Ai lên tới trung du Hà Bắc
Hỏi thăm đền Chúa Nguyệt nơi đâu
Hỏi thăm ra phố kép đi vào
Đền thờ chúa Nguyệt động đào cảnh tiên
Bốn mùa hoa quả dâng lên
Người người tấp lập đôi bên tìm vào
Ngự ngôi cao dầu dầu nét mặt
Chíêc quạt son Chúa ngự phía sau
Lá giầu cùng với quả cau
Tiền vàng thiếp cháp sơn màu xanh lam
Anh linh lừng lẫy trên ngàn
Tam toà Chúa bói anh linh ai tầy
Dân nhớ ơn lập đền phụng sự
Nhớ thủa xưa chuyện cũ đời Lê
Một người con gái thôn quê
Ngây thơ nhưng đã hiền hoà nhất tâm
Sống âm thầm mồ côi cha mẹ
Gặp đựoc thầy Quỷ Cốc tiên sinh
Một đời người đi làm phúc cưú dân
Tiên sinh ban phép đặt tên Chúa Nguyệt Hồ
Tiếng đồn về tới kinh đô
Tiên Chúa Nguyệt Hồ xem bói rất hay
Cửa nhà gia sự hôm nay
Mồ mả đất các Chúa Bà chỉ cho
Có căn tứ phủ phải ra trình đồng
Sắm xanh ngựa tía voi hồng
Sơn trang tám tướng tiến về rừng xanh
Lễ song rồi mới được bình yên
Con con cháu cháu nối dòng đề đa
Ung dung đựoc hưởng lộc trời
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đền Nguyệt Hồ
Đền Nguyệt Hồ là một trong những di tích cổ gắn liền với hàng ngàn năm lịch sử và văn hiến của quê hương Bắc Giang. Ngôi đền nằm ở vùng đất có nhiều di tích thuộc thượng lưu dòng sông Thương. Dọc ven dòng sông này có rất nhiều các điểm di tích thờ Mẫu nhưng được quan tâm và chú ý nhiều hơn là đền Nguyệt Hồ, thuộc xã Hương Vĩ, huyện Yên Thế.
Cổng đền Nguyệt Hồ.
Những năm gần đây đền Nguyệt Hồ là điểm nhấn tâm linh tín ngưỡng của đông đảo nhân dân và du khách thập phương. Hàng năm, có tới hàng ngàn lượt khách từ khắp các tỉnh, thành trong nước hành hương tìm về đền Bà Chúa Nguyệt Hồ để xin lộc, cầu tài, cầu bình an trong cuộc sống.
Theo thần tích và truyền thống ở vùng Bo (Yên Thế), sự tích chúa Nguyệt Hồ được ghi chép lại như sau: Cuối đời Hùng Duệ Vương, quân Thục ồ ạt mang quân sang xâm chiếm giang sơn họ Hùng. Hùng Duệ Vương bèn hạ chiếu đi các nơi tìm người tài giỏi để giúp vua trừ giặc. Lúc bấy giờ ở vùng Bo có ông Cao và ông Quý ra ứng tuyển và được vua chọn đi dẹp giặc. Bái tạ ơn vua, hai ông kéo quân về đây ngày đêm luyện tập binh mã chờ thời cơ diệt giặc. Khi quân Thục kéo sang, hai bên giao chiến ác liệt, thế giặc mạnh, quân ta yếu, hai ông Cao - Quý chỉ huy quân sĩ rút lui theo triền sông Thương rồi lựa thế đất hiểm trở quay lại giết giặc. Thuyền chiến dùng dằng chưa đi được vì các bà con gái lưu luyến yêu mến vùng đất này nên đã rời thuyền trở lại vùng Bo. Hai ông chỉ huy quân sĩ quay lại đánh giặc, bị bất ngờ phản công, quân Thục tự nhiên vỡ trận thua to, những kẻ tháo lui đều bị quân sĩ truy đuổi tiêu diệt hết. Thắng giặc, hai ông trở về khao thưởng quân sĩ rồi hồi triều báo công với vua. Trước khi hồi triều, hai ông phi thẳng ngựa đến khu Rừng Từ để nhìn bao quát vùng Bo một lần nữa rồi bỗng nhiên hoá tại đó. Phu nhân và con gái biết tin nhớ thương nên cũng tự hóa theo, hôm đó vào ngày 15-2. Sau khi đánh thắng quân Thục, nhà vua phong cho các danh tướng là Thượng Đẳng Phúc Thần và truyền cho các địa phương, nơi các danh tướng đánh giặc, xây dựng đền miếu để thờ phụng mãi mãi. Triều vua Lê Đại Hành có sắc phong cho các vị thần ở vùng Bo là: "Cao Sơn Quý Minh đại đức hùng lược trác vĩ Đại Vương Thượng đẳng thần". Đến triều Nguyễn địa phương xây dựng miếu thờ ở Huyết Hồ, xin triều đình cho thờ nữ thần là Nguyệt Nga phu nhân và con gái của vị thần họ Cao. Triều vua Tự Đức năm thứ ba (1850) ban sắc phong cho Nguyệt Nga phu nhân và ban cho dân xã vùng Bo phụng thờ. Sau lại có sắc phong cho Nguyệt Nga công chúa. Đời vua Duy Tân năm thứ nhất (1907) cũng có sắc phong cho Nguyệt Nga phu nhân.
