(Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 - Mạn đàm về Linh cơ thần toán) Tối hạ thừa là kê đồng Tôi không phủ nhận là tôi đã từng huấn luyện qua một vài người làm Kê đồng. Chẳng hạn như Kê đồng của Tô Vương gia ở Cảnh Phúc cung, kê đồng Thái tử Nguyên soái của Tam Nguyên đường, kê đồng Cửu Thiên Huyền Nữ ở Bảo Thiên cung, kê đồng Thái Ất chân nhân ở Thái Ất cung, kê đồng Thiên Thượng Thánh mẫu ở Trấn Hải cung, kê đồng Tam sơn quốc vương của Tam Sơn cung, kê đồng Tế Công hoạt phật ở Bát Cảnh cung, kê đồng Quan Âm Bồ tát của Thiên Đức đường, kê đồng Bát Quái Chân nhân ở Tổ Sư đường, kê đồng Lữ Động Tân tổ sư của Trấn Nam cung … tất cả những kê đồng này đều là tôi một tay đào tạo ra. Gọi là Kê đồng, chính là người lấy thân xác cho quỷ thần nương nhờ, người hiển hiện linh uy của quỷ thần. Tuy chỉ là phương pháp thông linh hạ đẳng, nhưng tính ra cũng là một phần của “Thần toán”, bởi lẽ linh nương vào thân của kê đồng, cũng là để suy đoán tương lai, mệnh vận, sự nghiệp, gia đạo, sức khỏe cho người mà thôi, kê đồng cao minh hơn thì có thể hỏi được chuyện nhân quả của kiếp trước (Thám hoa nghiệp), Quan lạc âm, hỏi chuyện của âm gian. Những suy đoán thật là linh dị vô cùng. Do vậy rất nhiều người mặc dù không tin nhưng lại rất có hứng thú với chuyện kê đồng mượn thân. Có một số kê đồng mở miệng có thể nói ra được tên họ của người đến, muốn hỏi chuyện gì cũng được, người đến không cần phải nói ra chuyện gì bản thân cần hỏi, về cái chết của người hỏi chuyện đều có thể nói ra rành mạch, chỉ dựa vào mỗi điểm này thôi đã có thể mê hoặc được rất nhiều người rồi. Tuy nhiên cũng có lúc trả lời không chính xác, tôi cũng biết “thần cũng không phải là toàn năng”, thần minh chẳng qua là năng lực cao hơn người phàm một chút mà thôi, đây chính là nguyên nhân mà thần minh không thể tin tưởng hoàn toàn được. “Chức ty của thần minh có chia ra lớn nhỏ khác nhau, năng lực cũng có cao thấp khác nhau, nếu như hỏi chuyện ra ngoài phạm vi năng lực của họ thì thần minh cũng chẳng thể nào làm được.” Theo như tôi được biết, thần linh có nhiều vô cùng, hỏi mười chuyện thì đáp đến 8 chuyện là chuẩn xác, tuy nhiên vẫn có hai chuyện là đáp chưa chuẩn, cho nên cũng không thể ỷ lại hoàn toàn vào thần thánh. Chuyện trong thiên địa, vạn biến vạn hóa, sức của con người luôn có thể thay đổi mệnh vận của bản thân, sức mạnh của thần minh là hữu hạn, cầu phúc cũng được, cầu xin bảo hộ cũng có thể, tuy nhiên không nên toàn tâm toàn lực ỷ lại vào thần linh, nếu như chúng ta hoàn toàn tin vào thần thánh thì chúng ta đã rơi vào cảnh giới mê hoặc vậy. Ở đây, tôi xin nhấn mạnh thuyết thiên nhân hợp nhất, trời đến giúp chúng ta thì chúng ta cũng cần phải nỗ lực phối hợp với trời, cho dù là trời đã giúp ta nhưng nếu như ta không có chút tinh thần tích cực cầu tiến thì cũng sẽ chẳng có giúp ích được chi cả. Ví dụ như: có người muốn thi đại học, cầu thần lạy Phật, thần Phật cũng hứa sẽ giúp đỡ, tuy nhiên bản thân người đó lại không nỗ lực, vậy thì há có thể thi đỗ đại học chứ? Thi đỗ đại học được mới là chuyện lạ, thần Phật giúp người cốt ở có được sự an tịnh trong tâm hồn, thân thể được mạnh khỏe, đọc sách có thể thông suốt trăm điều, còn nếu như bản thân không cố gắng thì cầu xin thần Phật giúp đỡ cũng chỉ như là bỏ gốc đi mà tìm ngọn vậy, vốn dĩ điểm xuất phát đã có sai lầm rồi. Hiện nay ở nước ngoài gọi là vu thuật phù thủy gì đó, đây chỉ là những pháp sư sử dụng phương thuật mượn linh để trị bệnh mà thôi, kê đồng của nước ta và phù thủy của nước ngoài thực chất khác biệt không lớn, tuy là phương pháp có sai khác nhưng bản chất thật ra cũng chỉ là mượn linh để làm việc, trị bệnh mà thôi. Bản chất của các kê đồng vốn dĩ không xấu, tuy nhiên đến cuối cùng thì cứ biến đổi dần dần, thay đổi đi tính chất, bị những cám dỗ vật chất trong xã hội làm cho ánh mắt của kê đồng hoang loạn cả lên, thừa cơ hội mà làm tiền những người hỏi chuyện, hầu kiếm được lỳ xì thật cao, vào miếu mua vàng mã cũng đòi tiền, hỏi chuyện cũng phải trả tiền, lạy thần càng phải cần tiền, làm chuyện gì cũng cần tiền. Chữ “tiền” này đã làm cho thần minh chân linh rời khỏi mà tà ma sẽ nhân cơ hồi mà đột nhập vào, rồi từ đó những kẻ “giả tạo thần thánh” đã xuất hiện. Những kê đồng thông thường không có luyện linh cũng chẳng có bản lĩnh để phân biệt chính tà, thiện ác bất phân, trắng đen chẳng tường, rốt cuộc là thần hay là ma, bản thân cũng chẳng thể phan biệt được, đây cũng chính là nỗi đau thương của những “linh mai kê đồng”. Có một kê đồng là người Đại Lâm ở huyện Gia Nghĩa, ông ta đã từng giả truyền ý thần để lừa tiền của các tín đồ, đến nhà của tín đồ ăn uống ngủ nghĩ miễn phí, hơn nữa còn lớn tiếng bảo ở nhà tín đồ này mở tịnh thất tu luyện, kết quả là đã dụ dỗ con gái của tín đồ này, những hành vi lừa tiền gạt