Đức Phật có nói: "Chư sở vật tượng, danh vi nhứt thiết pháp". Đó là bao nhiêu vật tượng hết thảy, đều gọi là tất cả pháp
"Pháp" có 3 loại
1. Hữu vi pháp: các thứ (sắc pháp) mà bạn có thể thấy, biết
2. Vô vi pháp: các thứ không thấy, như hương vị âm thanh (thọ tưởng hành)
3. Không hữu vi hay vô vi pháp: các thứ không thấy và không thể thọ tưởng hành. "Thức" là những kỷ niệm trong quá khứ
Trong bài trước, tôi có viết về "Ưng vô sở trụ". Ưng vô sở trụ tức là không có nơi chỗ nào nhứt định cả. Nó là vô sanh vô diệt không có tướng dạng. Nó không phải là hữu vi pháp hay vô vi pháp.
Hôm nay tôi viết ra bài "Vô Sanh Pháp Nhẫn", để nhắc nhở, nhắn riêng cho bản thân, nhắn chung cho các huynh, tỷ
Vô Sanh là thứ không có sanh không có diệt
Nhẫn là nhẫn nhục.
Pháp Nhẫn là pháp nhẫn nhục còn gọi là sân pháp cho các buồn vui sướng khổ thương khét phải trái quấy thấp cao, vvv... Khi sinh hoạt trên diễn đàn, người Phật Tử hiểu đạo phải quán sát cái "SÂN PHÁP" như thế nào? Quý vị nên tuần tự quán sát nó như vậy
Khi quý vị viết một đề tài, quý vị thường bị các bạn khác trả lời và cảm ơn bài viết của quý vị. Đôi khi các bài trả lời không được tế nhị, làm cho quý vị nổi "SÂN" lên. Trước khi đọc bài trả lời, tâm của quý vị hoàn toàn thanh tịnh, trống trơn, không cảm nhận có một chúc tình cảm gì khác lạ. Lúc đó tâm của quý vị trống vắng như hư không. Đến khi đọc bài trả lời, cái "sân" (#1) ấy tự nhiên khởi lên liền. Cái sân đó ở đâu, nó nằm ngay chính tại tâm của quý vị
Lúc đó quý vị muốn đánh vài câu trả lời ngay lập tức. Lúc đó quý vị phải bình tỉnh và suy nghĩ lại cái sân của mình:
- Cái sân của quý vị hiện đang có không có tự thể, tức là cái sân không có ngã. Cái sân đó chỉ là do nhân duyên (bài viết trả lời của thành viên khác) đưa đến, rồi hoà với cái tâm mà sanh ra cái sân
- Cái sân đó không phải từ nơi phương trời nào mà đến
- Khi bình tĩnh lại, cái sân nó đã bị quý vị diệt đi. Vậy cái sân nó đi đâu. Nó cũng chẳng đi về phương trời nào cả.
- Như vậy thì cái sân của quý vị không từ nơi nào đến, và cũng không có chỗ về. Như vậy quý vị thấy rõ ràng, cái sân từ nơi tâm của quý vị mà sanh ra, rồi diệt cũng ở ngay chính trong tâm của quý vị
- Khi cái sân đã diệt rồi, cái sân đó mất hẳn. Cho đến vài tiếng sau, có một thành viên khác post thêm một lời trả lời không được mấy tế nhị. Trong tâm của quý vị lại có thêm một cái "Sân" (#2) khác hiện ra.
Lúc nầy quý vị thường nghĩ rằng, ta đã nhịn một bài viết chỉ trích rồi, nay lại thêm một bài post khác chỉ trích. Ta không còn chịu nhẫn nữa. Ta phải kiềm chế như thế nào? Quý vị nên quán cái sân đó như thế nào ?
Quý vị nên nhớ là cái nhân duyên đưa đến có phần liên hệ, nhưng cái "Sân #1" và cái "Sân #2" hoàn toàn không có liên hệ. Hai cái "Sân" không có biết gì nhau hết. Nó không có hẹn hò nhau. Cái "Sân #1" không có nói với cái "Sân #2" rằng: "Nè ta sanh ra trước rồi vài tiếng nữa ngươi sanh ra sau nhe". Hay nói rằng: "Nè ra diệt trước rồi, người sẽ diệt sau nhe". Và cuối cùng nói: "Nè, sau khi chúng mình bị diệt rồi, ta và ngươi sẽ gặp nhau tại một post khác hay trong 10 phương hư không nhe". Muốn tu "pháp nhẫn" thì quý vị nên biết rằng các sân trước không biết không thấy cái sân pháp sau. Chúng nó cũng không bao giờ hẹn hò nhau. Ta sanh trước và ta sẽ diệt trước. Ngươi sanh sau thì sẽ diệt sau. Những cái sân không có bao giờ hẹn hò gặp lại nhau cả.
