CĂN CỨ ĐỂ NHẬN BIẾT NGƯỜI ĐẮC QUẢ A LA HÁN
Hòa thượng Tuyên Hóa giảng
Căn cứ vào đâu để biết được đó là một bậc Thánh nhân đã chứng đắc quả vị thứ tư của hàng A La Hán?
A La Hán là ai?
Cách để nhận biết người đắc quả A La Hán
Khi bậc Thánh nhân hàng Tứ quả bước đi, chân không hề chạm đất. Bàn chân ngài thường ở cách mặt đất khoảng ba phân, vì như thế mới khỏi giẫm chết các côn trùng hoặc kiến. Ngài chẳng phải như phàm phu chúng ta, thường đạp chết côn trùng và kiến trên lối đi. Ngài không hề giẫm lên trùng và kiến ở dưới chân. Điều này chứng minh rằng ngài đã chứng Thánh quả!
Không những bậc Thánh nhân ở hàng Tứ quả, mà ngay cả các bậc ở hàng Sơ quả cũng có được khả năng ấy; Cho nên trong Kinh mới dạy rằng: “Các bậc A La Hán đều có thể phi hành, biến hóa.” Các bậc Tứ quả La Hán muốn đến nơi nào là có thể đến ngay nơi đó. Các ngài đều có khả năng biến hóa khôn lường.
A La Hán là quả vị người tu hành đạt được sau khi đắc Lậu Tận Thông và Hoặc nghiệp đã được đoạn hết sạch.
Lúc ở Đài Loan, tôi có viếng thăm ngài Quảng Khâm, một vị sư tu hành đã lâu năm. Khi tôi tỏ ý mời ngài sang Mỹ, thì ngài chỉ vào ngực mình và nói rằng ngài có thể đến bất cứ lúc nào ngài muốn! Ngài muốn đến là đến được; Và ngài tự biết mình có đến, chứ người khác thì vẫn không hay biết gì cả. Chỉ những người đã khai nhãn mới có thể thấy được là ngài có đến mà thôi.
Các bậc Tứ quả A La Hán không những chỉ có khả năng chuyển dịch tinh thần mà còn có thể chuyển dịch cả nhục thể. Do vậy các ngài đến bất cứ nơi nào tùy ý. Các ngài không cần mua vé máy bay, mà chỉ du hành trong không trung. Cho nên nói: “Có thể phi hành, biến hóa.” Các bậc La Hán có mười tám phép biến hóa, và những phép biến hóa ấy đều bất khả tư nghì.
Bậc Tứ quả A La Hán muốn sống bao nhiêu lâu cũng được, không trở ngại gì cả. Khi thân thể này hư hoại, già nua cằn cỗi, thì các ngài có thể đổi lấy một thân thể khác. Vì các ngài có thể thay đổi thân thể một cách rất dễ dàng. Cho nên nói rằng các ngài “có thọ mạng lâu dài tới cả khoáng kiếp.”
Các Thánh nhân chứng đắc Tứ quả A La Hán đều đạt được sự tự do về vấn đề sanh tử. Các ngài thật sự được tự do: Muốn sống, thì cứ tiếp tục sống, muốn chết, thì bất cứ lúc nào cũng có thể chết được. Các ngài muốn chết đứng, thì đứng mà chết; Muốn chết ngồi, thì ngồi mà chết; Muốn chết khi đang đi, thì chết khi đang đi; Muốn chết trong lúc ngủ, thì chết trong lúc ngủ! Các ngài rất tự do, không ai có thể cai quản được cả. Chính vì thế mà nói là các ngài “có thọ mạng lâu dài tới khoáng kiếp” và được gọi là bậc “Vô sanh” – Nghĩa là không sanh ra mà cũng chẳng chết đi!
Các bậc La Hán trú ngụ ở nơi nào, thì Thiên thần và Địa thần đều sanh lòng cảm động, và đều thọ nhận sự giáo hóa của các ngài. Nơi nào các ngài an trụ cũng đều có Trời, Rồng, cùng Tám bộ chúng thường xuyên lui tới hộ pháp. Hễ nơi nào có một bậc A La Hán an trụ, thì nơi đó rất bình yên. Không hề có các loại tai nạn như gió lốc, gió xoáy, mưa bão, động đất, vỡ đê, sóng thần…xảy ra. Đó là vì các Thiện thần và các vị Hộ pháp luôn luôn ủng hộ bậc La Hán; Làm cho mọi việc có liên quan đến ngài đều được may mắn, thuận lợi.