sắc này của các Kê đồng thật là một con sâu độc trong giới Kê đồng vậy. Kê đồng này cũng là một trong như học trò của tôi, lúc trước hắn với diện mạo chân thật thành kính đến tìm tôi, tôi nhất thời sơ ý đã bị hắn qua mặt. Thế là sau đó hắn đã mượn dáng vẽ kê đồng gọi hồn để làm ra những chuyện thương thiên hại lý, làm cho thần linh xấu hổ, bôi nhọ thần thánh, thật đúng là kẻ bại hoại của linh giới, một con sâu độc, khả ố vô cùng, sử dụng linh để làm công cụ để lừa gạt chúng sinh. Sự việc trên sau khi xảy ra thì có một người trung niên với bộ dạng công nhân đã đến tìm tôi nói: “Tiên sinh, nghe nói ông có năng lực biến tôi trở thành kê đồng.” “Có chuyện gì không?” Tôi không kìm được đã hỏi. “Tôi rất có hứng thú trở thành một kê đồng, xã hội ngày nay người nhiều việc ít, công việc thật không dễ tìm chút nào, tiền lương mỗi tháng cũng chỉ có vài ngàn mà thôi. Nếu như tôi có thể làm Kê đồng, giúp người ta làm việc thì cũng có thể kiếm được ít tiền, hơn nữa lại được nhiều người kính trọng, đối đãi tôi giống như thần thánh vậy, bản thân cao hứng muốn thế nào thì được thế đó, như vậy há chẳng phải rất thú vị sao? Tôi tin rằng tôi có thể nhanh chóng luyện thành công, tôi rất có lòng tin như thế.” “Xin lỗi, tôi từ hôm nay đã không nhận chỉ dạy kê đồng nữa rồi.” Tôi nói với vẻ không vui. “Tại sao thế? Tôi sẽ không đối xử tệ với thầy đâu, mỗi tháng tôi sẽ trả tiền cho thầy mà!” Anh ta lớn tiếng nói không chút ngại ngùng. “Anh xin hãy thôi đi, người có tâm thuật bất chính làm đồng, tôi đã không thể nào chịu đựng nỗi nữa rồi.” Người trung niên ấy tựa hồ như không hiểu ý của tôi, lại nói: “Tôi đóng tiền trước nhé, sau này sẽ theo tháng đóng tiếp.” “Xin lỗi, tôi đã quyết định không đào tạo kê đồng nữa rồi, xin anh hãy về thôi.” Tôi sầu khổ quay mặt đi, liên tiếp xua tay. Người đó giận dữ bỏ đi. Với những Linh mai kê đồng bây giờ tôi lại càng thất vọng hơn, bọn họ đã làm mọi người có một quan niệm rằng: “hoàn toàn không có tri thức, mê tín vô tri, chỉ chuyên lừa tiền gạt sắc, là những kẻ giả dạng thần thánh để ăn cơm.” Thương thay, thương thay! Nghiên cứu linh học cho đến nay thật sự là đau lòng quá đỗi, đau lòng quá đỗi đi. (Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh cơ thần toán) Bí thuật thần toán bốc quẻ Bát quái là những phù hiệu ghi hình được phát minh từ thời Phục Hy, bát quái chính là Càn, Khôn, Chấn, Tốn, Khảm, Li, Cấn, Đoài. Về sau mới biến hóa thành 64 quẻ, chuyên dùng để bói cát hung họa phúc, chính là khởi nguồn của Hán tự, bên trong lại có biến quẻ, dù là những chuyện đã quyết định nhưng lại vẫn có thể thay đổi. Bát quái có phù hiệu của Bát quái, đó chính là Càn Tam Liên, Đoài Thượng Khuyết, Li Trung Hư, Chấn Ngưỡng Vu, Tốn Hạ Đoản, Khảm Trung Mãn, Cấn Phúc Uyển, Khôn Lục Đoạn. Tượng hình giải là: Thiên, Địa lôi, phong, trạch, thủy, hỏa, sơn. Trước đây khi Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh truyền thụ pháp bốc quẻ cho tác giả, trước tiên rửa tay sạch sẽ thắp nhang, sau đó niệm “bái thỉnh Bát quái tổ sư gia, Phục Hy, Văn Vương, Chu công, Khổng tử, Ngũ đại thánh hiền, Quỷ cốc tiên sư, Bài quẻ đồng tử, Thành quẻ lang quân, đệ tử Tam Thanh giáo là Liên sinh, hôm nay phụng Tiên Thiên Vô Cực Chánh Pháp cung thỉnh, bẩm truyền Trực Nhật công tào cùng tất cả các thần tiên trong không trung, do gặp chuyện chưa thể quyết được, nay kính cẩn lòng thành xin bốc một quẻ trong tám tám sáu mươi bốn quẻ, cầu xin linh đoán cát hung họa phước.” Dùng ba đồng tiền đặt trong hộp quẻ, lần lượt tung lên không trung, mặt chính là dương, mặt trái thì là âm, trước tiên cầu hạ quẻ, tiếp đó cầu thượng quẻ, thượng hạ hợp lại thì sẽ được một quẻ trong tám tám sáu mươi bốn quẻ. Cách bói bằng quẻ gạo thì càng đơn giản hơn, đặt một mâm gạo trước mặt Phật, đốt nhang cầu nguyện, dùng hai đầu ngón tay gắp lấy gạo nếu như lấy được một hạt thì tức là quẻ Càn, bốc được 3 hạt tức là quẻ Li, nếu vượt qua 8 hạt, chẳng hạn như là 10 hạt thì lấy trừ cho 8 còn 2, tức là Đoài. Bốc xong lần thứ nhất thì bốc tiếp lần thứ hai, nếu vượt quá 8 hạt thì lại trừ cho 8, lần thứ hai nếu như bốc được 5 hạt tức là quẻ Tốn, rồi sau đó thượng hạ đảo lại, giả định như là lần thứ nhất bốc được 3 hạt, lần thứ hai bốc được 5 hạt thì sẽ trở thành “quẻ Phong Hỏa gia nhân”. Ngoài ra còn có quẻ cờ, có thể sử dụng cờ tướng hay cờ vây đều được, cách bốc quẻ so với bốc quẻ gạo cũng không có khác biệt nhiều, điểm bất đồng lớn nhất của quẻ cờ là ở cờ tướng, khi lấy cờ tướng ra thì phải căn cứ theo tướng sĩ tượng, xe pháo mã tốt để từ đó suy đoán sự nghiệp, thành bại cát hung. Hiện nay tác giả còn học biết được bốc quẻ đá, quẻ hoa, quẻ sao, bói mộng, đoán chữ v.v…. Tất cả những quẻ bói bên trên và cách bốc quẻ đều là một phần của linh học, gọi là “chiêm”, tức là mời những thần linh ẩn