Tụng Kinh và Chủ Lễ
Phúc Trung
I- Dẫn : Tụng kinh là đọc lại những lời Phật dạy, có chuông, có mõ. Từ xưa nơi các tu viện, chùa chiền, chư Tổ đã đặt ra Nghi thức để cho việc tụng kinh được thống nhất, dù có nhiều người tham dự buổi lễ Phật, việc tụng kinh vẫn được đồng nhất, trang nghiêm, và chí thành.
II - Nghi thức :
1 - Vị chủ lễ và những người tham dự : Trong một buổi lễ hay một thời kinh có nhiều người tham dự, có một vị giữ vai trò chánh trong buổi tụng kinh gọi là Chủ lễ, vị Chủ lễ trong thiền môn thường có phẩm vị cao hơn những người tham dự, trong hàng Cư sĩ, vị Chủ lễ cũng nên dành cho những vị cao niên, hiểu biết rành rẽ về nghi thức, nhờ vậy, sẽ tiến hành đúng nghi lễ. Ngoài vị Chủ lễ ra, còn có hai vị đi (gõ) chuông, mõ. Nếu không có người đi chuông mõ, hay chỉ tụng kinh có một mình, thì vị chủ lễ đi chuông, mõ luôn. Những người tham dự có Nam cư sĩ, hay gọi là Ưu Bà Tắc, ở phía tay trái của tượng Phật, Nữ cư sĩ, gọi là Ưu Bà Di, ở phía tay phải của tượng Phật, chia ra gọi là phân ban "Nam tả, Nữ hữu".
2- Nghi-thức chuông mõ: Như đã nói ở bài trước, xin nhắc lại, nếu có hai người đi chuông mõ thì giữ y vị trí chuông bên tay trái tượng Phật, mõ bên tay phải tượng Phật, còn nếu chỉ có một người vừa chủ lễ, vừa chuông mõ thì để chuông mõ bên nào cho thuận tay tùy ý. Trong chùa có một vị trông nom nhang, đèn gọi là Hương Ðăng, còn trong buổi tụng kinh không có hương đăng thì hai vị đi chuông mõ có nhiệm vụ lo nhang đèn và thắp trước một hay ba cây nhang ở các bàn thờ, vị phụ trách đi mõ chờ cho vị chủ lễ vào vị trí thì đốt ba cây nhang rồi đưa cho chủ lễ, còn trong lúc tụng kinh, vị đi chuông phải để ý, nếu nhang gần tàn thì phải đốt thêm.
3- Nghi-thức tụng kinh: Một thời kinh có thể chia thành 3 phần chính:
a) Niệm hương lễ bái: Theo thứ tự gồm có những bài:
- Tịnh pháp giới chân ngôn. Án lam....
- Tịnh tam nghiệp chân ngôn. Án ta phạ...
- Nguyện hương. Nguyện đem lòng thành kính...
- Cầu nguyện. Hôm nay chúng con....
- Kệ tán Phật. Ðấng Pháp Vương ...
- Quán tưởng. Phật, chúng sanh...
- Ðảnh lễ. Chí tâm đảnh lễ...
b) Tụng kinh : Sau khi Ðảnh lễ, đến phần chính của Tụng Kinh là Vào chuông Mõ, sau đó theo thứ tự, tụng những phần sau đây:
- Bài tán. Dương Chi... hay Lư hương...
- Chú Ðại Bi. Thiên thủ thiên nhãn...
- Kệ khai kinh. Pháp Phật cao siêu...
- Tụng kinh. Kinh Di-Ðà, Pháp Hoa...
- Bát Nhã Tâm Kinh. Ma ha bát nhã ba la...
- Chú Vãng Sanh. Nam Mô A Di Ðà bà dạ...
- Tán Phật. Chúng Thích Tử...
- iệm danh hiệu Phật Nam Mô Tây Phương...