Có nghĩa là vô sanh, vô diệt và vô tịch. Tất cả các sân từ nơi tâm sanh ra và khi diệt rồi thì cũng diệt ngay ở tại trong tâm. Sanh ra nơi nào thì quý vị diệt ngay ở nơi đó. Quý vị sẽ hiểu được. Ngoài tâm không có sân, ngoài sân không tâm. Tức là các pháp đều ở trong tâm mà sanh ra, và không có cái pháp nào vượt ra khỏi ngoài tâm mà có. Khi cái sân được sanh ra thì cái sân đó không có nơi đến và khi quý vị diệt cái sân đó rồi thì cái sân đó chẳng có đi về đâu cả. Vì nó không có phương sở cố định, nên nó là vô sở trụ. Mà đã là vô sở trụ thì tức là cái sân vô hình tướng, vô sanh diệt, chẳng đến chẳng đi. Vậy nó là thường trú, mà thường trú ấy tức là giải thoát. Và giải thoát tức "thị chư pháp bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.
Nếu quý vị quán cái sân như thế thì đó là quý vị đang chánh quán. Khi quý vị sinh hoạt trên diễn đàn và quý vị quán biết được như thế, hiểu được như thế, ngộ được như thế, chứng được như thế, quý vị sẽ chứng được pháp "Vô Sanh Pháp Nhẫn"
VÔ DANH
minhthien
Administrator
*****
minhthien Avatar
Posts: 626
Jul 10, 2023 at 1:02pm QuotePost OptionsPost by minhthien on Jul 10, 2023 at 1:02pm
Nghiên Cứu Phật Học - Phật Học Tổng Quát
Viết bởi Thích Tâm Hiền
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính thưa Chư Vị,
Đức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên “Khai Thị Chúng Sanh, Ngộ Nhập Phật Tri Kiến”, với ý nguyện cứu vớt chúng sanh đang bị vùi dập dưới những ngọn sóng Tham-Sân-Si, ngụp lặn trong biển sanh tử luân hồi, hay đang kêu la gào thét trong nhà lửa tam giới đầy bi kịch. Chính vì vậy mà sau khi chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác dưới cội bồ đề, Ngài đã đem giáo pháp ấy làm phương tiện đả thông bao sự mê mờ của chúng sanh, mở tung bao cánh cửa u minh, đem ánh sáng hạnh phúc cho muôn loài. Ngài là bậc Y Vương vì Ngài tùy bệnh mà cho thuốc. Lòng từ bi của Ngài không phân biệt người giàu sang hay cùng cực. Từ Bà La Môn, Sát Đế Lợi, cho đến Phệ Xá, Thủ Đà La thuộc giai cấp quyền quý, hay những bậc Quốc Vương thống nhiếp thiên hạ, cho đến những người bần cùng khốn khổ thuộc giai cấp thấp nhất của xã hội Ngài đều hóa độ tất cả những ai có duyên gặp Ngài. Để đối trị với tám vạn bốn ngàn trần lao nghiệp chướng của chúng sanh, Ngài đã có tám vạn bốn ngàn pháp môn tu học. Trong đó Nhẫn Nhục là pháp môn giúp cho hành giả đoạn trừ lậu hoặc một cách hoàn hảo, diệt trừ ngả chấp một cách rốt ráo và cuối cùng là đưa đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Để có hệ thống và dễ theo dõi, chúng tôi xin trình bày ba phần chính sau:
1.Định nghĩa và phân tích các thành phần của nhẫn nhục
2.Phải nhẫn nhục như thế nào cho đúng pháp
3.Lợi ích của pháp tu nhẫn nhục
Thế nào là Nhẫn nhuc?
Trong kinh Hoa Nghiêm có câu "Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chứng môn khai ", nghĩa là "Một niệm sân hận khởi lên là mở cửa cho muôn ngàn nghiệp chướng". Thật vậy, lắm người vì không dằn được cơn tức giận mà gia đình tan nát, chồng vợ chia lìa, thầy trò xa nhau, bạn thân thành thù oán. Trong Phật Học phổ thông (quyển 1, trang 102 của HT. Thích Thiện Hoa), nhẫn nhịn được định nghĩa như sau:
"Nhẫn nhịn là chịu đựng những cảnh trái mắt nghịch lòng.
