giả lưu (’Phags lugs, Thánh phụ tử lưu, khoảng thế kỷ 10) trong Mật tập Căn bản tục.
Trong nghi quỹ Ngũ thứ đệ (Pañcakrama) của Viên mãn thứ đệ ấy, thông qua trải nghiệm giả bắt chước theo quá trình của sự chết trong minh tưởng, tuyên bố một cách tượng trưng các phương pháp thành tựu tứ không, ánh sáng của tâm, huyễn thân… Nội dung cụ thể của pháp hành này cần phải được bậc Thượng sư làm quán đảnh để kế thừa chính xác và truyền thừa thanh tịnh, có như vậy sự học của ta mới được sự hướng dẫn và nắm bí quyết khi được bậc Thượng sư truyền thụ.
Tsong kha pa đã giải thích bằng lập trường mới của Trung quán Ứng thành phái (Prāsaṅgika, Thal ’gyur ba) một cách triệt để đối với Vô thượng du-già tục khó hiểu và thường dễ bị ngộ nhận. Vả lại, để xây dựng hệ thống Mật giáo với đỉnh điểm là Vô thượng du-già tục thì phải đặt nó vào trong cái khung tổng thể của Phật giáo làm sao cho không mâu thuẫn.
Bộ tuyển tập vĩ đại này không đâu khác chính là tác phẩm Mật Tông đạo Thứ đệ Quảng luận (sNgags rim chen mo, viết năm 1405) của ông, lại có một bộ cự tác Hiển giáo khác nữa là Bồ-đề đạo Thứ đệ Quảng luận (Lam rim chen mo, viết năm 1402), chúng ta có thể nói Tsong kha pa đã cố định toà kim tự tháp bất hủ cho toàn bộ nền sử Phật giáo (Tiểu thừa, Đại thừa, Kim Cương thừa), đó là cả kho tàng độc đáo đầy giá trị.
4. Mật giáo lưu truyền đến Nam Hải
Giữa thế kỷ 9, trên bi văn ván đồng chùa Nālandā có đề cập đến thời gian trị vì 39 năm của vua Devapāla vương triều Pāla đã phát huy thế lực tại vùng đất Bengal, trong đó có nói rằng: đức vua của Kim Châu (Suvarṇadvīpa: Hoàng Kim đảo), tức Sumatra, là Mahārāja Śrī Bālaputradeva – con cháu của dòng vua nước Ha-lăng (Śailendra) đảo Java muốn xây tăng viện tại Nālandā nên đã thỉnh cầu với nhà vua Devapāla, cho nên đức vua đã có ý quyên tặng năm thôn làng.
Theo bi văn này, những cái tên vẫn chưa được ghi vào, song có ghi “vua Java trang sức bằng dòng vua Śailendra,” trong đó đã mô tả vị vua này là “người con trai Samagrāgravīra có uy phong lẫm liệt, dũng vũ, hung mãnh và hành vi đoan chính. Vua đã kết hôn với nàng Tārā (Đa-la) con gái của vua Pháp Kiều (Dharmasetu) thuộc thị tộc Nguyệt Chủng. Bālaputradeva là con trai của ông.” Bālaputradeva sống vào khoảng năm 850, ông nội của vua ấy là vua Java dòng dõi vương tộc Śailendra. Từ ký sự này đã cho thấy vào đầu thế kỷ 9, dòng họ vua nước Śailendra đã thống trị Java.
Lại nữa, những tấm bản đồng Leyden (Leyden Copper Plate) viết rằng: vua Rājarāja đệ nhất (985–1012) của vương triều Chola miền Nam Ấn-độ lên ngôi 21 năm, vua đã quyên tặng một thôn làng làm nơi ăn chốn ở xây tăng viện Śrī Cūḍāmaṇivarman. Lại nói: tăng viện này được xây dựng tại Nāgapaṭṭana vào thời gian của vua Śrī Māravijayottuṅgavarman vua nước Tam-phật-tề (Śrīvijaya) dòng dõi vương tộc Śailendra, nó được xây nhân danh phụ vương Śrī Cūḍāmaṇivarman của ông. Tên của hai vị vua Tam-phật-tề này có thể xem trong Tam-phật-tề truyện thuộc Tống Sử quyển489. Truyện ấy viết rằng: “Năm Hàm Bình thứ 6 (1003), vua nước ấy là Tư-li Chu-ra- vô-ni-phật-ma-điều-hoa sai sứ là Lý-gia-bài và phó sứ Vô-đà-lý-nam-bi đến cống. Vả lại nước ấy xây chùa chiền để chúc thánh thọ, [sang Trung Quốc] muốn xin ban tên và chuông. Để khen thưởng cho ý định của họ, vua chiếu ban tên Thừa Thiên Vạn Thọ đặt tấm biển chùa và đúc chuông để tặng.” Theo đó có thể biết năm Hàm Bình thứ 6 (1003), vua Tư-li Chu-ra-vô-ni-phật-ma-điều-hoa (ŚrīCūḍāmaṇivarman), tiếp theo, năm Đại Trung Tường Phù (1008) cũng có chuyện Tư-li Ma-ra-bì sai sứ đến. Vua Tư-li Ma-ra- bì (ŚrīMāravijayottuṅgavarman) được biết là vị vua đã báo thù hữu hiệu đối với Javatrong lần xâm lược Tam-phật-tề trước đây vào quãng năm 1007. Vì vậy, khoảng từ giữa thế kỷ 9 cho đến đầu thế kỷ 11, dòng vua Śailendra là quốc vương của Tam-phật- tề. (Nakamura Hajime, Kasahara Kazuo, Kanaoka Shuyu, 1977: 39–40)
Tại Ấn-độ đương thời vua Devapāla đã đạt thành vĩ nghiệp của vương triều Pāla trên toàn Ấn-độ, Kim Cương thừa cũng được phổ cập đến mọi miền Ấn-độ. Vị vua Devapāla này có mối giao tình sâu đậm với vua Bālaputradeva của đảo Sumantra miền Nam Hải, nhờ sự ăn khớp đó mà Kim Cương thừa tại chùa Siêu Nham đã vươn sang tận Java, kết quả là đã xuất hiện toà thành Thiên Phật đàn khổng lồ tại tháp Phật Bà- la-phù-đồ (Borobudur). Tháp Phật Bà-la-phù-đồ nằm ở phía tây bắc cách xứ Jogjakarta – đô thị trung tâm của miền Trung Java độ khoảng 40 km. Tại địa điểm 110o13 kinh Đông và 7o37 vĩ Nam, nó là toà đại tháp được kiến tạo bằng đá Andesit. Vòng quanh bao bọc bên ngoài tổng thể là đàn kim tự tháp 9 tầng, 6 tầng dưới là hình vuông, 3 tầng trên là hình tròn, chính giữa tầng thứ 9 đàn cao nhất có phần nền tháp hình chuông đường kính khoảng 16m. Tầng thứ 1 (tầng nền) là hình vuông thẳng, độ dài một bên là 110m50, tổng độ cao là 31,5m, xếp chồng thành 9 tầng, trên đỉnh chính giữa có toà đại tháp hình lục giác, phần đàn tròn ở 3 tầng trên có tháp nhỏ hình chuỳ đặt tượng Phật, các vách tường bên cạnh hiện còn 1.800 bức phù điêu trở lên. Đề tài trên những phù điêu khắc hoạ Phật truyện, bản sinh, thí dụ… dùng thủ pháp viên thục được truyền đạt từ thời đại triều Gupta, kiến trúc lẫn điêu khắc đều là một bộ đại kiệt tác trong mỹ thuật của nền Phật giáo Đại thừa.
Về niên đại tháp Phật Bà-la-phù-đồ được xây, không có tư liệu nào để kê cứu nên không có phạm vi suy đoán nào. Tài liệu suy đoán là chữ viết tiếng Kawi ở phần đàn nền cũ hiện chỉ còn những mảnh vụn bị chôn vùi, kết quả nghiên cứu của các học giả đại thể nhất trí rằng nó phải là năm 850 trở về trước. Hiện giai đoạn cho rằng nó được xây dựng từ hậu bán thế kỷ 8 đến tiền bán thế kỷ 9, thuyết này được thừa nhận rộng rãi.