thân trong thế giới hư không đến thi triển pháp lực vô hình, mượn linh cơ nhất điểm để suy đoán tiền đồ trong tương lai, diễn thuật của Bát quái chính là diệu thuật thượng thừa trong Kinh Dịch, thực sự có khả năng suy đoán được những chuyện trong tương lai, không thể nào xem thường được! Bất luận là bốc quẻ, bói gạo, bói cờ ... đều cần phải lưu ý một vài điều như sau: Thứ nhất, chọn lựa thời gian. Tác giả biết rất rõ thời khắc lúc cả trời đất đều thanh tịnh, không phải vào lúc giữa trưa, cũng chẳng phải vào giờ Tý nửa đêm mà chính là vào lúc sáng sớm khoảng 4h sáng, lúc này tất cả đều đang chìm trong giấc ngủ say. Những khí ô trọc suốt cả ngày náo động kia vào lúc này đây cũng đã lắng hạ xuống, đến 6h sáng thì phụ nữ trong nhà đã thức dậy nhuốm lửa nấu cháo rồi, khí tanh tưởi kia lại tràn ngập lại trong bầu không khí! Vì thế nhà Phật tụng niệm Lăng Nghiêm kinh đều là vào lúc 4h sáng, 4h sáng sớm này chính la thời khắc tốt nhất để bốc quẻ, là thời khắc cả trời đất đều thanh tịnh, vạn động đều ngừng lại, chỉ còn có ánh sao le lói. Lúc này người bốc quẻ thượng thể thiên tâm, trút hết tất cả các nghi sự trong lòng ra, linh cơ nhất động, vạn pháp quy tâm, cát hung suy đoán, muốn biết được chuyện trên trời dưới đất thì há có khó khăn gì chứ. Thứ ba, phải lựa chọn địa điểm. Địa điểm bốc quẻ, tốt nhất là ở ngoài trời, nếu trong nhà thì ở phía trước bàn thờ là tốt nhất, nếu như không có bàn thờ thì ở trong thư phòng đối diện với cửa sổ bên ngoài cũng được, tuyệt đối không được ở trong phong ngủ, nhà ăn, nhà vệ sinh. Thứ tư, về phương diện trình bày. Có một cặp nến, gió lớn cũng không bị tắt; trà thơm chuẩn bị 3 chung, lư hương, tam quả hay ngũ quả đều được, hộp quẻ … Tác giả có lần theo yêu cầu của một người, bốc giúp xem bệnh tình mẹ của anh ta có thể khỏi được không? Thế là vào ban đêm tôi đã chuẩn bị mọi thứ, đến gần 4h thì đồng hồ báo thức kêu vang, tôi thức dậy, đi ra ngoài phòng, thắp nhang lên và cầu khấn với bề trên, sau đó cắm nhang vào lư hương, vận dụng chân linh trong cơ thể thì phát hiện có một bóng đen đang phủ phục dưới bàn, đột nhiên nhìn thấy tôi giật mình đánh thót, vội hỏi: “Dưới bàn là người nào?” “Vong nữ là Tưởng Bích Châu.” Tôi vừa nghe thấy là Tưởng Bích Châu, chính là đối tượng mà tôi muốn bốc quẻ tối nay! “Bà đã chết vào khi nào vậy? Đến đây có chuyện gì?” “Tối nay vào lúc 2h thì tôi đã tắt thở, thần hồn rời khỏi thân xác, đang lúc vô vô định định thì nghe thấy có người gọi tên tôi cho nên tôi theo tiếng gọi mà tìm đến, nhưng nhìn thấy trên bàn có đặt một cái Bát quái kính, trong kính hào quang tỏa sáng, nên không dám nhìn thẳng, vì thế phải ẩn thân dưới bàn, không biết pháp sư làm sao mà biết được ngày sinh, tên họ của tôi thế?” “Theo lời yêu cầu của người nhà bà muốn biết tình trạng sức khỏe của bà có thể mạnh khỏe không? Bây giờ thì không cần hỏi nữa rồi, bà mau đi đi! Có lẽ người nhà đang mời tăng đạo đến tụng kinh lễ phật cho bà đấy.” Vong hồn ấy liền nhẹ nhàng rời khỏi bàn và biến mất ở phía tường vây. Ngày hôm sau, tôi hỏi người nhà của bà ấy, quả nhiên là bà ấy đã chết lúc 2h sáng, không chút sai lệch nào cả. (Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về Linh Cơ thần toán) Phù kê thuật Thiên nhân hợp nhất Người sống trong tỉnh nhất định sẽ thường xuyên nhìn thấy Thánh giáo ở trong tỉnh, còn gọi là Ân Chủ miếu, Quan đế miếu thờ phượng Quan Phu tử, đa phần đều có biểu diễn phù kê. Kê sinh biểu diễn phù kê một người đơn lẻ có, hai người cũng có. Phía trước mặt kê sinh đặt một mâm cát trắng, kê sinh cầm chặt lấy công cụ viết chữ là gỗ đào hình chữ V trong tay, có một đôi Loan sinh tụng kinh để mời gọi thần linh, thần linh sẽ nương vào trên thanh gỗ đào, kê sinh sẽ dùng tay đặt trên cát trắng viết chữ. Lúc thần tiên giáng hạ thì đại đa số đều khai báo danh tính, rồi sau đó sẽ chỉ bảo sự việc, hoặc là thơ hoặc là từ, có lúc lại là lời nói, vô cùng kỳ quặc. Những Kê sinh và Loan sinh thông thường sẽ rất cung kính với thần linh giáng kê trong thế giới vô hình, lễ tiết gì đều rất chu đáo. Tác giả đã từng đọc qua một số bài thơ từ phù kê mà ra, trong đó có một vài bài cảm thấy rất hay và đã ghi chép ra nội dung như sau: “Huyền diệu lý tàng nhật nguyệt biên, thiên tâm bất khúc công vô biên, thượng nhân chí thiện liễu nhân quả, đế đức công cao, chính khí miên. Đây là bài thơ do Huyền Thiên Thượng đế giáng hạ: Thiên địa nhân gian tam nhật tài, thượng thương hạ giới âm dương đài, thánh chân tiên phật bằng công đức, mẫu tử nhi tôn nhất hệ tài. Đây là thơ của Thiên Thượng Thánh Mẫu: Phúc tinh củng chiếu dụ nhân thiên, đức hậu công cao tiêu bỉ tiên, chính khí trung tâm vô sai tác, thần chi hà hộ lạc an nhiên. Đây là thơ của Phúc Đức Chính khí thần: Nhân giả lạc vô tai, nghĩa đương hưu luận tài, cổ nhân trọng hô đức, phật tử