Nhục là điều sỉ nhục, điều xấu hổ và làm tổn thương đến lòng tự ái"
Nhẫn gồm có ba bậc: Sanh nhẫn, Pháp nhẫn, và Vô sanh Pháp nhẫn
Sanh nhẫn: hay còn gọi là hữu tình nhẫn, tức là không đem lòng giận dỗi với chúng sanh hữu tình, từ con vật nhỏ cho đến con người chúng ta.
Pháp nhẫn: hay còn gọi là phi tình nhẫn, tức là không đem lòng giận dỗi chúng sanh vô tình như cỏ cây, hoa lá, mưa nắng, nóng lạnh….
Vô sanh Pháp nhẫn: là đức nhẫn tự nhiên của bậc Bồ tát. Các ngài đã nhận chân được (của các Pháp) thật tánh, thật tướng ấy là duyên sanh tính hay vô ngã tính. Còn duyên thì hợp, hết duyên thì tan cho nên các Ngài không còn chấp mình, chấp người. Không còn oán một sinh mạng nào hay chấp một pháp thể nào cả.
Trong quyển "Phật và Thánh chúng" của TT. Minh Tuệ có dẫn một câu chuyện đại ý như sau: Một hôm, Xá Lợi Phất cùng La Hầu La vào thành Vương Xá khất thực thì gặp bọn du côn. Chúng hốt cát bỏ vào bình bát của Xá Lợi Phất và đánh La Hầu La một trận. Vì chưa dứt được phiền não tập khí dồn nén, nên La Hầu La bụm mặt khóc thảm thiết. Sau khi về đến Tịnh xá, Đức Phật hay chuyện gọi La Hầu La đến dạy rằng : "Này La Hầu La, nhẫn nhục là đức hạnh vô cùng cao quý trong các hạnh. Muốn thành Phật, thuận gần Tăng ông phải cố tu hạnh nhẫn nhục. Người biết nhẫn nhục tâm hồn luôn thư thái, an ổn, diệt trừ được cái họa và trí huệ được phát sinh. Trí huệ là gươm báu để ta cắt đứt mọi gốc rể của vô minh, tham si và chấp ngã. Nhẫn nhục là điều kiện làm tuyên dương chánh pháp, là tư lương để sớm được giải thoát luân hồi sanh tử."
Nhẫn gồm có 3 phần: Thân nhẫn, Khẩu nhẫn, và Ý nhẫn.
Thân nhẫn: khi thân đối diện với nghịch cảnh như : nắng mưa, nóng lạnh, đói khát hay bị đánh đập tra khảo làm đau đớn mà chịu đựng không chống cự là thân nhẫn.
Khẩu nhẫn: miệng không thốt ra những lời độc ác khi bị nhục mạ, mắng nhiếc là khẩu nhẫn.
Ý nhẫn: trong tâm không mang ý căm hờn, oán giận hay mưu hại trả thù kẻ hại mình là ý nhẫn.
Nhẫn nhục như thế nào là đúng Pháp:
Hầu hết mọi hành động trong đời thường đều được xây dựng trên bản ngã. Khi thấy mình lép vế, thấp cơ trước đối thủ thì họ thường rút lui. Nhưng lại chờ đợi khi đến thời cơ thì phản công lại hay trả thù. Như Hàn Tín phải chịu nhục chui lòn qua háng Ác Thiển giữa chợ trước mặt mọi người. Câu Tiển phải ngậm đắng nuốt cay nếm phân Ngô Phù Sai để chứng minh lòng trung thành của mình và lấy lòng tin của Ngô Phù Sai. Những nhẫn nhục trên là để chờ ngày phục thù, là chịu đấm ăn xôi chứ không phải là cái Nhẫn trong đạo Phật.
Trong đạo Phật trước hết phải mở rộng lòng từ bi, không muốn cho chúng sanh đau khổ, sân hận mà tranh đấu lẫn nhau. Thứ hai là do ý muốn diệt trừ sân hận, ngã mạn, kêu căn của bản thân mình mà trau dồi từ bi hỷ xả, để thành tựu tứ vô lượng tâm.
