Người gửi |
Nội dung |
Thông báo chung Tới chủ đề |
Khách |
|
|
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 6 16/12/11 17:20
|
|
|
thân chào tỷ Diệu Định. Trí Minh nhận xét đúng đấy tỷ ơi.. có câu hôm qua không phải hôm nay..hôm nay không phải ngày mai..thật ra Minh Thiên biết Cô lô ny đã lâu, từ hôi còn sinh hoạt bên trang VUTRUHUYENBI...lúc đó 2 anh em tâm vẫn còn sân nhiều, hễ ai mà nói mình cái gì ấy là mình phải đập lại bằng 2, 3 và thấy thế mới đúng.. ngày nay tâm tư sau những sóng gió cuộc đời, phật pháp thật sự cũng đã làm bình lặng đi chút ít nên chắc rằng cũng đã cải tiến rất nhiều về tư duy..đọc bài của Cô lô ny Minh Thiên thấy Cô lô ny đã thật sự tiến bộ rất nhiều rồi..và mình cũng như Cô lô ny lòng cũng đã lặng yên và thay đổi nhiều, vì không có ai khen mình thì mình đành tự khen mình vậy... rất cảm ơn tỷ và Cô lony đã đưa nhiều bài viết hay lên diễn dàn. Minh Thiên |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 3 27/12/11 0:43
|
|
|
KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN – QUYỂN VI, PHẨM TẾ ĐỘ NHÀ BIỆN BÁC TA-MA-SA THỨ MƯỜI BA KINH CHUẨN ĐỀ BẢN TÔN QUYỂN THỨ VI MẬT SƯ: THÍCH GIÁC TIẾN - THIỀN NHÂN
TẾ ĐỘ NHÀ BIỆN BÁC TA-MA-SA PHẨM THỨ MƯỜI BA
Lúc bấy giờ lão Tôn Sư Duyệt Bát muốn tranh chấp việc cúng dường và phá hoại công hạnh của Phật, nên lão Tôn Sư cùng với Thất Đạo Tinh Quân gồm có: một là Hồng Đạo Tinh Quân, hai là Hoàng Đạo Tinh Quân, ba là Bạch Đạo Tinh Quân, bốn là Xích Đạo Tinh Quân, năm là Thanh Đạo Tinh Quân, sáu là Hắc Đạo Tinh Quân, bảy là Trợ Đạo Tinh Quân cùng nhau kéo đến rừng Ô Ta chủ ý muốn phân cao thấp với Phật Mẫu Chuẩn Đề. Thế lực của lão Tôn Sư rất hùng mạnh, trong bảy đạo Tinh Quân có Trợ Đạo Tinh Quân Ta Ma Sa là biện bác lỗi lạc bậc nhất. Ngài Ta Ma Sa được mọi người tôn vinh là bực đại hiền, lão Tôn Sư suy cử ngài đứng đầu trong chúng đến đàm luận đạo pháp với Phật. Khi ấy chư Thiên trên cung Trời Đâu Xuất Đà tên là Đại minh cùng với quyến thuộc bước vào pháp hội của Phật Mẫu Chuẩn Đề, quỳ gối đầu mặt lạy sát đất, hửu nhiểu ba vòng, ngồi qua một phía chắp tay bạch Phật rằng: - Thế Tôn! Chúng con là hàng trời ở cung Đâu Xuất Đà, do sự thù oán chiếm đoạt cung nữ của thần A-Tu-La, nên chiến tranh giữa hai bên không có ngày chấm dứt. Hôm nay chúng con đến nơi đây, thấy Phật dạy cho tứ chúng những lời thiện pháp vô cùng quí báu. Ngưỡng mong đức Thế Tôn từ bi chỉ dạy cho chúng con có dịp hướng về đường chân lý lâu dài mà thân và tâm không hề thóai chuyển vọng chấp. Khi ấy đức Phật Mẫu Chuẩn Đề phóng ánh quang minh nơi con mắt ở giữa sáng chói nhỏ như cây kim soi khắp trong đại chúng để quan sát căn cơ của chúng sinh, rồi vân tập các vị hóa Phật trên đỉnh Tỳ Lô ứng hiện phân thân bay lên hư không đồng tiếng ca ngợi công hạnh của Chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai rằng: 1. Phật quốc trang nghiêm ánh đạo vàng Chuẩn-Đề Phật Mẫu xuống trần gian Khai pháp chân truyền chưa từng có Mật Giáo Bí Môn Đại Oai Thần Đức từ rộng lớn ngàn muôn kiếp Ẩn nhẩn tịnh tâm vạn muôn nơi Chiết tính giả thân vô lượng số Phật đấng pháp vương trí huệ mầu Dù cho quá khứ, hiện tại thảy Vị lai cộng lại số là bao? Tu hành công hạnh không nhàm chán Sống chết thay nhau nguyện tiến tu Sự đời giả tạm chôn chân mãi Phật đã tìm ra đạo chân như Thức tỉnh vô minh và vọng tưởng Gom bầu võ trụ nhẹ không sai Ngài đã trọn xong lời phát nguyện Chư Phật phân thân đến nơi đây Tán tụng pháp môn thành chân lý Mở đường giải thoát hướng tương lai Pháp mầu Bí Mật không lường được Cứu độ nhân sanh cả muôn loài Thiện tâm gieo cấy không nao núng Diệt ác độ mê chúng sinh chung Bồ-Tát tịnh tu không lay chuyển Gương sáng cho đời mãi noi theo An trụ chơn ngôn thành vô gián Vui cùng tam muội chẳng đắn đo Tự tại bước chân vào thế giới Phân thân độ chúng vạn muôn nơi Trời người trông thấy đều tin tưởng Lễ lạy cúng dường đấng Hùng-Bi Việc làm đã mãn Phật thọ ký Danh hiệu có tên Phật Chuẩn Đề Tiếng đồn vang dội mười phương cõi Quốc độ trang nghiêm tỏa mây hương Oai thần dõng mãnh chân ngôn chú Pháp hội nương theo Bí Mật Môn Vun trồng cội phước hằng sa kiếp Tứ chúng vui mừng thảy tán dương Tôn kính cúng dường nơi Phật Tổ Xuất sinh Mật Tạng đấng Tỳ Lô Xoa dịu vết thương nhiều trọng trược Vô minh tăm tối khó bước ra Tình thương rộng lớn dìu sinh chúng Tiếng pháp ngân vang phá mây mờ Kính trọng bậc Thầy của ba cõi Trí huệ sáng soi cả nhân gian Con đường chân lý nay rộng mở Thuyền giác đưa sang đến Niết Bàn Chư Phật chứng minh lời thệ nguyện Phân thân thành Phật thiệt chẳng sai.
Bấy giờ các hóa Phật nhiếp về đỉnh Tỳ Lô của Phật Mẫu Chuẩn Đề rồi biến mất. Đức Phật vì đại chúng, chư Thiên cõi Đâu Xuất Đà mà dạy rằng: - Này Thiên Đế! Ở trong thế gian hay ở ngoài thế gian, hoặc là Dục Giới, Sắc Giới, vô Sắc Giới, tất cả đều bị hệ phược bởi vô minh, phiền não. Nhưng trong nhóm người trí chẳng ai tìm ra, chẳng ai biết rõ. Ví như vị Hải Đạo Sư cùng với chúng nhân năm mươi người ra biển khơi tìm ngọc. Tất cả mọi người không ai biết ai có chủ ý đen tối hại nhau khi thấy vàng bạc, ngọc ngà, châu báu. Ví như vua có các quần thần ba quan văn, võ. Mọi người không ai biết ai có chủ ý đen tối chiếm đoạt ngôi báu. - Này Thiên Đế! Tất cả chúng sinh bị sanh tử khổ đau là bởi hệ phược phiền não vô minh mà trong nhóm người trí chẳng ai tìm ra. Do đó mà có cảnh con bất hiếu, cha bất nghĩa, vợ lăng loàn hiểm ác, anh giết em v.v… làm cho thế gian thêm nhiều điều điên đảo khốn cùng, hại nhau chẳng cần đắn đo suy nghĩ. Ví như nơi thế giới của Phật Tỳ Lô Giá Na, tuy lấy Bồ-Tát làm thất bảo mà trong cõi nhân gian cũng lắm kẻ tạo tội thất nghịch chẳng đồng. Bọn Đổng La Tiên hợp với tập đoàn lõa thể hơn một trăm người mong ám hại Phật để giành phần lợi dưỡng và nắm ngôi vị độc tôn thiên hạ, nhưng cuối cùng họ đều thất bại. - Này Thiên Đế! Phiền não vô minh thật là ác nghiệt thay. Đã bao phen Như Lai cân nhắc cho đại chúng những lời pháp màu cẩn mật vi diệu như thế để tu hành. Nhưng cũng có các thầy Tỳ Kheo vì vô minh phiền não không tự kềm chế được, phải bỏ pháp hội đi theo Tỳ Kheo Sim Sum Pa làm điều tội lỗi tai hại. Thời gian và vô thường nhanh như một cơn lốc, không tha thứ cho bất kỳ một ai. Như Lai đã cảnh tỉnh mọi người tu hành thiện nghiệp để đến Niết Bàn. Trong trận chiến đấu cuối cùng với bọn Ma-Vương Đin-Sa-Da, Như Lai tuy đã chiến thắng nội tâm và ngoại cảnh. Nhưng Như Lai đã phát tâm đại độ nhường quyền cai quản nơi ba cõi cho Ma Vương, Như Lai ở trong đại định chẳng cần xuất định, Như Lai là Định Tâm Vương Sư Tử Tam Muội Đà Ra Ni, im lặng thư thới không bị hệ phược bởi trần lao vọng lự. Ma Vương Đin-Sa-Da biết mình không kham nội vô lượng tạng báu Bí-Mật Tổng Trì nên đã thét kên một tiếng lớn kinh cuồng rồi biến mất. - Này Thiên-Đế! Như Lai đã trãi qua vô lượng ức kiếp tăng kỳ tu tập không tranh lấn gian tham, không hơn thua tỵ hiềm, không thương ghét vô ích, không giành giựt địa vị đê hèn, không mua danh bán tước, không ích kỷ keo bẩn, không dùng lời nhảm nhí, không cố ý làm hại chúng sanh, không ham mê dâm dục, không mưu gian xảo trá, không bè đảng hại người, không nạt nộ kẻ yếu thế cô, không lừa đảo mua chuộc, không thư phù yếm đối, không ham mê tiền của, không trục lợi cầu danh, không khinh người ra mặt, không chê khen quá đáng, Không nghĩ quấy cho người, không gần gủi bạn ác, không nghe lời xúi giục, không đến chỗ đông người, không rượu chè bài bạc, không ác hại chúng sanh, không trừng phạt tôi tớ, không buông lung vô độ, không ham thích sung sướng, không quyền uy thế lực, không thù oán với người, không lừa thầy phản bạn v.v… Trong khi Như Lai thực hành những pháp “không” này mà Trời, Người, Thế gian không ai hành nỗi, thời những nghịch cảnh luôn luôn xuất hiện. Như Lai kham nhẫn an trú vào Mật pháp Tối Thượng Đà Ra Ni chú: “Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề ta bà ha” vào định Tổng Trì an nhiên tự tại. Do điểm này các vị Thiên Đế muốn hướng về con đường chơn lý lâu dài thời cần phải tu cần phải học và thực hành những công hạnh chơn thật mà Như Lai vừa nói đến. Ngài Kim Cang Mật Tích Bồ Tát nghe xong lời dạy của Phật, lòng hoan hỷ ở giữa đại chúng nói kệ khen rằng: 1. Đấng Đạo Sư Thiện Mật Trí huệ không ai bằng Hay cân nhắc dạy bảo Pháp thiện pháp phi thiện Giảng dạy nghĩa nhiệm mầu Căn cơ cao cùng thấp Đều có thể hiểu biết Ngài mở lòng đại bi Xoa dịu vết thương si Cho tất cả chúng sanh Bồi dưỡng pháp ẩm thực Khiến yếu đuối tan biến Mạnh khỏe lần bước đi Sáng suốt thấy sự thật Hư dối cùng chơn như Rõ ràng không lệch lạc 2. Đấng Mật Chủ Đạo Sư Thành tựu đạo chơn như Im lặng không diêu động Mà giảng nói nghĩa lý Pháp giải thoát không hai Thâm sâu trí mẫn đạt Chơn pháp tự biến hiện Thực hành không hư dối Bỏ ác được thiện căn Bỏ mê được trí huệ Bỏ dữ được hiền lành Bỏ danh, tiếng đồn khắp Bỏ vật dục kính yêu Bỏ rượu được tươi tỉnh Những món pháp như thế Chẳng vin động qua lại Phải trái kiền tan biến Thương ghét là u mê Vui buồn mất trí huệ Pháp đối đãi làm hại Thế nhân chẳng ai biết Bậc thánh chẳng ai ngờ Giấc mơ của muôn kiếp Quay đi rồi diễn lại Chỉ có phật rõ biết Cội nguồn của khổ đau Món Diệu Pháp Bí-Mật Như Lai không chán mỏi Tỉnh tu thân trầm lặng An ổn phục phiền nảo Điều nhu tánh tham sân Thắng phục sự biếng nhác Độ lượng khi uống ăn Bồ-Tát cần nên học Thanh Văn phát tâm tu Duyên Giác hằng quan sát Các pháp tánh tướng này Ấy là chơn tịnh đạo Lúc ấy ở bên ngoài rừng Ô-Ta, lão Tôn Sư Duyệt Bát cùng với Thất Đạo Tinh Quân trên đường đến chỗ Phật ngự. Ông hiền giả Ta-Ma-Sa bị lạc trong rừng, lòng bỗng nhiên rung động sợ sệt, ông cố gắng tìm mọi người khắp nơi nhưng không gặp, bèn ngồi lại nghĩ chân dưới tàn cây lớn. Bỗng ông trông thấy có một người đang ngồi tịnh tu cách đó không xa, ông đến gần bên cạnh mà người đó vẫn không hay biết. Vừa trông thấy diện mạo của ngài Chiết Độc Hành Giả trong lớp thân người Đầu Mãng Xà, ông giựt mình kinh sợ định bỏ chạy. Bấy giờ ngài Chiết Độc Hành Giả lên tiếng nói kệ rằng: Hiền Giả Ta-Ma-Sa! Mặt ác lòng thiện niệm Lòng ác mặt thanh bai Trong cả hai điều này Trí nhơn thường hiểu rõ Lòng ác mặt hung ác Thiện niệm mặt xinh thay Trong cả hai điều đó Hiền nhơn thường thấu hiểu Chớ nên sợ mặt ác Mà nên sợ lòng ác Đạo chánh thường hoằng khai Thân tâm ưa Mật Tích Đạo đức thiệt là hay!!! Hiền giả Ta-Ma-Sa nghe bài pháp kệ vừa xong thời thân tâm trở lại an định, bèn đến gần thưa hỏi ngài Chiết Độc Hành Giả rằng : - Thưa Tôn Giả! Ngài nói kệ rất hay, tôi nghe lòng rất cảm phục. Nay xin hỏi Đại Tôn Giả, nếu người có tâm ác mặt ác thời làm sao biết được ? Người có tâm ác mặt thiện làm sao rõ được ? Người có tâm thiện mặt ác làm sao nhận được ? Rất mong Đại Tôn Giả vì tôi mà chỉ dạy cho điểm khó khăn này ? Bấy giờ Chiết Độc Hành Giả vì ông Hiền Già Ta-Ma-Sa mà dẫn giải yếu lý Phật Đà rằng: - Này Ta Ma Sa Hiền Giả! Lúc ngài đến gần tôi thâm tâm ngài không sợ, vì lúc ấy tôi đang ngồi tu, cả tôi và ngài đều có một thứ tâm thiện giống nhau. Nhưng khi ngài nhận thấy khuôn mặt Mãng Xà độc ác của tôi thì ngài bỗng nhiên kinh sợ bỏ chạy, đó là do mặt ác của tôi và tâm ác của ngài gặp nhau, nên ngài mới có hành động hoảng hốt lên như thế. Trong cơn đại định Mật Pháp Diệu Trạm Tổng Trì, tôi liền xuất định vì ngài mà nói bài kệ chân lý khuyến hóa khiến cho tâm ngài bỗng nhiên hết sợ, đó là do tâm lành tốt của cả hai người gặp nhau nên rất mừng rỡ, dứt bỏ các phiền phược ngoại cảnh, ấy cũng là tâm đạt cảnh đạt. - Này Ta Ma Sa Hiền Giả! Nếu ngài đem những câu hỏi về đạo đức cật vấn tôi thời thiệt là không đúng. Bởi vì khuôn mặt tôi rất đáng ghê sợ, nhưng rất may mắn và lẹ làng ngài đã hiểu được tôi trong phút giây, nên ngài đã không còn ngần ngại lo sợ nữa. Này Ta Ma Sa Hiền Giả! Tất cả những câu hỏi của ngài đều lọt vào hành động tâm và cảnh, nếu ngài khéo quan sát thời sẽ hiểu được chơn lý rõ ràng. - Này Ta Ma Sa Hiền Giả! Tôi đã bị vô thường và ác tâm cướp mất một phần tướng tốt của cơ thể. Nhưng nó không cướp mất của tôi một trí huệ tuyệt vời mà Phật đã hằng chỉ dạy những phương pháp tấn tu giải thoát. Ngài Chiết Độc Hành Giả muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Hãy lắng nghe pháp lý Đà Ra Ni Tổng Trì Hộ đạo trong Mật Định Cạo sạch các phiền nảo Như cắt bỏ râu tóc Nhiễm tịnh được an vui Tất cả biển ô trọc Dường như cơn ảo ảnh Thoáng qua mất rồi sanh Người trí không nao núng Khắc phục tiến vượt lên Quên mình tâm nhẩn nhục