Ngay cả về ngữ nghĩa của “Borobudur,” theo bi văn Magelan được lập khoảng năm 842 đã ghi: Śrī Kahulunnan quyên ruộng thóc làm nơi chốn xây từ đường cho Kamūlān i Bhūmisaṃbhāra. Śrī Kahulunnan có nghĩa là “hoàng hậu bệ hạ,” từ quyên tặng đất đai ta có thể nhìn ra đó là sự kiện đặc biệt do mệnh lệnh của hoàng hậu, vị hoàng hậu này được cho là đã sinh ra trong gia thế đặc biệt. Xét từ niên đại có thể thấy Śrī Kahulunnan là Pramodavardhanī – con gái của vua Samaratuṅga thuộc dòng dõi Śailendra, nàng được gả cho gia đình dòng vua Maṭarām, chắc có lẽ nàng được tôn kính nhờ là nữ giới thuộc dòng vua Śailendra. Gia đình dòng vua Maṭarām ban đầu có tên tức vị bằng tiếng Sanskrit là Kayuwangi, hình như là con cái của bà.
Nhưng từ đường Kamūlān i Bhūmisaṃbhāra do vị hoàng hậu này quyên tặng ruộng thóc, tên gọi của từ đường ấy hiện nay không có ở Magelan là những vùng lân cận. Kamūlān i Bhūmisaṃbhāra được dịch là “ngọn núi tư lương (saṃbhāra) của địa (bhūmi),” “địa” ở đây có nghĩa là “Thập địa,” ý chỉ cho “các giai vị tu hành,” “tư lương” là chỉ cho “tư lương phúc đức và tư lương trí tuệ khi tu hành,” từ nội hàm ta có thể nói danh xưng của từ đường này đích xác là biểu thị rõ ràng ý nghĩa của tên gọi Borobudur đã kể trên.
Vả lại, danh thức từ đường này nếu hoàn nguyên về tiếng Sanskrit thì có thể dẫn ra tên gọi Borobudur, tức là danh xưng tiếng Sanskrit Bhūmisaṃbhāra được chuyển âm đọc chệch đi là Borobudur. Lại nữa, nửa phần trước của Borobudur vốn là bhara, nhưng khi kết thúc một mẫu âm trong tiếng Java thì âm “a” sẽ phát âm là “o,” do đó Bara-budur đọc là Borobudur, khi viết cũng sẽ như vậy.
Như vậy, từ đường Kamūlān i Bhūmisaṃbhāra được tìm thấy trong bi văn Magelan năm 842 chính là Borobudur, vị hoàng hậu quyên tặng ruộng thóc cho từ đường này năm 842 nên có thể cho thấy Borobudur được thành lập từ niên đại này trở về trước. Vả lại, số năm này cũng không sai lệch với số năm được suy đoán trong chữ viết tiếng Kawi nói trên. Danh xưng và ý nghĩa của Borobudur có rất nhiều thuyết, nếu theo De Casparis, như trên đã nói, danh xưng Borobudur được nhận định là đọc chệch âm từ tiếng Sanskrit Bhūmisaṃbhārabhūdhara.
, từ khối kiến trúc bằng đá có một không hai trên toàn thế giới này, tạo hình của nó đã lột tả mạn-đà-la lập thể, làm mường tượng nên giấc mộng xa xưa về tín ngưỡng Mật giáo vẫn chưa được hoàn thành, đến nay nó vẫn đứng câm lặng trong khu rừng dừa ở miền Nam Hải mà chẳng kể một lời nào về câu chuyện của mình với người đời.
Thất-lợi-phật-thệ hay Thi-lợi-phật-đệ vào đời Đường là đối âm của Śrīvijaya, một thương nhân Ả-rập đương thời đã âm dịch nó là Serboza hoặc Sarboza, còn Tam-phật- tề xuất hiện trong sử thư nhà Tống trở về sau thì chuyện đó chúng ta đều biết cả rồi. Đô thành nước ấy thường được cho là ở Palembang (Cự Cảng) thuộc Sumantra ngày nay, nhưng vào cuối thế kỷ 11 khi được đồn tới nhà Đường, nó được gọi là Chiêm-ti (Jambi) của Mạt-la-dụ (Malayu).
Quãng năm 671–695, Tam tạng Nghĩa Tịnh trước sau hơn 10 năm qua lại ở Nam Hải, lưu trú ở Phật-thệ, đã báo cáo rằng Phật-thệ là một bến cảng đỗ tàu chính trở thành nơi giao điểm giữa Trung Quốc và Ấn-độ đương thời, hơn nữa ở trong đô thành nước này có hơn một nghìn tăng chúng đang nỗ lực trong học vấn và tu hành, “phương pháp và nghi thức gần giống với Trung Quốc, nếu những bậc Đường tăng muốn sang Ấn-độ để học tập Phật pháp thì hãy nán lại đây ở một, hai năm rồi mới lên đường vào Ấn-độ, đó cũng là điều hay.” (Đại Chính 24, Căn bản Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ Nhất bách yết-ma quyển 5, 477 hạ)
Theo Đại Đường Tây Vực cao tăng cầu pháp truyện do ông biên soạn thì các nhà sư như Liên Kỳ, Đại Tân, Trinh Cố, Hoài Nghiệp đã nhiều năm ở lại Phật-thệ học tập tiếng Sanskrit và thông hiểu tiếng Côn-lôn, như sư Hoài Nghiệp thì không muốn trở lại Trung Quốc. (Đại Chính 51, 10 thượng đến 11 hạ).
Tương tự, trong Nam Hải ký quy Nội pháp truyện quyển 4 của ông cũng nói: Nước Phật-thệ ở Nam Hải đương thời có vị thạc học tên là Thích-ca-kê-lật-để (Śākyakīrti,Thích-ca Xưng) luôn dốc lòng giáo dục đệ tử, vị học giả này có sáng tác Thủ Trượng Luận 1 quyển, do Nghĩa Tịnh dịch sang văn Hán. Nó là một tiểu phẩm phiến đoạn, dựa trên lý luận chủng tử để bài xích lý luận kiếp mới, là đại biểu cho một khuynh hướng của trường phái yoga Ấn-độ đương thời. Tại Palembang thuộc Sumantra, Tam tạng Nghĩa Tịnh đã tốn 3 năm học tiếng Phạn (Sanskrit), sự thật này cho thấy rằng các nước Nam Hải thời bấy giờ hoàn toàn nằm trong vòng văn hoá Ấn-độ, Sumantra là quốc gia Phật giáo Đại thừa Ấn-độ thuộc Mật giáo đương thời, nước Phật-thệ vào giữa thế kỷ 9 là thời kỳ Mật giáo toàn thịnh.
Khá nhiều nhà sư Mật giáo Trung Quốc như Vô Hành, Pháp Lãng, Tuệ Nhật… đều đã có dịp ghé thăm Nam Hải, chuyên chú cả đời để tham vấn chân lý Mật giáo. Sau này đại học giả A-để-hiệp (Atīśa, 982 – 1054) sang Tây Tạng (Thổ-phồn) cũng có đến Kim Châu (Suvarṇadvīpa, gSer gling pa, Sumantra ngày nay) để học tập tâm pháp Bồ-đề (Bodhicitta, Byang chub kyi sems) suốt 12 năm với tôn giả Pháp Xứng (Dharmakīrti).
Vị đại học giả Pháp Xứng này chính vào thời gian trị vì của vua Tư-li Chu-ra-vô-ni-phật-ma-điều-hoa nước Tam-phật-tề, ngài đã tuyên dương giáo học Phật giáo, ta có thể biết qua tư liệu Tây Tạng. Ngay trong Tây Tạng đại tạng kinh, có thể liệt kê 6 bộ trước tác của Pháp Xứng:
(1). Bát-nhã Ba-la-mật Ưu-bà-đề-xá luận Hiện quán Trang nghiêm chú Nan ngữ Minh chú sớ (般若波羅蜜多優婆提舍論現觀莊嚴註難語明註疏, D. No.3794. Ja 140b1- 254a7);
(2). Nhập Bồ-tát hạnh Nhiếp tam thập lục nghĩa (入菩薩行攝三十六義, D. No.3878.Śa 188a7-191b3);
(3). Nhập Bồ-tát hạnh nhiếp nghĩa (入菩薩行攝義, D. No.3879. Śa 191b3-192b6); (4). Tập Bồ-tát học luận Hiện quán (集菩薩學論現觀, D. No.3942. Khi 195b2-196a5)=No.4550;
(5). Thánh bất động Thành tựu pháp (聖不動成就法, D. No.3059. Pu 113a6-116a4); (6). Phẫn Nộ Hoan Hỷ thiên Thành tựu pháp (忿怒歡喜天成就法, P. No.4994. Ḥu
104b6-106a3).