- Bài Sám. Ba đời mười phương Phật... hay Con quỳ lạy Phật ...
c) Cầu nguyện thêm và hồi hướng: Phần cầu nguyện thêm và nguyện chung cho mọi loài, phần này chỉ có vị chủ lễ nguyện mà thôi, (không đánh mõ), khi chủ lễ chấm dứt lời nguyện (thường là : Âm siêu dương thới pháp giới chúng sanh, tình dữ vô tình, tề thành Phật đạo - hay - Nguyện cho tất cả chúng sanh đồng tròn thành Phật đạo), mọi người cùng tụng: Nam Mô A Di Ðà Phật, mõ gõ theo khi mọi người cùng niệm danh hiệu Phật A Di Ðà.
- Hồi hướng. Công đức...
- Phục nguyện. (Cầu nguyện thêm lần nữa.)
- Phổ nguyện. Nguyện cho tất cả...
- Tam tự quy. Tự quy y Phật...
Chấm dứt.
III- Những điểm cần chú ý:
1- Chung : Nếu không phải là ở chùa thì nơi tụng kinh phải được cọn dẹp sạch sẽ, bàn Phật phải trang hoàng cho được trang nghiêm. Khi tụng cầu an hay cầu siêu chỉ tụng ở trước bàn thờ Phật và lạy Phật mà thôi. Khi cúng Vong sẽ tụng kinh trước bàn Vong và chỉ có thân nhân lạy vong.
Khi đi tụng kinh cầu siêu, vì có quen biết tang gia, phải lễ người chết thì phải cởi áo tràng ra vì áo tràng chỉ để lạy tam bảo. Trước khi tụng kinh cũng như lễ Phật, mọi người thân tâm phải thanh tịnh, phải tắm gội, rửa tay, rửa mặt, buổi sáng phải đánh răng, súc miệng, tóc tai phải chải gỡ cho vén khéo. Nên sắm áo tràng (màu lam hay màu đà cũng được), mặc áo cho chỉnh tề rồi mới đi lễ Phật hay tụng kinh. Chúng ta thấy một người đi làm việc hay đi dự lễ, ăn mặc tươm tất, chỉnh tề, mục đích là để kính nể, tôn trọng người khác, do đó mà Phật tử chúng ta càng kính trọng chư Phật thì càng phải ăn mặc, chuẩn bị thật chu đáo, trang trọng hơn. Không nên mặc áo tràng vào nhà vệ sinh, nơi ô uế, không nên giặt chung với quần áo khác.
Khi tụng kinh, phải chú tâm vào lời kinh mà mình đang tụng, để hiểu nghĩa từng chữ từng câu lời Phật hay chư Bồ Tát chỉ dạy, để chúng ta tu tập theo đúng phương pháp.
Khi vào chánh điện hay nơi tụng kinh, không nên nói chuyện, mà cũng không nên để tâm vào bất cứ chuyện gì xảy ra chung quanh mình, như vậy tâm mình mới được định và giữ được thanh tịnh cho tất cả mọi người trong buổi tụng kinh.
Tụng kinh có giọng điệu riêng, mọi người cần phải theo giọng điệu này để giọng tụng được đều nhau. Tụng kinh nhất thiết do sự chí thành, chú tâm chớ không phải co giọng ngâm nga, tuy nhiên có giọng càng tốt.
Mọi người nên quỳ, trừ trường hợp người già, tuổi cao, bệnh tật thì mới ngồi. Ngày xưa, cha mẹ dạy con cháu, con cháu phải quỳ xuống để nghe lời dạy, Phật là một bậc đại giác ngộ, sao chúng ta không quỳ để nghe lời ngài dạy ? Có quy phục Ðức Phật, chúng ta mới có thể vâng lời, làm đúng theo những gì Phật dạy.
2- Chủ lễ: Người chủ lễ có giọng tốt, thì càng quý bởi vì giọng điệu của chủ lễ sẻ làm tăng thêm sự tín ngưỡng, người chủ lễ phải biết những bài nào đọc chậm, đọc nhanh. Chẳng hạn như Chú bao giờ cũng đọc nhanh, phải biết ở cuối câu người ta thường ngưng tụng để lấy hơi vào, vị chủ lễ phải giữ giọng cho được liên tục ở những nơi mà người ta thường ngưng tụng để lấy hơi này.