Bỏ giả được chơn như Lúc hành lúc không hành Biếng nhác cùng tinh tấn Thấy nghe như gió thoảng Được mất đều hườn không Chỉ chuyên tâm cần cầu Pháp Phật món giải thoát Ai làm được việc này Là gần đạo vô thượng. Ông Ta Ma Sa Hiền Giả nghe bài kệ xong rồi, tâm hồn chợt tỉnh quỳ xuống lễ bái ngài Chiết Độc Hành Giả. Vị La Hán này hướng dẫn cho Ta Ma Sa Hiền Giả đến gặp Phật Mẫu Chuẩn Đề. Ông đi nhiễu ba vòng nơi Phật ngự, rồi quỳ xuống chắp tay bạch rằng: - Thế Tôn! Ngài là đấng trí huệ bậc nhất trong ba cõi sáu đường, xin Đấng Từ Bi rộng mở con đường chơn chánh tu hành cho tôi và tất cả chúng sanh thấy được lý tánh giác ngộ dễ tu dễ tập và dễ thành tựu đạo mầu. Rất mong đức Thế Tôn hứa khã chỉ dạy cho được lợi ích an lạc. Phật Mẫu Chuẩn Đề mĩm cười khoan thay, rồi vì Hiền Giả Ta Ma Sa mà dạy rằng: - Này Ta-Ma-Sa! Nếu có người ở trong cảnh thuận và nghịch mà tu hành không chướng ngại, đó gọi là người có trí. Nếu ở trong cõi nhơn gian này không luận là kẻ ác người thiện, kẻ ngu người trí đều phát tâm vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đây gọi là người có lòng đại bi lớn đối với tất cả chúng sanh, người đó không có lòng sợ sệt là ông Thầy lớn hay giúp đỡ chúng sanh đủ mọi phương tiện tiến tu giải thoát. Người đó không có tâm phân biệt là khó hay dễ, cao hay thấp, trọng hay khinh, nghèo hay giàu. Bởi vì người đó hiểu biết ở trong chốn nhân gian đã sẳn có những pháp phân biệt ấy rồi. Điều cần thiết cho sự tu hành là nên giải thoát xa lìa những ý niệm phức tạp điên đảo, thời tất cả các pháp chẳng có pháp nào khó chẳng có pháp nào dễ. Từ nơi đó người tu sẽ đạt được chơn lý Tối Thượng Bình Đẳng Mật Ý Đà Ra Ni một cách dễ dàng, mà hàng Thanh Văn, Duyên Giác cần phải tu phải học. - Này Ta Ma Sa! Pháp có hai thứ: một là dễ hai là khó. Pháp dễ tu mà gặp hoàn cảnh dễ tu, thực hiện được pháp tu thời mau chóng thành tựu đại định Tam-Muội. Nếu biếng nhác là bỏ lỡ cơ hội tu hành thời ở trong hoàn cảnh khác không thể thực hiện được. Nếu pháp tu dễ mà gặp hoàn cảnh nghịch thời người tu thực hiện pháp tu khó thành tựu, nhưng có tâm kiên trì thời hoàn cảnh nghịch vượt qua dễ dàng. Nếu biếng nhác tức là đánh mất cơ hội tốt cho mình và cả thảy chúng sanh. - Này Ta Ma Sa! Pháp khó tu cũng lại như thế. Nghĩa là pháp tuy khó mà gặp hoàn cảnh dễ tu, thời đó là cơ hội quý báu cấn nên phát huy tu tập cho đến khi thành tựu. Nếu biếng nhác tức là mất tất cả sa đọa vào chốn ác đạo. Ngược lại pháp khó tu lại gặp phải hoàn cảnh nghịch, cần phải phát huy ý chí mạnh mẽ thời thành công đắc quả dễ dàng. Nếu biếng nhác pháp tu không được phát huy, hoàn cảnh nghịch sẽ dìm người ấy xuống bùn lầy tội lỗi sanh tử nhanh chóng. - Này Ta Ma Sa! Trong đời quá khứ Như Lai đã không quản ngại sự khó khổ tu hành đắc độ ở vô lượng thế giới, gần gủi theo các đức Phật không chán mỏi trãi qua số kiếp như vi trần xem chừng như giấc mộng hôm qua. Như Lai không bị bốn thứ độc hại: tình, tiền, danh, lợi làm hại, nên các phiền nảo bị suy bại không có chỗ đứng vững. Như Lai an trụ vào đại Pháp Định Mật Quang Minh Tam Muội Đà Ra Ni, nên các kiết sử, lâu hoặc bị tan biến, nghiệp ác không có chỗ nương cậy. Như Lai đã hàng phục được thất tình: mừng, giận, buồn, vui, thương, ghét, muốn và những món pháp vi tế tưởng còn sót lại trong thân tâm. Như Lai đã trãi qua số kiếp tu hành lâu xa, xóa bỏ tánh linh và sự nhạy cảm, xóa bỏ trí phàm phu và sự ham muốn, xóa bỏ sự rung cảm của nội tâm và ngoại cảnh. Như Lai im lặng an nhiên không nhiễm ô các pháp và không có ý xuất định, an trụ rỗng không nhẹ nhàng giải thoát. Bấy giờ đức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 1. Pháp Tối Diệu Tối Tôn Chứa vô lượng chơn ngôn Của hằng sa chư Phật Muốn chóng mau thành tựu Không nhàm chán khó dễ Chỉ chuyên tâm tu hành Thuận nghịch ở ngoài tâm Như chớp nhoáng rồi tan Khó dễ từ nơi đó Tinh tấn thắng phục được Huân tập món Mật Giáo Đà Ra Ni đại nhạo Khó lường chẳng suy gẫm Hay trợ đạo cứu người Thu phục các tâm ác Oai lực đại dõng mãnh Vượt qua hàng trí nhơn Trải ức số muôn kiếp Độ vô lượng chúng sanh Khiến vào nơi Phật đạo 2.Ta-Ma-Sa Hiền Giả! Tâm ác khó chế ngự Việc ác lại dễ làm Hoàn cảnh hay đưa đẩy Xúi giục bực hiền nhân Làm những điều bất thiện Thuở quá khứ đã qua Như số kiếp vi trần Nơi thế giới Cực-Ác Do sức thệ nguyện độ Ta hành đạo Bồ-Tát Sanh vào thế giới đó Nghiệp ác rất nặng nề Hành động và cử chỉ Nói năng và ăn uống Ngủ nghĩ sáng lại tối Nam, Nữ tánh hung dữ Sống chết lấy làm vui Gươm đao sáng lấp lánh Để phục vụ chém giết Sự sống không nhơn nghĩa Cha mẹ, anh chị em Bất nghịch liền giết bỏ Man rợ không cùng tận Vua quan đều như thế Mạnh sống yếu chết đi Thù oán rất xem nhẹ Đời sống như dã thú Quốc độ đáng kinh sợ 3. Ta sanh vào nơi ấy Kết huyết thống cha mẹ Anh chị em bạn bè Rồi từ giả quyến thuộc Vào rừng sâu tu hành Phương tiện lành như thế Khiến mọi người cảm xúc Mà lo lắng cho ta Nơi hoang dã rừng cấm Chỗ Quỉ dữ Mãng Xà Rắn độc, Bò Cạp thảy Hung thần hù dọa nạt Chuyển động lòng Bồ-Tát 4. Vua Diệu Ác hay tin Trong nước có người tu Sai quân thần tìm đến Để ám hại thân ta Do bổn nguyện sâu nặng Tu tập Pháp Bí-Mật Chuẩn-Đề chơn ngôn chú Oai-Thần đại mật nhiệm Cảm hóa tịnh màu mầu Vô vi vô biến hiện Ứng nghiệm đại chú võ Phá ác xô bạt ác Ác nhơn chẳng đến được Họ liền dùng hỏa công Đốt rừng để hại ta Gió lửa vô cùng tận Cháy mạnh cả bốn hướng Bấy giờ trong Mật Định 5. Ta tụng chú Chuẩn-Đề Khiến hai vị hộ pháp Chuyển Thế Đại Long Vương Phun nước trừ lửa dữ Dập tắt trong phút giây Để che chở thân ta Lòng bi độ tất cả Nguyện xã thí tấm thân Nên ta dạy Hộ Pháp Lui về nơi bổn quốc Quân thần, vua Diệu Ác Không bỏ lỡ cơ hội Bao vây chỗ ta ngồi Dùng dao gậy đánh đập Cung tên tẩm thuốc độc Bắn thẳng vào thân ta Việc làm rất hung ác Mà tâm ta chẳng sợ Thản nhiên sức chịu đựng Máu chảy đầy y áo Thân tâm vẫn bình tỉnh Như chẳng có việc gì Khiến bọn chúng ngơ ngác Nhìn nhau mà bàn luận Thuốc độc thấm vào máu Chạy rần vào tim mạch Khống chế các huyết quản Bóp chết cả thân thể Nhịp tim như ngừng đập Mà ta vẫn trụ vững Niệm thần chú Chuẩn Đề An nhiên vào đại định Sống chết ở thế gian Vượt ra khỏi tầm mắt Suy ngẫm chẳng hiểu được Dường như diển ảo thuật Để hàng phục chúng nhơn Thân ta liền hóa lớn Thu nhiếp các khí giới Chuyển thành đài sen báu Oai nghi đại dõng mãnh Ý chí vô cùng tận Sức mạnh như Thái-Sơn Trang nghiêm Phật quốc độ Ánh sáng chiếu diệu khắp Xô bạc các ác nhơn Thần thông đại tự tại Hiển lộ cam lồ vị Từ bi vô chướng ngại Thắng phục chư chúng sanh Vượt qua khỏi ba cõi Khiến Trời, Người ngơ ngác Không lấy gì so sánh Sợ hải chẳng dám khinh Gươm giáo đều hạ xuống Mà quy-y Tam-Bảo Vua Diệu-Ác hồi tâm Quay về đường chơn lý Nghe pháp không chán mỏi Tu tập hạnh chơn như Tối Mật Ý thần chú Chúng nhơn theo đức vua Cũng tu tập Thánh Thiện 6. Ta Ma Sa Hiền Giả! Sự ganh tỵ mạnh mẽ Dù cố gắng thực hiện Để thắng kẻ chơn tu Việc ấy là mộng ảo Không ai ham chí thú Thích ác làm việc ác Mà cũng chẳng được gì Suốt đời sống đau khổ Như một kẻ bị giam Thân tâm bị bóp nghẹt Không có chỗ nương nhờ Và chịu mọi hình phạt Khí cụ rất cay độc Hoàn cảnh là như thế Kẻ trí khéo xét soi Sẽ hiểu được việc này 7. Ta Ma Sa Hiền Giả! Thân này là vô thường Cái chết rất dễ đến Không ai ngăn cản được Bỏ mạng trong phút giây Thắng bại có ích gì Tranh nhau giành thế lực Khi chết nó về đâu? Thế nhân ai hiểu được? Giả sử đều hiểu được Nhưng không cải sữa được Bởi lòng tham sân si Quá thạnh và cường bạo Khiến ác tâm vẩy đầy Không ai cưỡng lại được 8. Ta Ma Sa Hiền Giả! Nếu người chưa chứng quả Ở nơi huệ giải thoát Thân tâm chưa thanh tịnh Cũng không thể cưỡng được Nếu có người chơn thật Cầu quả vị giải thoát Ngày đêm không mệt mỏi Tinh tấn quên ăn uống Quyết chí đến chơn như Oai nghi đều giữ vững Thời gian bào mòn xoáy Tinh thần bị nao núng Cũng không thể cưỡng được Do chất độc mê hồn Tình, tiền, danh, lợi thảy Giết chết bao thế nhân Quyến rũ kẻ tu hành Phàm phu chẳng hiểu được Lâm vấp khổ một đời Cho nên phải đảnh lễ 9. Mười Phương Phật, Pháp, Tăng Chúng Thánh Hiền Bồ-Tát Thuận nghịch không phân biệt Mà chí thành đảnh lễ Thành tựu pháp hồi hướng Tu tập kinh điển này Nếu có kẻ in chép Hoặc cúng dường hương hoa Chí thành không xao lảng Dùng tiếng khen tán thán Kinh tạng đại Chuẩn-Đề Mật-Pháp Tổng Trì Môn Khó nói khó nghĩ bàn Công đức rất vô lượng Khiến đó đặng thoát khỏi Oan trái của ba cõi Sức Mật-Nhiệm ba cõi Uy dũng hàng Ma chúng Phá hoại các ác tâm Bảy mươi đức ức Phật Vân tập nơi đảnh môn Vì để nghe kinh này Chuẩn Đề đại minh chú Hộ trì kẻ tu hành Mà bảo hộ cho đó Lần đến đạo Bồ Đề Bấy giờ trên hư không bảy mươi ức cu chi đức Phật đồng cất tiếng khen ngợi Phật Mẫu Chuẩn Đề, các vị Bồ Tát thượng thủ của các đức Phật đồng hóa thân đến cúng dường ngàn cánh sen quí báu phát ra ánh sáng lớn, trong ánh sáng có vô lượng âm thanh nhập Mật của đại thần chú soi thẳng vào tâm chúng sanh tiếng vang vừa đủ nghe, mà bên ngoài cảnh vật đều như chỗ vắng lặng rỗng không. Chư Thiên cõi Trời Đâu Xuất Đà tên là Đại Minh Cùng với quyến thuộc và bát bộ Kim Cang thần được việc chưa từng có. Hiền Giả Ta-Ma-Sa phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác xuất gia tu hành thành bực La Hán. Sáu nghìn Bồ-Tát Được Pháp Luân Thường chuyển Đà Ra Ni. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác được môn Tam Muội Bất Thối Chuyển. Khi ấy trên hư không có tiếng ca ngâm đờn sáo và rãi hoa cúng dường Phật Mẫu Chuẩn Đề. Đại hội tán thán công hạnh của chư Phật vừa xong đều y giáo phụng hành mà lui ra. Nam mô Chuẩn Đề Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần) KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN QUYỂN THỨ SÁU Bỏ đường tà Diêm Đê Ra về với Phật, cứu thế gian không quản sự khó khăn. Pháp u-huyền phản phất nghĩa kinh văn. Giáo Hội Phật thắm nhuần trong đại chúng. Bản án nghiêm trị, Phật tự răn mình nơi số kiếp. Nay chúng sanh chẳng phải kẻ tội đồ. Phiền nảo như ánh chớp, tử sanh như giấc mộng Phật diễn dụ bày chơn lý. Bồ Tát nghe xong đến cúng dường. Ta Ma Sa hỏi đạo Phật từ bi giảng nói. Nam mô Thường Trụ Thập phương Phật Nam mô Thường Trụ Thập phương Pháp Nam mô Thường Trụ Thập phương Tăng Nam mô Chuẩn Đề Vương Phật (3 lần) (Hết phẩm thứ mười ba) KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN – QUYỂN VII, PHẨM SƯ TỬ HẨU KIM CƯƠNG BỒ-TÁT THỨ MƯỜI BỐN
KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN QUYỂN THỨ VII MẬT SƯ: THÍCH GIÁC TIẾN - THIỀN NHÂN PHẨM SƯ TỬ HẨU KIM CƯƠNG BỒ-TÁT THỨ MƯỜI BỐN Lúc bấy giờ ngài Sư Tử Kim Cương Bồ-Tát trịch áo bày vai hửu ở giữa chúng hội bước ra đãnh Lễ Phật, đi nhiễu ba vòng, quỳ xuống chấp tay mà bạch rằng: Thế Tôn! Chúng con nghe Phật nói về những Mật-Nghĩa Đà Ra Ni phương tiện giúp cho chúng sanh được nhiều điều lợi ích. Nay xin Thế Tôn dẫn giải cho chúng con được hiểu biết Thủy Tổ loài người là ai? Thủy Tổ phiền nảo là ai? Ngưỡng mong Thế Tôn từ bi chỉ dạy cho chúng con và chúng sanh đời sau được dứt sự nghi lầm. Lúc ấy đức Phật Mẫu Chuẩn Đề ở nơi Mật Định Kim Cang Tỳ Lô Quán Đảnh tâm chú, xuất nhập các môn tam muội Đà Ra Ni dậy an lành mà dạy cho ngài Kim Cang Sư Tử Hẩu Bồ Tát rằng : - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Hãy lắng nghe những điều thâm-mật khó hiểu khó nghĩ bàn. Như Lai sẽ vì các ông mà diễn nói Mật Giáo Môn Đệ Nhất Đà Ra Ni,không có một và hai. Đó là nghĩa Bí-Áo Huyền Diệu Bất Động Môn làu làu một thế chơn như nơi thân và tâm, hay xuất sanh vô lượng công đức được chư Phật tôn trọng ngợi khen, các hàng Tỳ Kheo Bồ-Tát vâng chỉ y giáo phụng hành. Trời, Người qui thuận cúng dường, tán thán, ngợi khen là việc chưa từng có, Như Lai đã xa lìa chấp có chấp không cũng như chấp pháp thuận nghịch hai bên. Như Lai không bị gò ép bởi pháp Thế gian và Xuất Thế gian. Các pháp có danh tự, cú nghĩa cũng lại như thế. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Các ông chớ cho rằng Thủy tổ loài người chính là con người và người ấy là ai? ở đâu? Các ông chớ nhầm lẫn rằng Thủy tổ loài người chẳng phải là con người. Vì sao? Vì bản tánh ác và thiện ở trong vạn vật đều thể hiện rất rõ nét, bản tánh ấy đã có từ vô thỉ vô chung không ai dạy mà tự nhiên sẵn có, bản tánh này đủ sức chế ngự xác thân, tâm ý và hoàn cảnh bên ngoài lẩn bên trong, nhưng không được xem là Thủy Tổ của loài người. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Thủy Tổ của loài người chính là Phật-Tánh bất di bất dịch do chư Phật tu tập thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phật tánh này đã sẵn có trong lòng chúng sanh từ vô thỉ đến nay, phiền nảo cũng lại như vậy. Các ngươi dù biết trong chúng sanh có Phật tánh, nhưng lại không biết Thủy Tổ loài người là ai ở đâu? Ví như hai anh em ruột là chủ của hai căn nhà cạnh nhau. Họ có thói quen không giao tiếp và chú ý về hành động việc làm tên tuổi danh tánh của nhau. Nếu có người hỏi đến họ đều trả lời không biết. Cũng vậy Phật Tánh và Thủy Tổ loài người vốn không có khác nhau, phiền nảo cũng lại như thế, vì một niệm sai lầm nên các ông chẳng biết Thủy Tổ loài người là ai? và Phật tánh là ai? Dù rằng cả hai đều ở rất gần nhau trong tâm não và ý thức. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Phật Tánh và chúng sanh vốn không hai không khác, chúng sanh và phiền nảo cũng lại như vậy. Phật tánh là bình đẳng gọi là Tổng Trì Đà Ra Ni. Chúng sanh cũng bình đẳng gọi là đại Trì Đà Ra Ni. Phiền nảo cũng bình dẳng gọi là Nhiếp Trì Đà Ra Ni. Các món pháp như thế chẳng ai hiểu được, chẳng ai biết được. Do sự phân biệt chấp trước nơi ý nghĩ mà chúng sanh chẳng đến được pháp Tối Thắng Tự Tại của giáo môn Bí Mật thành tựu nghĩa, thành tựu pháp, thành tựu Tô Tất Địa đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Pháp Mật-Tạng của chư Phật không thể đến được. Tổng Trì Đà Ra Ni chú của chư Phật Ba đời không thể đến được. Nếu pháp Bí-Tạng của chư Phật có thể đến được, thời chúng sanh không cần phải tu tập khổ hạnh nơi vô lượng ức kiếp để tìm thấy bổn tánh thanh tịnh của chính mình. Phật tánh vốn xưa nay là Hư Vô Tịch Tỉnh, Đại Nhiệm Mật, Bất Động, không tà không chánh. Bổn tánh này gọi là Pháp Tánh Đà Ra Ni, không bị ngăn trệ bởi dục vọng, không kinh sợ bởi hoàn cảnh, không tham mê vật chất cám dỗ, không nghi ngại về mọi phương diện, chẳng tham ác, chẳng mê thiện, không dị biệt, không theo định bỏ loạn, không mê tâm chẳng bỏ tâm, không tình cũng chẳng vô tình, không đối đãi cũng chẳng phải bỏ mặc, không tu cũng chẳng phải bỏ tu, không hành cũng chẳng phải bỏ hành,không giải thoát cũng chẳng phải lìa giải thoát, không gàn buộc cũng chẳng phải lìa gàn buộc, không luân hồi cũng chẳng phải lìa luân hồi v.v…. Các pháp Bí-Mật-Môn Đà Ra Ni Tổng Trì tánh không như thế chẳng phải là pháp vô-vô cũng chẳng phải là pháp hửu-hửu. Pháp tuy có đối đãi mà tâm vốn không đối đãi. Pháp tuy không đối đãi mà tâm lại có đối đãi. Pháp tuy có lúc đối đãi có lúc không đối đãi. Tâm có lúc không đối đãi có lúc đối đãi. Cho nên tâm và pháp cả hai đều phản quang giúp cho người tu đang tối dược sáng, bỏ sáng được tối. Tùy chỗ sử dụng tâm đắc, pháp đắc, cũng có lúc không cần tâm đắc và pháp đắc. Đây là pháp môn Bí-Yếu Mật Tạng Diệu Ngữ Ngôn Đà Ra Ni hay khiến cho chúng sanh đời nay và đời Mạt Pháp sau này tu tập kinh đại thừa Chuẩn-Đề Bổn Tôn mau thành tựu quả Tối Sơ Đại Mật Chánh Đẳng Chánh Giác. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Pháp môn Bí mật Đà Ra Ni này hay xuất sanh các môn tam muội Đại Định an trụ Bất Động chuyển như vậy, như nhiên dường như hư không chẳng có dấu vết. Nơi Thế gian có pháp cấu pháp tịnh, muốn cắt đứt rời bỏ không thể được, muốn bắt lấy bảo thủ không dễ dàng. Cho nên ở nơi pháp môn Bí Mật Vi Diệu Đà Ra Ni này còn gọi đó là: Phật phi Phật, Pháp phi Pháp, Tăng phi Tăng, định phi định, loạn phi loạn, giác phi giác, chơn phi chơn, đạo phi đạo, dâm phi dâm, tà phi tà, ác phi ác, thiện phi thiện v.v… Vì các pháp xưa nay tánh tướng vốn không thì làm gì có Thủy Tổ loài người. Nếu Thủy Tổ loài người mang bản tánh độc ác thời chẳng được gọi là đúng. Nếu bản tánh ấy hoàn toàn thuần thiện thời mới được gọi là Thủy Tổ của loài người, đây gọi là chánh danh. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Tánh ác và tánh thiện là pháp đối đãi cùa phiền nảo. Như Lai đã bao phen an trụ trong Mật Định xuất nhập nơi hằng hà sa ức như vô số vi trần thế giới làm pháp chiêm nghiệm tư duy để thoát ra vòng sanh tử, phiền nảo, khổ đau mà chúng sanh hằng ôm ấp đeo đuổi nó không hề có niệm chán mỏi và có ý buông bỏ. Như Lai đã im lặng vào chỗ Hư Vô Mật-Pháp Đà Ra Ni, ví như đang uống Cam Lồ dược vị, như đang cùng các vị đại Bồ-Tát dạo chơi các cõi Phật quốc, như đang ngồi trên xe thất bảo tự tại nơi các cõi Trời Đao Lợi, Đâu Xuất Đà, Tứ Thiên Vương, Tu Diệm Ma Đại Phạm, Phạm Phụ, Phạm Chúng, Long Cung, Quỷ Thần A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn phi Nhơn cùng với đia ngục A Tỳ không có chỗ chướng ngại. Như Lai là chúng sanh mà khác với chúng sanh. Như Lai là Thánh mà khác với Thánh. Như Lai là Bồ-Tát mà khác với Bồ-Tát. Như Lai là Phật Thế Tôn là ngôi vị Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc Thiện Thệ, Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn: Khể thủ quy-y Tô-Tất-Đế Đầu Diện Đãnh Lễ Thất Cu Chi Ngã Kim Xưng Tán Đại Chuẩn-Đề Duy nguyện từ bi thùy gia hộ Nam mô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đề cu chi nẫm đát điệt tha. Án Chiết lệ chủ lệ Chuẩn-Đề ta bà ha. Bấy giờ đức Phật Mẫu Chuẩn Đề muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 1. Đấng Vô Thượng Mật Ngôn Chuyển mạnh bánh xe Pháp Như Đại Sư Tử Vương Phước đức vô cùng tận Đầy đủ nghĩa pháp yếu Khéo léo đều phục chúng Diệu dụng nơi thế giới Số tính như vi trần Trí tịch huệ vô tịch Suốt thấu trong tam giới Đại độ khắp quần sanh Im lặng dường như ngủ Tiếng rống như Sư tử Lẫy lừng như Rồng Thiên Pháp nghĩa mầu rộng lớn Ứng hợp các căn cơ Chậm nhanh tuy có khác Mà liệu định pháp mầu Chọn đến chỗ vô định An lạc tâm rỗng lặng Diệu phước đại công đức Thành trì chẳng có tướng Danh lợi không chỗ nương Ngu khôn chẳng điểm tựa Thiện ác không nghe thấy Cõi Phật đại quang minh Trang nghiêm tịnh quốc độ Công đức vô cùng tận Khó nói khó nghĩ bàn 2. Hởi Nam Tử! Nữ Nhơn! Muốn học đạo toàn chơn Phải ân cần cầu Pháp Các dục nhiểm xa lìa Xả bỏ các việc ác Cùng tội lỗi gian tham Các vật chất mến yêu Vợ con, vàng bạc thảy Bạn bè đang thân thiết Bỏ đi không nuối tiếc Người trí nhẫn như vậy Chẳng mỏi mệt tìm cầu Nơi Thiện Hửu Tri Thức Mà phục dịch ăn uống Chấp tác, công quả thảy Nghe lời dạy thâm sâu Ghi nhớ tìm hiểu đó Siêng tu tập oai nghi Theo hạnh lành cao thượng Thành tựu được như vậy Gọi là Chơn-Mật đế 3. Phật Pháp chẳng biến hiện Hư không chẳng chỗ sanh Ly, lìa tuy có khác Mà ý nghĩa lại đồng Vô Vi, Tối-Mật-Ý Bí yếu vô sai biệt Suy gẫm lâu mới hiểu Mỹ âm, Bí-mật âm Tịnh âm, Thắng Nghĩa ậm Quảng âm, Đại Oai âm Nhuyển âm, Diệu pháp âm Phật tánh rộng lớn khắp Xuất sanh từ vô thỉ Trụ chổ Hư Không Tạng Đến đi khó lường được Ra vào như ánh chớp Xuất nhập pháp phương tiện Thoáng hiện rồi biến mất Không thể suy diễn được 4. Như Bồ-Tát Mật-Chiếu Do bổn đại thệ nguyện Cứu độ các chúng sanh Như nhà Đại Ảo Sư Vừa thấy Ngài biến mất Chúng sanh dù thương tưởng Một bậc thầy khả kính Mà chẳng biết là ai? Tổ loài người cũng thế Dù biết mà chẳng biết Dường như sống mộng ảo 5. Hởi Nam Tử! Nữ Nhơn Thế gian là vô thường Vua đất chết chế ngự Không ai ngăn cản nổi Thuốc trường sanh bất tử Dù uống trăm ngàn ly Cũng không thoát sanh tử Trong mãnh bụi hằng sa Ức vi trần thế giới Chẳng tính đếm thí dụ Phiền nảo là đất chết Không có ngày yên lặng Chúng sanh ở nơi đó Mà thọ các đại khổ Mê mệt lòng không chán 6. Đấng Đạo Sư Vạn Mật Chuẩn-Đề Vương Thế Tôn Sanh nơi đời ngu khôn Tu hành Tập Chủng Trí Huệ Đà La Tối thượng Chế phục các phiền nảo Ly lìa pháp thiện, ác Thiện báo cùng ác báo Tiền báo hoặc hậu báo Nghiệp lành cùng nghiệp dữ Pháp đối đãi sanh tử Chẳng đắm nhiễm phút giây Mà siêng tu đại pháp Chuẩn-Đề Bí-Mật chú Quảng đại chư chúng sanh Thành tựu Bồ-Đề thọ Quy-y đấng Chánh Giác Mười phương ba đời Phật Số Phật như vi trần Không tính đếm thí dụ Trời người chung tin tưởng Thanh Văn, Duyên Giác thảy Thấy Phật đấng xuất thế Rãi hoa cúng dường Phật Bao nhiêu các đức Phật Thành tựu môn Mật-Giáo Nhờ tu tập kinh này 7. Mười phương chúng Bồ-Tát Xuất sanh trong đời ác Thành tự đại phương tiện Như tiếng chuông cảnh tỉnh Khơi dậy lòng chúng sanh Hàng phục chúng quân Ma Thu phục các tà pháp Nhiếp trừ chư phong thủy Hóa giải nạn binh đao Tất cả đều lui tán Chúng sanh vướn tai nàn Vương mang bao nghiệp khổ Mà tưởng nhớ đến Phật Tu tập kinh điển này An ổn lòng tịnh định Nhẹ nhàng như hư không Chí thành tu tinh tấn Quy-y và lễ bái Tán thán cúng dường Phật Hương bột hoặc hương xoa Hương đốt, trầm, gỗ quý Chiên đàn, Bạch giới tử Huân lục hoặc phong đàn Pha chế bơ cùng sữa Cúng dường nơi thân Phật Chí thành lòng cung kính Mà tu tập kinh này Trì tụng vô số kiếp Công đức vô cùng tận 8. Như Bồ-Tát Mật Hạnh Quân trì bình đẳng nguyện Suy xét các nhân duyên Dùng đại huệ tán thán Nơi cõi Phật hằng sa Quảng huệ soi thấu khắp Cung kính cúng dường Phật Tấn huệ hàng phục Ma Lễ bái chư Bồ-Tát Huệ chiếu nơi ba cõi Quan sát nghĩa Phật pháp Tịnh Huệ, địa Ngục môn Cứu độ vô lượng chúng Thiện huệ trừ ác đạo Phổ hóa chư chúng sanh Minh Huệ phá chư ám Khai mở pháp phương tiện Tán huệ ly phiền nảo Giải thoát các trói buộc Pháp huệ độ chúng sanh An nhiên thanh tịnh địa Như huệ khuyến đại chúng Thầy lớn của Trời, Người Đẳng huệ nhiếp tất cả Thị hiện vô biên thân Mật huệ khai đạo pháp Mở môn đại cam lộ Hải huệ nhập pháp giới Im lặng dường như không Đạo huệ độ quần Ma Chuyển sức thần thông lực Nghĩa huệ chơn lược thuyết Thí dụ các nhơn duyên Thí huệ cúng dường Phật Hồi hướng khắp pháp giới Thắng huệ mau thành tựu Nghĩa pháp không cùng tận Oai huệ đức hộ pháp Giữ gìn tạng Bí-Yếu Viên huệ pháp đầy đủ Xoay dần trong chúng sanh Nguyện huệ lòng bình đẳng An lạc thành Tịnh-Độ Các trí huệ như thế Tập nhứt thiết chủng trí Trời người không đến được 9. Như Lai trọn nơi pháp Thành tựu vô biên thân Trí huệ cũng như thế Dạo đi trong Tam-Giới Bằng cỗ xe Mật-Pháp Nơi hằng sa thế giới Tự tại không chướng ngại Bằng các món tam muội Tịnh Ý đà ra ni Thâm tâm hằng trong sạch Quang-Minh đà ra ni Soi sáng trong ba cõi Viên Tịch đà ra ni Thẩm sâu nơi đại định Mật ngữ đà ra ni Diễn nói nghĩa đại pháp Đẳng giác đà ra ni Khai ngộ cho tất cả Viễn ly đà ra ni Quán sát sự xa lìa Tuệ Mạng đà ra ni Thân tâm đủ giới đức Mật Tạng đà ra ni Gồm thâu các phương tiện Bát Nhã đà ra ni Trí huệ thường tự tại Thật tướng đà ra ni Thi hành pháp chơn thật Hồi hướng đà ra ni Nghĩ nhớ chư chúng sanh Đức Tạng đà ra ni Chỗ chúa nhóm công đức Bảo sanh đà ra ni Các vật báu hiện đến Cụ túc đà ra ni Đầy đủ các tướng tốt Pháp cự đà ra ni Ngọn lửa soi đêm tối Chánh pháp đà ra ni Năng trừ nguy hiểm nạn Tán thán đà ra ni Ca ngợi hạnh thanh tịnh Bất động đà ra ni Im lặng không ngủ nghĩ Vô niệm đà ra ni Xa lìa các trược uế Vô gián đà ra ni Cứu khổ nơi địa-ngục Quảng Hỏa đà ra ni Dập tắt lửa Ma giới Tịnh giới đà ra ni Trang nghiêm cõi Phật độ Thiện Mật đà ra ni An ủi chư chúng sanh Tự tại vô chướng ngại Trên suốt Trời Cứu Cánh Dưới thấu ngục A-Tỳ Phương tiện vì đại chúng Mà chẳng ai hay biết 10. Như Lai hằng buông bỏ Chẳng chút lòng tham tiếc Ra đi vào Niết Bàn Chơn thị tịch là vui Chẳng bận rộn quấy nhiễu Tánh không nhập pháp giới Pháp giới tự rỗng không Viễn ly, ly tất cả Nhất niệm, niệm hườn không Vô vi đại mầu mầu Nhiệm-Mật vô cùng tận Vướng vít chút bản ngã Chẳng được gọi là chơn Không Mật-Pháp, Thiền Na Chẳng gọi đó là định Không oai nghi vững chắc Chẳng gọi đó là Luật Không xuất gia giải thoát Chẳng gọi đó là lìa Nếu lìa mà chẳng lìa Gọi đây là phàm tục Chẳng được dự chánh pháp Chánh pháp chẳng có tướng Dụng tướng từ nơi tâm Chánh pháp chuyển động mạnh Chấn động cả ba cõi Tiếng nổ lớn chớp nhoáng 11. Như Lai đấng Hùng Mãnh Chế ngự Trời, Người thảy Hàng Ma độ muôn chúng Chư Phật hằng khen ngợi Tán thán đại công đức Hư không trỗi nhạc âm Cúng dường đấng vô thượng Chuẩn-Đề Vương đức Phật Hoa rãi như mưa lớn Tiếng linh báu hòa reo Tỳ Bà trỗi nhịp khúc Chập chả, trống chiêng khua Các âm thanh thượng diệu Ca ngâm, vịnh, múa hát Vì để cúng dường Phật 12. Bậc Vô Thượng Đạo Sư Thành tựu pháp chơn như Siêu vượt trong Tam Giới Đà Ra Ni Tổng Trì Mật pháp hàng Ma pháp Sức mạnh Đại Tự Tại Đều ở nơi kinh này Mười phương ba đời Phật Xưng dương cùng tán thán Bổn nguyện tánh pháp màu Chuẩn-Đề Phật vi diệu Vì chúng hiện phân thân Bảy mươi câu chi Phật Thị hiện băm hai tướng Quốc độ đều riêng khác Chật đầy cả hư không Để ủng hộ kinh này Đại Oai đức rộng lớn Trí hùng dựng Phật môn Thành lớn cõi Niết Bàn Che chở các hiểm nạn Khiến chúng sanh vào đạo Mà tu tập kinh này Lần đến