Không Được Vụ Lợi Làm Thầy
Phật tử nếu giáo hóa cho người phát sinh đức tin đại thừa rồi, mình là Bồ tát làm vị pháp sư chỉ bảo cho người, thì thấy người ấy muốn thọ Bồ tát giới, mình phải chỉ bảo cách thỉnh hai vị đại sư là hòa thượng và xà lê. Hai vị đại sư phải hỏi người ấy có hay không có phạm bảy tội nghịch là bảy tội cản trở sự thọ và được Bồ tát giới. Nếu thân hiện tại phạm bảy tội nghịch thì vị pháp sư không được cho người ấy thọ Bồ tát giới; nếu không phạm bảy tội nghịch thì được cho họ thọ. Nếu người nào phạm mười giới pháp nặng thì phải chỉ bảo người ấy sám hối bằng cách đối trước hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát, ngày đêm sáu buổi tụng mười giới pháp nặng và bốn mươi tám giới pháp nhẹ, cực kỳ khẩn thiết lễ bái ba ngàn đức Phật thuộc ba thì gian quá khứ hiện tại và vị lai, cầu cho thấy được tướng tốt. Dầu một lần bảy ngày hay ba lần bảy ngày, cho đến một năm, cũng phải làm sao cho thấy được tướng tốt. Tướng tốt là thấy được Phật đến xoa trên đỉnh đầu, thấy ánh sáng của Phật, thấy hoa sen của Phật, hoặc thấy các tướng kỳ lạ khác, thì tội lỗi tức thì tan biến. Nếu không thấy được những tướng tốt như vậy thì dẫu sám hối cũng không có cái ích lợi làm cho người ấy thân hiện tại được lại giới pháp, nhưng có cái lợi ích thọ lại giới pháp ấy. Nếu ai phạm bốn mươi tám giới pháp nhẹ thì chỉ bảo người ấy sám hối bằng cách đối diện mà phát lộ, thì tội lỗi tức thì tan biến. Phạm giới nặng hay nhẹ đều không như bảy tội nghịch. Làm pháp sư chỉ bảo thì trong các cách trên đây nhất nhất phải thấu hiểu. Nếu không thấu hiểu sự đúng sai và tội nặng nhẹ của giới pháp đại thừa, không lý giải đệ nhất nghĩa đế, tập chủng tánh, trưởng dưỡng tánh, bất hoại tánh, đạo chủng tánh, chánh pháp tánh, trong tất cả các tánh của Bồ tát vị như vậy không thấu rõ quán hạnh nhiều ít và ra vào như thế nào, cho đến mười thành phần thiền định và bao nhiêu quán hạnh khác, cũng nhất nhất không thấu hiểu nghĩa ý trong đó; mà, là Bồ tát, lại vì quyền lợi, vì danh vọng, vì ham hố đồ đệ với tâm lý ham cầu xấu xa và quá đáng, làm ra như thấu hiểu tất cả, thì ấy là tự lừa dối mình lại lừa dối kẻ khác. Vậy mà cố ý truyền Bồ tát giới cho người thì phạm tội khinh cấu.
Giới này nối tiếp các giới 16, 40, nhất là giới 23, răn dạy cách làm pháp sư. Pháp sư này trước đây đã gọi là pháp sư đại thừa, pháp sư bồ tát, nay đây gọi là pháp sư chỉ bảo. Pháp sư chỉ bảo là đại sư giáo thọ. Nhưng sự chỉ bảo này không phải chỉ có lúc sắp thọ giới hay lúc thọ giới, mà là trước nữa, phải giáo hóa làm sao cho người có thể thọ và giữ Bồ tát giới. Giới 41 này gần như tổng hợp cách làm pháp sư như vậy. Cách ấy có 4: một, dạy cho người phát sinh đức tin đại thừa, hai, dạy cách thọ giới, ba, dạy cách sám hối phạm giới, bốn, thấu hiểu về Bồ tát giới và Bồ tát vị.
Một, dạy cho người phát sinh đức tin đại thừa là tin mình sẽ làm Phật. Nhưng nói như vậy là nói tắt về những sự khác nữa, ấy là dạy cho người biết đại thể về Bồ tát giới, dạy cho người có chí nguyện và khả năng để thọ và giữ giới ấy, như đã nói trong các giới nhẹ trước liên quan đến những việc này.