Tuy nhiên, lắm lúc các bậc La Hán cũng gặp phải chuyện không may. Đó chính là “nghiệp cảm sở hiện” – Sự ứng hiện của những nghiệp chướng mà các ngài đã gây ra trong đời quá khứ. Thỉnh thoảng những tình cảnh như thế cũng có xảy ra. Bởi vì nếu sự tu hành ở nhân địa không được viên mãn, thì lúc ở quả địa sẽ phải chịu đựng nhiều khó khăn, gian khổ. Cho nên nói rằng:
Tu phúc bất tu huệ, tượng thân quải anh lạc,
Tu huệ bất tu phúc, La Hán ứng cúng bạc.
(Tu phước mà không tu huệ, thì cũng như thân voi đeo chuỗi ngọc;
Tu huệ mà không tu phước, thì chẳng khác nào vị La Hán ít được cúng dường.)
Có nhiều khi các bậc La Hán cũng không có cơm ăn, đi hóa duyên khất thực mà chẳng ai cúng dường cả! Đó là vì lúc ở nhân địa các ngài chỉ biết tu huệ chứ không biết tu phước. Cho nên sau khi chứng được quả vị A La Hán, các ngài không có phước báo, rất ít người cúng dường các ngài!
Bất luận bậc A La Hán làm gì, nhất cử nhất động của các ngài cũng đều làm cho trời đất bị chấn động, rung chuyển!
Chuyện về bậc A La Hán
Hòa thượng Tuyên Hóa kể: “Vừa rồi, khi nghe nói là nơi nào có bậc A La Hán an trụ thì nơi đó không có tai nạn, thì có nhiều người sanh lòng hoài nghi. Họ nghi ngờ rằng nơi bậc La Hán an trụ có thể không được thanh bình, yên ổn! Tôi không giải đáp nghi vấn này cho quý vị; Song, bây giờ tôi sẽ thuật lại một vài sự cảm ứng xảy ra trong cuộc đời của Lão Hòa Thượng Hư Vân tại nước Trung Hoa.
Có lần, trong thời kỳ chiến tranh Trung-Nhật. Khi Lão Hòa Thượng Hư-Vân ở tại Chùa Nam Hoa (gần tỉnh Quảng Đông). Quân đội Nhật cho oanh tạc phi cơ dội bom khu vực ấy. Họ thả xuống mấy quả bom nhưng không có quả nào phát nổ cả!
Có người cho rằng đó chẳng qua chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên; Song, nếu là tình cờ thì người khác cũng phải được gặp sự tình cờ ấy chứ! Nếu sự tình cờ không xảy đến cho quý vị, thì thế là thế nào? Còn nếu nói rằng “tình cờ” nghĩa là gặp phải lúc Nhật ném nhằm loạt bom không nổ; Thế thì tại sao người khác lại không gặp được sự tình cờ như vậy! Tại sao sự tình cờ ấy chỉ xảy ra ở Chùa Nam Hoa mà thôi?
*Một lần khác, khi Lão Hòa thượng Hư Vân đang truyền Giới tại Chùa Vân Thê ở tỉnh Vân-Nam, thì cây cối nơi ấy đều trổ hoa sen. Vì sao ở những nơi ngài không đến thì lại không có hiện tượng hoa sen nở rộ trên cây như thế? Chẳng những thế, trên các lá cây, lá rau mọc ở nơi đó đều có hiện lên hình tượng của Phật. Tuy nhiên, người đời vẫn không nhận biết được sức cảm ứng mạnh mẽ ấy. Họ vẫn cứ cho rằng đó chẳng qua chỉ là những điềm lành nhất thời mà thôi!
Lại nữa, khi Lão Hòa thượng Hư Vân ở Chùa Nam Hoa, có một cây bách chết đã mấy trăm năm bỗng dưng bừng sống trở lại và đâm chồi nẩy lộc rất tươi tốt. Đó quả là một cảnh giới không thể nghĩ bàn. Tương tự như trường hợp con chồn trắng (bạch hồ ly) đến xin quy y với ngài vậy.
