HÀNH TRÌNH THẦN THỨC ĐI VÀO ÂM GIỚI- BƯỚC NGOẶT CUỘC ĐỜI ĐẾN TÂM LINH VÀ ĐẠO
Tôi sinh ra và lớn lên ở thành phố biển Hải Phòng, nổi tiếng về nạn đầu gấu xã hội đen giang hồ. Nơi người ta có thể giết nhau chẳng vì cái gì cả. Nhưng con người Hải Phòng cũng có điểm hay là đã nói là làm, đã đi là đến và rất coi trọng chữ tín.
Tuổi thơ tôi lớn lên trong đau buồn và nước mắt, kinh tế thiếu đói, 1 năm 365 ngày trừ ngày 1 tết, còn lại tôi luôn sống trong cảnh chửi mắng đánh đập và cha tôi thì rất dữ đòn. Lúc sinh tiền, bà nội tôi thờ tứ phủ tam toà Thánh mẫu và nhà tôi có điện thờ. Do hiếm muộn bà nội tôi phải đi hết chùa nọ phủ kia cầu tự mới sinh được cha tôi. Nhưng không biết là bà có lỗi gì với trời đất không nên cha tôi càng lớn càng ngỗ nghịch. Có lần ông quăng hết cả bát hương thờ mẫu còn ban thờ chẻ làm củi đun. Rồi thì ông cũng lấy vợ, có một điều tôi rất ngạc nhiên là bà tôi, mẹ tôi, và bây giờ là vợ tôi đều tuổi Tuất.
Rồi có một ngày cha mẹ tôi mất cắp 2 chỉ vàng và họ nghi ngờ cho bà tôi. Quá đau đớn vì cõi đời đen bạc, bà thắt cổ tự tử. Trước khi chết bà buông lời nguyền: Tôi một đời lặn lội vì chồng vì con trăm cay nghìn đắng. Vậy mà chồng ruồng rẫy phụ tình tôi bỏ đi theo người khác, con thì bất hiếu khốn nạn. Tôi có tội gì mà trời đất lại đoạ đầy tôi đến vậy. Nay tôi lấy cái chết này trả nợ trời đất, và tôi nguyền cho gia tộc họ Cao sẽ tàn lụi, con cháu sẽ chết đường chết chợ, tuyệt diệt không người nối dõi”. Khủng khiếp thay lời nguyền của con người xấu số đáng thương đó. Bà lại chết đúng vào giờ Tuất, giờ cực linh. Lúc đó có các chư thần đi ngang qua nghe thấy được, và tất nhiên lời kêu cầu của bà ứng nghiệm luôn.
Vài năm sau cha mẹ tôi ly hôn, rồi mẹ tôi chết tan xác trong một trận ném bom mỹ ở bến phà bãi cháy Quảng Ninh. Chị em chúng tôi thì tan đàn xẻ nghé, mỗi người một phương. Cha tôi thì chết vì ung thư vòm họng lúc ông mới 58 tuổi. Bà mẹ kế tôi chết lúc 54 tuổi cũng bị ung thư. Số bà chưa đến lúc chết nhưng khi bà đang nằm đó thì thằng em nghịch tử của tôi từ đâu về buông một câu: sao bà không chết đi cho rãnh nợ. Bà hộc máu mồm và đi luôn nhưng không nhắm mắt. Mãi về sau chị tôi về vuốt mắt bà mới nhắm lại.
Chúng tôi cứ sống vất vưởng lên bờ xuống ruộng mãi cho đến một ngày bà tôi vì quá thương các cháu nên hiện về nhập vào thân chị gái tôi. Bà nức nở vừa khóc vừa kể lại những ân oán tình thù trong gia đình tôi và kết luận, người chết thì cũng đã chết rồi, còn các cháu bà đâu có tội gì đâu mà cứ phải chịu đoạ đày suốt bao năm trời. Bà kể có một lần tôi vì khổ quá nên đã đâm đầu vào ô tô tự tử nhưng bà đã kéo ra nên tôi thoát chết. Bà đề nghị chúng tôi nên mời thầy pháp về lập đàn giải oan cắt kết cho bà. Rồi bà sẽ kêu cầu lên Thiên Đình xin giải lời nguyền để cho chúng tôi một con đường sống.