Hai, dạy cách thọ Bồ tát giới. Là xét và không truyền giới ấy cho người phạm 7 tội nghịch, nhưng càng phải giáo hóa sao cho người này có những cái phước khác. Còn ai không phạm 7 tội nghịch thì cho thọ Bồ tát giới bằng cách dạy thỉnh 2 vị đại sư hòa thượng và đại sư xà lê. Nhưng xét Phạn võng (giới 23) Anh lạc (Chính 24/1020) Thiện giới (Chính 30/1014) Du dà (Chính 24/1104) và Địa trì (Chính 30/912) đều thấy Bồ tát giới chỉ do 1 vị thầy truyền thọ. Chính 1 vị thầy ấy, trước khi truyền giới thì làm pháp sư chỉ bảo, khi truyền giới thì làm 2 nhiệm vụ đại sư hòa thượng và đại sư xà lê. Giới văn nói chỉ bảo cách thỉnh 2 vị đại sư là hòa thượng và xà lê, là vị thầy chỉ bảo cho người xin thọ giới biết cách thức thỉnh mình làm cả 2 nhiệm vụ hòa thượng và xà lê mà truyền giới cho người ấy. Giới văn nói 2 vị đại sư phải hỏi người ấy có hay không có phạm 7 tội nghịch, là vị thầy ấy, bây giờ, với tư cách hòa thượng và xà lê, hỏi để xác định người xin thọ giới có hay không có phạm vào những tội cản trở sự thọ giới và sự được giới. Việc này giới 40 đã hỏi, nhưng hỏi để tra xét, nay chỉ hỏi theo nghi thức. Nghi thức mà 1 vị thầy phải nói và phải làm trong việc kiết ma truyền Bồ tát giới thì Chính 24/1104 và 1105 chỉ dẫn rất rõ. Nhất là lời kiết ma, xin lược dịch như sau: Vị thầy truyền giới đối trước tượng Phật lạy và bạch, rằng kính bạch vô lượng Phật đà và Bồ tát hiện tại vô lượng thế giới, hiện thời ở đây có bồ tát tên XX, đối trước con là bồ tát XX, 3 lần nói thọ Bồ tát giới, con đã tác chứng cho. Con thỉnh cầu vô lượng Phật đà và Bồ tát cũng tác chứng cho bồ tát XX thọ Bồ tát giới. Bạch lần thứ 2 và lần thứ 3 cũng như vậy. Như vậy là kiết ma thọ Bồ tát giới được hoàn tất (chính 24/1105). Thế nhưng đối với câu "thỉnh 2 vị đại sư", các vị chú thích có nhiều ý kiến, xin tóm tắt ghi lại như sau. Có vài người lướt qua, rõ ràng có ý thận trọng; có vài ba người nói vị pháp sư chỉ cách thỉnh đức Thích ca làm hòa thượng, thỉnh mình làm xà lê; có người nói chỉ cách thỉnh mình làm hòa thương, thỉnh 1 vị khác là kiết ma xà lê; có người nói mình làm giáo thọ xà lê, chỉ cách thỉnh đức bổn sư Thích ca làm hòa thượng, chỉ cách thỉnh đức đương lai Di lạc làm xà lê. Ấy là chỉ kể những ý kiến đáng chú ý. Những ý kiến này gợi lên sự xét lại cách truyền Bồ tát giới. Cách ấy trong lý thuyết và thực tế thấy có 2. Thứ nhất là cách 1 thầy truyền cho 1 trò. Cách này nên lấy sự chỉ dẫn của luận Du dà làm chính (Chính 24/1104-1105). Tham khảo thì có thể coi thêm Vạn 59/197A và 198B. Đặc biệt nếu truyền cho cận sự nam và cận trú nam theo Ưu bà tắc giới kinh thì có thể làm theo kinh ấy (Chính 24/1047-1049). Thứ hai là cách tổ chức giới đàn truyền cho nhiều người như nghi thức hiện hành, thì có 2 lớp tam sư thấy được và không thấy. Lớp tam sư không thấy là đức Thích ca làm hòa thượng, đức Văn thù làm kiết ma, đức Di lạc làm giáo thọ; lớp này căn cứ kinh Thiện giới và Phổ hiền, và "từ lớp này mà được giới là do sức trợ phát của đức Phổ hiền" (Chính 62/246). Lớp tam sư thấy được là hòa thượng, kiết ma và giáo thọ trong giới đàn; lớp này dạy thỉnh và đứng thỉnh lớp trước kiết ma hoàn tất. Cách truyền giới 1 thầy 1 trò có cái ưu điểm là nghĩa vụ của vị thầy rất quan trọng cho người thọ giới, còn cách truyền giới trong giới đàn thì nhược điểm ở chỗ thọ giới rồi thầy trò hầu như chẳng còn biết gì đến nhau nữa.