Trong 6 bộ trước tác trên, được thu vào Tây Tạng đại tạng kinh bản Bắc Kinh nhưng chưa được dịch ra; 5 bộ còn lại đều có trong bản Bắc Kinh và Tổng mục lục Tây Tạng đại tạng kinh của Đại học Đông Bắc Nhật Bản, tức là bản Derge (Đức-cách), vả lại chúng đều được dịch bởi dịch giả lừng lẫy A-để-hiệp và các vị dịch sư khác, đương nhiên chúng ta cũng không suy đoán là toàn bộ các trước tác của Pháp Xứng đều đã dịch hết sang Tạng văn. 6 bộ trước tác này chỉ có (1) nhắm vào Sư Tử Hiền chú giải Hiện quán Trang nghiêm luận của Di-lặc, giải rõ những điều khó hiểu trong đại tác phẩm này, đây là tác phẩm chính của Pháp Xứng, những tác phẩm khác chỉ là trước tác nhỏ. Đại sư Pháp Xứng ở Kim Châu xa xôi do có quan hệ thầy trò với A-để-hiệp nên những tác phẩm của ngài mới có thể được dịch tồn trong tạng kinh miền Tuyết Vực, điều này cũng có thể coi là một đại kỳ tích.
V. MẬT GIÁO THỜI MẠT VẬN VÀ SỰ XÂM NHẬP CỦA TÍN ĐỒ HỒI GIÁO
1. Hoàng hôn của Mật giáo
Đầu thế kỷ 8, Tây Ấn-độ bị những người Ả-rập theo tín ngưỡng Hồi giáo (Islam) chiếm lĩnh. Đầu thế kỷ 11, Sultan Mahmūd của vương triều Ghaznī (962–1186) diệt người Ả-rập miền Tây Ấn-độ, chinh phục các tộc người Rājpūt, mở rộng bản đồ tại phía Bắc Ấn-độ. Tuy từ vương triều Ghaznī chuyển sang vương triều Ghūr/Ghor (khoảng năm 1000–1215) song người Ấn-độ vẫn tiếp tục bị nô lệ hoá, bị các giáo đồ Hồi giáo cướp đoạt và phá hoại ngày càng nặng nề, thậm chí bị Islam hoá. Do vậy, các tự viện và tượng khắc của Phật giáo và Ấn-độ giáo liên tục bị huỷ hoại.
Rốt cuộc, đầu thế kỷ 13, bọn họ đã mở rộng phạm vi thế lực đến vùng Bengal miền Đông Ấn-độ, sát hại những giáo đồ Phật giáo còn lại ở vùng đất này, phá hoại chùa chiền một cách triệt để. Vương triều Pāla lúc này sớm đã bị dồn ép tới cùng, sau đó nó bị thay thế bởi vương triều Sena (cuối thế kỷ 11 đến giữa thế kỷ 13) cai trị vùng Bengal trên thực tế, nhưng đến lúc này vương triều cũng sụp đổ.
Về phần Kim Cương thừa, nó đã xuất hiện tín ngưỡng đức Phật Bản Sơ (Ādibuddha, Paramādibuddha, Tib. Sangs rgyas dang po) như là nguyên nhân tột cùng của bản ngã và thế giới, và thuyết Kim cương thân (Vajra-kāya).
Đức Phật Bản Sơ vốn cũng xuất hiện trong phẩm 10 Bồ-đề trong Đại thừa Trang nghiêm kinh Luận của Vô Trước viết: “Từ vô thuỷ, hoặc nói rằng chỉ có một vị Phật tối sơ (ādibuddha), là Phật nên không có hai tụ là phúc và trí mà được thành Phật, nghĩa ấy không phải vậy nên Phật không đồng nhất.” Trong Kim Cương thừa, đức Phật Bản Sơ là nhân nguyên thuỷ, tuyệt đối. Nó là Nhất nguyên luận muốn thống trị tất cả các Phật và các Bồ-tát, có khuynh hướng Hữu thần luận rõ rệt.
Trong giáo lý này hô ứng tự tại thanh tịnh tâm, nhưng sự thành lập của nó thường được cho là chịu ảnh hưởng của Ấn-độ giáo về Nhất thần luận, hơn nữa nó được dựng nên với ý thức nhằm chống lại Hồi giáo. Với tư cách là một chi phái của Kim Cương thừa, trong thời kỳ này đã xuất hiện Câu Sinh thừa (Sahajayāna, Sahajiyā, Câu Sinh phái), họ quan niệm thân Phật có Câu sinh thân (Sahaja-kāya). Sahaja có thể trực dịch là Câu sinh, trong đó nó chỉ “bản tính” của nhân loại sinh ra, là bản năng tự nhiên. Tự nhiên là điều rất dễ dàng, cho nên Câu Sinh thừa từ ý nghĩa thứ nhất về tự nhiên đã đạt đến ý nghĩa thứ hai là dễ dàng, thẳng thắn, bình dị. Đối với sự trải nghiệm chân lý, phái này phủ định các loại khổ hạnh đặc biệt, thậm chí cho rằng logic và triết học đều không có giá trị. Nó cũng thay đổi luôn tính chất của Bồ-tát, không phải là vị Bồ-tát hướng thượng cầu Bồ-đề mà là Phật tử không giảm không hao do Phật sinh ra, trở thành diện mạo từ Phật tuôn ra.
Với những tư tưởng này có thể nhìn thấy tư tưởng Như Lai tạng, thuyết Bản tính thanh tịnh, tư tưởng Tính khởi của Hoa Nghiêm, cho đến chiếc bóng tuỳ duyên bất biến trong Phật giáo Đại thừa. Như vậy sự chuyển biến dần sang thực tại, Nhất thần giáo và Hữu thần luận ắt hẳn là một bước nhảy vọt lớn của Phật giáo. Trong đó, ngoại trừ những nguy cơ trùng trùng đang bủa vây Phật giáo và thúc giục nó, không chỉ có Ấn-độ giáo mà còn có Iran, thậm chí là ảnh hưởng của Hữu thần luận và Nhất thần luận theo mô hình của Hồi giáo.
Phật giáo thường nói về Phật thân luận với tam thân là pháp, báo, ứng, đối với Phật giáo Tây Tạng thì đó đương nhiên là một đề bài lớn. Phật giáo hậu thế dù Hiển giáo hay Mật giáo cũng đã phát triển thuyết Tứ thân và những thuyết pháp khác. Phật giáo Tây Tạng cũng như vậy, nhưng nó chưa hẳn cố chấp theo thuyết Tứ thân, bộ khung Phật thân luận dường như là chốt vào thuyết Tam thân hơn. Phật giáo Kim Cương thừa Tây Tạng siêu việt pháp thân hoặc lập Kim cương thân (Vajra-kāya), còn gọi là Bản tính thân (Sahaja-kāya), thuyết Tứ thân này có mối quan hệ đối ứng với thuyết Tứ hỷ như sau :
Hoan hỷ (ānanda) Biến hoá thân Thân Rốn
Thắng hỷ (paramānanda) Pháp thân Ý Tim
Ly hỷ (viramānanda) Thụ dụng thân Khẩu Họng
Câu sinh hỷ (sahajānanda) Câu sinh thân Trí Vòm đầu
Tam thân thành tứ thân số mục bao nhiêu không phải là vấn đề, Pháp thân, Bản tính thân (Tự tính thân) hay Kim cương thân này được cho là thực tại của một đấng tuyệt đối trong Mật giáo, có thể nói là đặc sắc của nó. Đấng thực tại này trở thành nguyên nhân đệ nhất tột cùng. Trong Nhiếp Đại thừa Luận và các luận thư khác có đề cập đến Pháp thân hoặc Tự tính thân là sở y (āśraya) của hai thân khác: Thụ dụng thân và Biến hoá thân. Nhưng ta chưa hẳn đã nói ngay sở y này là nguyên nhân đầu tiên sinh thành thế giới.