tòng tây lai. Đây là thơ của Nhân nghĩa cổ phật: Thanh bất nhiễm trần ai, thủy quang minh kính đài, tổ thành thiên thượng Phật, sư trọng thiện căn tài. Trong số đó có một bài phú của Tế Công Hoạt phật, nghe thật giống một câu chuyện: “đầu đội mũ bẹp, quần áo vá trăm mảnh, dáng hình nhếch nhác vô cùng, lúc say lúc đảo, phải hồ lô trái thì quạt rách, nhìn trước trông sau, đường trần trăm nẻo, hành tẩu khắp nơi, cứu độ phàm nhân, hóa giải phiền não thế nhân, nói rằng ta đây lưu luyến, xin đừng trách giả điên, thân có say sưa nhưng lòng không để ý, trên đường bán quan huyền, hang cùng ngõ tận đều đi khắp, không ngại gian khó, chỉ một con đường Linh sơn, tam bảo ca rằng có duyên, mãi mãi đại đạo miễn luân hồi, tiêu dao tự tại thiên ngoại thiên.” Nhưng cũng có thần linh giáng hạ để chỉ thị chúng sinh: “Chúng nhân chớ có sân si, mỗi người nên giữ trên dưới, ngồi đi đều nên quy cũ, nói chuyện phải nhỏ nhẹ, đi đứng không quanh quẹo, vào giới phải tuân thủ chặt chẽ, gặp người trên phải hữu lễ, sai tạp chớ nên phạm phải, nghe kinh giảng thuyết pháp, khi giữ chớ diên trì.” Thơ từ do các phù kê giáng hạ, có bài thì cấu tứ rất tốt, nhưng cũng có bài lại rất sơ sài cẩu thả, điều kỳ quái hơn nữa là bản thân của kê sinh vốn không biết Anh văn hay Nhật văn, không hiểu 希伯來, lạ có một điều là ngay cả Cơ Đốc Giê su cũng biết giáng kê, Thiên Chiếu Đai thần của Nhật bản cũng viết thơ Nhật Bản, điều này bên trong nhất định có chổ kỳ diệu của nó, nếu không thì làm sao những kê sinh với trình độ tri thức không cao lại có thể bỗng nhiên lại biết thi biết phú chứ. Khoảng chừng 10 năm trước, tôi ở Tổ Sư miếu ở Cao Hùng có gặp người biểu diễn phù kê. Tay phù kê đó hai tay rung động, hươ cả trên dưới, từng chữ từng chữ viết ra, nhanh chóng vô cùng không chút sai sót, tư tưởng có mẫn tiệp thế nào thì cũng đến thế mà thôi, một tay viết chữ trên cát, long phi phụng vũ như thế, quả thật chẳng đơn giản chút nào! Lúc đó tôi không có tin tưởng phù kê, nhưng nhìn những người ấy thành kính vô cùng, cũng không giống là diễn kịch gạt người. Ngày nay tôi biết được phù kê cũng là một dạng của thần toán, quý độc giả chớ nên cảm thấy kỳ lạ, gọi là phù kê chẳng qua chỉ là một phương pháp mời gọi thần linh trong hư không vô hình giáng bút chỉ thị sự việc mà thôi, lấy thanh gỗ đào làm bút, viết chữ thay vì lời nói, xua cái ác mà hoằng dương cái thiện, tạo ra sự giao tiếp giữa người và thần. Ở Đài Trung tôi đã xem qua phù kê ở Thánh Hiền đường, Thánh Minh cung, Tỉnh Tu cung, phù kê ở Huệ Đức cung Thảo Đồn tôi cũng đã xem qua, cả Kê sinh và Loan sinh đều mặc trường bào, những phù kê nổi tiếng có Viên Lâm Khuyến Hóa đường, Bành Hồ Tín Thiện đường v.v… Thuật Phù kê vốn đã có từ rất lâu đời ở Trung Quốc đại lục rồi, linh và không linh mỗi người đều có nói từ. Đa phần các kê sinh và các Loan sinh đều đem Khổng Tử, Lão tử, Thích Ca, tam giáo đều hợp lại thành một để nói. Quy luật của Loan đường rất là nghiêm ngặt, các Loan sinh nếu như có làm sai có khi bị phạt quỳ trong thời gian một nén nhang, rất nhiều kinh điển đạo giáo không phải là do Tổ sư đạo giáo truyền thụ mà được thông qua các chữ viết trên thanh gỗ đào để biên tập thành kinh điển, những loại kinh điển này hiện nay rất phổ biến. Các bạn nói không tin nhưng lại có chuyện rất trùng hợp xảy ra. Chuyện này đích thân tôi đã trải qua, có một lần nọ tôi đến Đài Bắc, phong cảnh nối liền một dãy xinh đẹp vô cùng, nhìn phía trước thấy có một ngôi chùa có treo một tấm biển, bên trên có viết “Tam Giáo Tổng đàn”. Tôi liền mạnh dạn bước vào, lúc đó tôi đã có thói quen gặp chùa miếu đều vào lễ bái, trong miếu các loan sinh đang rất bận rộn, có người lo việc dâng trà thơm, có người tụng kinh, có người thì làm phù kê, lại có xướng tự nữa, tuy là đều rất bận rộn nhưng lại vô cùng yên lặng, bên trong cũng đang có rất nhiều tín đồ, đa phần là đều đến hỏi chuyện, xin chỉ điểm. Lúc này đây bỗng nhiên cây gỗ đào dừng lại nửa chừng không, liên tiếp múa lên, các loan sinh đều không biết nguyên cớ vì sao? Có một vài người liền quỳ xuống cầu xin chỉ thị, tiếp đó thanh gỗ đào lại điểm xuống hai lượt, rồi viết lên cát dòng chữ lớn: “Hôm nay có Liên sinh là đệ tử của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh ở Lôi Tạng tự Từ Huệ đường Đài Trung đến đây, Liên sinh đã thông khiếu, hôm nay đã đến đây nên lấy lễ để nghênh đón.” Các loan sinh thấy thế liền vội hỏi: Liên sinh ở Lôi tạng tự Từ Huệ đường Đài Trung là vị nào thế? Mọi người đều nhìn nhau, tôi nghe thấy gọi tên mình cũng giật mình, tôi bèn nói với người hỏi: Chính là tôi đây. Trụ trì của Tam Giáo Tổng đàn rất khách khí mời tôi ngồi, dâng trà thơm lên, làm tôi cảm thấy rất ái ngại, tín đồ lúc đó rất đông, nhưng duy chỉ có tôi là được tiếp đãi đặc biệt như thế, cảm thấy rất ngại ngùng. “Tiên sinh