Ba, dạy cách sám hối phạm giới. Trước hết, phạm 7 tội nghịch thì đời này không được thọ Bồ tát giới, còn gì nữa mà nói đến sám hối. Nếu thọ Bồ tát giới rồi mới phạm 7 tội nghiểch thì đời này mất giới pháp ấy, không thể sám hối để được lại hay thọ lại gì hết. Nhưng nói không thể sám hối là đối với giới pháp, chứ sự sám hối về 7 tội nghịch thì vẫn có. Đó là chuyện A xà thế vương sám hối tội giết cha, ngay trong thời Phật còn và được ngài chấp nhận (Chính 1/109). Làm vị pháp sư thì phải biết như vậy để đừng ruồng bỏ người phạm tội nghịch, làm họ tuyệt vọng, lại phủ nhận năng lực Phật pháp đối với tội ấy.
Ngoài kẻ phạm 7 tội nghịch, ai cũng có thể thọ và được Bồ tát giới. Nhưng thọ và được rồi, nếu phạm 10 giới nặng thì vị pháp sư dạy cho họ phải sám hối thấy tướng tốt mới được phục hồi giới pháp, khỏi phải thọ lại. Sám hối mà không thấy tướng tốt thì được thọ lại , vì người này không phạm 7 tội nghịch. Giới văn nói nếu không thấy được những tướng tốt như vậy thì dẫu sám hối cũng không có cái ích lợi làm cho người ấy thân hiện tại được lại giới pháp, nhưng có cái ích lợi thọ lại giới pháp ấy, chính văn là nhược vô tướng hảo, tuy sám vô ích, thị nhân hiện thân diệc bất đắc giới, nhi đắc tăng ích thọ giới. Tăng ích thọ giới, có bản chỉ chép tăng thọ giới, có nghĩa là thọ giới lại. Câu chính văn này có nhiều ý kiến. Ý kiến có nhiều nhất, điển hình như ngài Pháp tạng (Vạn 60/100A) là sám hối thấy tướng tốt thì phục hồi giới pháp, không cần thọ lại, còn sám hối không thấy tướng tốt thì không phục hồi giới pháp nhưng được thọ lại giới pháp ấy. Có vài ý kiến thêm chữ "sau này" vào trước chữ thọ lại, có 1 ý kiến thêm chữ "đời sau". Ý kiến như chính văn là đời này có thể thọ lại, ý kiến thêm chữ sau này là đời này hay đời sau có thể thọ lại, ý kiến thêm chữ đời sau là đời sau mới thọ lại. Nay xét thọ Bồ tát giới là xuất gia hay tại gia thọ giới ấy, vậy Bồ tát giới tùy thuộc Tỷ kheo giới và tại gia giới. Như vậy, sự phạm giới nặng, nhất là phạm cả 3 phần da hành, căn bản và hậu khởi của mỗi giới, thì dẫu nói Bồ tát giới có thể sám hối mà phục hồi hay thọ lại đi nữa, tỷ kheo giới và tại gia giới cũng không có cái sự phục hồi hay thọ lại ấy. Trên lý thuyết, nếu có trường hợp chỉ thọ Bồ tát giới thì được thọ lại hay không, thọ lại trong đời này hay đời sau, phải hoàn toàn do vị pháp sư bồ tát, vị thầy rất xứng đáng, có trách nhiệm quyết định, như đã quyết định lúc mới cho họ thọ.
Sau hết, ai phạm 48 giới nhẹ thì dạy cho họ sám hối theo cách đối diện bộc bạch mà sám hối là được tiêu trừ. Cách này luận Du dà (Chính 24/1106) cũng dạy rất rõ. Đối diện, chính văn là đối thủ, có nghĩa đối diện, giáp đầu mặt mà bộc bạch sám hối. Có người đọc đối thú, có nghĩa đối diện mà thú tội, ý nghĩa như đọc đối thủ. Phạm giới nặng hay nhẹ đều không như 7 tội nghịch, sát chính văn thì chỉ "không như 7 tội nghịch", nên phải bổ túc như trên.