Tuy nhiên trong hình thức Mật giáo, khi phải tiếp nhận tư tưởng Như Lai tạng, tự tính thân (Svābhāvika-kāya) ở bên trong đã trở thành bản tính thân (Sahaja-kāya), về bản thể luận chính nó là nguyên nhân đầu tiên của tồn tại (Svayaṃbhū) (Nagao Gajin, 1979: 603). Như trước đã nói, Câu Sinh thừa lập bản tính thân (câu sinh thân, Sahaja-kāya), lại thêm tam thân pháp–báo–ứng vào thành lập trường tứ thân. Nó có giáo nghĩa nghiêm cẩn như vậy nhưng khi xã hội thực tế trở nên suy đồi, nó thành tôn giáo hưởng lạc. Đúng như đại học giả Giuseppe Tucci (1894–1984) nói: “Mọi chế độ của nhân loại đều sẽ không tránh khỏi thối nát.” (All human institutions are subject to corruption). Bất cứ thời đại nào trên đời khi đã xuất hiện hàng phake (adulteration), thật giả lẫn lộn thì chính nó sẽ có vấn đề, sẽ không ngừng sinh ra lôi thôi. Lại nữa, CâuSinh thừa và thuyết của nó là sự suy đồi của chính Mật giáo, ta có thể xem chắc chắn
đó là biểu hiện của một trạng thái xã hội rối ren và thối nát đương thời.
Ở đây cần phải chỉ ra thêm, Mật giáo trở thành một tôn giáo tự suy xét, nhị nguyên thống nhất (nhị mà bất nhị, advaita), xưng là Kim Cương thừa (Vajra-yāna).
Sự tìm kiếm về triết học và nguyên lý của Kim Cương thừa đó là nhị nguyên thống nhất, cùng với những người muốn thể nghiệm trên kinh nghiệm và thực tiễn, cái trước gọi là Mật giáo Hữu đạo (Dakṣiṇācāra- vajrayāna), cái sau gọi là Mật giáo Tả đạo (Vāmācāra- vajrayāna). Hoặc giả ta có thể nói bao gồm cả hệ thống phi tính lực (śakti, năng lượng, năng lượng nữ tính) thì xưng là Kim Cương thừa, và hệ thống có tính lực thì gọi là Phật giáo Đát-đặc-la hoặc Đát-đặc-la giáo, rõ ràng chúng ta cần vạch ra một đường giới hạn.
Điều đó e rằng cả Đát-đặc-la của Phật giáo lẫn Đát-đặc-la của Ấn-độ giáo đều không có ngoại lệ . Trong thời đại đó, ông A-để-hiệp (Atīśa, 982–1054) sinh ra tại vùng Bengal nói trên đã vào khu vực Tây Tạng, cải cách Mật giáo Tả đạo đang ngày càng cực kỳ dâm loạn giống như Mật giáo Ấn-độ, mọi người nên nhớ trong lòng. Một tác phẩm Đát-đặc-la Phật giáo thời đó có tên Thành tựu pháp man (Sādhanamālā), quyển sách này đã được thu vào tủ sách Mật giáo hậu kỳ Ấn-độ loại 312 của chư tôn thành tựu pháp, là một văn bản có giá trị rất quý giá để hiểu về thực trạng thực hành Mật giáo hậu kỳ.
Đây là cuốn tập đại thành của thành tựu pháp (sādhana). Quyển sách này khoảng năm 1100 Tây lịch do Vô Uý Sinh Mật (Abhayākaragupta) tại Trung Ấn-độ biên soạn. Vô Uý Sinh Mật là một học giả kiêm tu Hiển–Mật vĩ đại nhất thế kỷ 11, 12, đồng thời là luật sư, kiêm nhiệm chùa Siêu Nham và chùa Nālandā, là vị thủ toạ Kim cương toà, giới sư lừng danh. Ông có viết ba tác phẩm nghi quỹ, tức: Kim cương man (Vajrāvalī) là bộ tổng luận nghi quỹ lấy nghi quỹ mạn-đồ-la làm trung tâm; Cứu cánh du-già man (Niṣpannayogāvalī) là bộ giải thuyết ý tưởng mạn-đồ-la quan.
Theo bản thân tác giả, đây là bộ yếu điểm lược thuyết về thứ lớp tu tập (maṇḍaladevatā-bhāvanākrama) của các vị thần mạn-đồ-la. Bộ thứ ba là Quang bao (Jyotīrmañjarī), là bộ cương yếu nghi lễ hộ-ma (homa) (Tsukamoto Keishō, Matsunaga Yūkei, Isoda Hirohumi, 1989: 379–386). Đáng đề cập đến là học trò của ngài, Thích-ca Tường Hiền (Śākyaśrībhadra, 1127–1225) có thuyết bảo là vị chủ toà cuối cùng của chùa Nālandā, năm 1204 vì để trốn khỏi nạn Hồi giáo nên ngài đã cùng với những bạn đồng hành ở chùa Siêu Nham là Thịnh Nguyệt (Vibhūticandra), Thí Giới (Dānaśīla), Tăng Tường (Saṃghśrī), Thiện Thệ Tường (Sugataśrī) gồm một nhóm chín người đi sang Tây Tạng, Ngài đã cư trú tại Tây Tạng suốt 10 năm, quãng thời gian đó ngài giải thuyết năm pháp Di-lặc, truyền dạy Nhân minh học, truyền thụ giới cụ túc và giảng thuật đạo thứ đệ (Lam rim) cũng như tu tâm (bLo sbyong), ngoài ra còn truyền thụ các Mật pháp vô thượng du-già như Thời Luân, Thắng lạc Kim cương Căn bản tục, Tập Mật căn bản tục, Hỷ Kim cương Căn bản tục. Cả hai người Vô Uý Sinh Mật và Thích-ca Tường Hiền đều là luật sư trì giới, không phải là hành giả Mật giáo thực hành theo Tả đạo, mang lại ảnh hưởng rất lớn cho Ấn-độ và Tây Tạng hậu thế (Hứa Minh Ngân, 2010: 111–114).
Những tín đồ Hồi giáo dòng Đột-quyết từng xâm nhập Tây Bắc Ấn-độ từ thế kỷ 8, đến thế kỷ 11 thì họ càng đi sâu vào Trung Ấn-độ, đặc biệt là vị Sultan Mahmūd kể trên trước sau đã có 16 cuộc viễn chinh gây chấn động toàn Ấn-độ, đưa người Ấn-độ rơi vào vực sâu sợ hãi. Vị Sultan cùng hung cực ác này mất năm 63 tuổi năm 1030 tại thủ đô Ghaznī. Trong lúc những ký ức tàn bạo như ác mộng kia hãy còn mới, hình thái Mật giáo mới là Thời Luân giáo (Kālacakra-tantra, Thời luân Kim cương Kinh) được thành lập. Thời luân Kim cương Kinh (Kālacakra-tantra) là tên gọi tắt của Tối thắng Bản Sơ Phật sở hiện Cát tường Thời luân Bản tục vương (Paramādibuddhoddhṛta- śrīkālacakra nāma tantrarāja, D. No. 362, 1346; P. No.4).
Trong đó Tối thắng Bản Sơ Phật là chỉ Căn bản tục 12000 tụng, từ bản rộng này trích gọt lại thành bản tục nhỏ gọn (laghu-tantra) 3000 tụng, là Thời luân hiện còn. Thời Luân được thành lập trong khoảng 60 năm tính từ khoảng năm 1027, vậy là thành lập vào thế kỷ 11. Thời Luân là kinh điển Mật giáo Vô thượng Du-già tục, nhưng nó xuất hiện trong phương tiện – Phụ tục lấy Tập Mật làm kinh điển đại biểu, cũng như Bát-nhã – Mẫu tục lấy Hỷ Kim cương… làm đại biểu, đứng trên lập trường tổng hợp tư tưởng cả hai nhằm đối lại với cái trước, xưng nó là đệ tam Vô nhị tục (Skt. advaya, gnyis med rgyud, bất nhị, vô nhị) hoặc Nhị câu (Skt. yuganaddha, zung ’jug, song nhập). Kālacakra (Thời luân) thì Kāla ý chỉ là đại bi, phương tiện, cakra là ý chỉ tính không, Bát-nhã.