Vị Chủ lễ phải giữ cho hành động của mình khi hành lễ được khoan thai, nghiêm chỉnh, và trang trọng. Dù cho thuộc Kinh cũng nên để quyển Kinh trước mặt vì đôi khi có thể bị quên một chữ, một câu có thể làm chấn động tâm người khác, mất thanh tịnh.
Cư sĩ với nhau khi đi tụng kinh, nên kính nhường vị trí Chủ lễ cho người cao niên, trừ trường hợp vị cao niên vì lý do gì từ chối và yêu cầu người biết rành rẽ về Nghi Thức tụng kinh thì người ấy mới nên nhận đứng ra chủ lễ.
Cố gắng tránh lật sang trang nầy tụng rồi lật trỏ lại trang kia tụng, nhiều người không nghe rõ, không tìm được, hỏi người nọ, hỏi người kia làm cho buổi tụng kinh mất vẻ trang nghiêm, thanh tịnh.
3- Những người dự tụng: Nếu có Nam Nữ thì phải phân ban Nam tả, Nữ hữu. Hay Nam đứng trước rồi Nữ đứng sau, vào tụng kinh vợ chồng cũng phải phân ban cho phân biệt. Khi tụng nên cố hòa giọng với nhau, đừng làm gì động tâm người khác. Cần phải chú tâm và chí thành. Những bài Chú Ðại Bi, Bát Nhã Tâm Kinh (còn gọi là Bở Khuyết Chân Kinh), Chú Vãng Sanh, Thất Phật Diệt Tội Chơn Ngôn nên học thuộc lòng.
IV - Kết: Chúng ta tụng kinh để biết những lời Phật đã dạy, biết cho rõ ràng để chúng ta có đức tin ngày càng bền vững, biết rõ những phương pháp tu Ðức Phật đã dạy rành rẽ, theo đó chúng ta hành cho đúng để đạt được kết quả tốt nhất. Tụng kinh cũng là một phương pháp định tâm bằng cách chú tâm vào từng chữ, từng câu tụng. Biết rõ và hành đúng theo Nghi Thức Tụng kinh làm cho sự thành kính tăng thêm, đem lại kết quả tốt hơn.
minhthien
Administrator
*****
minhthien Avatar
Posts: 626
Jul 9, 2023 at 11:20am QuotePost OptionsPost by minhthien on Jul 9, 2023 at 11:20am
Nghi thức Chuông Mõ
*Phúc Trung
I Nhập đề: Tụng kinh là chúng ta đọc lại lời Phật đã dạy, để hiểu ý nghĩa và thật hành cho đúng, nhờ thế chúng ta tạo được quả lành, tụng kinh cũng là pháp môn tu để cho tam nghiệp (thân, khẩu, ý) được thanh tịnh. Trung Quốc là một nước có nền nhạc lễ từ xa xưa, trước thời Khổng Tử (551ttl-478ttl) đã có kinh Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc và Khổng Tử viết sách Xuân Thu, người sau gọi đó là Lục kinh. Lễ và Nhạc Trung Quốc dù sao cũng có ảnh hưởng trong Lễ Nhạc Phật Giáo, cách dùng Trống, Chuông, Mõ trong lúc làm lễ Phật, Tụng kinh gọi là Nghi thức Chuông mõ, mục đích giúp cho những người tham dự hành lễ, tụng kinh được chí thành, trang nghiêm hơn.
II Ý Nghĩa:
Chuông luôn luôn đặt bên tay trái của tượng Phật hay Bồ Tát, mõ bên tay phải. Nguời thỉnh chuông gọi là Duy na, người gõ mõ gọi là Duyệt chúng.
Tiếng chuông phát ra âm thanh lắng động, đêm khuya nghe tiếng chuông lòng chúng ta sẽ lắng động, thanh thản, phiền não dường như tiêu tan. Ở trong chùa có bài kệ khi thỉnh chuông như sau:
Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới,
Thiết vi u ám tất giai văn,
Văn trần thanh tịnh chứng viên thông,
Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác.