Đền bà chúa Nguyệt Hồ có lịch sử từ lâu đời, xưa ngôi đền có một cung đặt tượng thờ Nguyệt Nga công chúa và bài trí tượng thờ theo đạo thờ Mẫu. Qua thời gian, ngôi đền đã được nhân dân địa phương và các nhà hảo tâm công đức tu sửa tôn tạo nhiều lần thêm phần khang trang. Quần thể di tích hiện nay gồm các hạng mục công trình: Cổng đền, khu sân đền, hồ Nguyệt, khu đền chính gồm toà đại bái và hậu cung, kiến trúc theo lối cổ truyền thống. Trong hậu cung đặt tượng bà chúa bản đền, chúa Nguyệt Hồ (tức Nguyệt Nga công chúa) và bài trí tượng thờ theo đạo thờ Mẫu gồm hàng Thánh Mẫu tới hàng Quan, hàng Chầu, ông Hoàng, các cô, cậu và Đức Thánh Trần. Hai cung ngoài toà đại bái cũng bài trí tượng thờ theo đạo thờ Mẫu. Như vậy, theo bề dày lịch sử, đền Nguyệt Hồ đã được phủ lên nhiều lớp tín ngưỡng, ngoài thờ "Bà chúa Nguyệt Hồ - Chúa Bói", còn thờ "Tam toà Thánh Mẫu", thờ Cô, thờ Cậu, thờ Sơn Trang, thờ các ông Hoàng và đức Thánh Trần Triều... Từ lâu đền Nguyệt Hồ đã được phủ lên một lớp tín ngưỡng "thờ Mẫu". Theo các nhà nghiên cứu thì tín ngưỡng thờ Mẫu vốn là tín ngưỡng của người Việt cổ có từ lâu đời và ngày càng phát triển.
Tiệc của bà chúa Nguyệt Hồ là ngày 15-2 âm lịch. Trong ngày lễ chính, nhân dân vùng Bo rước kiệu từ đình Bố Hạ về đền Hạ, đền Trung và đền Thượng. Sau khi tế lễ tại đền Trung lại rước kiệu về đền Nguyệt Hồ. Tại đây phần tế lễ chúa Nguyệt Hồ được tiến hành với những nghi lễ độc đáo. Bài văn cúng dâng chúa Nguyệt Hồ được thể hiện qua hình thức hát văn. Người được chọn diễn xướng hát văn phải có giọng hát hay, đàn giỏi, gia đình không có tang bụi. Trong nghi thức thờ Mẫu ở đền bà chúa Nguyệt Hồ còn có lệ hầu bóng được diễn ra trong các dịp đầu năm và trong ngày lễ hội. Khách về lễ Mẫu và hầu bóng chủ yếu là khách thập phương từ Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Nội... tụ hội về đây để được dâng văn hầu chúa Nguyệt Hồ.
Hội đền Nguyệt Hồ nằm trong không gian chung của tín ngưỡng thờ Mẫu theo tuyến hành lễ đền Nguyệt Hồ - đền Suối Mỡ - đền Bắc Lệ - đền Mỏ Ba - đền Thượng Đồng Đăng và cuối cùng xuôi về đền Bà Chúa Kho - Bắc Ninh.