Cũng tức là nói Thời Luân biểu thị cho phương tiện và Bát-nhã, sự song nhập bất nhị của tiểu vũ trụ và đại vũ trụ. Nhất là Thời Luân phê phán các kinh điển Mẫu tục – Bát-nhã là chú trọng tính lực (śakti), nhấn mạnh đại lạc (mahāsukha), nó trọng thị giới luật, quay về với đặc sắc lập trường của Phật giáo lúc ban đầu.
Lúc bấy giờ Hồi giáo đã xâm nhập Ấn-độ, phá hoại Phật giáo, vì vậy trong thời đại lo lắng cho sự diệt vong của Phật giáo, việc tự nhận thức quay về với lập trường ban đầu của Phật giáo rất mạnh mẽ. Vậy nên Thời luân Kim cương Kinh đã tổng kết lịch sử Phật giáo Ấn-độ suốt 1.700 năm trở lên, và tổng kết luôn thời kỳ cuối cùng của việc triển khai Phật giáo Đát-đặc-la, có ý nghĩa quan trọng. Đồng thời, Thời Luân giáo cũng đóng vai trò rất quan trọng với Phật giáo Tây Tạng. Đặc biệt là nó trọng thị giới luật nên đã mang lại ảnh hưởng rất lớn cho Phật giáo Tây Tạng. Bu ston (1290–1364) là một đại học giả hiếm có của Phật giáo Tây Tạng, ngài xem trọng Thời Luân. Ngài đã viết chú thích cho Thời Luân, biên Thời Luân sử, mở ra một phái về Thời Luân.
Từ hệ thống này đã sinh ra những học giả ưu tú như Tsong kha pa, (Khắc-chủ-kiệt Thiện Cát Tường, 1385–1438) đã mở rộng giáo pháp Thời Luân. Từ điểm này cũng có thể nhìn thấy Thời luân Kim cương Kinh đã có vai trò quan trọng tại Tây Tạng.
Lại nữa, người Khmer là tác giả của nghệ thuật Angkor ngày nay, tức tổ tiên của người Campuchia hiện tại. Mật giáo Ấn-độ vào cuối thế kỷ 12 đã có thành quả tại Campuchia. Truyền thuyết kể rằng tổ tiên của họ tên là Kampu, nên lấy tên nước là Kampuchia (Cam-bột-trí), nghĩa là hậu duệ của Kampu. Từ thời Tam Quốc trở đi gọi nó là Phù-nam, thời Tuỳ–Đường về sau gọi nó là Chân-lạp, Cát-miệt, từ triều Tống trở đi lại gọi là Cam-bột-trí, từ cuối đời Minh trở về sau mới gọi nó là Giản-bộ-trại. Người Hoa kiều thì gọi nó là Cao-miên.
Theo những ghi chép ban đầu về Phật giáo Phù-nam có thể tìm thấy trong các sử liệu Trung Quốc. Ví như: theo Nam Tề thư chép: vua Phù- nam Kiều-trần-như, năm 484 sai Tỳ-khưu Na-già sang vào thời Nam Tề Vũ Đế (trong khoảng thời gian 484–493), lệnh cho các Tỳ-khưu chấn hưng Hiển pháp, tập hợp chúng tăng… tục thờ thiên thần Ma-hê-thủ-la (thần Śiva). Lại, vào thế kỷ 6 tiếp tục có những nhà sư Phù-nam là Mạn-đà-la-tiên và Tăng-già-bà-la người nào cũng lo phiên dịch Kinh Văn-thù Bát-nhã và Kinh A-dục vương sang Hán văn.
Đầu thế kỷ 8, sau khi vương quốc Chân-lạp chia rẽ thành Lục Chân-lạp và Thuỷ Chân-lạp, sự hỗn loạn về chính trị tiếp tục kéo dài cho đến đầu thế kỷ 9.
Người đã thống nhất sự chia rẽ này là Jayavarman II (Xà-da-bạt-ma đệ nhị thế, thời gian tại vị: 802–805). Ông là tín đồ thần Śiva, dời đô đến bờ bắc hồ Tonlé Sap, xưng là Hariharālaya (Ha-lợi-ha-la, nghĩa là trụ sở của Harihara=Śiva). Đời vua thứ ba là Indravarman I (Nhân-đà-la-bạt-ma đệ nhất thế, thời gian tại vị: 877–889) mới mở rộng lãnh thổ ra ngoài cõi Campuchia hiện nay, ra đến tây bắc Ubon thuộc đồng bằng Korat.
Các vị vua Khmer rất chú tâm phát triển tưới tiêu thuỷ lợi cho vùng Angkor, rất lừng lẫy; khai thác sự nghiệp thuỷ lợi ở xung quanh thủ đô để bắt đầu nền cai trị của vị vua này. Indravarman I đã bắt đầu xây dựng vương đô Angkor Tom/Thom, con của vua là Yaśovarman (Nhã-thoan-bạt-ma, thời gian tại vị: 889 – 900) cho xây dựng kinh đô mới Yośodhara-pura (Da-du-đà-la thành) ở Angkor Thom.
Angkor Thom kể từ sau đó đến cuối thế kỷ 12 đã có sự chỉnh tu bốn mặt xung quanh, đều là đô thành xây dựng theo hình thức tự viện tôn giáo với chính giữa khu vực hình vuông lấy làm “núi trung tâm.” Lần thứ nhất vua Yaśovarman I cho xây chùa Śiva thờ cúng nam căn (liṅga), đến lần thứ tư vua Jayavarman VII (khoảng năm 1181–1218) lấy núi Bayon làm núi trung tâm, hình thức này có quan hệ khắng khít với tư tưởng Thần vương, Phật vương. Angkor Vat (có nghĩa là miếu thành) là một ngôi chùa lớn hùng vĩ nằm bên trong Angkor Thom. Những toà tự viện này đã phát huy trọn vẹn kiến trúc của người Khmer và tài năng nghệ thuật điêu khắc của họ, có đặc trưng là dung hợp các vị thần Ấn-độ với Bồ-tát của Phật giáo Đại thừa, phản ánh tình hình tôn giáo vào thời đại ấy.
Vua Jayavarman VII cai trị suốt 40 năm, đã tạo sự nghiệp đáng chú ý trong nước, đầu tiên là xây lại thủ đô, lấy đền thờ Bayon cúng tế Thần vương làm trung tâm, tạo dựng Angkor Thom như hiện tại. Chu vi của nó được bao quanh bằng thành luỹ kiên cố với hào và đá trải dọc 3 km. Tiếp theo, nhà vua đã thiết lập 121 trạm dừng chân trên mạng lưới giao thông xung yếu ở các nơi có đường liên kết thông suốt với trung tâm thủ đô, xây dựng 102 y viện khắp cả nước. Jayavarman VII là một tín đồ Phật giáo, đặc biệt là tín ngưỡng Quan Thế Âm Bồ-tát. Thông thường mà nói, các vị vua thời Angkor không có sự phân biệt giữa các bộ phái Ấn-độ giáo và Phật giáo mà luôn có chính sách bảo hộ song song một cách bình đẳng. Vì vậy, Phật giáo và Ấn-độ giáo dần dần pha trộn với nhau dẫn đến việc hình thành một tôn giáo hỗn hợp đặc biệt quan niệm thần Śiva và đức Phật thực ra chỉ là hoá thân khác nhau của cùng một vị thần. Cổ tích Angkor lừng danh được Henri Mouhot và Lagree giới thiệu đến Tây phương vào năm 1864 nên mới được người Tây phương biết đến .
2. Sự diệt vong của Mật giáo
Năm 1155, vương triều Pāla diệt vong,15 năm 1203, Iktiyār Ud-dīn là tín đồ Hồi giáo khi dẫn quân đội đi cướp phá chùa Siêu Nham, các ngôi chùa khác như chùa Phi Hành (Otantapūri), chùa Nālandā, Kim Cương Bảo Toà cũng bị phá hoại như vậy. Người ta thường cho rằng sự phá hoại chùa Siêu Nham đánh dấu sự diệt vong của Phật giáo Ấn- độ. Ngôi chùa Siêu Nham này được xây bên cạnh sông Hằng của Magādha, luận về số lượng tăng ni rộng lớn và cư trú ở đó thì quy mô lớn nhất trong lịch sử Phật giáo Ấn- độ. Không chỉ là tự viện Phật giáo, ngoài việc dạy Phật giáo ra còn dạy văn hoá cổ điển Ấn-độ chung chung như Siêu hình học, Nhân minh, Văn pháp học, quy tụ rất nhiều tăng nhân ngoại quốc đến từ bên ngoài Ấn-độ.