Bài kệ đọc khi nghe có tiếng chuông:
Văn chung thinh phiền não khinh,
Trí huệ trưởng Bồ đề sanh,
Ly Ðịa ngục xuất hỏa khanh
Nguyện thành Phật độ. chúng sanh
Án Dà Ra Ðế Da Ta Bà Ha (3 lần)
(Nghĩa là: Nguyện cho tiếng chuông nầy vang khắp nơi, ở Ðịa ngục u ám Thiết vi cũng được nghe, ở trần thế được thanh tịnh chứng quả, hết thảy chúng sanh đều thành bực chánh giác và bài kệ sau: Nghe tiếng chuông, phiền não nhẹ đi, trí tuệ tăng trưởng thêm, sanh tâm Bồ đề, rời khỏi địa ngục, không bị lửa địa ngục thiêu đốt, nguyện thành Phật để độ hết chúng sanh.)
Trong chùa còn có một bài kệ nữa để sách tấn Tăng, Ni tu hành:
Văn chung ngọa bất khởi,
Hộ pháp thiện thần sân,
Hiện thế duyên phước bạc,
Lai thê thọ xà thân.
(Nghĩa là: Nằm nghe tiếng chuông mà không dậy, làm cho những vị thần hộ pháp giận, trong đời duyên phước kém, kiếp tới trở thành thân rắn)
Cho nên tiếng chuông rất quan trọng, lại nữa trong khi tụng kinh, tiếng chuông báo hiệu cho người dự được biết sắp chuyển qua niệm danh hiệu khác, sắp hết một bài kinh hay kệ, bắt đâu lạy xuống cũng như khi đứng lên được nhịp nhàng. Thỉnh thoảng trong bài kinh dài có thỉnh chuông để cho người dự tĩnh thức trong lúc tụng kinh.
III Nghi Thức: Sau khi bàn Phật đã chuẩn bị xong về nhang, đèn, hoa quả, người thỉnh chuông sẽ thỉnh 6 tiếng chuông, có nghĩa là giữ cho sáu căn thanh tịnh để tụng kinh. Mỗi lần vị chủ lễ xá, thỉnh một tiếng chuông, khi vị chủ lễ lạy xuống, thỉnh một tiếng chuông và khi trán vị chủ lễ chạm nền chánh điện thì dập chuông (dùng dùi gõ vào vành chuông rồi giữ dùi chuông lại trên vành chuông, như thế âm thanh của chuông không vang ra). Khi nghe dập chuông thì vị chủ lễ cũng như mọi người tham dự cùng đứng lên.
Sau phần Ðảnh lễ, bắt đầu vào chuông mõ như sau:
Chuông thỉnh trước: *
Mõ gõ sau khi chuông chấm dứt: - - - - - - - (bốn tiếng rời, tiếp theo hai tiếng liền nhau, cuối cùng một tiếng rời ra)
Sau đó chuông mõ hòa nhau như sau: - - - - - -
Chuông thỉnh một tiếng rồi mõ tiếp theo một tiếng, chuông đủ ba tiếng ngưng chờ, mõ đánh thêm tiếng thứ tư, tiếng thứ năm và sáu liền nhau, rồi chuông dập cùng lúc với tiếng mõ thứ bảy.
Mỗi khi bắt đầu vào bài Kinh, bài Chú hay Kệ, mõ bắt đầu đánh vào tiếng thứ 2, thứ 4 và những tiếng kế tiếp, ví dụ:
Kệ Khai Kinh
Phật pháp cao siêu rất nhiệm mầu ...
Mõ cứ tiếp tục đánh cho đều nhịp, đến khi câu cuối còn chừng 5 hay 7 tiếng, đánh lơi ra và trước tiếng cuối cùng, mõ đánh hai tiếng liền nhau như sau:
… Chân nghĩa Như Lai hiểu thật sâu.
Hoặc chẳng hạn như:
… Thanh tịnh đại hải chúng Bồ Tát Ma Ha Tát!