Lúc đó chúng tôi mời ông Ich một pháp sư cao tay ở Miếu hai xã Dư hàng kênh Hải Phòng đến tiến hành pháp sự. Giữa buổi lễ, cha tôi về nhập vào chị tôi kêu gào thảm thiết cầu xin ông bà tôi tha tội bất hiếu, và nói rằng thân thể rất đau đớn. Theo tôi phỏng đoán có lẽ lúc chết ông đã bị đoạ địa ngục và bị tra tấn dã man.
Sau này khi biết đến đạo Phật, hàng ngày tôi luôn trì chú niệm Phật tụng kinh rồi hồi hướng cho ông mong rằng ông sẽ thoát khỏi cảnh đoạ đày. Khi viết đến đoạn này thì cả người tôi tóc gáy dựng đứng cả lên.
Đầu năm 2007 tình cờ một lần tôi đến nhà cô đồng Vang ở khu Xi măng Thượng lý xem bói xem hậu vận mình ra sao. Nhà cô thờ tứ phủ Tam toà thánh mẫu và lúc đó là lúc sự nghiệp của cô lên đến đỉnh điểm. Trong khói hương nghi ngút nơi chính điện, tôi thầm cầu xin Mẫu cho tôi được biết hậu vận của mình. Có lẽ lời kêu cầu của tôi đã lọt đến tai Mẫu lên đệ nhất thánh mẫu thượng thiên đã giáng phàm nhập vào cô đồng Vang.
Mẫu cho tôi biết số tôi có con nhưng vì tôi ham chơi chẳng nghĩ gì đến tổ tiên nên tổ tiên phạt. Cũng đúng thật, cả đời tôi chẳng bao giờ thắp được một nén hương cho gia tiên, nói gì đến trời Phật. Và Mẫu dặn tôi phải lấy đất đình, đất chùa, đất ngã ba quê hương về đắp vào mộ ông tứ đại thì sẽ có con như ước nguyện.
Tuân theo lời dặn của Mẫu, tôi thỉnh một nắm đất ở đền Nghè, một nắm đất ở chùa Hàng, một nắm đất ở Nam định quê tổ của tôi đắp vào mộ ông tứ đại, đó cũng là lần đầu tiên tôi biết đến ông bà tổ tiên, đánh dấu một bước tiến chân vào cửa huyền môn về sau, và thật là kì diệu, 1 tháng sau vợ tôi có thai .
Khi vợ tôi đậu thai được 3 tháng tôi quyết định lại về cô đồng Vang hỏi xin ý kiến về tương lai. Cô yêu cầu tôi phải đi đến đền Bảo Lộc, Kiếp Bạc, Cửa Suốt để tạ đức thánh Trần. Vì chính ngài là người trông nom bản mệnh của tôi. Tôi có con cũng là nhờ ngài phù hộ, và thế là tôi lên đường hành hương tới các địa chỉ trên.
Đền Kiếp Bạc vào đầu tháng tư âm rất vắng vẻ, các thầy đồng xem bói tướng số còn đông hơn cả khách, họ ngồi ngáp ngắn ngáp dài, mắt sáng rực mỗi khi có một một đoàn khách đến, các loại cò mồi lao nhao giành giật chèo kéo om xòm.
Lúc 17h chiều xe ôm đưa tôi đến kiốt của vợ chồng Hải Dung trước cửa đền Kiếp Bạc chuyên bán vàng mã sắp lễ cho khách hành hương. Họ đón tiếp tôi rất thân tình. Lấy cớ là chiều đã muộn nên tôi muốn để sáng mai lễ cho thoải mái thời gian. Vả lại tôi cũng muốn tham quan một vòng quang cảnh đền xem bố cục thờ cúng thế nào.
Sau khi tham quan một vòng khi trở ra bỗng nhiên tôi như một người khác lạ. Đầu óc quay cuồng mông lung u minh như không phải mình nữa. Hình như đang có thêm một ai đó ở trong tôi. Tôi đang đi trong trạng thái vô định trước tam quan thì một bà già, chắc là cò mồi tôi đoán thế, tiến về phía tôi thì thầm: “này cậu, ở đây có một thầy bói bói hay lắm, cậu có muốn xem một quẻ không tôi chỉ cho”- “Ừ thì xem”.