Chúa Bà Nguyệt Hồ là bà chúa bói dưới thời Hùng Vương (có tài liệu lại nói chúa cũng giáng thế dưới thời Lê Trung Hưng, lại có tài liệu nói bà là con gái nuôi của Vua Hùng). Tương truyền rằng, chúa bà vốn là người thôn nữ ở đất Bắc Giang . Sinh ra trong một nhà có 3 chị em gái, chị cả là bà Lê Hoa một nữ tướng thời tiền Lê sau này khi đánh trận ở Hữu lũng Lạng sơn và thác ở đó . Xác của bà trôi về Đền Ba cầu. Người chị thứ 2 của bà là Như Hoa thác ở bên cạnh gốc cây làng Muổng. Tương truyền khi dân làng đi làm đồng về thấy có người phụ nữ chết dựa vào gốc cây, vì là buổi trưa nên dân làng để bà nằm đó, buổi chiều khi ra chỗ gốc cây thì xác bà bị mối xông thành một ụ đất. Từ đó nước giếng mỏ Găng (lấy nguồn từ con sông Thao) cũng tự nhiên hết nước, tiếng gà buổi sáng cũng không còn cất tiếng gáy. Người dân làng được báo mộng là ở đất của họ có vị tướng hiển thánh nên dân làng lập miếu thờ bà . Sau này vua về phong sắc nữ tướng cho bà.
Người em út là Nguyệt Hồ lúc đó mới 14 tuổi, từ nhỏ đã sống trong cảnh cơ hàn. Nhưng bà là người rất tốt bụng, thảo hiền, có lòng nhân hậu, vì vậy, Lão Tổ Quỷ Cốc Tử Tiên Sinh thấy bà là người xinh đẹp đã nhận bà làm con nuôi và truyền dạy cho bà những đạo pháp của mình (thuật chiêm tinh, bói toán) và đặt tên hiệu cho bà là Nguyệt Hồ (hoặc có nơi gọi là Huyết Hồ). Sau khi đã học được phép của Tiên Sinh, bà dành hết cuộc đời mình để làm phúc cho dân lành. Chẳng bao lâu, danh tiếng đồn của Chúa Nguyệt Hồ đã lan tới kinh đô, đức vua bèn truyền chỉ, mời chúa về kinh đô (theo một số tài liệu ghi thì Vua Hùng nhận bà làm con nuôi), mỗi lần ra trận, vua đều cho người đến thỉnh cầu, nhờ chúa bà bấm đốt tay, xem lành dữ và hỏi chuyện quân cơ, mưu lược, bày binh bố trận. Trong lúc đó Quỷ cốc tiên sinh lại là người Tàu đối địch với người Nam , thấy bà giúp vua nên tìm cách đem bà đi Yểm vàng (chôn sống giữ của). Rồi Lập miếu thờ bà . Tuy mất nhưng chúa bà luôn hiển linh xem bói giúp người.
Trong Tam Vị Chúa Mường thì bà Chúa Nguyệt là bà chúa bói danh tiếng bậc nhất và rất hay ngự đồng. Thông thường, khi có mở đàn Chúa Bói mà không thỉnh được cả Tam Vị Chúa Mường về ngự thì người ta thường hay thỉnh bà về chứng cả ba tòa chúa (Màu đỏ, màu xanh và màu trắng) còn bình thường thì chúa về chứng tòa Chúa Đệ Nhị màu xanh. Khi ngự đồng, chúa mặc áo xanh, múa mồi. Đôi khi chúa ngự về còn dùng lá trầu quả cau để xem bói, phán bảo trần gian.
Chúa Nguyệt Hồ được thờ chính tại Đền Nguyệt Hồ ở gần ga Kép, chợ Bố Hạ, tỉnh Bắc Giang (tương truyền là nguyên quán của Bà Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ khi xưa). Tiệc của Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ là ngày 15-16/2 âm lịch. (Ngày 15/16 là lấy ngày mất của hai bà chị của bà Nguyệt Hồ , vì khi bà bị Yểm không biết chính xác ngày mất của bà). Tại đền Nguyệt Hồ hiện còn lưu phong sắc của bà nữ Tướng Lê Hoa.
Thời Vua Lê người phong cho bà Chúa Nguyệt là Thanh Minh Nguyệt ,trên Đền Chúa trước là ba chữ đó sau được sửa sang lên giờ được đặt là Đền Chúa Nguyệt
MINH THIÊN SƯU TẦM