Bốn, thấu hiểu về Bồ tát giới và Bồ tát vị. Thấu hiểu về Bồ tát giới là hiểu làm như thế nào thì đúng, làm như thế nào thì sai, phạm như thế nào thì nặng, phạm như thế nào thì nhẹ, lại còn phải hiểu lý do và nội dung của Bồ tát giới, hiểu cách truyền thọ, cách lãnh thọ và cách sám hối. Thấu hiểu về Bồ tát vị là hiểu căn bản của Bồ tát vị, hiểu chủng tánh của Bồ tát vị, hiểu pháp hạnh của Bồ tát vị. Căn bản của Bồ tát vị là đệ nhất nghĩa đế, tức Phật tánh, cũng gọi là thật tướng bát nhã. Chủng tánh của Bồ tát vị thì kinh Anh lạc nói có 6, và phối hợp rõ như sau: 1, tập chủng tánh là 10 trú, 2, tánh chủng tánh là 10 hạnh, 3, đạo chủng tánh là 10 hướng, 4, thánh chủng tánh là 10 địa, 5, đẳng giác tánh là đẳng giác, 6, diệu giác tánh là diệu giác (Chính 24/1012). Còn ở đây, kinh Phạn võng nói thì ngài Pháp tạng chép có 5 và phối hợp như sau: 1, tập chủng tánh là 10 phát thú (10 trú), 2, trưởng dưỡng tánh là 10 trưởng dưỡng (10 hạnh), 3, bất hoại tánh là 10 kim cang (10 hướng), 4, đạo chủng tánh là 10 địa, 5, chánh pháp tánh là Phật địa (Vạn 60/99B-100B). Nay xét chính văn Phạn võng và Anh lạc, thấy 10 trú 10 hạnh và 10 hướng thì 2 kinh ấy và thông thường nói như nhau, "ý nghĩa thì đồng, danh từ thì khác" (Trí húc, Vạn 60/314A). Nhưng 10 địa thì Anh lạc cũng như thông thường tách đẳng giác và diệu giác ra làm 2 chủng tánh nữa; còn 10 địa trong Phạn võng thì xét thấy bao gồm cả 10 địa và 2 giác. Vậy nên phối hợp lại như sau: một, tập chủng tánh là 10 phát thú (10 trú), hai, trưởng dưỡng tánh là 10 trưởng dưỡng (10 hạnh), ba, bất hoại tánh là 10 kim cang (10 hướng), bốn, đạo chủng tánh và 5, chánh pháp tánh là 10 địa (10 địa và 2 giác). Ý nghĩa 5 danh từ Bồ tát tánh và 4 danh từ Bồ tát vị như trên có thể lược giải như sau. Một, tập chủng tánh: phẩm cách luyện tập, là xuất phát đi mau đến (phát thú), nghĩa là vững vàng trong Bồ tát vị (trú). Hai, trưởng dưỡng tánh: phẩm cách bồi dưỡng, là bồi dưỡng hơn lên nữa (trưởng dưỡng), nghĩa là đi tới về Bồ tát vị (hành). Ba, bất hoại tánh: phẩm cách kiên cố, là kiên cố như kim cương (kim cang), nghĩa là đã hướng đến chân như (hướng). Bốn, đạo chủng tánh: phẩm cách bát nhã, và Năm, chánh pháp tánh: phẩm cách chân như, là sinh trưởng mọi diệu dụng và đã gần như là Phật (địa và đẳng giác diệu giác). Cũng nên ghi chú thêm rằng có bản chép 6 chủng tánh: sau trưởng dưỡng tánh thêm tánh chủng tánh, nhưng xét thấy bất ổn không ít.
Pháp hạnh của Bồ tát vị là các quán hạnh và pháp hạnh. Quán hạnh có 3, là không quán, giả quán và trung quán: 10 phát thú thì từ giả quán vào không quán, không quán còn ít; 10 trưởng dưỡng thì ra không quán vào giả quán, không quán thì nhiều mà giả quán còn ít; 10 kim cang thì xoay không quán giả quán vào trung quán, giả quán thì nhiều mà trung quán còn ít; 10 địa thì trung quán mới nhiều. Không quán là thể hội thật tướng, siêu việt các phạm trù tư duy; giả quán là hoạt dụng thật tướng, lợi ích cho hết thảy chúng sinh; trung quán là dung hóa thật tướng, vô công dụng hạnh đã nhiệm vận hiện tiền. Pháp hạnh thì ở đây đưa ra 10 thiền chi (10 thành phần thiền định). Pháp số này là 10 nhất thế xứ. Trí độ luận nói như sau, trong cuốn 21, "bội xả làm cửa đầu, thắng xứ là đi giữa, nhất thế xứ là hoàn thành, 3 loại này của thiền quán mà đầy đủ thì bản thể thiền quán thành tựu". Vậy là 10 thiền chi (nhất thế xứ, biến xứ) còn lược 2 pháp số nữa, đó là 8 bội xả (giải thoát) và 8 thắng xứ.
Vị pháp sư truyền Bồ tát giới thì căn bản là phải nghiêm trì giới ấy, lại phải hiểu rõ và chỉ dạy được 4 điều trên đây. Nhưng nếu truyền Bồ tát giới với tâm lý ham danh lợi và ham đồ đệ thì hiểu mà truyền cũng vẫn phạm giới này, huống chi không hiểu. Giới văn câu chót làm ra như thấu hiểu tất cả, có bản chép thêm "để được hiến cúng", thêm như vậy vừa thừa vừa thiếu.