Ông thầy bói cỡ 70 tuổi trông cũng đạo mạo, quần áo khăn xếp chỉnh tề, trong hoàn cảnh đầu óc mông lung tôi cũng chẳng biết là ông đang phán cái chi nữa. Cái mà tôi nhớ nhất là khi ông bảo: “này cậu, bây giờ tôi sẽ viết một lá điệp văn cho cậu đem vào trình đức ông cho nhẹ căn nhẹ quả nhé”, thì bỗng nhiên tôi đứng phắt dậy chỉ tay vào mặt ông quát lớn: “nhà ngươi là ai, ngươi là cái thá gì mà dám đòi thảo sớ cho ta?”
Quá sững sờ và không tin vào mắt mình, ông thầy gỡ kính lão đứng dậy hỏi tôi: “Ông là ai, ông từ đâu đến mà dám làm loạn nơi đây. Ông có biết là tôi đã ngồi đây viết sớ đã 30 năm nay và được chính quyền công nhận không. Tôi vô thức trả lời: “Ông đừng đem tuổi tác và chính quyền ra doạ tôi, xét về đạo hạnh ông không thể viết sớ điệp cho tôi nghe rõ chưa, giờ thì tôi cũng chẳng biết tôi là ai nữa, nhưng sáng ngày mai, sau khi cúng lễ đức thánh Trần xong, lúc rời khỏi đền tôi sẽ cho ông biết tôi là ai.”
Một làn gió lạnh thổi qua, bỗng tôi giật mình tỉnh lại. Tôi vừa nói gì thế nhỉ? Trong đầu tôi biết chắc rằng có một vị nào đó vừa mượn mồm tôi để trêu chọc ông cụ. Nhìn nét mặt ông thầy tái dại đi vì sợ hãi và đám đông đang hiếu kỳ đứng xung quanh. Tôi bỗng thấy bối rối, rút vội tờ 20 nghìn đưa vào tay ông thầy kèm theo lời xin lỗi. Tôi đi thẳng về phía kiốt vợ chồng Hải Dung.
Đêm đó tôi ngủ lại ở nhà vợ chồng Hải Dung. Ngôi nhà này cũng ngay gần sát đền Kiếp Bạc. Mỏi mệt vì chuyến đi xa nên tôi chìm vào giấc ngủ rất nhanh. Đến khoảng 3h sáng, tôi bỗng mở mắt. Có một cái gì đó thúc đẩy tôi ra bàn viết và tôi viết một loạt sớ để ngày mai trình lên cửa đức thánh Trần. Có điều lúc đó tôi chưa phải là thầy bà gì, nhưng những tờ sớ tôi viết ra rất đúng quy cách.
Đến 6h sáng vợ chồng Hải Dung dậy, họ rất ngạc nhiên khi thấy tôi ngồi đó không ngủ. Sau khi uống vài chén trà sáng, tôi giục họ ra đền sớm. Linh cảm có một chuyện gì sắp xảy ra với mình, tôi bỗng buột miệng dặn dò hai vợ chồng: “này các em, nếu tí nữa ra đền nếu chẳng may có chuyện gì xảy ra với anh thì các em đừng sợ, cứ để mặc kệ mọi chuyện xảy ra tự nhiên, anh sẽ vượt qua được”. Hai vợ chồng trố mắt ra nhìn tôi, nhưng vốn quen với cảnh đồng bóng diễn ra hàng ngày ở xung quanh đền nên họ cũng chẳng ngạc nhiên gì.
Lúc chúng tôi ra đến cửa đền trời vẫn còn sớm, các kiốt đang lác đác mở cửa. Không hiểu sao tim tôi ngày càng đập mạnh, một không khí nặng nề ngày càng bao phủ lấy thân tôi. Tôi đang cảm nhận bước chân tử thần đang tiến sát. Trời buổi sớm hơi se lạnh, trong lòng tôi cũng lạnh, bước chân tôi trở nên run rẩy, tôi gần như khuỵ xuống. Dừng lại trước một cửa hàng bún miến ngan, Hải mời tôi vào ăn sáng. Nhưng tôi không muốn ăn. Trước khi vào tiến cúng tôi muốn được chay tịnh. Nhưng do Hải mời mọc quá nhiệt tình nên cuối cùng tôi đề nghị bà chủ hàng làm cho một bát bún không người lái -không hành không gia vị.