Với trung tâm ba ngôi chùa lớn là chùa Nālandā, chùa Phi Hành và chùa Siêu Nham thì việc dạy học Phật giáo được tiến hành thuở bấy giờ hoàn toàn là Mật giáo, đặc biệt chùa Siêu Nham là cứ điểm cuối cùng của Phật giáo Ấn-độ, việc dạy học, tổ chức, điển tịch v.v… trong ngôi chùa này đã được truyền vào Tây Tạng với hình thái nguyên bản rất nhiều, có thể xem xét như là đã hình thành Phật giáo Tây Tạng. Thậm chí các học giả cận đại còn nói mục đích chính mà các tín đồ Hồi giáo tấn công chùa Siêu Nham là để cướp đoạt những tài sản quý giá bất tận được lưu trữ trong đó. Các văn bản tranh sách trong ngôi chùa ấy chất cao như núi bị thiêu huỷ hoàn toàn, một ngọn lửa lớn cháy rụi, các tăng ni phải gặp cảnh thảm sát. Những người may mắn còn sống thì tỵ nạn sang Nepal, Tây Tạng, hoặc một bộ phận xuống miền Nam Ấn-độ. Nhất là với đất Tây Tạng thời đó rất tích cực bảo hộ Phật giáo, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền giáo học của chùa Siêu Nham, có rất nhiều tăng chúng đã đem lượng điển tịch khổng lồ truyền vào. Tổ chức cơ bản của Đại tạng kinh Tây Tạng được cấu thành như người ta thấy hiện nay là từ các Tàng thư của chùa Siêu Nham, giáo học Mật giáo Tây Tạng được thành lập trong truyền thống giáo học tự viện này.
Năm 1205, tín đồ Hồi giáo cai trị một dải miền Bắc Ấn-độ đã phá hoại Phật giáo càng triệt để hơn nữa. Vương triều Pāla với trung tâm là vùng Bengal và Bihar trước sau đã che chở cho Mật giáo suốt 400 năm. Lúc này vương triều Pāla sớm đã diệt vong, cho nên Mật giáo vùng Bengal đã không còn có cơ hội nào để phục hưng lần nữa. Sự diệt vong của quyền lực quốc gia kết hợp với Mật giáo Ấn-độ bị dân chúng lãng quên khiến người ta cần phải học bài học lịch sử quý báu. Theo thuyết của Tāranātha, vị toà chủ cuối cùng của chùa Siêu Nham, Thích-ca Tường Hiền (Śākyaśrībhadra, 1127–1225) đã tháo chạy đến chùa Jagaddala ở miền Đông Bengal, qua 3 năm thì đến Tây Tạng. Bửu Hộ (Ratnarakṣita) thì đi Nepal, sau đó có đi theo hướng tây nam Ấn-độ lánh tới miền Nam Ấn-độ, kế tiếp cũng tháo chạy đến các vùng Miến-điện và Cam-bồ-xà (Kamboja, Kiếm Phù, ở miền Bắc Kāśmīra). Tuy nhiên bởi lý do này vùng Magādha hoàn toàn không còn sư sãi. Sau đó La-hầu-la Cát Tường Hiền (Rāhulaśrībhadra) trú tại chùa Nālandā có khoảng 70 người thính pháp. Vương triều Sena kể từ khi Pratitasena qua đời trở đi, dòng dõi bị đứt mạch (diệt vong), sau đó 100 năm, tại xứ Bhangala đã ra đời một vị quốc vương có nghiệp lực hùng mạnh tên là Cangalarāja (Chiên-già-la-la-xà), ông đã cai trị toàn bộ vùng Hendu và Đột-quyết nằm trong vòng Ṭili. Ban đầu ông tín ngưỡng Bà-la-môn, sau đó vì vương phi tín Phật nên chuyển biến tâm ý, ông đã dâng cúng dường lớn cho Kim Cương Toà và cho sửa chữa lại các chùa chiền bị tàn phá. Cho sửa sang điện Tịnh Hương (Gandhola) để cho Paṇḍita Śāriputra (Ban-trí-đạt Xá-lợi-phất) cư trú, ngoài ra vua cũng dâng cúng dường lớn cho nhiều Phật điện tại chùa Nālandā.
Còn theo ghi chép của Tāranātha cho thấy từ sau khi chùa Siêu Nham bị huỷ hoại, vùng Magādha vẫn còn tín đồ Phật giáo. Trong thời gian hai năm kể từ năm 1234 trong lữ hành ký của nhà sư Tây Tạng đến thăm vùng Magādha là Hiệp dịch sư Pháp Chủ Cát Tường (Chag lo tsā ba Chos rje dpal, Dharmasvāmin, 1197–1264) (George N. Roerich, 1959) đã khắc hoạ tình cảnh thê thảm của các Phật tích khi bị tín đồ Hồi giáo phá hoại. Ở chùa Nālandā chỉ có 2 tăng viện còn có thể sử dụng, dưới thời Trưởng lão La-hầu- la Cát Tường Hiền (Rāhulaśrībhadra) khi tuổi cao đã 90, có khoảng 70 nhà sư theo học pháp với ngài. Sự tích của Hiệp dịch sư Pháp Chủ Cát Tường theo mô tả của ’Gos gZhon nu dpal (Quách Đồng Tường, 1392–1481) trong bộ Thanh Sử (deb ther sngon po) đã tổng thuyết rằng, ngài ấy theo 12 người Paṇḍita (đại học giả), 4 vị dịch sư Tây Tạng, 21 vị Thiện xảo Trì giới sư (mkhas btsun) v.v… lắng nghe Phật pháp. Tát-ca Ban- thiền (Kun dga’ rgyal mtshan, Tứ tổ Tát-ban Khánh Hỷ Tràng, 1182–1251) đã khen ngợi ngài rằng: sau thời Đại dịch sư Bửu Hiền (Rin chen bzang po, 958–1055), ngài là vị dịch sư có học vấn cao nhất (mkhas shes) (’Gos gZhon nu dpa, 1984: 1228–1231), . Sau đó, Phật giáo đã thay đổi diện mạo trong sự tôn thờ Pháp Cách (Dharma- ṭhākura/-thāhur), hiện nay từ vùng Bengal đến Orissa vẫn còn những người tin thờ trong giai cấp thấp tại Ấn-độ.
Trong đó “Pháp” được họ tôn thờ dĩ nhiên là Bát-nhã Ba-la-mật. Bề ngoài họ chưa thể hiện rõ là tín đồ Phật giáo, nhưng chân tướng của tôn giáo đó hiển nhiên là Phật giáo. Cứ như vậy Phật giáo Ấn-độ vẫn tiếp tục tồn tại suốt thời gian khá dài kể từ sau khi người Hồi giáo xâm nhập Ấn-độ (Akira Hirakawa, 1981: 27–29), (Matsunaga Yukei, 1984: 105–106).
Năm 1203, chùa Siêu Nham là một trung tâm lớn của Phật giáo vùng Bengal đã bị quân đội Hồi giáo thiêu huỷ, người ta thường lấy thời điểm đó đánh dấu Phật giáo diệt vong. Xét về nguyên nhân thì có nhiều cách nhìn khác nhau, nhưng đại để có thể nêu ra sự chiết trung giữa Mật giáo với các yếu tố thổ dân, và tính cộng đồng với Ấn-độ giáo như là Đát-đặc-la giáo… dần dần đã khiến Phật giáo mất đi tính cách riêng biệt, hơn nữa sự tan rã tổ chức giáo đoàn với trọng tâm là người xuất gia khiến tín đồ hoàn toàn bị thu hút vào Ấn-độ giáo. Ấn-độ một mặt đã biến đức Phật trở thành hoá thân (avatāra) thứ 9 của thần Viṣṇu (Khyab ’jug, Biến Nhập thiên), công tác chuẩn bị trước cho sự thu hút dường như đã tiến hành một cách thuận lợi, với họ mà nói thì giáo đồ Phật giáo vốn cũng là của Ấn-độ.