Tất cả sự kiện này đều là những trường hợp bất khả tư nghì. Có điều, ngay lúc sự việc xảy ra thì người ta vẫn chưa nhận thức được vấn đề cho lắm; Đợi đến khi Lão Hòa thượng Hư Vân viên tịch rồi, thì ai nấy đều tán tụng. Họ nói rằng Lão Hòa thượng là bậc Thánh nhân đã chứng quả, là đấng Bồ-tát tái thế! Chao ôi! Người đời là như thế cả – khi sờ sờ trước mắt thì để cho vuột mất; Vuột mất rồi thì lại hối tiếc, ăn năn. Con người quả là những sinh vật ngu si, kỳ quặc!
Cách thức nhận biết người tốt hoặc A la hán (Quan trọng)
6) Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:
— Bạch Thế Tôn, có phải những Tôn giả ấy là những vị A-la-hán trên đời này, hay là những vị đang đi trên con đường hướng đến đạo quả A-la-hán?
7) — Thưa Ðại vương, khi Ðại vương còn là cư sĩ, trong khi còn sống thọ hưởng các dục, bị con cái trói buộc, quen dùng các loại chiên đàn ở xứ Kàsi, trang sức với vòng hoa, hương thơm, dầu sáp, sử dụng vàng và bạc, thời Ðại vương thật khó biết được các vị ấy là bậc A-la-hán hay là bậc đang đi con đường hướng đến A-la-hán quả.
8) Thưa Ðại vương, chính phải cọng trú mới biết được giới đức của một người, và phải trong một thời gian dài không thể khác được, phải có tác ý, không phải không có tác ý, phải có trí tuệ, không phải với ác tuệ.
9) Thưa Ðại vương, chính phải cùng chung một nghề mới biết được sự thanh tịnh của một người, phải trong một thời gian dài không thể khác được, phải có tác ý, không phải không tác ý, phải có trí tuệ, không phải với ác tuệ.
10) Thưa Ðại vương, chính trong thời gian bất hạnh mới biết được sự trung kiên của một người, phải trong một thời gian dài không thể không khác được, phải có tác ý, không phải không tác ý, phải có trí tuệ, không phải với ác tuệ.
11) Thưa Ðại vương, chính phải đàm đạo mới biết được trí tuệ của một người, và phải trong một thời gian dài không thể khác được, phải có tác ý, không phải không tác ý, phải có trí tuệ, không phải với ác tuệ.
12) — Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn, khi Thế Tôn đã khéo nói như sau: ” Thưa Ðại vương, khi Ðại vương còn là cư sĩ… … không phải không với ác tuệ”!
13) Bạch Thế Tôn, có những người trinh thám này của con, những người trinh sát, sau khi đi trinh sát một nước, họ đến con. Trước hết họ báo cáo rồi con mới đúc kết.
14) Bạch Thế Tôn, ở đây những người ấy sau khi tẩy sạch bụi và nhớp, sau khi tắm rửa và xoa dầu, sau khi chải sạch râu tóc, mặc áo vải trắng, họ được hầu hạ săn sóc và cho thọ hưởng năm dục công đức.
15) Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu rõ ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy mới nói lên bài kệ:
Không phải do sắc tướng,
Biết rõ được con người,
Không phải nhìn thoáng qua,
Ðặt được lòng tin cậy.
Dưới bộ áo đạo đức,
Với hình tướng tự chế,
Những kẻ sống buông thả,
Sống phây phây đời này.
Như bông tai bằng đất,
Giả dạng bông tai thật,
Như nửa tiền bằng đồng ,
Ðược sơn phết lớp vàng.
Một số sống che đậy,
Ẩn kín dưới bề ngoài,
Nội thân thật bất tịnh,
Mặt ngoài giả mỹ diệu.
Hầu hết chúng ta là người phàm nên mắt thường không thể nhận biết các bậc Thánh, nhất là bậc Thánh A-la-hán “lậu hoặc đã đoạn tận, điều cần làm đã làm xong, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích của mình, đã dứt sạch các kết sử của hữu, với chánh trí đã giải thoát”.
Chỉ có Đức Phật và các vị A-la-hán mới có đủ khả năng và thẩm quyền để xác chứng Thánh quả cao tột này.