là Liên sinh ở Lôi Tạng tự Từ Huệ đường Đài Trung à? Đệ tử của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh?” Trụ trì hỏi tôi. “Đúng vậy.” “Vậy chủ thần ở chùa của tiên sinh trụ trì ắt là Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh rồi?” “Điều này thì không phải, chủ thần là Vô cực Dao Trì Thánh Mẫu Thiên tôn, Bản Sư Thích Ca Mâu ni phật, U linh Giáo chủ Địa Tạng Vương Bồ tát.” “Ô! Thế Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh là thần thánh nào thế? Vì sao mà tôi theo thần thánh bao lâu nay vẫn chưa từng nghe qua thế?” Trụ trì lại hỏi tiếp. “Nói thật ra thì ngay cả bản thân tôi cũng không rõ nữa, chỉ biết là Thánh linh của Vô sắc giới mà thôi.” Tôi thành thật nói ra tôi cũng không biết, tiếp đó tôi lại hỏi: “Vừa rồi vị thần thánh mới giáng kê đó đã biết ân sư, như vậy nhất định là biết được lai lịch của ân sư rồi, hay là chúng ta hãy thử hỏi xem sao.” Thần thánh giáng kê là Lư Sơn Đạo Viện Hứa Chân quân, tương truyền là sư phụ của Lâm Thủy Phu nhân Trần Tĩnh Cô, tôi thắp nhang cầu nguyện xong, Hứa Chân Quân giáng chữ trên mâm cát như sau: “sáng sớm dạo bước Kim Liên trì, cửu phẩm Liên hoa sinh, thần thông quán thiên địa, linh khí khắp cửu châu, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh chính là Bất sinh bất diệt vô câu vô thúc Vô thượng Tiêu dao chí tôn, chưa được Ngọc đế phong thần, đức sánh ngang trời đất, ẩn thân nơi sa trần trời xanh, xuyên núi xuyên hồ, vô hình vô ảnh, đạo pháp vô cùng, ngay cả Hứa Chân Quân ta cũng chẳng biết được lai lịch thật sự của vị này nữa, ngay cả đến Ngũ lão tôn giả của Đạo giáo là Đông Hoa đế quân, Dao Trì Thánh Mẫu, Huỳnh Lão, Thủy Tinh tử, Hỏa Tinh tử khi gặp mặt cũng phải lễ độ ba phần. Ây! Tu đạo cốt chỉ cầu đạo quả, hành đạo tại tâm, thành đạo cũng tại tâm, trong bùn sinh hoa sen, khổ tu mới là nhân thượng nhân.” Trụ trì Tam Giáo Tổng đàn nói: “Ui cha! Thì ra lai lịch của thầy tiên sinh lại vĩ đại thế, vậy ông là học trò của ngài ấy nhất định cũng rất là bất phàm rồi.” “Không dám, không dám, tiểu sinh thật sự chẳng biết gì cả, chỉ biết lễ Phật tọa thiền mà thôi.” Tôi ở Tam Giáo tổng đàn nhìn các Kê sinh đang nâng bút, những Loan sinh đều dùng ánh mắt kỳ dị nhìn tôi, khu vực gần kê bàn vốn dĩ không dành cho những người bàng quan vô sự, tuy nhiên Lư Sơn phái Hứa Chân Quân lại kêu tôi đến bên Thiên bàn nói rằng: “Âm khí chưa trừ chướng ngại vẫn còn nhiều, tu dưỡng ngày sau chú ý bồi dưỡng thiện công cao, tam tào phổ độ ứng vào thiên vận, giác ngộ đạo lý, tìm tòi lẽ chân chớ nên lười biếng.” Lại bảo rằng: “Đại đức công cao nên cần phòng ma, tâm kiên định bất biến hiển thần quang, do bởi chính tà là do tâm biện giải, liên hoa chuyển thế đời đời.” Khi tôi rời khỏi Tam Liên Giáo thì có một người đuổi theo, thở hồng hộc nói: “Tiên sinh, xin đợi một chút.” Anh ta nói: “Hiện giờ tôi vâng mệnh tọa cấm (quan), ý của đạo tổ muốn sau 49 ngày sẽ huấn luyện tôi trở thành Kê sinh, nhưng tôi ban ngày thì tụng kinh, ban đêm thì đả tọa, từ ngày thứ nhất đến ngày thứ sáu cũng không có cảm ứng gì. Đến ngày thứ bảy, lúc tôi vừa mới đả tọa thì mơ hồ nhìn thấy ở cửa có một vị Kim Giáp Thần, tôi nhìn về phía sau thì thấy có một người là tôi nữa, phía trước cũng có một người là tôi, bên trái cũng có một người, bên phải cũng có một người, còn tôi thì đang đứng giữa trung tâm, trên không trung có tiếng người hỏi tôi, ai là tôi? Tôi trả lời không biết. Kết quả là ngày hôm sau, đạo tổ truyền chỉ thị, tôi không đủ tiêu chuẩn để làm kê sinh, nên mở quan thả ra, hiện giờ tôi chỉ có thể làm Loan sinh, xin hỏi tiên sinh, tôi đã sai ở chổ nào?” Tôi nói với anh ta bằng một câu nói trong Tâm Đăng Lục: “Rời ngã biết ngã là sơ yếu, do ngã mà gia dĩ dùng ngã là trung yếu, lấy ngã bảo ngã, tức có tưởng tượng quang ảnh, lòng nghĩ muốn rời bỏ, rời bỏ mà không quên thượng yếu. Anh có hiểu lời của tôi không?” Anh ta gật gật đầu, vui mừng liền nói: “Thì ra là thế, thì ra là thế.” Theo như tôi được biết, làm Liên sinh thì những người thông thường đều có thể làm được, chỉ cần có lòng mộ đạo là có thể tham gia được. Tuy nhiên Kê sinh thì phải được huấn luyện từ Loan sinh, nhân quả kiếp trước của kê sinh tất nhiên là rất tốt, hướng đạo tâm kiên, trí tuệ tương đối cao, hơn nữa quan trọng hơn hết chính là linh trong cơ thể phải hoạt bát, sáng suốt, đây chính là điều kiện quan trọng nhất của kê sinh phù kê, linh trong không trung phải mượn linh của thế giới hữu hình mới có thể biểu hiện ra được, đây chính là đạo lý mượn vật dùng vật , cho nên tôi nói đây chính là một phương pháp Thiên Nhân hợp nhất, đây là hoàn toàn có thật, không phải giả dối. Còn về tính chính xác thì lại là một phương diện khác, nhưng chuyện linh ẩn nương vào thanh gỗ đào là hoàn toàn xác thực. Nhà Phật thì không tin Kê đồng, bốc quẻ, phù kê, nhưng