Đồ ăn vừa lọt vào miệng được 5 phút tự nhiên tôi cảm thấy người nôn nao khó chịu. Tôi chỉ kịp buột miệng: “Thôi chết rồi Hải ơi, các ngài cấm không cho ăn trước khi làm lễ, vậy mà anh lại ăn vào”. Cố gắng chạy về đến kiôt của vợ chồng Hải tôi nôn thốc nôn tháo hết tất cả những gì vừa ăn ra khỏi mồm. Hình như có ai đang vặn xoắn ruột gan bao tử tôi, đẩy hết đồ ăn chay mặn trong người ra hết. Bụng dạ tôi trống không, phút chốc tôi không còn là mình nữa. Bầu trời chao đảo xám xịt, tôi đang sắp dần hôn mê. Khuôn mặt tôi vốn ngày hôm qua hồng hào là thế, giờ tái xám, đen kịt. Hai tròng mắt nhắm chặt, tử thần đã đến sắp đem linh hồn tôi đi. Mở vội cửa quán, dìu tôi vào trong vợ chồng Hải kêu gọi khẩn cấp: mọi người mau gọi pháp sư tới đây cúng ngay cho người này, người này sắp bị bắt đồng rồi.
Cố gắng gượng bằng hơi sức cuối cùng tôi thì thào: “Các em không cần phải gọi thầy nào đâu, anh chính là vị thầy có pháp lực và đạo hạnh cao nhất nơi đây rồi, không vị nào có thể kêu cầu được cho anh ngoại trừ chính anh, anh sẽ qua được, chỉ xin đừng di chuyển thân xác anh đi đâu cả!” Về sau, khi nghe mọi người kể lại, tôi rất ngạc nhiên về câu nói đó, vì lúc đó tôi mới chỉ là một người bình thường không hề biết gì đến cúng bái và tâm linh.
Bên ngoài mọi người vẫn lao xao khẩn cấp sắp lễ, hối hả đón thầy. Nhưng khi có thầy đến thì tôi đã hoàn toàn bất tỉnh. Tôi chỉ cảm thấy sầm một cái, trước mắt tôi vàng úa một màn đêm đen kịt bao trùm hoàn toàn trước mắt tôi. Rồi tôi thấy hồn tôi tách ra khỏi thân xác tôi lúc đó đang ngồi yên lặng mắt nhắm chặt hai tay kết ấn. Quang cảnh khu vực sân đền Kiếp Bạc đã thay đổi hoàn toàn, đất đai bằng phẳng và có một cái cây rất to đứng trơ trọi. Rồi tôi thấy một vị quần chùng áo the thâm hối hả giục người làm: “Mau vào sổ trình báo tên tuổi người này cho họ nhập tịch”. Bỗng nhiên tim tôi nghẹn ngào, vậy là tôi đã chết thật rồi ư? Một nỗi buồn đau khôn tả xâm chiếm cõi lòng tôi, tôi không còn được gặp người thân và gia đình vợ con tôi nữa rồi. Bỗng nhiên trước mắt tôi sáng loà, xuất hiện từng đoàn quân lính, áo chẽn đỏ, chân quấn xà cạp, đầu đội nón chóp đỏ, gươm giáo sáng loà đi như trẩy hội.
Rồi thủy quân trên sông thuyền bè đi lại như lau lách. Voi kêu ngựa hí, một trận đại chiến sắp xảy ra tới nơi. Mãi sau này tôi mới biết rằng đó chính là cuộc chiến đại phá quân xâm lược Nguyên Mông dưới sự lãnh đạo của đức thánh Trần Hưng Đạo đại vương.