Thậm chí, có người còn nhiều điều hiểu sai về Đát-đặc-la giáo, Phật giáo Đát-đặc-la, Mật giáo và Phật giáo Kim Cương thừa, sai truyền thêm sai, bài viết này đã nêu ra trình bày khách quan, có một vài giá trị đáng tham khảo. Mật giáo như là nền Phật giáo xuất hiện ở giai đoạn cuối cùng của toàn bộ Phật giáo, nói theo di sản tinh thần của nhân loại thì đó là lĩnh vực đáng để người ta đi sâu vào tìm hiểu và khai thác.
0
0
45
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Aug 23, 2023
In Kiến thức chung về Phật giáo
Trong kinh điển có rất nhiều bộ kinh quý, kinh nào cũng là tối thắng thừa, là vua của các kinh vì nương theo kinh khế hợp chân tánh người học người tu để thành đạo thì kinh đó là vua. Như ốm đau được thuốc hay, tùy bệnh mà cho thuốc. Không thể đang đau bụng mà dùng thuốc đau đầu được. Thuốc đau bụng dùng cho đúng người đang đau bụng thì là thuốc hay thuốc quý, người đau đầu thì dùng thuốc đau đầu thì thuốc đó là thuốc được thuốc tốt. Công năng diệu dược tùy bệnh mà sử dụng đúng thuốc thì thuốc đó mới hiệu quả.Trong quá trình tu học cũng vậy, người tu tùy khế kinh hợp tâm thì kinh đó là phương thuốc vi diệu xoa dịu phiền não, làm hành giả tu hành giải thoát được kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược. Để tìm được khế kinh hợp tâm thì người tu phải tìm hiểu, tu học và thực hành từ đó mới tìm ra con đường tu hành phù hợp với căn cơ bản thân, từ đó ngõ hầu tiến tu tới quả vị giải thoát.Khi tâm được khai mở thì trí huệ sáng và tham sân si dần chuyển hóa thành giới định huệ thông qua sự tu học, thực hành và chứng ngộ. Trong đó pháp học là tìm hiểu kinh điển, người tu học cần ghi nhớ những lời dạy chính, chốt lại ý chính của kinh để từ đó áp dụng tu tập và thực hành. Vì có học không hành thì không thấy đạo, có hành không học thì kiến đạo thấy đạo có phần khó khăn. Nên song hành cả học và hành là phương pháp tốt trong tu hành.Lúc xưa trong mấy vị đệ tử đức Phật thì Ngài A Nan tuy đa văn đệ nhất, biết nhiều kinh kệ, được thân cận luôn luôn bên Phật, nhưng cũng lại là người chứng quả vị cuối cùng vì Ngài An Nan tuy đa văn nhưng lại ít thực hành hơn cả. Nên mới thấy đa văn chỉ bổ trợ cho tri thức, trí tuệ và cho sự thấy biết.Nhưng để hành đạo, ngộ đạo lại cần thông qua thực hành và chứng ngộ. Nên pháp học đã quan trọng mà pháp hành lại còn quan trọng hơn.Lúc trước Châu Lợi Bàn Đặc là đệ tử của đức Phật nổi tiếng là không thông minh, nghe trước quên sau, trí tuệ mê mờ, thần trí không tập trung được, ghi nhớ đã khó nói gì thực hành. Thấy vậy Đức Phật nói Châu Lợi Bàn Đặc, ông hãy ngồi tại đây, mặt quay về hướng đông, vừa lau khăn này vừa nói: “Tẩy sạch dơ bẩn, tẩy sạch dơ bẩn".
Vâng lời Thế Tôn, ông vừa lau tay vào miếng vải vừa bảo: “Tẩy sạch dơ bẩn, tẩy sạch dơ bẩn”. Chiếc khăn ban đầu sạch, bây giờ nhớp nhúa. Từ đó ông nhận ra vì thân này mà khăn đã mất hết sự sạch sẽ tinh khiết ban đầu và trở thành nhiễm ô cáu bẩn, nên thốt lên: “Các pháp là vô thường”. Và chuyên chú vào kiến giải sinh diệt này, ông khai mở tuệ giác.Đấng Đạo sư biết ông đã khai mở tuệ giác liền bảo: “Châu-lợi-bàn-đặc, đừng nghĩ rằng chỉ mảnh vải ấy trở thành cáu bẩn mà ngay trong tâm ông tham ái, bất tịnh và những cấu uế khác cũng đầy rẫy; ông hãy tẩy sạch chúng”. Rồi Ngài phóng hào quang hiện thân đến ngồi trước mặt ông đọc Pháp Cú:
Tham ô nhiễm, chẳng phải là bụi bẩn.
Ô nhiễm chính dùng để chỉ lòng tham.
Các Tỳ-kheo, hãy tẩy sạch tham lam,
Và sống đúng giáo pháp bậc vô nhiễm.
Sân ô nhiễm, chẳng phải là bụi bẩn.
Ô nhiễm chính để dùng để chỉ hận sân.
Các Tỳ-kheo, hãy tẩy sạch lòng sân,
Và sống đúng giáo pháp bậc vô hận.
Si ô nhiễm, chẳng phải là bụi bẩn.
Ô nhiễm chính dùng để chỉ ám si.
Các Tỳ-kheo, hãy tẩy sạch si đi,
Giáo pháp bậc không si, nên theo đúng.
Dứt bài kệ, Châu-lợi-bàn-đặc chứng A-la-hán và các thứ thần thông, và cùng với thần thông, ông thông suốt cả ba tạng kinh điển.Như vậy, cho dù căn cơ thông minh hay chậm lụt, thì với sự tinh tấn tu hành, siêng năng hành đạo thì cũng có một ngày chúng ta lại sẽ được chứng như Châu Lợi Bàn Đặc. Ngày nay chúng ta có đầy đủ phương tiện tu học, từ y phục thuốc men, sách kinh điển, pháp thoại, internet, điện thoại, máy tính đều có thể tìm kiếm trang web kinh phật, những lời dạy của Phật, của các thầy truyền giảng giáo lý...nhưng vì sao thời nay lại ít người chứng ngộ đạt đạo, đó là do tuy pháp học thì nhiều mà pháp hành lại ít hay không được sâu. Bằng cấp, năm tu học chỉ phản ánh một phần đạo pháp, còn đạo pháp cao hay thấp lại dựa vào tâm đạo, tâm hành, tâm chứng ngộ. Nên siêng năng tu học, hành thiện giúp đời cũng là giúp chính bản thân thoát khỏi những phiền lụy khổ đau của kiếp sống nhân sinh vô thường.
Tu đạo nương kinh phật
Hành đạo từ tâm khởi
Siêng năng tinh tấn học
Kiên trì hành sẽ thành.
st....
0
0
17
Liên Hoa Minh Thiên
Trưởng lão
Aug 20, 2023
In KINH ĐIỂN
Kinh Đại Nhật (Mahavairocana Sutra)
Đại Nhật là bộ kinh quan trọng nhất của Mật Tông. Đại Nhật được dịch từ chữ "Đại Tỳ Lô Giá Na" (Mahavairocana), nguyên nghĩa là "đại giải thoát" hay "đại giác ngộ". Đại Nhật cũng được gọi là "ánh sáng mặt trời". Đây là sự sáng chói do công năng tu hành đạt được. Màn vô minh sẽ bị đẩy lùi, sức sáng trí tuệ lan toả. Toàn bộ kinh hướng về trọng tâm nầy.Kinh điển Nhật Bản gọi là "đạo bồ đề"; Kinh điển Trung Hoa dịch là "đại chứng quả". Những ý niệm nầy có điểm tương đồng về mục đích cuối cùng của tu chứng.
Bộ kinh nầy dày đến 14 cuốn, được phân chia làm 123 chương, đại cương trình bày 2 vấn đề chính: vấn đề lý thuyết (50 chương đầu) và vấn đề thực hành (73 chương). Tuy nhiên hai phần bổ sung cho nhau và vấn đề nghiên cứu phải đi từ đầu.