cũng không phản đối rõ rệt, phật thì thuận theo tự nhiên. Thật ra thì Đạo cũng thuận theo tự nhiên, tuy nhiên nếu có những biểu hiện quá tĩnh mịch, không có linh dị thì làm sao có thế hấp dẫn chúng sinh hướng Phật, hướng Đạo chứ? (Lư Thắng Ngạn Văn tập 016 – Mạn đàm về linh cơ thần toán) Truyền kỳ về Lộ thủy hình nộm Những nhà bói toán dựa vào gì để có thể suy đoán mệnh vận cho người? Có vài người thì thông qua xem chỉ tay, xem tướng hay sờ xương cốt, cũng có một số người thì vận dụng đạo cụ như bốc quẻ, xem bài, xem tướng tinh…, ở nước ngoài thì có người xem quả cầu thủy tinh, có người bói Tây, cũng có người xem tướng mệnh bằng triết học. Trong số đó có loại tướng thuật mà tôi cho rằng rất thần kỳ và linh nghiệm, đó chính là đoán mệnh bằng Lộ thủy hình nộm. Hiện nay có tất cả bao nhiêu người biết dùng Lộ thủy hình nộm? Xin thứ cho tôi vẫn chưa thể thống kê hết được. Tôi thật sự đã gặp qua một thầy bói toán hai mắt nhắm chặt, ông ta không cần xem chỉ tay, cũng chẳng cần xem tướng, trong miệng chỉ lẩm bẩm những kinh văn gì đó mà chúng ta không hiểu được, thầy bói toán thắp lấy một cây nhang trên bàn thờ thần, bàn thờ ấy dùng vải đỏ hay vải vàng quấn chặt lại không nhìn biết được là vật gì cả, bạn nói ra họ tên, chổ ở, ngày tháng năm sinh, lúc đó thầy bói toán lập tức sẽ có thể nói ra bạn có bao nhiêu anh chị em, bạn đứng thứ mấy, hiện đang làm nghề nghiệp gì, hôm trước bạn đã làm chuyện gì, bạn đang làm việc ở đâu, trong lòng bạn hiện đang có những nghi nan gì, từ khi bạn sinh ra đến nay đã xảy ra những chuyện lớn gì, tất cả đều có thể tính ra được, những năng lực này khiến người đi xem bói phải trợn mắt há hốc cả ra. Tiếp theo sau, thầy bói sẽ nói về tương lai của bạn, làm nghề gì sẽ thành công, tiền đồ thăng quan phát tài, có những kiếp nạn gì không? Vận thành công như thế nào? Vận gia đình ra sao? Có một vài thấy bói Lộ Thủy hình nôm càng giỏi hơn, người xem chưa nói ra họ tên chổ ở thì ông ta đã đưa cho một tờ giấy, bên trên viết rõ bạn tên là gì? Bao nhiêu tuổi? Làm nghề gì? Làm bạn vừa nhìn đã khâm phục vô cùng, sau đó thầy bói toán sẽ mở miệng nói: “Giá tiền xem bói cũng có chia ra, người phú quý thì sẽ lấy tiền nhiều, còn người nghèo khó thì lấy ít đi, tôi xem mệnh của tiên sinh đây phú quy` trên thiên vạn, do vậy bói một mệnh phải là 3000, không biết ngài có bằng lòng chăng?” Thông thường thì những ai đi xem bói mà gặp được những thầy bói chưa bốc đã biết như thế đều rất tâm phục khẩu phục, lập tức ngoan ngoãn móc hầu bao. Bói toán bằng Lộ Thủy hình nộm, đoán quá khứ thì chuẩn xác vô cùng, tuy nhiên nếu đoán tương lai thì không nhất định, tôi viết truyện này không phải cốt ý chê bai gì Lộ Thủy hình nộm, mà vì bói toán bằng Lộ Thủy hình nộm cũng chính là một phần của Linh cơ thần toán, cho nên không thể nào không công khai bí mật bên trong được, bài viết này chính là một báo cáo bí mật cả ngàn năm mới gặp được, cam đoan rằng trước đây chưa từng có. Sử dụng Lộ Thủy hình nộm để suy đoán mệnh vận cho người trước tiên cần thờ phượng một pho Lộ Thủy hình nộm, vì sao lại gọi là Lộ Thủy hình nộm, bởi vì mỗi buổi sáng sớm đều phải đặt hình nộm ngoài trời để hứng lấy khí của sương mai, trước khi mặt trời mọc lên, phải thỉnh hình nộm ra ngoài, đến trước khi mặt trời chuẩn bị mọc phải thỉnh trở lại vào phòng. Do bởi hình nộm này ngấm lấy khí của sương mai cho nên gọi là “Lộ thủy hình nộm”, rất nhiều người biết trò này nhưng làm không biết cách tiến hành ra sao. Hãy nghe tôi thuật lại tỉ mĩ như sau: Phàm là những người luyện “Lộ Thủy hình nộm” cần phải chọn lựa ngày lành, lấy một đoạn cây liễu bên bờ sông nước chảy về Đông, nhờ thợ mộc đẽo thành hình nộm, dài 2 tấc 6 phân để chỉ âm số, mắt mày cần phải rõ ràng, thất khiếu linh lung, tả thủ khắc dương ấn, hữu thủ khắc âm phù, đầu búi hai búi tóc, dáng vẻ như đồng tử, trên thân vận nhiễu y, dùng chu sa, sữa của phụ nữ phối hợp với nhau viết lên tâm, can, tỳ, phế ở trên giấy vàng, móc lấy một cái lỗ ở trung tâm của hình nộm, cuộn lại nhét vào trong bụng, sau đó lại dùng máu mào gà hoặc là máu rùa trét lên trên miệng của hình nộm, chờ đợi nhà hàng xóm, kế bên hay biết chắc có đồng tử nào chết sớm thì lấy ngày giờ chết của đồng tử này viết lên trên giấy vàng, dán vào phía sau của hình nộm, đợi ngày Giáp Tý Canh Thân Mậu thì cúng luyện trong tịnh thất, dùng gà ác, cá khô, hương quả để cúng. Vào sáng sớm mỗi ngày đều niệm 1 lần Tam Chú, kế đó niệm 49 lần Truy Hồn Hiện Hình chú, sau đó sẽ đốt một đạo phù, lễ bái với hình nộm, chẳng những vào buổi sáng phải làm như thế mà vào buổi trưa và buổi tối cũng phải theo lễ mà làm. Sau 21 ngày, cho đến khi hai lá cờ vàng treo bỗng nhiên hợp lại rồi lại tách ra thì đến bước này mới có thể xem là sắp thành công, lúc đó hồn phách của đồng tử chết kia mới nhập vào