đạo vô thượng Nam mô Chuẩn-Đề Hội Thượng Phật Bồ-Tát (3 lần) (Hết phẩm thứ mười bốn) KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN QUYỂN THỨ VII MẬT SƯ: THÍCH GIÁC TIẾN – THIỀN NHÂN PHẨM Y BÁO VÀ CHÁNH BÁO THỨ MƯỜI LĂM Lúc bấy giờ ngài Sư Tử Hẩu Kim Cang đại Bồ-Tát Ma Ha Tát suy nghĩ rằng: – Nếu chúng sanh có thể nương nhờ vào sức mạnh của đại thần chú Chuẩn-Đề mà tu tập, tức là còn niệm tưởng và ghi nhớ phân biệt. Như vậy các chúng sanh do lẽ nào mà được chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác? Phật Mẫu Chuẩn Đề biết được tâm niệm của Bồ-Tát, ngài im lặng vào Mật Định Tổng Trì môn tam muội, phát ra ánh kim quang trên đảnh Tỳ Lô như một mũi kim màu vàng phóng thẳng vào hư không làm cho đại địa, phong địa, thủy địa, hỏa địa, kim địa, thành quách lâu đài trong Tam-Giới đều bị chấn động mạnh. Như một người lực sĩ đang chuyển động các cơ bắp phát ra những tiếng kêu cóc cách. Ánh hào quang ấy lưu thông các quốc độ nhanh như ánh chớp đến các cõi Phật rồi trở về trạng thái ban đầu. Ngài Sư Tử Hẩu Kim Cang Bồ-Tát thấy điềm lành bèn hiệp chưởng hướng Phật mà bạch rằng: Thế Tôn! Chúng con bị màn vô minh tăm tối che đậy không có lối thoát ra. Hôm nay nếu chúng con lọt vào màn vô minh tăm tối thứ hai thì chúng con lại càng lún sâu và không có chỗ giải thoát. Vậy xin Thế Tôn vì chúng sanh đời nay và đời sau dạy rõ pháp tu của giáo môn Mật Tông, mà chỗ niệm tưởng phân biệt có chứng đắc. Như vậy chúng con phải tu cách nào? hành cách nào? Dể đạt đến chỗ vô chứng vô đắc. Khi ấy phân thân của Phật Mẫu Chuẩn Đề từ nơi thế giới Diệu Bí Ấn của Phật Tỳ Lô Kim Cương Như Lai cách nhau hằng hà sa số vi trần thế giới, quốc độ tên Thông Quán, ngự ở trung tâm vũ trụ. Từ nơi Mật Định Đà Ra Ni Bổn Tôn đức Phật nhiếp các phân thân ở các quốc độ của chư Phật trở về trên đảnh Tỳ Lô, dậy an lành mà bảo với ngài Kim Cang Sư Tử Hẩu Bồ-Tát rằng: - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Ông có thể vì tất cả chúng sanh đời nay và đời sau khai mở tạng Bí Mật của giáo môn Mật Tông mà thưa hỏi Như Lai những lời thần bí vi diệu bực nhứt này. Vậy các ông hãy chú ý lắng nghe. Ta sẽ vì các ông mà giảng nói pháp mầu thanh tịnh Đà Ra Ni này. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Pháp có hữu tức có vô, niệm có hữu tức có vô. Nếu pháp không hữu tức không vô, niệm niệm cũng lại như thế. Các ông quan niệm rằng thần chú Chuẩn-Đề này là có niệm thời không đúng, mà nghĩ rằng nó là vô niệm thì sai lầm. Pháp của Phật chẳng phải là niệm, chẳng phải là vô niệm, chẳng phải chơn chẳng phải phi chơn, chẳng phải phân biệt cũng chẳng phải vô phân biệt, chẳng phải hư chẳng phải vọng, chẳng phải tà chẳng phải chánh, chẳng phải ác chẳng phải thiện, chẳng phải thế gian hay xuất thế gian, chẳng phải Niết Bàn hay phi Niết Bàn. Vì sao? Vì pháp của Phật vượt qua tầm hiểu biết của Trời, Người, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-Tát, La Hán, Pháp của Phật khó có thể đến được, vì pháp ấy là Y-Báo Chánh-Báo khó giữ gìn, khó tu hành, khó đạt thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Pháp của Phật là phi phàm phi thánh. Phàm phu không thể học được và Thánh Nhơn chẳng thể hiểu được. Pháp của Phật phi Thanh Văn, Duyên Giác và A La Hán, vì Thanh Văn không thể đến được, Duyên Giác không thể đạt được và A La Hán tuy dứt sanh tử nhưng chưa đầy đủ bổn nguyện độ sanh. Phật là vô độ mà độ tất cả, ở nơi chư Phật chẳng thấy có độ và không độ, hằng ở nơi Mật-Định an trụ vững chắc, chẳng theo sáu căn, sáu trần và sáu cảnh. Nội pháp đều xa lìa mà chẳng bị mất. Ở nơi pháp chẳng xa lìa mà xa lìa viên thành Mật Pháp Tâm Ấn Đà Ra Ni biến pháp giới thường trụ Tam-Bảo. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Lúc Như Lai đang thọ bát tại rừng Ô-Ta, bấy giờ chư Thiên cõi Trời Đao Lợi tên là Đại Hạnh đến nhiễu quanh Như Lai ba vòng rồi hỏi ta rằng: - Thế Tôn! Hiện nay chúng con ở cõi Trời an hưởng khoái lạc chẳng nghĩ gì đến đạo đức tu hành, thân tâm lắm nỗi tham đắm ngu si. Chúng con có nhân duyên lành đến đây gặp lúc Phật thọ bát, chúng con có dịp cúng dường món ăn của cõi Trời và Phật đã thọ thí xong. Vậy chúng con xin hỏi Phật, ngài có thọ bát hay không thọ bát? Nếu có thọ bát là đồng với chúng sanh. Nếu không có thọ bát là đồng với gỗ đá. Chúng con là kẻ mê mờ trong Tam-Giới, xin Phật mở lòng từ bi thương xót chỉ dạy cho chúng con hiểu được chân lý mầu nhiệm của Phật. Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề mỉm cười nhìn ngài Đại Hạnh Chư Thiên rồi mở lời dạy rằng: - Này Thiên Đế! Các ngươi chớ nên nói rằng Như Lai đang thọ bát, có thọ bát và không thọ bát. Như Lai là bực ứng cúng Chánh Đẳng Chánh Giác an trụ và xuất nhập nơi Mật Định Đà Ra Ni không động không niệm. Như Lai đã xa lìa phiền nảo đến tận gốc rễ, không còn có dư nghiệp, biệt nghiệp, định nghiệp, ác nghiệp, cộng nghiệp, tiền nghiệp, trung nghiệp, hậu nghiệp, ngữ nghiệp, oán nghiệp, hiện tại nghiệp, quá khứ nghiệp, vị lai nghiệp, đẳng đẳng nghiệp v.v… các nghiệp như thế tính số lượng. Như Lai đã nhiều lần nhập diệt không muốn ở lại nhân gian. Các ngươi đã nhiều lần thỉnh cầu Như Lai, làm cho ta động mối từ tâm. Sao hôm nay các ông lại gạn hỏi Như Lai có thọ bát hay không thọ bát? Thân tướng của Như Lai mà các ông trông thấy đó chỉ là ảo ảnh. Ví như nhà đại Ảo-Sư làm ra pháp hội rộng lớn của chư Phật và xóa đi một cách dễ dàng không ai ngờ được thuật biến hóa thần bí ấy. Như Lai cũng lại như vậy, dù các ông có thấy thân tướng và hình bóng của Như Lai, nhưng trọn không thấy được chơn hạnh thật sự của Như Lai, trừ Phật với Phật mới hiểu biết nhau mà thôi. - Này Thiên Đế! Mười phương chư Phật chế ra pháp tam y nhứt bát tùy thân là khác hẳn với thế gian, và chế ra pháp tu hành giải thoát là thoát khỏi thế gian. Cách ăn uống, đi đứng nằm ngồi cũng không giống với phàm tục, các oai nghi khép kín gọn gàng. Khi ăn đều có tụng kinh chú nguyện, cầu nguyện và hồi hướng công đức cho khắp pháp giới chúng sanh hưởng sự lợi ích lớn, thì làm sao gọi là giống gỗ đá và giống chúng sanh được? - Này Thiên Đế! Như Lai là vô thọ, vì tất cả chúng sanh cầu khẩn pháp tu hành giải thoát khi ta sắp nhập Niết Bàn. Như Lai vì thương xót chúng sanh mà chẳng nhập diệt. Các ông thấy Như Lai đang thọ mà chẳng thấy chỗ vô thọ của Như Lai, nhưng các ông chẳng thấy chỗ vô thọ của Như Lai. Giả sử các ông thấy chỗ vô thọ của Như Lai, nhưng các ông chẳng thấy chỗ thọ của Như Lai. Ví như các ông dùng ngọn đèn đốt sáng lên trong đêm tăm tối, khi đèn còn cháy thời thấy cảnh vật rõ ràng, nhưng khi tắt đèn thời các ông không thấy cảnh vật nữa. Cũng vậy Pháp của Như Lai là tạng Bí Mật Đà Ra Ni thậm thâm vi diệu, là Y-Báo chánh báo không ai so bì được. Các ông không thể lấy vọng mà so với định, không thể lấy mê mà so với giác, không thể lấy ác mà so với thiện, không thể lấy cát mà so với vàng rồng, không thể lấy xích sắt mà so với trân châu, mã nảo v.v… Do lẽ này mà biết rằng chỗ thọ của Như Lai các ông còn chưa hiểu biết rõ ràng hà huống là chỗ vô thọ. - Này Thiên Đế! Như Lai chẳng phải vì vọng chấp mà nhiều lời giảng nói như thế. Như Lai thích im lặng nhẹ nhàng rãnh không giải thoát đại tự tại. Như Lai là đấng Thành Tựu Viên-Tịch là đấng Siêu Thiện Huệ, không tích chứa hữu hình và vô hình, chẳng tích chứa thiện ác, sanh tử thì làm gì có thọ và không thọ!? Như Lai thị tịch gọn gàng chẳng có chỗ chướng ngại. Như Lai đã từ lâu tu tập chơn hạnh Phật đà của giáo môn Mật-Tông không hề có niệm thối chuyển, chỗ tu tập ấy chẳng phải thiệt chẳng phải giả, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải đúng chẳng phải sai, chẳng phải nhất vị, chẳng phải hai tướng, chẳng phải tam thừa, chẳng phải tứ thiền cho đến cửu thứ đại định, chẳng phải tứ diệu đế hay bát thánh đạo phần, chẳng phải lục bộ Ba La Mật, chẳng phải thập nhị nhân duyên hay tứ hoằng thệ nguyện, chẳng phải lìa ba độc bỏ sáu căn ly Tam-Giới, chẳng phài theo chánh bỏ tà, chẳng phải mười tám cộng pháp hay sáu mươi hai pháp ngoại đạo v.v… Như Lai chẳng bị các món pháp này làm chướng ngại phân tâm. Như Lai chỉ phương tiện thực hành các pháp ấy cho đến khi thành tựu rồi xã bỏ nhẹ nhàng không luyến tiếc. Như Lai đã tu tập công hạnh Tối Chánh Giác như thế khó ai bì kịp chỗ vi mật nhiệm mầu lạ lùng như thế. Bấy giờ đức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 1. Nơi cõi Phật hằng sa Mười phương rộng bao la Chỗ Viễn-Tịnh bậc nhất Chư Phật vì thương xót Ở nơi nguyện Mật-Pháp Trí lực vạn năng thắng Mà thành tựu Phật quốc Vô lượng ức Câu chi Tán thán diệu công hạnh Đồng tiếng niệm thần chú Án sĩ lâm Bộ lâm Phật đảnh đại tâm ấn Xuyên suốt các Phật địa Âm thanh vượt hư không Các cõi trong Tam-Giới Đều rúng động êm dịu Chúng sanh cảm ứng được Khoan thay sức nhiệm mầu Cõi A-Tỳ, Địa Ngục Tự nhiên được siêu thoát Sức mạnh oai thần lực Nhập pháp giới thanh tịnh Ly cấu ly khổ hải Lìa thiện ác tham sân Thấy ly mà chẳng ly Thấy lìa mà chẳng lìa Vì đó là thật tướng Các tướng pháp như thế Chẳng ai phá hoại được Mười phương ba đời Phật Ở nơi Pháp tướng ấy Như lấy mắt nhìn ngang Mà chẳng cần nhìn lại Tự Tại thâm Mật-Pháp 2. Ta nay lược thuật nói Nghĩa giáo môn đệ nhất Các Bồ-Tát thượng thủ Giữ gìn bổn kinh này Y theo pháp tu tập Thuần thục đạo vô thượng Dùng gỗ hoặc chiên đàn Khắc tượng và trạm trỗ Khen ngợi cúng dường Phật Đèn, nến, hương hoa thảy Bông Mạn cùng Chiêm Bặt Đa La hoặc Khiết La Các loài hoa bực nhứt Mà cúng dường thân Phật Chiêm ngưỡng không chán mỏi Niệm niệm chí bền vững Vượt qua đường sanh tử Các ác Ma chận đánh Bồ-Tát chẳng nao núng Các cung tên giáo mác Xe ngựa cùng xe pháo Voi dữ rất hùng mạnh Lòng ác tánh tham ác Tâm giận lộ sân si Ganh ghét đạo Chánh Giác Quyết hại thân Bồ-Tát 3. Vì nghe lời Phật dạy Ta tu tập nhẫn nhục Mở rộng tâm từ lớn Nhiếp độ chúng cang cường Hàng phục đại hung dữ Mà tụng chú Chuẩn-Đề Thu phục tâm đại ác Các quân Ma hoảng sợ Tâm ác liền biến mất Sức mạnh Đại Pháp Vương Không lường muôn ức cõi Ta là cha muôn loại Biết được lòng đại chúng Kinh sợ tâm nhút nhát Nên diển nói kinh này Toái trừ đại ác nhơn Khiến đó được an ổn Tuy độ được chúng sanh Mà chẳng thấy thiệt độ Nếu độ tức hữu vi Trong cả hai điều đó Ta siêu vượt chánh định Mật-Tạng Đại Bí Pháp Vào các môn tam muội Vượt qua hàng đại thánh Thành bực Siêu-Thánh-Vương 4. Các Bồ-Tát chẳng biết Ta tu tập những gì? Thành tựu chỗ không thành Pháp không Nhất-Mật-Nghĩa Không thể luận không pháp Mà hiểu được chơn lý Hoặc dùng pháp không chấp Biểu lộ ý chơn như Cũng chưa hiểu được Phật 5. Chỗ chư Phật an trụ Thâm diệu và huyền bí Không thể suy diễn được Lúc ta làm Bồ-Tát Sức tinh tấn siêng tu Ngày đêm ít ngủ nghĩ An trụ nơi rừng vắng Tu hành pháp Mật Định Lặng lẽ cùng hư không Dạo chơi chỗ im lặng Ăn uống pháp hỉ thực Chẳng móng động theo trần Lướt mình vào vũ trụ Bỏ cuộc sống đáng yêu Tiêu diêu nơi thế giới Tự tại vào Niết Bàn Chơn thị tịch là vui 6. Chư Thiên Đại Tự Tại Thấy ta ngồi tu tập Sức mòn mỏi yếu đuối Y áo đều rách nát Thân thể như rũ liệt Ốm yếu xương lòi lên Hơi thở càng yếu dần Mà tưởng ta sẽ chết Dù thân thể yếu đuối Mạch máu như ngừng chảy Nhưng chẳng thể chết được Bởi sức mạnh Tổng-Trì Tối-Thắng đại thần chú Án ngữ Đà La Môn Bế quan các huyết mạch Dập tắt lửa địa ngục Thu phục đại tà tâm Dọn sạch các hình cụ Như vào chỗ không người Phiền nảo không chỗ trụ Lui tán ẩn núp hết Thân tâm vô động chuyển Bế huyệt, huyệt trống không Bế khí, khí chẳng tuyệt Bế thần, thần kinh phục Bế Quỉ, Quỉ lánh tà Bế Ma, Ma biến mất Các tam muội như thế Thuận nghịch khó lường được Trong mỗi một sát-na Trãi qua như số kiếp Hàng phục chư Ngoại-Đạo Nhẹ nhàng như mãi lông Chúng sanh quá nặng nghiệp Cang cường chẳng chịu tu Nên ta vào Niết Bàn Lòng chẳng chút do dự Bỏ lại thân củ mục Rời xa cuộc trần thế 7. Khổng Tước đến hại ta Mà cũng lại cầu ta Vì chúng sanh ngủ dục Độ tận không còn thừa Ta nhớ thuở quá khứ Chư Phật đại phương tiện Ngự trên đài Phật quốc Ẩn hiện đảnh Tỳ Lô Phát huy ánh sáng lớn Hiện vô số ức thân Sanh vào các thế giới Nhơ bẩn hoặc trang nghiêm Tùy theo lời bổn nguyện Hoặc già, trẻ, nam, nữ Hoặc chủ, tớ, quân, tôi Vua chúa cùng mỹ nữ Hoàng Hậu trong cung cấm Thị hiện các cõi Trời Đế Thiên cùng Đế Thích Đao Lợi, Tu Diệm Ma Tứ Thiên Vương, Phạm Chúng Phạm Phụ, Đại Phạm Phụ Mà trì tụng kinh này Tu tập đại Mật-Tạng Lưu bố giữa thế gian Tuyên thuyết nghĩa giải thoát Như tiếng rống Sư Tử Chúa tể của muôn loài Tất cả đều