Tháng giêng:
- Ngày mồng một Tết: lễ vía Phật Di Lặc
- Ngày rằm: lễ Thượng nguyên
Tháng tư:
- Ngày mồng 4: vía Bồ tát Văn Thù
- Ngày mồng 8: vía ngày sinh của Phật, gọi là Phật đản.
- Ngày rằm: bắt đầu mùa an cư kết hạ
Tháng sáu:
- Ngày 19: vía Quan Thế Âm bồ tát
Tháng bảy:
- Ngày 13: vía Đại Thế Chí bồ tát
- Ngày 15: lễ vu lan (Trung nguyên)
- Mãn mùa an cư kết hạ
Tháng chín:
- Ngày 19: vía Quan Thế Âm bồ tát xuất gia
- Ngày 30: vía Phật Dược sư.
Tháng mười một:
- Ngày 17: vía Phật A Di Đà
Tháng mười hai:
- Ngày 8: vía Phật Thích Ca thành đạo.
(Ngoài ra, riêng từng chùa, tịnh xá hay môn phái, có các ngày lễ, giỗ các bậc sư tổ đã trụ trì chùa).
Những ngày lễ chính thức của nhà chùa là như vậy, nhưng tiêu biểu và rầm rộ hơn cả là hai ngày Vu lan và Phật đản.
Vu lan: Thuật ngữ này xuất hiện từ kinh Vu lan bồn (Ulambana). Đúng ra, nên gọi là ngày lễ báo hiếu. Ở Kinh Phật, quan trọng nhất là kinh Đại báo phụ mẫu trọng ân, đã nhắc nhủ người con phải biết báo ân cha mẹ: "Có hai việc làm cho phàm phu được công đức lớn, được quả báo lớn, đó là phụng sự cha và phụng sự mẹ" (kinh Tăng nhất a hàm). Do đó mà lễ vu lan cũng gọi là lễ báo hiếu, được tổ chức trọng thể để cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ được siêu độ. Các đệ tử nhà Phật tổ chức lễ này ở gia đình. Tại các nhà chùa, thì tổ chức lễ cúng tế cho cô hồn, có lập đàn chẩn tế và thí thực. Những ngày này, các sư trưởng thực hành những lễ cầu vong, phá ngục, giải oan rất có bài bản. Đàn dựng lên được gọi là đàn mông sơn, bàn bày biện gọi là bàn chúng sinh. Lễ chẩn tế tổ chức suốt ngày, chủ yếu là vào buổi chiều, có khi kéo dài đến tận khuya. Nghi thức ở đây là tuân theo khoa Nghi Du Già của Mật giáo (ảnh hưởng thấy rõ trong bài Văn chiêu hồn của Nguyễn Du).
Ngày lễ Phật đản: Cũng là một ngày hội lớn. Ở nước ta, từ thời Lý, Trần, Phật đản là ngày quốc lễ. Chính nhà vua phải thân hành đứng ra làm chủ lễ. Toàn thể hoàng gia (hoàng hậu, thái tử, công chúa) và văn võ bá quan đều lễ ở chùa cùng với nhà chùa và dân chúng thập phương. Đầu tiên phải có lễ tắm Phật: tức là dội nước thơm lên tượng Phật. Tiếp đó là lễ phóng sinh. Hàng ngàn lồng chim được đưa đến chùa. Vua và chư tăng đọc kinh xong, thì chính nhà vua thò tay vào lồng bắt một con chim thả cho bay lên trời. Dân chúng tung hô vạn tuế rồi cùng thả chim ở các lồng ra. Chim bay rợp trời, tiếng hò reo vang dậy.
Ban ngày có tắm Phật và phóng sinh, ban đêm có lễ phóng đăng, thả hàng ngàn đèn cho trôi trên các sông, hồ. Cảnh tượng rất huy hoàng và náo nhiệt. Những triều đại về sau, ngày Phật đản không được xem là quốc lễ nữa, nhưng ở các làng quê, các chùa làng và cả các tư gia vẫn cứ tiếp tục thực hành ngày hội này. Rồi nghi thức tắm Phật, phóng sinh cũng được bắt chước, tái hiện trong các ngày lễ khác như lễ thành hoàng, lễ thần. Người dân gọi lễ tắm Phật là lễ mộc dục. Lễ phóng sinh còn được thực thi vào cả những ngày 23 tháng chạp hay đêm 30 tháng chạp ở các gia đình.