Ấy vậy mà đời nay có người đã tự nhận, các đệ tử tung hô thầy mình đã chứng đắc A-la-hán. Dĩ nhiên, nếu ai chưa chứng A-la-hán mà nói đã chứng thì mắc tội Đại vọng ngữ. Còn vị đã chứng Thánh quả A-la-hán rồi, thực sự đó là phước lành cho thế gian, dù các ngài chẳng nói ra nhưng chúng ta cũng có thể nhận diện được qua một số dấu hiệu bên ngoài. Đức Phật nói có chín dấu hiệu để nhận diện một vị Thánh A-la-hán.
“Một thời, Phật ở tại nước Ca-duy-la-vệ, trong khu rừng của Ưu-bà-tắc Miến-kỳ, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo 1.250 người…
Chư Hiền, có Tỳ-kheo là lậu tận A-la-hán, điều cần làm đã làm xong, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích của mình, đã dứt sạch các kết sử của hữu, với chánh trí đã giải thoát; vị ấy không làm chín việc. Những gì là chín?
không giết,không lấy trộm ,không dâm,không nói dối,không xả đạo. không bị dục, sân, sợ hãi ,nghi chi phối.
Chư Hiền, ấy là vị lậu tận A-la-hán đã làm xong điều cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích của mình, đã dứt sạch kết sử của hữu, chánh trí giải thoát, xa lìa chín sự.
(Kinh Trường A-hàm, kinh Thanh tịnh, số 17 [trích])
Pháp thoại này cho thấy, người trần mắt thịt như chúng ta cũng có thể dựa vào những biểu hiện bên ngoài để nhận biết một vị Thánh. Bậc Thánh A-la-hán ngoài các phẩm chất tuệ sáng, tâm sạch bên trong rất khó thấy thì hành vi và ứng xử trọn lành lại dễ dàng nhận ra.
Trước hết, các ngài sống với đầy đủ phạm hạnh “không giết, không lấy trộm, không dâm, không nói dối”. Thế mới biết, những giềng mối đạo đức mà một cư sĩ tại gia đã phát nguyện giữ gìn, những trọng giới của hàng xuất gia nguyện suốt đời thọ trì, đến khi chứng Thánh quả mới thực sự trong sạch. Bấy giờ, sự toàn thiện biểu hiện một cách tự nhiên như nước đã lọc, thuần khiết và thanh tịnh.
Với bậc đã chứng Thánh, đời sống của các ngài chính là đạo nên “không xả đạo”. Tuy các ngài vẫn sống trong cuộc đời ô trược với chúng ta nhưng tất cả đều rực rỡ, lung linh và sáng sạch của cõi Tịnh độ. Những ngày tháng còn duyên ở đời thì miệt mài hoằng hóa, lợi ích chúng sinh. Hết duyên thì hóa Vô dư Niết-bàn.
Vị cư sĩ đầu tiên đắc quả A la hán
Chúng sinh thì muôn kiếp ngụp lặn trong dục và sân. Ưa thích thì mong cầu, chạy theo và sở hữu. Không ưa thích thì chạy trốn, cố xua đuổi, ghét bỏ, bực bội, tức giận. Với bậc Thánh thì thấy tất cả là huyễn hóa, vô thường nên chỉ tùy duyên tiếp vật mà không một mảy may dính mắc. Ngay cả những chuyện tốt cũng tùy duyên, thuận pháp nói gì đến chuyện không hay. Tham dục và sân hận rất dễ bộc phát, chúng đến bất thình lình nên không phải bậc Thánh thì dù khéo đến mấy cũng có lúc biểu hiện ra. Thế nên, đừng bao giờ nghe đồn hay a dua đồng ca hợp xướng mà hãy sống gần chư vị một thời gian, tất sẽ hiểu vị ấy có đích thực là bậc Thánh hay không?
Đặc biệt, bậc Thánh thì “không bị sợ hãi, không bị nghi chi phối”. Đối với đạo thì đã sáng tỏ, không còn mảy may nghi ngờ. Đối với mọi sự biến động thuận nghịch ở đời thì an nhiên chẳng hề dao động. Bậc Thánh sống tùy duyên thuận pháp tự tại với ngay cả chuyện trọng đại nhất của đời người là sinh tử. Ai có chín biểu hiện này thì đó là những dấu hiệu giúp ta nhận ra được bậc Thánh đang hiện hữu ở đời.