Những vấn đề căn bản của kinh Đại Nhật:
Nghiên cứu những vấn đề chính trong kinh Đại Nhật, phải đi từng phẩm một. Những phẩm nầy có những liên hệ với nhau. Hành giả phải tiến theo từng bước. Có theo trình tự, mới quán triệt ý nghĩa. Không thể tách từng phần để hiểu ngang và điều nầy là chướng ngại trong học đạo và tu trì.
Những phẩm chính là:- Pháp Tam mật- Chứng ba kiếp- Sáu Vô úy- Đàn pháp Mạn Đà La.
Mỗi phẩm lại còn chia thành nhiều vấn đề nhỏ. Đại Phật Kinh kiến giải bằng mật ngôn, nên gây trở ngại không ít về dịch thuật. Thành thử nhiều tác giả đã hiểu sai lầm hay sơ sót, thiếu nghĩa. Ngài Long Thọ, vị Bồ Tát đã được truyền thụ đầu tiên và nhiếp định kinh nầy đã nhận thức rằng: " Hành giả! Đại Nhật Kinh vốn là vua trong Đại Thừa; trong giáo lý Mật Tông, đây là những lời Tối Mật". Thành thử trong những bản văn nghiên cứu Kinh Đại Nhật ở Trung Hoa và Nhật Bản, vì hiểu được tánh chất của Mật ngôn, thường khởi đầu bằng câu "Có thể hiểu như vầy", để tỏ rõ sự hiểu biết giới hạn về từng câu kinh của Đại Nhật.
Pháp Tam mật:
Tam mật gồm có Thân mật, Ngữ mật và Tâm mật. Phàm người tu hành theo kinh điển nầy phải dùng đến 3 phương tiện tối mật nầy để tạo thanh tịnh cho 3 Nghiệp là Thân Nghiệp, Khẩu Nghiệp và Ý Nghiệp. Nhờ đến cố gắng để bảo vệ 3 Nghiệp, sẽ nhận được sự gia trì do Tam mật của đức Như Lai. Thành tựu được pháp môn nầy sẽ được đắc quả Giải thoát, Giác Ngộ, không phải trải qua nhiều kiếp sống để tu tập cho đủ các hạnh khác.
Chứng ba kiếp:
Bên cạnh pháp môn Tam mật, Giáo lý về ba kiếp,là phần quan trọng trong bộ Kinh nầy. Trong Kim Cang Thừa, tu Thiền Định có thể vượt qua những vọng chấp, thoát khỏi 160 Tâm và các loại phiền não, tức là vượt qua được A Tăng Kỳ Kiếp thứ nhất. Sau đó hành giả vượt qua vọng chấp vi tế của 160 Tâm: đó là ATăng Kỳ Kiếp thứ 2. Sau cùng, nhờ công năng tu hành, vượt qua được những vọng chấp còn lại, vứt bỏ được 160 Tâm, gạt được phiền não, để đạt được Sở Tâm của Trí Tuệ Phật. Nhờ Thiền định, hành giả có thể đẩy xa các phiền não đen tối, các u ám vây quanh, đạt đến sự sáng suốt của Tâm Bồ Đề.
6 Vô Úy:
gồm có Thiện Vô Úy, Thần Vô Úy, Vô Ngã Vô Úy, Pháp Vô Úy, Pháp Ngã Vô Úy và Nhất Thiết Pháp Tự Tánh Bình Đẳng Vô Úy. Trong Thiện Vô Úy, phải giữ vững Ngũ giới, làm 10 điều lành (Thập Thiện), sẽ tránh được những khổ não trong ba cõi ác (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh). Khi thực hành Thân Vô Úy, thì suy tưởng đến sự dơ bẩn của thân, vứt bỏ hết cái Ngã thường tình, trần tục, không còn chấp trước đến cái ngã của mình nữa.
Thực hành Vô Ngã Vô Úy tức là quán tưởng thân xác của mình là chẳng qua là sự kết hợp của Ngũ Uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Thực tập Thiền định để quán tưởng về tự tánh của Tâm, thoát tham, sân, si, tâm không phiền não, thân không kiêu căng, con người vốn chỉ do tứ đại hợp thành. Pháp Vô Úy tức là quán đến ngũ uẩn đều là không, các pháp uẩn đều trống rỗng, các hình tướng đều không có thực. Pháp Vô Ngã Vô Úy là quán về ba cõi do Tâm tạo nên. Ngoài Tâm ta ra, thì không có pháp; khi đó chính Tâm ta cũng rỗng không. Nhờ quán tưởng đến lý vô thường nầy, hành giả sẽ đắc quả Bồ Tát.
Nhờ Thiền định, có thể thấy rõ bản chất của Tâm, đạt được "cái dụng tự tại" của Tâm. Nhất Thiết Pháp Tự Tánh Bình Đẳng Vô Úy giúp ta hiểu rằng: các pháp đều do nhân quả tuần hoàn lưu chuyển mà sanh ra, không hề có tự tánh. Các tánh đều có chung một tự tánh: đó là Không tánh. Phàm những người tu theo hạnh Chơn Ngôn (trì tụng Thần Chú), sẽ đạt được trạng thái thật của Bồ Đề Tâm, vạn vật đều là như huyễn.
Đàn pháp Mạn Đà la trong kinh Đại Nhật
Kinh Đại Nhật còn chỉ rõ những nhận định cần thiết trong việc lập Đàn pháp Mạn Đà La.
Mạn Đà La được thực hiện trong Lễ Quán Đảnh, là hình tượng cao nhất để biểu hiện sự Giác Ngộ, Giải Thoát của chư Phật. Khi thực hiện Mạn Đà La, chỉ có những vị Kim Cang Sư mới đủ khả năng và đạo hạnh để thực hiện. Không thể tùy tiện sáng chế ra Mạn Đà La.Trong lễ Quán Đảnh, dựng Mạn Đà La lên, phải chọn đất và làm lễ Trị Địa (Earth Healing). Lễ Trị Địa nhằm mục đích "thanh tịnh hóa" vùng đất đó trước khi tổ chức Lễ Quán Đảnh. Nhờ vậy, tăng thêm phần uy nghi của cuộc lễ. Sau việc chọn đất là chọn ngày lành. Việc nầy phải lễ kính đến các Địa Thần phù trì.
Như thế việc chọn lấy thời gian và không gian để tổ chức lễ Quán Đảnh, thực hiện đàn pháp Mạn Đà La rất quan trọng. Những vị Đạo sư chủ lễ Quán Đảnh tập trung Thiền định và quán tưởng đến 5 vị Thiền Na Phật (Djinas). Đó là chư vị: Đức Đại Nhật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana) ngự ở trung tâm, đức A Súc Bất Động Như Lai (Aksobhya), ngự ở phương Đông, đức Bảo Sanh Nhật Lai (Ratsa Sambhava) ngự ở phương Nam, đức Vô Lượng Quang A Di Đà Như Lai (Amitabha) ngự ở phương Tây và đức Bất Không Thành Tựu (Amoghasidhi) ngự ở phương Bắc.
Trong đàn pháp nầy thường có rất nhiều loại Mạn Đà La khác nhau, như: Đại Mạn Đà La, Tam Muội Gia Mạn Đà La, Pháp Đại Mạn Đà La,Yết Ma Mạn Đà La. Những Mạn Đà La có thể vẽ bằng những hạt cát có nhuộm màu; có loại được vẽ bằng sơn màu. Những giới tử trong buổi lễ thường được vị Kim Cang Sư chủ lễ trao cho sợi chỉ Kim Cang màu đỏ hay màu vàng. Có người được đón nhận lấy cây xỉ mộc hay đóa hoa khô.. Sợi chỉ màu tượng trưng cho 5 vị Thiền Na Phật. Cây xỉ mộc và đoá hoa khô được gieo vào nơi hành lễ của giới tử. Khi cây xỉ mộc hay đoá hoa khô rơi vào 1 trong 5 phương hướng nào, tương ứng với 5 vị Thiền Na Phật kể trên, thì giới tử đó sẽ nhận vị Thiền na Phật đó làm Bổn Tôn. Sau nầy sẽ thờ cúng và trì tụng vị Thiền Na Phật đó.
Buổi lễ Quán Đảnh được kết thúc bằng lễ Hộ Ma. Hộ Ma có nghĩa là giải trừ các chướng ngại, khai mở Trí Tuệ Thậm Thâm.
0
0
12
Liên Hoa Minh Thiên
Admin
More actions
bottom of page