Rồi tôi thấy mình đang ở bên bờ sông mục kích cuộc chiến vô tiền khoáng hậu. Súng thần công nổ rung trời dậy đất. Tên bay dậy trời. Từng đoàn thuyền nhỏ của quân đội nhà Trần lao vun vút trên sông, tiến công đoàn tàu chiến mui bằng với các lá buồm rách tả tơi của quân Nguyên Mông đang từ từ chìm nghỉm. Máu loang nhuộm đỏ dòng sông. thây người chết lập lờ trên sông, lửa cháy ngút trời, tiếng gào thét, tiếng kêu kinh hoàng của những kẻ bạc mệnh xấu số trước khi từ giã cõi đời tạo nên một âm thanh khủng khiếp.
Rồi tôi được diện kiến đức đại vương Trần Hưng Đạo. Ngài khoác áo bào đỏ loang lổ vệt đen của cát bụi trận chiến. Khuôn mặt Ngài quắc thước hình trái xoan toát lên vẻ nghiêm nghị. Về sau tôi chưa từng thấy bức tượng nào trên trần thế diễn tả được đúng dung diện Ngài. Ngài truyền phán cho tôi rất nhiều điều nhưng khi tỉnh lại tôi chỉ nhớ mang máng được một số điều như: bây giờ là lúc âm thịnh dương suy, trần gian sắp loạn, ngày hôm nay cho con xuống đây tiếp kiến để về sau chúng ta sẽ có việc giao cho con.
Rồi hồn tôi vơ vẩn phiêu dạt đi tiếp, tôi gia nhập vào cùng một đoàn người đi mãi đến một dòng sông rồi đi qua một cây cầu bắc ngang qua sông mờ mịt sương khói. Có một điều kì lạ là chỉ có dòng người đi sang bên kia sông chứ không có người quay trở lại. Về sau tôi mới biết đó là cầu Nại Hà chỉ dành cho người chết, mà người đã chết thì một đi không trở lại bao giờ.Rồi thì theo đoàn người tôi cũng sang bên kia sông. Bên kia sông có một dãy nhà chia ra làm nhiều khu. Có một đám đầu trâu mặt ngựa tay cầm sớ đọc tên rồi phân loại mọi người đi vào từng khu một. À, thì ra đây chính là Âm phủ đây sao? Nhớ lại mấy ngày trước khi đi hành hương với anh chị tôi, tôi có nói đùa: "Chỗ nào em cũng đi rồi, chỉ có Âm phủ là em chưa được đi thôi, ước gì em được xuống đó một lần rồi quay về kể cho mọi người thì hay lắm nhỉ!” , Ông anh rể cứ trố mắt nhìn tôi một cách kinh ngạc ? Giờ thì tôi không cần phải ước nữa, tôi đang ở dưới âm phủ hay một chỗ đại loại như thế.
Đoàn người đẩy tôi dần đến trước hai tên đầu trâu mặt ngựa. Rõ ràng thân là thân người mà cái đầu lại là cái đầu trâu. “Tên gì?”- một người hỏi tôi. Sau khi tôi xưng tên thì hai người đó rất sửng sốt. Họ xem đi lục lại cuốn sổ mà không có tên tôi. Cuối cùng họ thưa bẩm lên chư vị cấp cao hơn.
Rồi thì cuối cùng cũng có một vị đến và cho biết tôi vì có căn duyên với các Ngài nên ngày hôm nay cho xuống đây để biết về luân hồi nhân quả. Ngày sau các ngài sẽ có việc cần dùng đến. Nói rồi ngài dẫn tôi đi tham quan một vòng dưới đó. Nhưng khi được hồi tỉnh dậy tôi chẳng nhớ gì hết về việc đó cả. Sau đó tôi được dẫn đến một gốc cây bồ đề thân vàng lá bạc, toả sáng lấp lánh. Có một ông cụ râu dài tóc bạc ngồi đó. Theo cái hiểu của tôi thời điểm đó thì hình như cụ là một vị pháp sư dưới cõi âm, nhưng mà thật ra đó là một vị bồ tát. Cụ nói với tôi: “Con xét về hình tướng đi lại thì nghiêng lệch, môi mỏng mồm nhỏ, tai mỏng nhân trung cạn, mắt mất thần, khí số đã tuyệt. Nhưng vì một căn duyên của trời đất, nên hôm nay con được sống lại. Khi lên trần gian nhớ tìm thầy theo học nghề pháp sư và đi theo con đường đạo , sống đến 93 tuổi, nhớ không được tham lam của cải thế gian và phải hành thiện tích phúc giúp đỡ Âm Dương chúng sinh. Bây giờ ta cho con nhìn thấy cuối đời con như thế nào.