quy phục 8. Hỡi Nam Tử! Nữ Nhơn Như Lai Tịnh Vương Pháp Không ai so bì kịp Bực xuất thế Đạo sư Diệu tịch đại pháp mầu Chơn Tịch vô vi Pháp Huệ Tịch đại thánh thiện An định không nhàm mỏi Vững chắc như Tu Di Trong tất cả Mật-Định Thanh Văn cùng Duyên Giác Bồ-Tát, Đại Bồ-Tát Ngoại Đạo Thánh Chúng Tánh Thần Thánh chư Thiên Ma Dạ Xoa, Quỉ Bàn Trà Rắn độc cùng Bò Cạp Như Lai nơi chánh định An vui đại hỷ xã Rõ biết việc đời trước Như thấy cảnh hôm nay Y-Báo và Chánh Báo Đều ở nơi kinh này 9. Quang Minh bậc Tối-Phạm Soi rõ chốn trần nhơ Trí huệ đại Thiện Tịch Phá mờ chư ám chướng Cõi Phật tịnh vi diệu Soi sáng suốt đêm đen Sa số các Phật quốc Đồng danh hiệu Chuẩn-Đề Trong thế giới vi trần Siễng nhập hội thượng Phật Các tướng tốt chánh phụ Ẩn hiện ánh hào quang Bay thẳng vào hư không Hóa thành ngôi thất bảo Đài cao vững rộng lớn Đón mừng Phật Đại Nhựt Giáo chủ tạng Bí-mật Chủ trì nơi pháp hội Tuyên thuyết pháp Mật-Giáo Chuyển mạnh bánh xe pháp Mưa pháp vũ rộng lớn Đánh trống pháp cổ lớn Uy vũ rộng bốn phương Chúng sanh nghe vui mát Thân tâm được an ổn Xuất gia cầu giải thoát Bồ-Tát vâng pháp chỉ Mà lưu bố kinh nàygiới Khắp hằng sa thế giới 10. Bấy giờ nơi đảnh Phật Thu nhiếp các phân thân Rồi trở về bổn quốc Trong đại chúng Bồ-Tát Thanh Văn cùng Duyên Giác Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di Bát bộ Kim Cang Thần Thấy việc chưa từng có Tán thán Đại Chuẩn-Đề Thành tựu chơn Mật Pháp Diễn rộng nghĩa đại thừa Lật ngược tâm nghi kỵ Chủ động diệu pháp môn Phá hoại những tà kiến Kiến chấp hoặc mê chấp Nội chấp, ngoại chấp thảy Ngoại đạo đều kinh sợ Khiến tất cả đại chúng Ngưỡng mộ nơi kinh này Oai đức vô cùng cực Không lấy gì so sánh Sức trang nghiêm đại độ Duyên theo các căn tánh Hóa độ chư chúng sanh Thành Vô Thượng Bồ-Đề. Nam mô Chuẩn-Đề Hội thượng Phật Bồ-Tát (3 lần) KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN Quyển thứ VII Phật Chuẩn-Đề vì Bồ-Tát Kim Cang, chỉ nguồn gốc loài người ai Thủy Tổ? Nói Mật Nghĩa bày phô đường chơn lý, dạy đạo mầu phá hoại cả hai bên. Trong đại chúng nghi ngờ câu thần chú. Phật vì đó nói chỗ thọ cùng không thọ. Nam mô Thường Trú Thập Phương Phật Nam mô Thường Trú Thập Phương Pháp Nam mô Thường Trú Thập Phương Tăng Nam mô Chuẩn-Đề Vương Phật (3 lần) (Hết phẩm thứ mười lăm)
|
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 3 27/12/11 0:52
|
|
|
KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN – QUYỂN VIII, PHẨM THIÊN NỮ CẬT VẤN THỨ MƯỜI SÁU
0 Comments 03 NOVEMBER 2011
KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN Quyển thứ VIII MẬT SƯ: THÍCH GIÁC TIẾN – THIỀN NHÂN PHẨM THIÊN NỮ CẬT VẤN THỨ MƯỜI SÁU Sau khi Phật Mẫu Chuẩn Đề thuyết xong bài kệ vi mật, ngài im lặng vào định Tổng Trì xuất sanh đại thần chú Mật Tạng Liên Trì Bửu Đảnh: Đát diệt tha, y lị my đế, đế lỵ mu đế, lí mỵ đế, nhuyển mê nhuyển ma, rị duệ nạp thử, nạp xoa rị duệ tram, yết ra noa phược, yết ra ca noa thấp tóa ha. Bấy giờ nơi đảnh môn của Phật phóng ra muôn đạo hào quang soi sáng cả Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Trong đạo hào quang ấy bỗng hiện ra một Thiên Nữ đầu đội mão báu của Thiên Đế, thân mặc áo vàng ròng có nạm hồng ngọc, thanh ngọc, hoàng ngọc, bạch ngọc, hắc ngọc. Các loài rằn độc nhứt thế gian đều quấn chung quanh thân thể không lúc nào tạm rời, thị hiện giữa chúng hội làm cho bốn chúng đều giựt mình ngơ ngác kinh sợ, cho là việc chưa từng thấy, mọi người đều có lòng nghi ngờ. Khi ấy ngài Thiên Nữ hiệu là Thường Cu Lợi Độc Nữ bước đến cung kính đảnh lễ ngài Sư Tử Hẩu Kim Cang Bồ-Tát mà nói rằng: - Nay Thế Tôn đã vào định Tổng Trì. Rất mong Bồ-Tát vì tôi và cả thảy chúng sanh mà mở bày những nổi nghi lầm đang quấn lấy thân tâm của tôi và cả thảy chúng sanh. Xin Bồ-Tát từ bi nạp thọ lời thỉnh cầu này. Ngài Sư-Tử Hẩu Kim Cang Bồ-Tát im lặng chấp thuận. Ngài Thường Cu Lợi Độc Nữ bạch rằng: - Xin Bồ-Tát từ bi chỉ giáo cho chúng con được nhiều điều lợi ích về sau. Con là thân nữ ngủ trược, lại nghe Phật dạy: Thân nữ rất thô xấu độc ác, chẳng có tướng trượng phu giống như loài rắn độc đang nên kinh sợ. Ngưỡng mong Bồ-Tát chỉ dạy cho chúng con biết thân nữ rất đáng sợ hay rắn độc đáng sợ? Nếu thân nữ đáng sợ thì cớ gì Thế Tôn lại cho con núp trong hào quang của ngài? Nếu rắn độc đáng sợ thì tại sao thân hình của con phủ đầy rắn độc mà chẳng hề hấn chi? Nếu Bồ-Tát là thân nam tử thì thiệt chẳng phải là Bồ-Tát. Nếu Bồ-Tát là thân nữ nhơn thì thiệt chẳng phải là Bồ-Tát. Trong cả hai điều ấy xin ngài từ bi chỉ dạy cho con và chúng sanh đời sau thấy được chơn lý màu nhiệm ít có khó được này? Bồ-Tát Sư Tử Hẩu nghe ngài Thường Cu Lợi Độc Nữ thưa hỏi như thế, cả thân đều nổi ốc giực mình lo sợ mà nghĩ rằng: - Ngài Thường Cu Lợi Độc Nữ duyên cớ gì lại ở trong hào quang của đức Thế Tôn? Nếu ngài thị hiện giữa đại chúng mà thưa hỏi những duyên sự Bí-Mật này, chắc chắn ngài là hiện thân của chư Phật quá khứ. Ta không đủ sức kham nhẩn để trả lời câu hỏi này. Khi ấy nơi A-Tỳ Địa Ngục ngài Quán Tự Tại Bồ-Tát thấy ánh hào quang của ngài Thường Cu Lợi Độc Nữ soi sáng đến chỗ tối tăm giúp cho chúng sanh nơi Địa Ngục mau được siêu thoát. Ngài Quán Tự Tại Bồ-Tát thị hiện phân thân đến giữa pháp hội của Phật Mẫu Chuẩn Đề hóa ra nghìn cánh sen báu xanh, đỏ, trắng, vàng ẩn hiện mây ngủ sắc rồi hiệp thành một tòa sen báu lớn ngự trên hư không như vào cảnh thần tiên trên thượng giới. Ngài Quán Tự Tại Bồ-Tát từ trên hư không bước xuống đến đảnh lễ ngài Thường Cu Lợi Độc Nữ rồi nói rằng: - Tôi có nghe Nhơn Giả hỏi ngài Sư-Tử Hẩu Kim Cang Bồ-Tát những lời pháp mầu quí báu ẩn hiện ý chơn như mật nhiệm. Ví như trong vào cảnh thiền định, ngoài hiện tướng phàm phu, việc này không thể so sánh và bàn luận được. Nếu ngài hoan hỷ, tôi sẽ vì chúng Bồ-Tát mà mở bày những pháp Bí-Yếu khó thể nghĩ bàn này. Lúc bấy giờ trong đại chúng Bồ-Tát đều kinh nghi sợ sệt mà nghĩ rằng: – Việc của Phật làm, lời của Phật nói khó so sánh và dẫn giải. Duyên cớ gì Bồ-Tát Quán Tự Tại dám đảm đương việc Phật pháp nặng nề như thế? Ngài Quán Tự Tại biết được tâm niệm của chúng Bồ-Tát và ngài Kim Cang Sư Tử Hẩu. Nên đức Bồ-Tát dùng tiếng phạm âm thâm diệu ứng đối thích hợp vào tâm của tất cả đại chúng mà nói rằng: - Thưa các Nhơn Giả! Ngài Thường Cu Lợi Độc Nữ đây chẳng phải là thân nữ, chẳng phải là thân nam, chẳng phải là thân Bồ-Tát, chẳng phải thân Phật. Lời nói của ngài cũng chẳng phải giả cũng chẳng phải chơn. Trong chỗ khó suy nghĩ này trừ Phật với Phật mới có thể tận cùng chỗ hiểu biết. Nay ở trong pháp hội các vị Bồ-Tát đều nghĩ rằng thân của ngài Thường Cu Lợi Độc Nữ là Phật thân của quá khứ nên mất chỗ chánh niệm, mà không thông đạt được chỗ trí huệ mạnh nhanh của các pháp. Ở nơi ba ngôi Tam Bảo các ngài đều đánh mất, tâm tư các ngài bị chuyển động mạnh thì làm sao gọi đó là Bồ-Tát? - Các Nhơn Giả nên biết! Ngài Thường Cu Lợi Nữ dù thân là nam hay nữ cũng đều là thân giả hiệp, có chung một Phật tánh chẳng có gì dơ chẳng có gì sạch, chẳng có đúng hay sai. Do một niệm phân biệt mà mắc phải lỗi lầm hư vọng. Giả sử có người ngu thật tâm tầm cầu chơn lý giải thoát mà chẳng thể thấy được, đó chẳng phải là trí. Nhưng nếu có hạng người ngu thứ hai thật tâm tầm cầu chân lý giải thoát mà đạt được chỗ cứu cánh Niết Bàn, phải biết đó là trường hợp hy hữu hiếm có trong chốn nhân gian. Nếu có hạng người trí thứ hai thật tâm tầm cầu chơn lý giải thoát mà đạt được chỗ cứu cánh Niết Bàn, phải biết đó là bực đại sĩ hiếm có khó được trong chốn nhân gian. - Các Nhơn Giả chớ nên xem trọng cái thiện cái ác cái đúng cái sai làm mất chỗ cân bằng của chánh niệm. Nếu tánh giác ngộ là chơn lý thì chơn lý chẳng có chỗ đúng sai, trắng đen, nam nữ. Nếu chơn lý có chỗ nam nữ thời chúng sanh sẽ không bao giờ giác ngộ để thành bực A-La-Hán, Bồ-Tát, Phật. Vì vậy chơn lý là chỗ nhiệm mầu của Luật nghi Giới. Tuy có chỗ cấm, ngăn, đoạn, lìa, ly diệt mà lúc nào cũng dung thông khai mở tịnh Phật quốc độ làm cho chúng sanh lần bước đến đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. - Các Nhơn Giả nên biết! Ví như có một người chủ dựng lên một căn nhà lớn bằng các loại gỗ quí. Căn nhà ấy chung quanh đều đóng bít, chỉ chừa lại cửa cái cửa sổ và cửa sau. Khi người chủ ra đi thì khóa cửa lại, khi trở về thì mở cửa ra, khi đi ngủ thì đóng cửa cài then và đốt đèn, khi trời sáng thời mở then cửa và tắt đèn. Chơn lý của chư Phật cũng lại như vậy. Lúc vì bực Thánh Nhơn, Bồ-Tát mà nói pháp diệu thiện. Lúc vì chúng sanh bực thấp mà nói pháp diệu ác nơi cõi Địa Ngục. Lúc vì muốn dạy cho chư Thiên mà nói pháp Thập Ác. Lúc vì chúng sanh thuần thục mà nói pháp Thập Thiện v.v… cho nên pháp của Phật chơn lý mà chẳng phải phi lý. Chẳng phải chơn lý chẳng phải phi lý mà cũng là chơn lý, phi lý vậy thôi. Bởi vì pháp tùy chỗ ứng dụng như người chủ căn nhà đi ra đi vào lúc nào cũng được, tùy ý sử dụng chẳng bị vướng bận vật chất, ngoại cảnh và tâm niệm. Chơn lý của chư Phật lại càng rộng sâu hơn thế nữa. Do đó chư Bồ-Tát mới phát tâm không thể đến được, không thể hiểu được. Chỉ có Phật với Phật mới hiểu nhau mà thôi. Bấy giờ ngài Sư Tử Hẩu Kim Cang Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 1. Đấng Mật Chủ Đại Hùng Phân thân khắp cõi Phật Thị hiện tướng thấn biến Vô lượng vô số ức Chẳng tính đếm thí dụ Những công hạnh khó làm Trong đời cả Trời, Người Chẳng có ai hiểu biết Sức mầu nhiệm Nghiêm Mật Chúng sanh thấy ngơ ngác Pháp Mật Diệu Đại Quán Bí-Yếu vô cùng tận Ở nơi trí Thanh Văn Duyên Giác, Bồ-Tát thảy Nghe pháp Đại Tổng Trì Xuất sanh nghĩa rộng lớn Phá bỏ tâm phân biệt Siểng dương pháp Mật Giáo Thành tựu đại Bồ-Đề Dựng đứng lòng đại bi Mở bày các tướng pháp Từ lâu bị bỏ rơi Không ai nghĩ tưởng tới Chẳng biết sự hư thật Đánh mất cả thân tâm Trãi qua sa số kiếp Ngây dại lòng dua dối Chẳng thấy tướng chơn thật Pháp mầu Tối Chánh Giác Xưa nay chẳng hư dối Mạnh mẽ như Kim Cang 2. Hay thay! đức Bồ-Tát Đại Thánh Quán Tự Tại Biết được lòng muôn chúng Dầu ở nơi Địa Ngục Thông quán các Phật quốc Thị hiện sức mạnh nhanh Nhờ đảnh Thần Biến Tướng Thu phát các âm thanh Vì chúng mà tế độ Chỗ hạn hẹp tối tăm Ánh hào quang Bồ-Tát Soi thấu đến cùng tận Lưu thông cả ba cõi Hiện thân đến sáu loài Mà vì đó nói pháp Diễn rộng nghĩa vô thường Khổ khổ, già bệnh chết Không một ai tránh khỏi Thời gian thoáng qua nhanh Số kiếp như mảnh bụi Các pháp tướng như thế Cũng chẳng bị hư hoại Thấy mất mà chẳng mất Bí truyền và biệt truyền 3. Các Bồ-Tát vâng giữ Kho pháp tạng vô lậu Không ai hiểu được Phật Chúng sanh luống nghi ngờ Phân biệt lòng tưởng niệm Không biết chơn hay giả Chúng Thanh Văn, Duyên Giác Đều lọt vào nghi lầm Không thể suy diễn được Những hình tướng Cổ Quái Lạ lùng khó phân biệt Nam, Nữ hoặc tà, chánh Hay là Ma giả Phật? Điên đảo lòng chúng con Làm rối loạn tâm trí Không định vị thanh tịnh Dường như giấc ngủ mê 4. Quán Tự Tại Bồ-Tát Thực hành đạo Chánh Giác Qua vô số Phật quốc Trong tất cả hiền kiếp Thị hiện giải nghi nan Tỉnh ngộ lòng chúng sanh Khiến đó được hiểu biết Nay đem pháp nhạo thuyết Mở bày nghĩa Mật Môn Bằng tướng pháp kỳ bí Phương tiện đại phương tiện Mở bày nghĩa kinh này Dẫn dắt chư chúng sanh 5. Thường Cu Lợi Độc Nữ Hóa thân của chư Phật Núp trong ánh hào quang Thị hiện giữa đại chúng Hóa giải lòng nghi nan Mà hiện thân Bồ-Tát Hàng phục đại độc ác Mình quấn đầy rắn độc Tiếng rào rào khắp thân Đang tỏa mùi độc khí Là ác hay Thiện Nhơn? Cổ quái và ghê sợ Loài người thấy lẫn tránh Huống là chúng Tỳ Kheo Việc rất đáng kinh sợ Các loài vật thế gian Thấy Bồ-Tát hiện đến Nghe âm thanh thượng diệu Nọc độc liền biến mất Rắn độc cùng Bò cạp Trùng, Nhện, Rít ác thú Sư Tử, Cọp, Beo thảy Tê Giác, Voi, Chó Sói Rồng độc cùng Quỉ Mị Tất cả đều rởn ốc Rùng mình tân lo sợ Không hiểu âm thanh gì? Khiến chúng mất tự chủ Cúp đuôi mà chạy trốn Chẳng dám ló đầu ra Chư Thiên cõi Đế Thích Đao Lợi, Tứ Thiên Vương Thấy ánh hào quang lạ Từ xưa chưa từng có Xuất phát nơi thân thể Thường Cu Lợi Độc Nữ Thảy đều rất hoan hỷ Mà rãi hoa cúng dường Hoa Mạn Thù La Sa Ma ha Mạn Thù Sa Rãi đầy thành núi lớn Thơm lây cả chúng hội 6. Cúng dường nơi thân Phật Tán thán Đại Chuẩn-Đề Đấng Đạo Sư Vô Thượng Thành Tựu Tô-Tất-Địa Đà Ra Ni Tổng Trì Thị hiện việc hy hữu Chẳng ai thể lường được Sức mầu nhiệm quí báu Hội hợp đại Cổ Phật Đàm luận việc ít có Khiến đại chúng nghe đạo Mà tin hiểu kinh này Sức mạnh đại tự tại Như đám mưa Cam Lộ Vui mát lòng chúng sanh Hưởng sự lợi ích lớn Tu tập kinh điển này Tiếng đồn vang dậy khắp Lan rộng cả mười phương Tiếng khen ngợi vi diệu Ở khắp các Phật quốc Đưa về nơi chúng hội Âm thanh tịnh cõi Phật Thành một lời pháp mầu Bốn chúng nghe tỉnh ngộ Mà cung kính đức Phật Khao khát được nghe pháp 7. Chuẩn-Đề đấng Đạo Sư Ở nơi định chơn như An ủi cả đại chúng Ủy thác việc Phật sự Cho các vị Bồ-Tát Xếp bằng nhập chánh định Đà Ra Ni Tổng Trì Rồi vì đó thuyết pháp Mở bày các căn tánh Thứ bậc thượng, trung hạ Giải nghi tâm chúng sanh Khiến đó được pháp lợi Thành tựu chơn thiện đạo Phó chúc bổn kinh này Hoằng truyền độ chúng sanh Được đạo Tối Chánh Giác. Nam mô Chuẩn-Đề Hội Thượng Phật Bồ-Tát (3 lần) (Hết phẩm thứ mười sáu)
KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN – QUYỂN VIII, PHẨM TỐI SƠ CỔ PHẬT THỨ MƯỜI BẢY
0 Comments 03 NOVEMBER 2011
KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN Quyển thứ VIII MẬT SƯ: THÍCH GIÁC TIẾN – THIỀN NHÂN PHẨM TỐI SƠ CỔ PHẬT THỨ MƯỜI BẢY Lúc bấy giờ ngài Thường Cu Lợi Độc Nữ khen ngợi ngài Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát rằng: - Hay thay! Hay thay! sức mạnh đại oai đức của một vị Bồ-Tát Ma Ha Tát ở nơi hiền kiếp hay phát khởi bổn đại thệ nguyện rộng sâu mà các vị Bồ-Tát khác không thể đến được, không thể hành được, không thể hiểu được. Nếu đem so sánh hay cật vấn với các vị Bồ-Tát khác thiệt không ai sánh bằng. Xin nhơn giả vì tôi nói rõ nhơn địa tu hành của đại Bồ-Tát Ma Ha Tát, để cho chúng sanh đời nay và đời sau dứt sự nghi lầm lớn, ngõ hầu tu hành đúng như pháp. Khi ấy đức Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát ma ha tát thị hiện mười một đầu và nghìn tay nghìn mắt chiếu ánh hào quang đến mười phương các quốc độ của chư Phật. Trong hư không bỗng hiện ra vô lượng tòa sen báu ngủ sắc bay lượn trên hư không, rồi kết lại thành một tòa Sư Tử rộng lớn có bốn vị Thiên Vương đón đỡ tòa Sư Tử cúng dường lên đức Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát. Khi ấy chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều thấy là việc chưa từng có. Bát Bộ Quỉ Thần đều kinh sợ. Chúng Bồ-Tát đều rất kinh lạ và có lòng nghi ngờ. Bấy giờ nơi thế giới Đại Mật trang Nghiêm có đức Phật hiệu là chuyển pháp Luân Chuẩn-Đề Vương Phật hiện đến ngự trên hư không mà nói với đại chúng rằng: - Các ngươi nên đến đãnh lễ đức Thiên Thủ Thiên Nhãn Bồ-Tát, vì ngài chính là vị Tối Sơ Cổ Phật hiệu là Bồ-Đề Thánh Diện Vương Phật ở thế giới Hoa Tạng chuyên tu Mật Định, chẳng hiện Như Lai Pháp Tướng mà hành đạo Bồ-Tát trãi qua như số kiếp A tăng kỳ thân tâm chẳng hề lay động. Các vị Trời theo hộ vệ thân Phật chẳng để cho hư rã. Đức Bồ-Đề Thánh Diện Vương Phật thị hiện nơi các thế giới khác, thường nói pháp mầu siễng dương sức mạnh của tướng pháp hơn là tánh pháp. Do đó chúng sanh ham thích nơi các tướng pháp mà tu theo giáo môn Mật Tông bất khã tư nghì công đức của ba đời chư Phật đều tán thán ca ngợi rộng rãi không để cho hư hoại. Nương theo các tướng pháp Bí-Mật vi diệu mạnh nhanh, các vị đại Bồ-Tát thượng thủ vâng lời Phật dạy sanh vào các thế giới khác nhau nơi các quốc độ khác nhau và hóa độ cho chúng sanh bằng những tướng pháp khác nhau của giáo môn bất khã tư nghì công đức của chư Phật Như Lai đã tu tập thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đức Chuyển Pháp Luân Chuẩn-Đề Vương Phật vừa nói xong lời ấy, bỗng có mười vị Bồ-Tát từ nơi mười phương quốc độ hiện đến ở trên hư không bước xuống đảnh lễ đức Thiên Thủ Thiên Nhản và ngài Thường Cu Lợi Độc Nữ rồi lui về một phía. Vị thứ nhứt tên là Kim Cang Tịnh Vương Bồ Tát, vị thứ hai tên là Kim Cang Mật Nghĩa Bồ Tát ở hướng ĐôngNam. Vị thứ ba tên là Kim Cang Ưu Đàm Bát ở hướngNam, vị thứ tư tên là Kim Cang Sư Tử Bồ-Tát ở hướng TâyNam. Vị thứ năm tên là Kim Cang Đà Ra Ni Bồ Tát ở hướng Tây, vị thứ sáu tên là Kim Cang Tổng Trì Vương Bồ Tát ở hướng Tây Bắc. Vị thứ bảy tên là Kim Cang Đại Luân Vương Bồ-Tát ở hướng Bắc, vị thứ tám tên là Kim Cang Điển Vương Bồ-Tát ở hướng Đông Bắc. Vị thứ chín tên là Kim Cang Thánh Ô Hô Bồ-Tát ở thượng phương, vị thứ mười tên là Kim Cang Giáng Bạt Mâu Ni Bồ-Tát ở hạ phương. Bấy giờ đức Thiên Thủ Thiên Nhản Vô Ngại Đại Bi Tâm Bồ Tát Ma ha Tát là hiện thân của đức Bồ-Đề Thánh Diện Vương Phật nói với ngài Thường Cu Lợi Độc Nữ rằng: - Thưa Nhơn Giả! Đây là mười vị Bồ-Tát đã từ lâu tu tập pháp môn Mật Tông hiện nay đang ở mười phương thế giới phân thân ra vô lượng ức thân để hóa độ chúng sanh bằng những tướng pháp khác nhau rất hửu hiệu và đa dạng không thể tính kể trí huệ rộng sâu, dùng ngôn cú lời lẽ thí dụ, âm điệu nhẹ nhàng, từ bi vô lượng, tinh tấn trong sáng, cử chỉ thanh thoát hồn nhiên, hành động khéo léo, nói rõ nẻo chánh đường tà, đạo đức nguy nguy tự tại xoa dịu lòng chúng, chuyển đổi pháp âm vi mật giúp cho chúng sanh được tâm vui thích an ổn qui phục tu hành. Xin ngài đối đáp cùng các vị đại Bồ-Tát đây sẽ rõ. Ngài Thường Cu Lợi Độc Nữ hướng về đức Bồ-Tát Kim Cang Tịnh Vương mà hỏi rằng: - Thưa Nhơn Giả! Chúng sanh từ vô thỉ đến nay do tâm và tướng chấp ngã phân biệt nên mới thấy có hành và không hành, có chứng và vô chứng, có tu và vô tu, có học và vô học, có đạo và vô đạo, có tướng và vô tướng, có tâm và vô tâm, có hạnh và vô hạnh v.v… Chúng sanh có đầy đủ tâm tướng như vậy nên mới gọi đó là phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-Tát sơ địa. Bồ Tát cũng có đầy đủ tâm tướng như vậy nhưng không có chỗ chấp ngã phân biệt nên gọi đó là Bồ Tát đạo. - Thưa Nhơn Giả! Đạo của Bồ Tát chẳng phải bỏ tánh lìa tướng. Tánh và tướng tuy hai nghĩa có khác nhau mà đồng một pháp lý. Vì lý tánh và lý tướng nương nhau không rời. Kẻ phàm phu mê muội chẳng biết nên tu tánh mà chẳng tu tướng. Bực Duyên Giác hiểu được tánh tướng viên dung nên tu tập chẳng cần suy nghĩ. Bồ Tát thuần thục siễng dương tướng pháp mà chẳng lìa tánh pháp, làm cho mọi người đều kinh lạ mà nghĩ rằng: “Chẳng lẽ pháp này là pháp tà?” - Thưa Nhơn Giả! Vì biết được tâm niệm của chúng sanh nên tôi nương vào sức oai thần của chư Phật, Phật Mẫu Chuẩn Đề và bảy mươi ức câu chi đức Phật mà đem pháp môn Bí-Mật nhiệm mầu nói rộng ý nghĩa của tướng pháp và phi tướng pháp nhằm phá hoại loài Ma ngủ ẩm, cái chướng và bọn ngoại đạo Thánh chủng Tánh. Chế ngự được tất cả niệm của chúng sanh tham chấp: “Tu tâm mà chẳng biết tu cái thân”. Chư Phật mười phương tu tập theo pháp môn Mật Giáo không lìa tâm và siễng dương pháp tướng thù thắng vi diệu khó nghĩ bàn. Nếu đem so sánh hai pháp: tướng môn và tánh môn này thời không thể thấy được rõ ràng. Duy chỉ có Phật với Phật mới tận cùng chỗ hiểu biết nhau mà thôi. - Thưa Nhơn Giả! Chỗ tu hành của chư Phật chẳng phải là vạn pháp duy tâm. Nếu vạn pháp duy tâm thì tâm duy về chỗ nào, nếu không có cái thân này. Do đó cái sai lạc mà chúng sanh vấp phải và đều nghĩ rằng: “Cái tâm là phần chú tể của thể xác mà họ không biết rằng trong thực tế có thân mới có tâm. Có tinh cha huyết mẹ mới tạo ra phần linh hồn”. Vì vậy chư Phật dạy: có thân mới giữ giới, nếu không có thân thì giữ giới chỗ nào? Có thân mới tu hành, nếu không có thân biết lấy gì để tu? Tâm không thể tu, thân không thể tu. Nhờ có thân tâm hòa hiệp thành một ý thức hệ tương quan tu hành tìm đến chơn lý Niết Bàn. - Thưa Nhơn Giả! Thân nam hay thân nữ chẳng phải là chỗ để phân biệt. Bởi vì thân nam tu được, thân nữ cũng tu được. Tuy hai thái cực mà đi một đường không có gì nghịch lý. Chúng sanh vì phân biệt nên thấy có đẹp xấu và thương ghét. Chư Phật không phân biệt chuyên lo tu hành chóng thành đạo quả. Nay Nhơn Giả hỏi chỗ hiểu biết của chư Phật, tôi nương theo sức oai thần của đức Bồ Đề Thánh Diện Vương Phật mở bày chỗ chưa từng thấy, chưa từng nghe giúp cho chúng sanh đời nay và đời sau nương theo phương pháp Bí-Mật này mà tu hành dứt sự nghi ngờ thành tựu Phật quả. Bấy giờ ngài Kim Cang Tịnh Vương Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 1. Đức Bồ Đề Thánh Diện Danh hiệu Vương Tôn Phật Thành tựu Nhật Mật Trí Cả thảy Mật Chủng Trí Truyền thừa pháp Bí Tạng Hóa độ chư chúng sanh Gieo mầm Bồ Tát Đạo Mở bày pháp tướng môn Thắng phục đại tà tâm Xoay mạnh bánh xe pháp Nơi hằng sa thế giới Chấn động khắp mười phương Chư Phật hiện phân thân Nơi ba cõi sáu loài Tùy tướng độ hình tướng Tùy tâm độ thâm tâm Tùy trí độ kẻ trí Cõi thiên vương hộ thế Rưới hoa cúng dường đó Ca ngợi cùng tán thán Chiêm ngưỡng tạng Bí Mật Thành tựu nghĩa Bồ Đề Thắng-Trí đại cảnh giới Trang nghiêm các quốc độ Giáo môn rất hiếm thấy Tiếng phạn âm thâm diệu Kết thành Mạn-Đà-La Ẩn hiện trên bửu đảnh Soi sáng giữa đêm tối Cứu thoát chư chúng sanh Dứt trừ phiền nảo loạn 2. Bồ Tát vâng pháp chỉ Tu tập chẳng mệt mỏi An ổn mà trụ vững Nếu có Thiện Nam Tử! Tu theo Thiện Trí Thực Y pháp chẳng y nhơn Cầu pháp chẳng cầu nhơn Thân tâm được ngay thẳng Tắm gội cho sạch sẽ Trì tụng đại thần chú Úm kiết đa rị kiết Oai đức rất thù thắng Hộ pháp đại hộ pháp Trùm khắp hay che chở Ủng hộ người trì đó Thành tựu khó nghĩ bàn Hàng phục đại Ác-Ma Giúp trí huệ sáng suốt Thấy được đạo chánh giác Mong cầu các Tất-Địa Làm vui đẹp lòng chúng Tịnh trụ nơi tam muội Mật trụ nơi thiền thất Cứu khổ địa ngục hình Thông suốt ở ba cõi Mà diễn nghĩa kinh này Nhẫn đến một bài kệ Chúng liền được thoát khỏi 3. Chư Phật đủ tình thương Là đấng Đại Thanh Lương Mở con đường Diệu-Bí Không lường sức phương tiện Thân tịch tâm chẳng tịch Ý tịch đạo chẳng tịch Tà tịch chánh chẳng tịch Mê tịch ngộ chẳng tịch Ngủ tịch thức chẳng tịch Các món pháp như thế Khó lường khó suy gẫm Thành tựu nghĩa Mật Môn Nếu có kẻ bức não Trù rủa bị thư chú Tà Ma đến vây khổn Các khổ bức nơi thân Hành hạ rất đau đớn Nghe được bổn kinh này Các khổ nảo tiêu diệt Chúng oán đều lui tán 4. Giả sử kẻ ác nhơn Muốn hại kẻ thiện lương Đang tu tập kinh này Ác hại hườn về đó Sức mạnh đại tự tại Chư Phật đều hộ trì Thân an tâm được tịnh Nhờ đẳng thí vô úy Mà chẳng động trần cấu Nhà cửa hoặc xe báu Voi báu hoặc tạng báu Ngọc quí châu Ma Ni Vợ con cùng thê thiếp Dường như trong giấc mộng Giác ngộ lẽ vô thường Sống chết tợ áng mây Tan biến trong chốc lát Chúng sanh nhiều mê muội Chẳng biết được Bí-Pháp Là chỗ quí cao thượng Chỉ tham sống sợ chết Chạy lạc trong ngũ dục Nơi Tam Giới hiểm nạn Đọa lạc trong ác đạo Chẳng có ngày ra khỏi Thấy biết việc sai trái Chẳng kềm được lương tâm Mà mất cả cuộc đời Ví như người bắt rắn Biết nó có nọc độc Nguy hiểm đến tính mạng Nhưng vì sự sanh sống Liều bắt chẳng kinh sợ 5. Như Lai bực giác ngộ Chỉ bày các cảnh giới Tu Tập Mật Thánh Hạnh Gàn buộc các phiền nảo Gói gọn tham Sân Si Vào Bí-Mật Tổng Trì Việc làm đáng kinh ngạc Đại chúng đều tán thán Cúng dường hương, hoa, quả Vật báu của thế gian Trời người đều tôn kính Ưa vui pháp giải thoát 6. Chư Phật phi Chư Phật Bồ Tát phi Bồ Tát Chỗ khó gẫm khó suy Làm sao bắt nắm được? Bồ Tát chơn Bồ Tát ChưPhật Hội Thượng Phật Chẳng có chỗ đo lường Trí Phật mầu vi diệu Thành tựu kinh điển này Nếu có ai in chép Hoặc bảo người cùng chép Đem hồi hướng công đức Cho cả thảy chúng sanh Chỗ trí huệ rất sâu Huệ Thanh Bạch bậc nhất Huệ Đăng Quang chiếu diệu Huệ Viên Tịch thẳm sâu Huệ Vô Sanh pháp nhẫn Huệ Mật Môn tam muội Huệ Kim Cang vững chắc Huệ Viễn Ly xa lìa Các món huệ như thế Không lấy gì so sánh Người trời nên cúng dường Ủng hộ giữ gìn đó 7. HoặcNamTử! Nữ Nhơn Y theo bổn kinh này Thọ trì chuyên đọc tụng Tâm ý để trong sạch Suy ngẩm các nghĩa lý Học Bí-Pháp Vô Thượng Hồi hướng Đại Bồ Đề Cùng pháp giới chúng sanh Đặng công đức vô tận Nếu có kẻ đọc tụng Mà chẳng rõ nghĩa lý Suy gẩm tâm cần cầu Chư Phật hộ niệm đó Khiến gặp Thiện Trí Thức Vì đó dạy Mật-Pháp Bí-Chú Đại Chuẩn Đề Tấn tu chẳng thối chuyển Thân tâm được giải thoát Hiểu ý nghĩ Phật đạo 8. Thuở xưa Phật xuất thế Ta theo Phật tu hành Làm hạnh Bồ Tát đạo Mà chẳng thấy chỗ hành Tướng pháp mau thông suốt Đặng chỗ chẳng nghĩ bàn Ngoại đạo muốn phá hoại Tìm chỗ hở thiếu sót Mà tuyên bố trong chúng Tất cả đều nghi lầm Bỏ đi cẳng tiếc rẽ Ta ẩn nhẩn chịu đó Mà dốc tâm tu tập Các tướng pháp rộng lớn Tin tưởng Tạng Bí Mật Của đức Phật Tối Sơ Chịu đựng cơn đói lạnh Sốt rét nóng run lên Nước giải trào khóe miệng Tưởng chừng đang vẩy chết Gục ngã bên tàng cây Âm thầm không ai biết Tâm nguyện lành vô gián Chẳng thay đổi chuyển động Hôn mê thấy chư Phật Dạy cho bổn kinh này Chuẩn-Đề-Đại-Bổn-Tôn Lòng vững chắc như núi Trí cứng tợ Kim Cang Hồi phục được sức khỏe Cơn nóng lạnh chấm dứt Nhờ bát sửa đàn na Sáng suốt vào tam muội Chuyển đổi các oai nghi Tổng Trì môn Mật-Pháp Hội tựu các phiền nảo Vì đó diễn chánh Pháp Chuyển Đại Tạng Mật Nghĩa Thu phục bọn ngoại đạo Chúng hội đều tôn trọng Tán thán đại công đức Cúng dường qui mạng Lễ Đến nay vô số kiếp Hạnh Bồ Tát chưa mãn Nguyện lực vẫn duy trì Đầy đủ các tướng tốt Khó nói khó nghĩ bàn Tuyên dương Bồ Tát đạo Nammô Chuẩn Đề Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần) KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN Quyển thứ tám Rắn độc quấn thân Bồ Tát. Chúng sanh luống sợ nhuốm nghi tình. Trong hào quang Thiên Nữ bổng hiện ra, Câu thưa hỏi mọi người đều im lặng. Quán Tự Tại nơi A Tỳ Địa Ngục, Đến giải nghi chúng Bồ Tát ngạc nhiên Trên hư không chư Phật đến hiện tiền, Xưng danh Phật hiệu Bồ Đề Thánh Diện. Bồ Tát quán mở nghi các ngã chấp. Rộng siễn dương tướng pháp Mật Giáo môn. * * * Nam mô thường Trú Thập Phương Phật Nam mô thường Trú Thập Phương Pháp Nam mô thường Trú Thập Phương Tăng Nam mô Chuẩn Đề Vương Phật (3 lần) (Hết phẩm thứ mười bảy)
