Ngồi xếp bằng , bán hoặc kiết già, nhập vào Tịnh Pháp Giới Tam Muội, quán tưởng trên đỉnh đầu của thân mình xuất hiện một chữ RAM của Phạn Thư, khắp chữ này có ánh sáng giống như viên ngọc sáng, hoặc như ánh trăng đầy chiếu khắp mười phương, liền tụng Tịnh Pháp Giới Chân Ngôn
OṂ RAṂ(21 biến)
Tiếp theo quán tưởng chữ RAM xuất hiện trong Tam Giác Hỏa Luân phóng ánh sáng lửa màu đỏ thiêu đốt hết thân Hữu Lậu của mình (từ cái đầu, con mắt, lỗ tai, cái mũi, cái lưỡi, thân thể , tất cả đều thiêu đốt hết thành tro tàn tan biến vào hư không. Giả sử thân ta từ vô lượng kiếp hay tạo ra năm tội Vô Gián, dùng hỏa quang này vừa thiêu đốt thân cùng đồng thời thiêu đốt trừ diệt luôn năm tội Vô Gián không còn sót) .
Lửa thì có hai loại , lửa thế gian và lửa xuất thế gian , lửa thế gian thì cháy từ dưới lên còn lửa xuất thế gian thì đốt cháy từ trên xuống , chúng ta phải chú ý điểm này.
Sau đó phóng hỏa quang ra xung quanh thiêu đốt hết khắp cả Đại Địa biến thành Pháp Giới trong sạch [như đồng với Kiếp Hỏa thiêu đốt hết Thế Giới Hữu Vi thành sự lặng lẽ trống rỗng(không Tịch)]
Tiếp theo nguyện thầm trong tâm :”Nguyện cho con lìa hẳn thân của tập hợp các thứ bất tịnh, xú uế , nam nữ, năm dục thuộc ba cõi”
Tiếp theo Quán tưởng một bông hoa sen trắng lớn tám cánh xuất hiện ,(hoa sen tám cánh biểu thị cho Bạch Tịnh Bát Thức Tâm Vương) trên hoa sen xuất hiện một chữ A , chữ A biểu thị cho Pháp Giới Vô Tướng, từ chữ A phóng ánh quang tụ lại thành hình thân ta, đây gọi là thân Vô Lậu Trí.
Tiếp quán chữ AṂ xuất hiện ngay tại đỉnh đầu của ta phóng quang hóa thành nước pháp màu trắng sữa rưới rót toàn thân ta ( chữ AṂ này tức là Thể, là nước Pháp quang minh của chư phật mười phương, đây chính là Pháp Môn Quán Đỉnh bí mật của Như Lai) Quán tưởng chư Phật mười phương cùng lúc dùng nước Pháp Quang Minh rưới rót tiến hành quán đỉnh cho thân ta.
Tiếp theo quán tưởng ngay trên cái cổ của thân mình xuất hiện một bông hoa sen lớn màu trắng, ở trên hoa sen hiện ra chữ A màu trắng. Lại tưởng chữ A màu trắng phóng quang biến thành vành trăng, lại tưởng trong vành trăng màu trắng xuất hiện chữ HUM màu trắng, chữ HUM phóng quang tụ lại biến thành chày Ngũ Cổ Kim Cương màu trắng ( chày có 5 chấu ). Lại tưởng cái chày này dời đến trụ ở trên lưỡi, lưỡi mình lúc này trở thành Kim Cương Thiệt (cái lưỡi Kim Cương).
Sau đó ở trong mỗi một bàn tay cũng tưởng chữ A , chữ A màu trắng phóng quang biến thành vành trăng màu trắng , trong vành trăng xuất hiện chữ HUM màu trắng, chữ HUM màu trắng phóng ánh quang tụ lại biến thành chày Ngũ Cổ Kim Cương màu trắng nhập vào trong lòng bàn tay , lúc này hai bàn tay mình trở thành Kim Cương Thủ (bàn tay Kim Cương), bây giờ các bạn kết ấn và niệm chú mới có công hiệu.
Hết thảy Công Đức của cách quán tưởng chữ Phạn đều được các Đà La Ni Kinh tuyên thuyết chỉ bày (Phạn Tự Quán Môn này, nếu trong bốn uy nghi đi đứng nằm ngồi , thường nghĩ nhớ quán tưởng thì rất màu nhiệm. Phàm trong các Kinh đều nói: Người quán tưởng chữ của Chân Ngôn đều phải là chữ Phạn, chẳng phải là chữ Hán , cho nên Nhất Tự Đỉnh Luân Vương Nghi Quỹ nói rằng: Đã nói quán tưởng các chủng tử , chắc chắn phải là chữ Phạn mới có sức của Đại Thần Dụng, chữ Hán không thể có điều này )
Trích dẫn và diễn giải theo Chuẩn đề pháp kinh -Tục Tạng Kinh_ Tập 59_No.1077
CHUẨN ĐỀ TỊNH NGHIỆP QUYỂN THỨ HAI