Thật là kì lạ, tôi thấy gia tộc nhà tôi nhiều đời chìm đắm trong u tối bể khổ không ngóc đầu lên được. Rồi tôi xuất hiện như một ánh dương xoá tan hết u tối làm cho gia tộc tôi từ đây phát dương quang đại.
Tôi nhìn thấy hình ảnh cuối đời tôi là một vị pháp sư đức cao trọng vọng, mặc bộ quần áo nâu khoác chéo một chiếc túi dết đang đứng cô đơn giữa sân đền Kiếp Bạc bên cạnh một cây cổ thụ đứng chơ vơ giữa bầu trời xám xịt.
Một lúc sau khi linh ảnh tan dần, tôi thấy chị tôi từ đâu nước mắt lưng tròng đến đón tôi về. Tôi từ giã cụ pháp sư. Cụ mỉm cười tạm biệt tôi và dặn tôi phải nhớ những gì cụ dặn ngày hôm nay. Cụ còn nói thêm từ nay trời đất đã cho con một cái tên mới là Minh Thiên con sẽ dùng cái tên này đi suốt cuộc đời hành đạo. Vậy là từ đây tôi có một cái tên họ đầy đủ là Cao Minh Thiên. Một lát sau hồn tôi nhập trở về xác. Tôi nặng nề cố mở mắt nhìn ra, thân xác tôi rã rời đau đớn và vẫn trong tư thế ngồi kiết già, hai tay kết ấn để trên đầu gối. Trời đã chuyển về chiều, lúc này là 16h, tôi bị hôn mê lúc 7h sáng. Vậy là đã qua 10 tiếng hôn mê bất tỉnh. Vợ chồng Hải Dung vô cùng mừng rỡ. Họ cho biết lúc tôi bất tỉnh mọi người xung quanh đều khuyên họ đi báo công an và đưa tôi đi bệnh viện. Nhưng nhớ lời dặn của tôi nên họ kiên quyết không làm theo mà cứ chờ tôi tỉnh lại. Với lại 2 năm về trước vợ chồng họ cũng gặp 1 người tên Huy ở Hà Nội có trường hợp tương tự như tôi. Nhưng không nặng nề khủng khiếp như tôi. Người ấy cũng qua được và về sau trở thành một pháp sư đồng thầy trong giới thầy bà ở Hà nội và các tỉnh miền bắc. Lúc 16h15' anh chị tôi đánh xe ôtô lên tới nơi đón tôi về, kết thúc cuộc hành trình mệt mỏi
. Về sau mỗi lần tôi lên Kiếp Bạc là mọi người ở đó đều nhớ mặt tôi nhớ đến một con người đã vượt qua cửa tử hồi sinh trở lại.
Sau chuyến đi đền Kiếp Bạc trở về, tâm tính tôi bắt đầu thay đổi hẳn. Tôi không còn chơi bời rượu chè nữa. Tôi bắt đầu đi tìm thầy để học về Tâm linh. Rồi tôi phát hiện ra mình có khả năng gọi vong. Đầu tiên là gọi vong cho người nhà, rồi dần dần cho người ngoài. Mỗi lần gọi là một lần rút kinh nghiệm. Vui có buồn có thành công có mà thất bại cũng có. Nhưng giờ đây, tôi biết rằng luôn có một thế giới người âm hiện hữu quanh ta. Một phần nào tác động vào cuộc sống của chúng ta và chứng kiến từng hành động lời nói việc làm thiện ác đúng sai nơi ta. Và cuộc hành trình đi xuống Âm giới này là bước ngoặt đầu tiên dẫn dắt tôi đi vào con đường tâm linh, để rồi tiếp đến bước thứ hai là hướng tâm vào con đường đạo, nương theo sự gia hộ của siêu hình đem pháp phật chia sẻ với người hữu duyên tạo dựng công đức trong kiếp nhân sinh này.
Minh Thiên.