KINH ĐIỂN, NGHI QUỸ KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN – QUYỂN IX, PHẨM PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC THỨ MƯỜI TÁM
0 Comments 14 NOVEMBER 2011
KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN Quyển thứ IX MẬT SƯ: THÍCH GIÁC TIẾN – THIỀN NHÂN PHẨM PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC THỨ MƯỜI TÁM Lúc bấy giờ, ngài Chiết Độc Hành Giả cùng bốn chúng nghe đức Bồ Tát Kim Cang Tịnh Vương thuyết xong bài kệ. Mọi người đều thán phục sức tu tập mạnh nhanh không chướng ngại, vượt qua những hoàn cảnh nhứt sanh thập tử rất đáng được Trời, Người tôn trọng và kính ngưỡng. Trên hư không hoa cõi Trời hoa tự nhiên rãi xuống cúng dường nhóm đầy chật rừng Ô-Ta, tiếng nhạc âm trỗi dậy, đờn Tỳ Bà, Ống Tiêu, Ống Địch, có tiếng chư Thiên ngâm vịnh trầm bổng tán thán công hạnh Vô Thượng Đại Bồ Đề. Khi ấy ngài Chiết Độc Hành Giả ở trong chúng hội bước ra vi nhiễu chung quanh đức Phật Bồ Đề Thánh Diện rồi quỳ xuống chấp tay mà bạch rằng: - Thế Tôn! Hàng thượng thủ Bồ Tát này đã từng cúng dường vô lượng vô biên công đức Phật, đã làm những Mật Hạnh khó làm, đã tu những pháp khó tu, đã từng theo các đức Phật học hỏi những môn học thâm áo, trí huệ siêu bạt khó ai sánh bằng. Chúng con hàng sơ học A-La-Hán làm sao có thể tận cùng được những món biện tài nhạo thuyết mạnh nhanh, chất chứa vô lượng tạng báu của chư Như Lai. Ngưỡng mong Thế Tôn từ bi chỉ dạy phân biệt công đức mà chư Lịch Đại Bồ Tát đã làm được, và so sánh những nhơn duyên trọn lành trọn sáng để chúng con noi theo tu mau chóng thành tựu đạo Bồ-Đề. Đức Tối Sơ Bồ Đề Thánh Diện Vương Phật ngự trên tòa Liên Hoa Sư Tử nghe lời ấy rồi, bèn mĩm cười dạy rằng: - Này các Thầy Tỳ Kheo! Pháp giới của chư Phật rộng lớn vô biên, phi hữu phi vô, hóa hóa mầu mầu, không lường không kể, không lấy gì so sánh được. Tướng pháp của giáo môn Mật Tông cũng lại như vậy. Tuy là tướng môn mà chẳng phải tướng môn, dẫu là hữu hạn mà chẳng hữu hạn, thấy biết mà dường như chẳng thấy biết gì, đi đứng nằm ngồi cũng lại như vậy. Các ông chớ vội khinh mà mắc tội đọa, vì tất cả các pháp đều là tạng Bí-Mật của chư Như Lai, đều là đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh, đều là chỗ an trụ của chư Phật đã và đang tu tập các tướng môn hy hữu khó hiểu khó nói khó tin mà thành tựu đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. - Này các Thầy Tỳ Kheo! Nếu có người tu tập theo pháp tướng của Giáo môn Mật-Tông, sức tin tưởng mãnh liệt, không vin động chẳng thối chuyển. Tâm niệm dường như hư không mà thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải nói kinh này, công đức của người nam kẻ nữ ấy không lấy gì so sánh được. Nếu đem ngọn núi Tu Di để trong lòng bàn tay việc ấy có thể làm được. Nhưng người thọ trì đọc tụng kinh này rất là hiếm có khó được. Nếu có người tu tập pháp biến hình lên đến cõi Trời Đế Thích dưới đến tận Âm Cung như dạo đi vào chỗ không người, việc ấy có thể làm được. Nhưng người thọ trì đọc tụng kinh này và tu tập các công hạnh Chánh-Giác rất là hiếm có khó được. Nếu có người lễ bái cúng dường bảy thứ báu, hết lời tán thán công đức của chư Phật, việc đó có thể làm được. Nhưng người thọ trì đọc tụng kinh này, sao chép, giải nói rất là hiếm có khó được. Vì sao? Vì kinh này là bực nhứt của các kinh, là chỗ quy thú của Chư Phật, là chỗ về nương vững chắc của vô lượng chúng sanh. Chỗ nào có bổn kinh này, xem như chỗ đó chư Phật đã an ngự rồi vậy. - Này các Tỳ Kheo! Kinh này hay phát sanh ra trí huệ biện tài là chỗ vun nạp của chư Hiền Thánh, Ngoại Đạo và chúng sanh. Nếu có người thấy được bổn kinh này chỉ được một lần, do nhơn duyên ấy khiến người đó bỏ ác tâm mà tu tập theo đạo Chánh Giác. Nếu có người chiêm bao thấy hình tượng của Phật Mẫu Chuẩn Đề, do nhơn duyên ấy khiến người đó thọ trì đọc tụng bổn kinh này. Nếu có người bị thư chú của ngoại đạo trù yếm thập phần nguy hiểm, mà ở nơi kinh này chí thành niệm tưởng khiến các ác hại hườn lại chỗ cũ, thân tâm người đó chẳng tổn mãi lông. Nếu có người thành kính trì tụng kinh này, các tai nạn thống khổ, dịch bệnh, thù địch, các thế lực bên ngoài muốn ác hại đó đều chẳng đến được. Nếu có người nữ muốn cầu con trai con gái, hoặc thấy hình tượng Phật Mẫu Chuẩn Đề nghe danh hiệu hoặc trì tụng bổn kinh này khiến cho người đó tùy theo chỗ tâm nguyện đều được thành tựu. Nếu có người bị mù, què, câm, ngọng, điếc, lác hoặc ngu si điên dại gặp được bổn kinh này nghe thấy rồi được tụng lễ bái tùy hình tướng khiến các ác nghiệp mau chóng tiêu trừ, sanh đời sau đủ tướng mạo trượng phu, tu hành rốt ráo đều được thành Phật. Nếu chư Thiên cõi Trời Đế Thích muốn giữ vững vị trí của mình mà tu tập theo bổn kinh này hết lòng ân cần tôn trọng lễ bái, cúng dường thọ trì, đọc tụng, tôn thờ nơi Thiện Pháp Đường, thời vị Trời ấy thêm tuổi thọ đến vĩnh viễn, thường làm vị Đại Hộ Pháp an lạc cho người tu tập kinh này được mau chóng thành tựu sở nguyện. Nếu có người tu tập Thiền Thất chẳng thành tựu được đại nguyện Phật pháp mà gặp được bổn kinh này thời lý giải được các phương pháp đang tu tập, khiến cho tập khí phiền não liền được tiêu trừ, bổn nguyện do đây mà được thành tựu. Nếu có người nợ nần vây phủ quan lính đến bắt, do sức trì niệm thần chú Chuẩn Đề phát nguyện trọn đời tu tập theo bổn kinh này, khiến người đó liền được giải thoát. Nếu có người nhà bị cháy, nước trôi, anh em, cha mẹ quyến thuộc đều chết, nghèo khổ nghiệp thức nặng nề chẳng nơi nương tựa gặp được bổn kinh này lại ưa thọ trì đọc tụng tin tưởng siêng năng lễ bái, thờ kính sư trưởng, do bổn nguyện công đức quyến thuộc đầy đủ giàu vui hạnh phúc được nhiều người kính trọng. Nếu người nữ có con nhỏ hoặc một tuổi, hai tuổi cho đến mười tuổi bị Ma quái ám ảnh khiến trẻ nhỏ ốm yếu sắp chết, gặp được bổn kinh này, người nữ ấy hay thọ trì đọc tụng thành tâm cầu nguyện nơi Phật Mẫu Chuẩn-Đề rồi hồi hướng phước báu cho đứa trẻ, lấy nước trên bàn Phật cho trẻ uống đó lần lần Ma quái biến mất liền được giải thoát. - Này các Thầy Tỳ Kheo! Công đức trì tụng kinh này rất hiếm quí là tạng pháp Bí Mật của mười phương chư Phật hay giúp cho kẻ khổ được vui, giúp cho kẻ ngu được trí, giúp cho người ác hườn thiện, giúp cho người trí được đạo, giúp cho kẻ tu mau chứng đắc đạo quả, khó thể lường được pháp môn đại phương tiện trừ tà hộ chánh thành tựu vô lượng vô biên công đức. Kinh này là vua trong các kinh, ví như ngọn tháp cao chọc trời không có ngọn tháp nào vượt qua. Kinh này cũng lại như vậy, có đầy đủ bổn đại thệ nguyện công đức, hàng phục Ma chúng và Ngoại Đạo, là chơn lý siêu mầu trong các bộ kinh. Ví như trong các vầng mây lớn trên nền trời,thì Thái Hư là lớn hơn hết. Cũng vậy kinh này ưa xuất sanh trí huệ rộng lớn bực bực nhứt, sức nhạo thuyết biện tài không cùng tận mà hàng Thanh Văn, Duyên Giác cần phải tu cần phải học. Bấy giờ đức Tối Sơ Bồ Đề Thánh Diện Vương Phật nói xong lời này cùng với chúng Bồ Tát thu nhiếp phân thân trở về bổn xứ. Đức Bồ Tát Đạo Sư Pháp Tạng muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 1. Hay thay đấng Viên Tịch Bực Trường Tịch Vô Ngại Đến đi bằng phân thân Ở giữa nơi đại chúng Chỉ bày nghĩa Mật Tạng Thông suốt lòng chúng sanh Ưa thích các món Pháp Tánh tướng gồm chứa đủ Tùy theo các căn cơ Hiền kiếp, trung kiếp thảy Mạt Kiếp pháp chẳng còn 2. Bồ Tát đại thiện thệ Sanh vào đời Mạt pháp Thuở quá khứ đời ác Ngoại đạo nhiều tranh chấp Sanh sống bằng thế lực Không có chút đạo nghĩa Tranh đấu không mệt mỏi Ở nơi đời quá khứ Mười phương các đức Phật Siểng dương pháp Mật Giáo Tại quốc độ Thượng Hoa Bồ-Tát vâng ý chỉ Giữ gìn tạng Bí-Mật Của đức Phật A-Súc Nín lặng mà nhập diệt Không ai tìm thấy nữa Từ đó như chấm dứt Các Bồ Tát thượng thủ Nghe lời Phật phó chúc Im lặng không nhắc đến Tiệm tu và chỉ quán Niệm danh hiệu chư Phật 3. Lúc Pháp nhược Ma cường Ngài thị hiện Bồ-Tát Danh Thiên Thủ Thiên Nhản Vô Ngại Đại Bi Tâm Xuất hiện như điển chớp Thần Bí Đại Mật Môn Mặt sắt mười một đầu Lấy hiệu Quán Tự Tại Tu thành Tô-Tất-Địa Thắng pháp phá Ma pháp Thị hiện muôn nghìn tay Ẩn tàng vô số mắt Ánh sáng chiếu lấp lánh Bửu bối hàng phục Ma Quỉ dữ đều kinh sợ Chấn động Đại Ma Vương Rung rinh cả trời đất Ánh chớp nhoáng sấm sét Cuồn phong xô bạt nước Khuấy động Đại Kình Ngư Núi đất đá tung tóe Như trận đại hồng thủy Lửa dữ tràn khắp nơi Sức mạnh dễ bức phá Không có gì cản nổi Sóng thần cuồn cuộn lên Như một cơn thịnh nộ Vũ trụ đầy u ám Che đậy cả bầu trời 4. Xuất hiện đấng cứu thế Dập tắt các Ma pháp Im lặng dừng chuyển động Không ai có thể ngờ Vũ lôi động địa chấn Cuồn cuộn đại phong ba Thoáng phút giây biến mất Thanh tịnh Phật quốc độ Chúng Bồ Tát ngơ ngác Sức oai thần vô hạn Không có gì sánh nổi Nơi thân thể của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát Khến mọi người nghi ngờ Chẳng thể tin tưởng được Nơi thế giới hư không Vọng vang tiếng chư Phật Tán thán Phật Tối Sơ Bồ Đề Thánh Diện Vương Hiện thân làm Bồ Tát Trời, Người đều tôn thờ Cúng dường đức Phật đó Mưa hoa nhóm như núi Trống trời tự nhiên vang Tiếng ca ngâm trầm bổng Tán thán nơi thân Phật Vì ủng hộ kinh này Ánh sáng hơn nhựt nguyệt Trí huệ tợ lưu ly Thông thấu cả ba cõi Uy lực rộng mênh mông Trang nghiêm đại oai đức Trong hào quang xanh biếc Phát ra đại bổn nguyện Cứu độ chư chúng sanh Công đức vô cùng tận 5. Nếu có Thiện Nam Tử! Đem hết lòng cung kính Tu tập kinh điển này Tin tưởng rất sâu chắc Sức tinh tấn năng động Không có gì lay chuyển Như Pháp-Tướng thường trụ Giúp đó được giải thoát Thành tựu đạo Bồ Đề 6. Sức mạnh bổn kinh này Của ba đời chư Phật Lấy trí nhỏ so sánh Chẳng thể đo lường được Sự mầu nhiệm trong sáng Thu hút vô lượng chúng Thành tựu bổn kinh này Nhanh như một tia chớp Sa số các Phật độ Không tính đếm thí dụ Đều khen ngợi tán thán Những tướng pháp vi diệu Của giáo môn Mật Tông 7. Nếu có người tin tưởng Ý niệm thật bền chắc Thọ trì hay đọc tụng Biên chép hoặc giải nói Cúng dường bổn kinh này Đem so sánh công đức Phước ấy vô cùng tận 8. Nếu có Thiện Nam Tử! Cùng với Thiện Nữ Nhơn! Ở nơi đời Mạt-Pháp Cung kính đức Phật-Mẫu Chuẩn-Đề Đại Bổn Tôn Dâng hương hoa lễ bái Rồi trì tụng kinh này Đem công đức hồi hướng Khắp cùng các chúng sanh Cha mẹ nơi đường dữ Hầm lửa của ác đạo Hoặc kiếm đao chém chặt Tức thời liền giải thoát Không lường sức mầu nhiệm Oai thần như ánh chớp Cảm ứng nghiệm tùy thời Vãng sanh Cực-Lạc quốc 9. Nếu người bị quỉ ám Hoặc kẻ điên mất trí Thân chủ vì thương yêu Trang trí nên tịnh thất Bày cúng các hương hoa Xông hương trầm, hương bột An tất hương, muối hột Mà cúng Phật Chuẩn-Đề Cầu nguyện lòng thành kính Trãi qua hăm mốt ngày Dùng nước trên bàn Phật Rãi lên đầu khổ nhơn Hoặc mặt mắt, thân thể Khiến đó liền thức tỉnh Mà trở lại bình thường Quỉ mỵ liền tan biến Do nhơn duyên đầy đủ Khiến gặp bổn kinh này Tụng trì giữ gìn đó Trãi qua sa số kiếp Lưu chuyển bổn Mật tạng Đến hằng sa thế-giới Tuy gặp nhiều Ma nạn Cản trở pháp chánh giác Của Phật Mẫu Chuẩn-Đề Bánh xe pháp mầu nhiệm Phân bố các thời kỳ Sanh sản Đại Pháp Sư Bí Sô Đạt Ma Pháp Mật Chủ Trụ Trì Pháp Luân Vương Đại Tạng Pháp Giáo chủ Tỳ Lô Pháp Minh chủ Đạo Sư Pháp Thiền Tịch Dõng Mãnh Pháp Tổng Trì Án Ma Pháp Nối nhau không chấm dứt Để giữ gìn kinh này Lưu bố các quốc độ Làm lợi ích chúng sanh Sức bền trí siêu bền Thân tâm như vách núi Im lặng như khoảng không Chúng Ma đều kinh sợ Chẳng biết pháp Bí-Mật Quyền lực khó nghĩ bàn Nhanh chóng không lường được Hữu vi và vô vi Không có chỗ sơ hở Nếu so sánh phân biệt Đo lường tạng Bí Pháp Cũng không thể làm được Hoặc tính đếm thí dụ Xét nét từng câu chữ Quan sát nghĩa kinh này Để tìm lỗi đúng sai Cũng không thể làm được Giả sử chỗ sai sót Bị phân biệt rành mạch Khiến đó bỏ ác niệm Mà tán tụng kinh này Chúng sanh lần tin tưởng Thọ trì tạng Bí-Yếu Cúng dường lòng thành kính Bảo vệ rất kiên cố Mà sanh Bồ-Tát hạnh Tu tập chỗ thanh vắng Suy diễn nghĩa kinh này Thân tâm bất động chuyển Phá hoại các kiết sử Thành tựu đại Bồ-Đề Nam mô Chuẩn-Đề Hội Thượng Phật Bồ-Tát (3 lần) (Hết phẩm thứ mười tám) KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN – QUYỂN IX, PHẨM ĐẠI HIỀN BỒ TÁT THỨ MƯỜI CHÍN