gỗ liễu! Sau đó 35 tiếp theo, khi tiểu đồng kia có thể hiện hình thì mới được xem là đại công cáo thành. Trong thời gian cúng luyện nhất thiết không để chó mèo, sản phụ, hiếu tử tiếp cận. Truy Hồn Hiện hình chú như sau: “Hồn linh liễu linh, cửu khiếu đều thông suốt, ngoài có tứ tượng, trong có ngũ hành, ta là nhân đạo, người là mộc tinh, nay ta vâng sắc lệnh Ngọc đế cùng thông linh với người, sớm hiện chân hình, theo cùng tiếng hô của ta ủng hộ hình ta, rước thiện tống lộc, gặp ác trợ binh, hoặc lấy tài bảo, hoặc nhiếp hương canh, bệnh đến bệnh đi, chớ nên chậm trễ, tại gia xuất gia, đêm ngày tương thân, ngàn người khó gặp, vạn người khó tìm, chỗ nơi ta ở, tả hữu truy tầm, báo lên cát hung, đoán họa phúc của người, tốc tốc làm ngay. Ta phụng Đông Nhạc Đại đế quân….lịnh cương.” Nếu như phương pháp này luyện thành công thì xem như có hồn linh của tiểu đồng theo sát bên thầy bói toán, lực lượng của linh giới có thể biết được quá khứ của người, bạn chưa bước vào cửa thì đồng linh sớm đã điều tra biết thân thế của bạn rõ ràng, trong khoảng thời gian một cây nhang, bệnh đến bệnh đi, suy đoán quá khứ của bản chính xác vô cùng. Lễ bái đối với linh đồng chỉ cần có nhang, trà, quả, đồ chay một mâm là được, buổi sáng mỗi ngày thấm lấy linh khí của sương trời để nuôi dưỡng âm linh, mượn linh để đoán mệnh, tiền tài cuồn cuộn đến. Tuy nhiên phải yêu cầu bản thân của người thầy đoán mệnh phải có được linh thể, chỉ khi có linh thể mới hiểu được linh đồng nói gì về bạn? Linh pháp Lộ Thủy hình nộm cũng cần dùng giấy vàng, bịt kín lấy lỗ mũi của đồng tử thông minh lanh lợi vừa mới chết đi, trên giấy vàng viết ra ngày giờ chết của tiểu đồng. Cũng như hình nộm tiểu đồng bằng gỗ liễu chế tạo trước đây, lấy giấy vàng cuộn lại nhét vào trong gỗ, cách cúng luyện cũng là 21 ngày đến 35 ngày. Linh dị uy lực lớn vô cùng, thầy bói toán đoán mệnh nào có thể luyện được “Lộ Thủy Hình nộm” thì danh tiếng bói toán của họ sẽ nổi như cồn, mở miệng đoán trúng chuyện người há phải là chuyện khó khăn gì? Ở Bảo đảo có một vị tiên đoán mệnh danh tiếng mọi người đều biết, đoán trúng đến có thể cưới được một vợ, hai lẻ, nhà cửa tiền tài vô kể, ra vào đều dùng xe con riêng để đi lại. Nhìn chung bói toán cũng là một ngành nghề do đó Cục Thuế vụ đã đặc biệt cử một nhân viên đến thu thuế của ông ta, bên hợp tác xã cũng cử một nhân viên đến mỗi ngày giúp anh ta thu giữ tiền bạc, thật sự tiền tài như sóng cuộn cuộn đến vậy. Căn cứ theo sự điều tra của tác giả thì vị tiên đoán mệnh ở trên khi còn học tiểu học thì bỗng nhiên gặp cảnh báo có không kích (Đài Loan thời máy bay Mỹ không kích quân Nhật chiếm đóng), thế là trường học ngừng dạy, vị tiên đoán mệnh này theo đường nhỏ trở về nhà, ven bên đường đất hoang dã, ông ta nhìn thấy xác một bé gái nhỏ chết bên khe nước, nhìn cảnh tượng thê thảm vô cùng, ông ta lúc đó trong lòng cảm thấy bất nhẫn nên đã nhặt lấy manh chiếu rách đắp lên thân thể của bé gái kia, rồi sau đó đi về nhà. Không ngờ rằng tối hôm đó thân thể của ông ta lúc nóng lúc lạnh, giống như phát bạo bệnh vậy. Cũng do cơn bệnh này mà hai mắt của ông tiên đoán mệnh này dần dần mất đi ánh sáng, rồi sau cùng bị mù luôn, tay cũng có đôi chút run rẩy, lúc đó ông ta đã bắt đầu bói toán và đoán mệnh cho làng xóm xung quanh, nói ra cũng thật kỳ quái, hoàn toàn chính xác, do vậy danh tiếng ngày càng truyền xa, đến khi trưởng thành thì ông ta đã danh chính ngôn thuận xem bói cho mọi người, giọng nói của ông ta khi bói toán nhanh và có chút hơi run rẩy, hơn nữa không vẻ gì là trầm ngâm suy nghĩ cả, tay ông ta khẽ run rẩy lắc qua lắc lại. Người ở khắp nơi trong tỉnh đến xem bói giống như cá qua sông vậy, ai nấy đều phải xếp hàng lấy số thứ tự, những lúc quá đông còn phải ở khách sạn để chờ đợi, hơn nữa còn phải đợi đến ba ngày mới đến lượt. Ông ta có thể bói toán từ trẻ nhỏ cho đến người già, đoán về chuyện quá khứ, thật khiến người ta tấm tắc khen ngợi, bởi vì không có chuyện gì mà nói ra không đúng cả, về tương lai tuy không biết là có chuẩn xác hay không? Nhưng trước mắt có thể đoán được như thế thì đủ để thu hút đến mê hoặc mọi người rồi. Tác giả cũng có một lần đi qua nơi này nên tiện thể cũng đi xem ông ta bói toán, lúc đó là lúc ông ta đang có rất đông khách, người chờ đợi để xem bói đông vô kể, kẻ đứng người ngồi, khi tôi đi vào thì cảm thấy nơi đây từng trận trận âm khí, đây là một loại tác dụng phản xạ rất rõ ràng của những người có “hoạt linh”, tôi nghi ngờ ông tiên đoán mệnh này sử dụng thuật “Âm hồn báo thiên lý”, thế là tôi chú ý đến cách bày xếp trong nhà, ở nội đường có một thần án, trên thần án có thờ cúng một vật được bao bọc lại bằng vải vải, chẳng biết đó là vật chi? Trên bàn hương khói suốt ngày không dứt, bên phải là linh vị của tổ tiên, nhưng lại không có thần vị! Tôi