Trong luật sa di, mục Hạ thiên oai nghi, nhập chúng đệ tứ (phần phụ a), Phật có dạy: "Bất đắc nhân hiếu sự tranh chấp, nhược đại sự nan nhẫn giả, diệc tu tâm bình khí hòa, dĩ lý luận biện, bất tất tử nhi khứ, động khí phát thô, tức phi hão tăng giả" nghĩa là "Không được nhân việc nhỏ mà tranh chấp, nếu việc lớn khó nhẫn phải giữ tâm ý bình tỉnh ôn hòa, dùng lý lẽ để thảo luận, bằng không từ từ mà đi. Động một chút mà thô tháo thì không phải là tăng sĩ tốt."
Quả thật là vậy, vì người xuất gia đã từ bỏ tất cả, xa lìa song thân, làng xóm họ hàng mà còn ôm lấy chuyện trái ngang thì làm sao làm tăng tốt để quyết tu mà hoằng dương chánh pháp.
Trong sử Phật có dẫn câu chuyện về Ngài Phú Lâu Na xin Phật đi thuyết pháp để độ dân chúng xứ Duna như sau :
Đức Phật hỏi: Này Phú Lâu Na, giả sử ông đến xứ Duna bị người chửi rủa thì ông nghĩ sao và xử lý bằng cách nào?
Bạch Đức Thế Tôn, con nghĩ họ vẫn còn tốt đối với con, vì họ chỉ chửi mắng chứ họ chưa dùng gậy để đánh đập con.
Đức Phật lại hỏi: Vậy nếu họ dùng gậy để đánh đập ông thì ông nghĩ sao?
Bạch Đức Thế Tôn, con nghĩ họ vẫn còn lòng nhân từ, vì họ chưa đánh chết con.
Đức Phật lại hỏi: Vậy nếu họ dùng gậy đánh đập ông đến chết thì ông nghĩ sao?
Bạch Đức Thế Tôn, con nghĩ họ là ân nhân của con vì nhờ họ mà con bỏ đi được bọc da hôi thúi nầy, từ biệt được đời sống đau khổ nầy!
Đức Phật khen: Hay lắm! Ông nhẫn được như thế thì ông có thể qua xứ Duna mà thuyết pháp.
Chẳng bao lâu thì người dân ở xứ Duna đều quay đầu về với Tam Bảo. Đó chính là nhờ cái Nhẫn trong đạo Phật. Cái Nhẫn xuất phát từ lòng từ bi muốn cứu vớt tất cả chúng sanh thoát khỏi cảnh trầm luân sanh tử, nên cho dù thân mình có bị hại, bị giết đi nữa cũng vẫn vui vẻ. Cái Nhẫn đó có sức chuyển hóa đối phương mà không cần bạo lực.
Trong kinh Nhẫn Nhục, Đức Phật có dạy: "Bố thí mười phương tuy được phước lớn, nhưng phước đó chẳng bằng nhẫn nhục. Ôm nhẫn tu trí đời đời không oán hận, lòng dạ an nhiên trọn không độc hại. Nhẫn là áo giáp tránh được đao binh, Nhẫn là đại thuyền vượt qua bể khổ, Nhẫn là thuốc hay cứu sống muôn người."
Trong kinh Di Giáo, Đức Phật cũng dạy rằng: "Các ông phải chịu nhẫn đến nổi dù có ai đến cắt tay chân các ông đi nữa, các ông cũng chớ có giận dữ, cũng không được buông lời nói ác mà phải hoan hỷ như không."
Tám loại sức mạnh của bậc đại nhân được Đức Phật nói đến trong kinh Tăng Nhất A Hàm như sau:
Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc
Sức mạnh của đàn bà là phẩn nộ
Sức mạnh của người ăn trộm là vủ khí
Sức mạnh của vua chúa là quyền huy
Sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo
Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa
Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát
Sức mạnh của Sa Môn là Nhẫn Nhục
Vì sự quan trọng của pháp Nhẫn Nhục và để tránh sự bất hòa trong đại chúng, Đức Phật đã dạy pháp Lục Hòa. Sau nầy có người đã phổ thành thơ cho dễ học như sau:
Thân hòa chung ở cùng nhau
Khẩu hòa ăn nói trước sau dịu dàng
Ý hòa thảo luận suy bàn
Kiến hòa đồng giải hoàn toàn hiểu chung
Lợi hòa phân chia khắp cùng
Giới hòa cố giữ, nguyện chung tu từ.