Còn Chuông khi chấm dứt niệm mỗi danh hiệu Phật hay Bồ Tát sẽ thỉnh một tiếng chuông, để người ta biết là sẽ sang qua danh hiệu Phật hay Bồ Tát khác, trong bài kinh dài, thỉnh thoảng cuối câu nên thỉnh một tiếng chuông. Chấm dứt mỗi bài Kinh, Kệ hay Chú, chuông thỉnh 3 tiếng ở vào tiếng thứ 5, tiếng thứ 3 và tiếng chót, như sau:
… Chân nghĩa Như Lai hiểu thật sâu.
*
Chúng ta nên nhớ rằng, mõ dùng để giữ nhịp tụng cho đều, mõ gõ nhanh hay chậm tùy theo vị Chủ lễ, vị nầy tụng chậm, mõ phải gõ chậm,V ị nầy tụng nhanh, mõ phải gõ nhanh, những bài Chú vì không có nghĩa nên bao giờ cũng tụng nhanh, mõ phải gõ nhanh hơn bài Kinh hay Kệ, khi Niệm danh hiệu Phật 30 lần hay trên số đó, vị Chủ lễ sẽ niệm nhh, mõ phải gõ nhanh. Khi chủ lễ phục nguyện không gõ mõ.
Tiếng chuông rất quan trọng khi hợp tụng, dùng để báo cho người dự biết bài kinh sắp chấm dứt, sắp chuyển sang niệm danh hiệu Phật hay Bồ Tát kế tiếp. Người thỉnh chuông phải chú ý xem khi nào vị Chủ lễ xá thì thỉnh một tiếng chuông, về niệm danh hiệu Phật, Bồ Tát hay Chú, vị Chủ lễ sẽ dẫn chúng niệm 3 lần, 7 lần, 10 lần, 21 lần … tùy trường hợp, do đó nên để ý, thấy vị Chủ lễ xá mới thỉnh chuông. Bao giờ khi bài Kinh, Kệ, Chú sắp chấm dứt, vị Chủ lễ sẽ tụng, niệm chậm, lơi dần ra, mõ theo đó gõ chậm, người thỉnh chuông chú ý thỉnh 3 tiếng chuông vào tiếng thứ 5, thứ 3 và cuối cùng (nếu biết).
Trong khi người gõ mõ, gõ sai nhịp hoặc nhanh quá hay chậm quá, người thỉnh chuông trở dùi chuông lại, gõ nhẹ vào chuông theo nhịp tụng, niệm của vị Chủ lễ, người gõ mõ nương theo đó mà gõ cho đúng.
Khi chấm dứt thời kinh, người thỉnh chuông sẽ thỉnh 1 hồi và 3 tiếng rời sau cùng, tượng trưng cho sự gìn giữ tam nghiệp luôn được thanh tịnh.
Cư sĩ tụng kinh tại gia, có một mình thôi, Nghi thức chuông mõ cũng y như vậy. Chỉ riêng chuông và mõ để thế nào cho tay thuận gõ mõ, tay kia thỉnh chuông, không nhất thiết phải để y như trên kia đã nói.
Trong khi quỳ tụng kinh, thì chuông mõ phải để ngang với cùi chỏ, còn ngồi thì chuông mõ phải đ? xuống nền Chánh điện, như vậy mới thuận tiện cho việc gõ mõ.
IV Kết: Trong khi tụng Kinh, ngoài vị Chủ lễ ra, tiếng Chuông, Mõ rất quan trọng, nhờ mõ giữ nhịp tụng đuợc đều, nhờ chuông người dự biết bài tụng sắp chấm dứt, chuyển niệm danh hiệu, hoặc khi lễ Phật, lạy xuống, đứng lên đuợc nhịp nhàng, tạo thành không khí trang nghiêm thanh tịnh.
Mỗi chúng ta cần phải biết Nghi thức Chuông Mõ để sử dụng, dù cho khi tụng Kinh chỉ một mình, nhưng có Nghi thức sẽ giúp cho thời tụng kinh đuợc trang trọng, chí thành hơn.