chăm chú nhìn vào trong thì nhìn thấy nhìn thấy một quang cảnh mờ ảo, có rất nhiều con nít chạy ra vào không ngớt, một chốc lại chạy ra ngoài, một chốc lại chạy vào trong, chạy đến bên tai của ông thầy bói toán kia nói thầm bên tai, giọng nói của trẻ con vang lên không dứt, tay của ông thầy bói toán cứ run rẩy không dứt, miệng cũng nói không dừng, tôi cuối cùng cũng đã hiểu, thì ra ông thấy bói toán này sử dụng bí thuật “Linh đồng báo thiên lý”, loại bí thuật này chỉ có những người thật sự hiểu rõ mới có thể nhìn ra được, người bình thường chỉ biết là bói rất chuẩn nhưng lại không biết là vì sao, thậm chí còn cho rằng ông thấy bói mù kia là nhân vật bán tiên là một thần tiên nào đấy nữa! Theo như tôi được biết thì ông thấy bói mù kia bản lĩnh tự nhiên cao thâm là có được từ sự báo ân của nữ âm hồn, nữ âm hồn đêm đó đã giúp ông thầy bói toán ấy luyện thành linh thể, hơn nữa lại theo bên người ông ta, mượn vào phụ thể của ông thầy bói toán đó để sinh tồn, tuy nhiên ông ta lại không có cách nào để vận linh, mắt bị mù chính là hậu quả của việc không thể vận dụng linh, về sau nữ âm linh chủ động kêu gọi linh đồng, giúp ông ta làm việc, cũng xem như là bán mạng giúp ông ta kiếm tiền vậy, đây cũng chính là nhân quả báo ứng của ông thầy bói toán này. Trong số những người mà tác giả quen biết, có thanh niên họ Huỳnh, linh khiếu đặc biệt nhanh nhạy, đã từng nhận một ông thầy bói bài làm thầy, anh ta từng nói qua với tôi là ông thầy bói mù kia ắt là có gì cổ quái đó. Tôi bảo: “Người quân tử không chặn đường tài lộ của người, hà tất phải đố kỵ chứ!” Anh ta nói: “Mượn âm linh là bàng môn tả đạo, căn bản vốn không phải là cách kiếm tiền chân chính, tôi quyết phải đi phá ông ta mới được.” “Hà tất phải thế chứ! Thế anh chuẩn bị dùng pháp gì để phá linh đồng của ông ta?” “Tôi đến miếu Bách Tính công ở Vụ Phong, xin mượn dùng 12 cây nhanh dùng Chiêu Thỉnh Âm Hồn chú, đốt nhang thành tro, rồi sau đó đem đến chổ ông ta, nhân lúc mọi người không chú ý rãi tro ấy vào trong lư hương, lúc đó linh đồng của ông ta và Âm hồn của tôi sẽ đấu pháp, khi Âm hồn của tôi thắng được thì tất nhiên ông ta sẽ bị loạn cả lên và từ đó sẽ bói không chính xác nữa. Ha ha…!” “Đợi đã, anh làm sao mà biết được Âm hồn của anh sẽ thắng được Linh đồng chứ?” Tôi hỏi. “Lư Thắng Ngạn, anh là cao thủ mà, tôi dùng Ngũ Quỷ Hỗn Thiên Pháp, dùng 5 cái đầu lâu được thu lại vào canh 5, ngày Ngũ Quý, bên trên có viết họ tên của Ngũ quỷ, mỗi lần qua ngày quý sẽ đốt một đạo phù lịnh và cúng tế dưới bàn thờ Lục Giáp Thần, chân đạp hai chữ Khôi Cương, tả thủ lôi ấn, hữu thủ kiếm quyết, hớp lấy 5 ngụm Ngũ phương chân chí, niệm Hỗn Thiên chú 7 lần, đốt 5 đạo Ngũ quỷ phù, sau đó dùng giấy vàng và 12 cây nhang của âm hồn Bách tính công cùng hóa chung, bỏ vào trong lư hương của tên thầy bói kia, làm thế nào mà không thắng chứ?” “Chiêu này quả nhiên tuyệt diệu, nhưng mà anh phá đi linh đồng không phải cũng làm tổn đi đức hạnh của mình sao?” “Không thể lo nhiều như thế được, ông ta kiếm tiền đã kiếm cũng đủ rồi, đây chính là thế thiên hành đạo, để tránh cho hắn kiêu quá thôi!” Anh chàng họ Huỳnh này đúng là thanh niên khí thịnh vậy, anh ta cảm thấy bản thân có bản lĩnh, chỉ cần thấy gì không thuận mắt thì sẽ xốc tay vào để quản, tính tôi thì trung hậu, tuy là biết rõ có người dùng tà pháp, tuy nhiên cũng chỉ mắt nhắm mắt mở mà thôi. Cũng như ở Thánh đế miếu có một kê đồng hỏi chuyện cũng sử dụng “Lộ Thủy hình nộm” làm pháp bảo, chuyện này cũng chỉ có mình tôi biết, nhưng tôi cũng không có nói ra. Chàng thanh niên họ Huỳnh trên quả nhiên phá được thuật linh đồng của ông thầy bói mù, từ đó thuật bói toán của ông ta không còn linh nghiệm nữa, ngày nay thì danh tiếng đã không còn được như xưa nữa, kiếm tiền cũng đã ít đi, dần dần khách đến xem cũng vắng đi, thật là tội nghiệp thay! Tôi nghe nói có người nói: “ông ta đã đi xuống dốc rồi, xem bói cũng có thời vận xem bói mà.” Có người nói: “Làm thế nào ấy nhỉ, chỉ toàn là nói lung tung thôi, chẳng có chuyện nào chuẩn xác cả.” Lại có người nói: “Tiền kiếm cũng đủ rồi, nên nghỉ ngơi thôi.” Mọi người đều không biết tại sao, chỉ có mỗi mình tôi thấu hiểu sự tình. Tam Sơn Cửu hầu tiên sinh từng nói qua với tôi: “Tam Hoàng, Phục Nghi, Thần Nông, Hoàng đế, Chu Dịch Văn vương, Chu công, Đại thánh Khổng tử, Thánh Nhân Võ lược Thành Vương, Quỷ Cốc Tiên sư, Huỳnh Thạch công, Tôn Võ tử tiên sinh, Viên Thiên Cương, Lý Thuần Phong tiên, Trương Tử Phòng, Tôn Tẫn tiên sinh, Thanh Ngưu Cao sĩ Đông Phương Sóc, Ma Y Quách Phác, Lâm Linh Tố, Đông Hoa Đế quân, Thiệu Khang Tiết, Ôn Châu Lư tiên sinh, Y Xuyên Trình tiên sinh, Lục Đinh Nhĩ báo pháp truyền trước truyền sau của những vị này là tương đối chính phái, còn Âm Linh nhĩ báo pháp là tà phái, Liên sinh ngươi phải nhớ kỹ, nhớ kỹ lấy.
|