Ngoài thế gian chúng ta cũng từng nghe ông bà cha mẹ dạy rằng: "Một sự nhịn chín sự lành." Vì mấy ai có thể khẳng định mình chưa bao giờ có một lần giận dữ, chưa bao giờ có một lần sân hận. Nếu đã có thì Nhẫn Nhịn là phương pháp sám hối thiết thực nhất. Để có nhẫn nhục ta phải biết xem tất cả mọi người hay nói rộng ra là tất cả các loài chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi đều là bà con quyến thuộc. Coi những điều oan ức là quả mà nhân của nó là một hạt giống mà chính mình đả gieo trong đời quá khứ. Có như vậy người học Phật sẽ không sợ hãi trước hoạn noạn, không chùng bước trước khó khăn. Ngược lại người học Phật phải lấy đó làm bạn đồng hành, lấy đó làm lộ phí đường xa, lấy đó làm tư tưởng trên con đường tìm cầu chân lý.
Tất cả được đúc kết qua "Luận Bảo Vương Tam Muội"
Lấy bệnh khổ làm thuốc thần
Lấy hoạn nạn làm giải thoát
Lấy khúc mắt làm thú vui
Lấy ma quân làm đạo bạn
Lấy khó khăn làm thích thú
Lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ
Lấy kẻ chống đối làm nơi ngao du
Lấy thi ân làm đôi dép bỏ
Lấy sự xả lợi làm vinh hoa
Lấy oan ức làm cửa ngỏ đạo hạnh
Đây kết tinh của Pháp Nhẫn Nhục. Cho nên để có thể đứng vững trong thế gian mà "Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh" thì điều tiên quyết phải sử dụng thế tấn Nhẫn nhục. Thế tấn ấy là "Bát Phong Suy Bất Động", sẽ rèn luyện một con người bản lãnh, không bị lay động bởi những lời đàm tiếu. Để được như vậy họ phải luôn tranh đấu với chính bản thân mình hơn là tranh đấu với người. Họ khắc khe với mình mà rộng rãi với người, như tinh thần trong Kinh Pháp Cú (số 103):
"Dầu tại bãi chiến trường
Thắng hàng ngàn quân giặc
Không bằng tự thắng mình
Ấy chiến công vô địch"
Và như để sách tấn khuyên tu cho chúng đệ tử của mình, HT. Giác Nhiên Đăng có viết đoạn thi kệ trong Ánh Nhiên Đăng:
"Con người tu thì chi chi nhịn hết
Nhịn nhịn hoài, nhịn nhịn mãi con ơi
Chẳng phải nhịn có ba lần thôi
Mà nhịn mãi đến khi thành Chánh Giác
Con nhịn được dù thân con có thác
Thác thân con mà tâm được nhẹ nhàng
Cỏi Tây Phương con chắc chắn bước sang
Bằng con đọa, Thầy nguyện ra chịu thế"
Lợi ích của pháp tu Nhẫn Nhục:
Nhờ đọc qua nhiều kinh sách chúng tôi có đúc kết lại nhưng lợi ích của pháp tu Nhẫn nhục như sau:
1.Lửa sân hận được dập tắt, kiêu căng hay ngã mạn chấp thủ được diệt trừ
2.Gia đình không ly tán, bạn hữu không chia ly. Thầy tớ không đoạn tuyệt, thế gian không chiến tranh.
3.Tâm từ được chan chứa, tâm bi được tràn đầy. Tâm hỷ được mênh mông, tâm xả được hết thẩy. Tứ vô lượng tâm luôn được hiện tiền.
Kính thưa Chư huynh đệ, vì thấy công đức lớn lao đó của pháp Nhẫn nhục nên cố nhân đã nhắc nhở với người đời một cách mạnh mẽ rằng:
Nhẫn, Nhẫn, Nhẫn, trái chủ oan gia từ đây dứt
Nhịn, Nhịn, Nhịn, ngàn tai muôn họa đồng thời tiêu
Nín, Nín, Nín, vô hạn thân tiến từ đây được
Thôi công danh cái thế hết tự do
Để kết thúc chúng con xin tóm lại ở hai câu đối của HT. Thích Thiện Siêu để kết thúc bài viết chủ đề Nhẫn nhục:
"Một chút giận, hai chút hờn, lận đận cả đời ri cũng khổ,
Trăm điều lành, ngàn điều nhịn, thong dong tất dạ rứa mà vui."
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát
TK. Thích Tâm Hiền
________________
CƯ SĨ DIỆU ĐỊNH