0 Comments 14 NOVEMBER 2011
KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN Quyển thứ IX MẬT SƯ: THÍCH GIÁC TIẾN – THIỀN NHÂN PHẨM ĐẠI HIỀN BỒ TÁT THỨ MƯỜI CHÍN Lúc bấy giờ ngài Quảng Bát Đại Hiền Bồ-Tát nương sức oai thần của bảy mươi ức cu chi đức Phật đến giữa chúng hội, vi nhiễu quanh đức Phật Mẫu Chuẩn Đề rồi quỳ xuống chấp tay bạch rằng: - Thế Tôn! Chúng con muốn thủ hộ kinh này, theo lời Phật dạy hàng Bồ-Tát chúng con vì muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sanh trong đời Mạt-Pháp sau tu tập theo pháp môn phương tiện của giáo môn Mật-Tông, mà đến đây cầu Phật nạp thọ lời thỉnh cầu của chúng con, lưu bố kinh điển này trong hằng hà sa cõi nước được chỗ tiện lợi. Con nay thuyết Trì-Cú thần chú rằng: A tri hòa tri na tri cu na tri, đế lệ sa la ba đề, A na ba đề, ba na đề, ba na đề, ba na ca hòa ni, ma ha ca hòa ni sĩ Lâm bộ Lâm. Đây là bài thần chú của bảy mươi hai ức đức Phật đã nói. Con nay nương sức oai thần của chư Phật trùng tuyên lại vì để giữ gìn thủ hộ kinh này như giữ gìn tròng con mắt của mình. Nếu có kẻ ủy báng xâm tổn nơi kinh này, thà chúng con chịu đựng mọi sự ngục hình đau đớn, thân thể bị chém chặt máu chảy khắp thân nơi nghìn muôn ức kiếp cũng không hối hận, hơn là thấy người ủy báng kinh này. - Thế Tôn! Sức mạnh của Trì Cú Thần chú này có một năng lực mầu nhiệm khó có thể nghĩ bàn, khiến cho kẻ có nhiều ác niệm đều bị hàng phục. Những hạng người hung dữ đâm cha giết chú phá hoại sớm làng muốn đến phá hoại người trì tụng kinh này. Do sức mạnh của Trì Cú Thần chú khiến kẻ đó bị thu phục nhanh chóng. Các thứ Sư Tử, Hổ, Lang, Voi dữ do sự sai khiến của bọn ngoại đạo muốn ác hại người trì tụng kinh này. Do sức oai thần Mật-Niệm Trì Cú Thần chú khiến cho các ác thú bỏ tánh hung dữ liền được giải thoát. Nếu có kẻ bị xúi giục hoặc mua chuộc để hảm hại người trì tụng kinh này. Do sức Nhiệm Mật của Trì Cú thần chú, kẻ ác trở nên hiền hậu. Nếu có người bị kích động do sự hiểu lầm, dùng miệng lưỡi để chửi rủa người trì tụng kinh này, phải biết sức mạnh thần kỳ của Trì Cú thần chú kẻ đó tự im lặng hiểu được sự thật ăn năng hối cải. Nếu có kẻ oán thù muốn giết hại người trì tụng kinh này, đến khi gặp mặt nhau, oán thù tiêu mất. Do sức trì tụng Trì Cú thần chú các oán địch đều lui tán. - Thế Tôn! Hàng hà sa các chúng đại Bồ-Tát nghe đặng chú Đà Ra Ni, đều đến thủ hộ kinh đệ nhất Chuẩn Đề Bổn Tôn thành Phật tâm yếu này. Kinh này là vật báu trong các kinh được lưu hành trong cõi Diêm Phù Đề. Nếu có người thọ trì, đọc tụng, nghĩ nhớ, biên chép, giải nói đều là do sức thần của Trì Cú thần chú cảm ứng nên. Nếu có người thọ trì đọc tụng hiểu nghĩa chơn chánh đúng như pháp mà tu hành, sâu trồng cội lành nơi hằng hà sa các đức Phật, người ấy được Phật thọ ký, sau khi mạng chung sanh về cõi trời Đế Thích. - Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, trong đời Mạt-Pháp con dùng sức bổn nguyện thần thông mà giữ gìn kinh này lưu bố rộng nơi các quốc độ trong mười phương cõi nước. Bấy giờ Phật Mẫu Chuẩn Đề khen rằng: - Hay thay! Hay thay! Đại Hiền Bồ-Tát! Ông có thể hỗ trợ kinh này làm lợi ích cho chúng sanh đời sau. Ông đã thành tựu được bất khã tư nghì công đức, thật hành nguyện thần thông để giữ gìn kinh này. Ta dù ở nơi xa các thế giới khác cũng phân thân đến mà ủng hộ cho đó. - Này Đại Hiền Bồ-Tát! Nếu có người nam kẻ nữ nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải nói kinh này, phải biết người đó là sứ giả của Như Lai, ngồi trong nhà Như Lai, ăn cơm Như Lai, nói pháp Như Lai, được Như Lai lấy y trùm đó và thọ ký đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Người đó ở nơi kinh sách của Ngoại Đạo tìm hiểu nghĩa lý để dạy đạo thuận theo chánh pháp. Người ấy hay gần gũi kẻ ác, hàng thịt, thợ săn, kẻ buôn bán sắc gái lòng chẳng ngay thật v.v… mà vì đó thức tỉnh mê tình, tháo bỏ ba độc, đoạn trừ tứ tướng, các sự ganh ghét nảo hại chẳng thể đến được. Người ấy ít muốn biết đủ vì để thọ trì thủ hộ kinh này thành tựu chúng sanh đến chỗ thật tướng. Người này chẳng bao lâu đến nơi đạo tràng, phá các Ma chúng thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. - Này Đại Hiền Bồ-Tát! Nếu ở đời ác sau có người thọ trì đọc tụng kinh điển đại thừa Đệ Nhứt Chuẩn-Đề Bổn Tôn này, người đó chẳng để tâm ham các món y phục, lụa là, giường nằm, vật nuôi sống, vàng bạc châu báu. Vì do chẳng mong cầu mà ở nơi đời đặng hưởng phước báu đầy đủ chẳng hề thiếu sót. Người này từ nơi xa bước đến đều được mọi người hoan hỷ đón rước như kính Phật vậy. - Này Đại Hiền Bồ-Tát! Nếu có người thọ trì kinh điển này, người đó chẳng ưa nhìn lỗi quấy của kẻ khác, chẳng hay nghi ngờ, lời nói chơn thật, tướng hảo quang minh, răng trắng như hạt bắp, da dẽ mịn màng, miệng hình cánh cung trơn bóng, mũi cao thẳng đứng, mặt mắt vuông rộng, chơn mày cong như lá liễu, trán rộng nước da trắng hồng, đi đến đâu cũng được mọi người tôn kính. Đó là do sức tin tưởng tu tập sâu chắc nơi kinh điển đại thừa rộng lớn này và nhờ sức thần của bảy mươi hai ức câu chi đức Phật cảm ứng nên như thế. Bấy giờ ngài Quảng Bát Đại Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 1. Thế Tôn đức thượng diệu Dùng phương tiện Mật Giáo Mà chẳng phải Mật Giáo Chúng sanh luống nghi lầm Chẳng biết chỗ chơn thật Nghi ngờ sanh lỗi quấy Chư Phật đấng Tịch Trụ Mật trụ nơi giải thoát Phản trụ kiếp luân hồi Không ai thể ngờ được Bực Tối Thượng Mật Chủ Đạo chủ của Thiên Tiên Giáo chủ của ba cõi Minh chủ của bốn loài Pháp chủ của Thánh Nhơn Diệu chủ của Bồ-Tát Thông đạt pháp Mật Quán Hằng sa môn tam muội Xuất nhập đại tự tại Chỉ bày chỗ chơn lý Thuyết giáo bổn kinh này 2. Chúng con hàng Bồ-Tát Vâng ý chỉ của Phật Mà giữ gìn Y-Báo Chánh-Báo cho đời sau Chúng sanh căn cơ thấp Thấy được bổn kinh này Thực hành Bồ-Tát đạo Thuần thục các căn tánh 3. Nếu có Thiện Nam Tử! Hoặc chư Thiện Nữ Nhơn! Nghe kinh điển đại thừa Một bài kệ bốn câu Suy nghĩ và hồi tưởng Tâm niệm lần xoa dịu Bỏ ảo giác nghiệp báo Chuẩn bị cuộc hành trình Bước lên đường giải thoát Tu tập kinh điển này 4. Các Nam Tử Nữ Nhơn! Nếu có người trì tụng Trì Cú đại thần chú Ác niệm mau hàng phục Phiền nảo đều qui thú Kẻ ác muốn ác hại Nơi thân người trì chú Khiến đó mất phương hướng Việc ác đều vô hại Hoặc có kẻ hung dữ Đâm cha hoặc giết chú Muốn xâm hủy người đó Do sức trì chú này Kẻ đó chẳng đến được Hoặc có kẻ lầm lẫn Bị kích động tinh thần Tâm sân hận nổi lên Muốn ám hại người đó Do sức trì chú này Sự lầm lẫn tan biến Hoặc Ngoại Đạo xui khiến Sư Tử, Hổ, Ác Lang Voi điên cùng Báo dữ Quỉ Mỵ, Vọng Lượng thảy Bàn Trà, Cưu Bàn Trà Chúng Tỳ Ma Dạ Ca Hùng hỗ mà kéo đến Để xâm hại người đó Do sức trì chú này Ác tánh của muôn thú Đều trở nên lắng dịu Hiền hậu dễ sai khiến Hoặc gặp kẻ oán thù Sắp đến chỗ tử thần Ác nhơn thấy người đó Do sức trì chú này Gươm đao bỏ xuống đất 5. Các Nam Tử! Nữ Nhơn! Kinh này là bực nhứt Đứng đầu trong các kinh Chư Phật mười phương cõi Đều tán dương ca ngợi Hằng sa đại Bồ-Tát Nhóm chúng đến nghe Pháp Mà thủ hộ kinh này Nếu có kẻ in chép Hoặc giải nói kinh này Tùy thuận Thế Tục đế Trích giảng các nghĩa lý Khiến chúng sanh thuần thục Quy thú kinh điển này 6. Trong đời ác Mạt Pháp Người trì tụng kinh này Hoặc bảo người khác trì Rất hiếm có khó được Thân tâm giữ kiên cố Bỏ lại các vật chất Tôi tớ và sản nghiệp Vợ con cùng quyến thuộc Vàng bạc các món báu Lìa ác chẳng thọ ác Theo phúc báu thanh tịnh Của Chư Phật, Bồ-Tát Do quả báo như vậy Đời đời thân tướng tốt Đầy đủ tướng trượng phu Lần đến chỗ đạo tràng Phá hoại quân sanh tử Ác Ma đều lui tán Thành Vô Thượng Chuẩn-Đề Lúc Phật nói phẩm đại Hiền Bồ-Tát này có hằng sa vô lượng chúng Bồ-Tát đặng các môn tam muội Đà Ra Ni Tổng Trì. Cõi Tam Thiên quốc độ chỗ chư Bồ-Tát an trú đều đủ đạo hạnh của bực Đại Hiền Bồ-Tát. Phật nói kinh này rồi, Đại Hiền Bồ-Tát và các vị Đại Bồ-Tát, Uất Đơn Đầu, Thiện Long Hành Giả v.v… Các vị Thanh Văn, Duyên Giác, Trời, Rồng, Nhơn Phi Nhơn, tất cả đại chúng đều rất vui mừng thọ trì lời Phật, rồi làm lễ mà lui ra. * * * KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN Quyển thứ chín Phân biệt công đức, La Hán trình thưa. Phật tối sơ dạy tướng pháp lọc lừa, nói nhơn địa tu hành kinh Mật Giáo, thành tựu pháp kinh này rộng lưu bố. Cõi Diêm Phù Mật Tạng được siễn dương. Ngài Đại Hiền tuyên bày sức thần chú. Phật Chuẩn Đề ngợi khen, chúng sanh hoan hỷ, pháp hội mừng vui. Nam mô thường trú thập phương Phật Nam mô thường trú thập phương Pháp Nam mô thường trú thập phương Tăng Nam mô Chuẩn-Đề Vương Phật. * * * BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH Thi hành bát nhã ba la Không còn dính mắc trẻ già tử sanh Sắc là vô vị vô danh Nếu không sắc ấy biến thành viễn vong Xét rằng ngủ uẩn đều không Cũng nhờ phép ấy tỏ thông đạo màu Mê tình chẳng chấp gồm thâu Không còn giải thoát có đâu luân hồi Không sanh diệt không cuốn lôi Cấu tịnh chẳng nhiễm tài bồi phước duyên Đoạn lìa các mối oan khiên Trần ai bỏ lại bên miền dương gian Sáu căn sáu thức ẩn tàng Chẳng còn di động đạo vàng chiếu soi Tinh thần Mật pháp cao ngôi Làm cho trí huệ có rồi hườn không Chuẩn Đề Phật Mẫu tâm tông Quyết chẳng thối chuyển phá dòng sông mê Pháp thân sống ở thác về Có chi sanh diệt nảo nề thân tâm Không là bát nhã hành thâm Đời mê đạo giác lỗi lầm cũng không Đà ra ni chú tỏ thông Viễn ly tứ khổ cũng lìa tam tâm Bồ-Đề tự tánh vốn không Nếu chẳng giác ngộ khó mong sao bì Đạo là Bí Mật vô vi Hữu vi nếu bỏ là đi sai đường Vô chứng vô đắc vô thường Nếu không chứng đắc oan ương vẫy đầy Tinh thần giác ngộ từ đây Ấy là Mật Giáo hiển bày gần xa Vào trong Bát-Nhã ba la Tâm vô quái ngại cũng là Phật thân Huệ quang soi chiếu trong trần Khiến cho cõi ác lần lần trang nghiêm Ba đời chư Phật khó tìm Hôm nay thấy được sanh niềm hân hoan Chí tâm dưới ánh đạo vàng Ma quân chẳng có Niết Bàn cũng không Hiển bày thần chú Mật Tông Đại Minh vô thượng tâm không ngại gì Vô đẳng đẳng chú huyền vi Trừ tiêu tai nghiệp kiên trì bất hư Quyết lòng vào trí vô sư Vượt qua cơn bão thuyền từ đưa sang Đến nơi bờ giác nhẹ nhàng Đặng thành chánh quả cứu toàn chúng sanh Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. TỈNH GIÁC Cõi mê trong kiếp muộn màng Cũng như hình bóng theo làn mây bay Có sanh trước mặt hôm nay Đến mai biến mất đổi thay bất ngờ Bây giờ sức mạnh thờ ơ Bịnh đau mấy chốc đến hồi phân ly Giàu nghèo đẹp xấu gan lì Không ai tránh khỏi đường đi diêm đình Hãy mau giác ngộ câu kinh Hiện tiền đắc độ chúng sanh hưởng nhờ Nam mô A Di Đà Phật (10 biến) CHÚ TIÊU TAI Nguyện ngày an lành đêm an lành Ngày đêm sáu thời đều an lành Tất cả nạn tai đều tiêu mất Nguyện chư Thánh tăng thường ủng hộ Thiên Thần địa vật soi sáng khắp Phù trì nghiêm mật người tu hành Phá tan bệnh tật và nghiệp chướng Giữ gìn đất địa tạo nguồn thương Dứt trừ những cảnh gây ác nghiệt Khói tan lửa tắt gió hòa vui Bao cơn thịnh nộ và hạn hán Thế giới an lành hết trái ngang Nguyện ngày an lành đêm an lành Ngày đêm sáu thời đều an lành Tất cả nạn tai đều tiêu mất Nguyện chư Bồ-Tát đều ủng hộ Hung thần ác tặc đều quy thú Ma nhơn hết thảy vì sự tu Theo đường chánh đạo vui giác ngộ Không còn khổ nảo với oán thù Địa ngục A-Tỳ nhiều sanh tử Tai ương muôn kiếp xóa dứt mau Trừ tà ác chú hườn lại đó Qui hướng thiền môn bỏ ác tâm Dây oan gàn buộc nay lại mở Kiếp người tăm tối bỗng sáng ra Nguyện ngày an lành đêm an lành Ngày đêm sáu thời đều an lành Tất cả nạn tai đều tiêu mất Nguyện chư Phật pháp đều ủng hộ Nam mô Hộ Pháp chư thiên Bồ-Tát (3 lần) TÁN PHẬT Chuẩn Đề Phật Mẫu đức oai nghiêm Tịnh chú Đà La mãi im lìm Bồ-Tát quảng tu nơi thiện niệm Thế gian độ khắp hết u phiền Nam mô Giáo chủ Tỳ Lô Giá Na Chuẩn-Đề Vương Phật CHÚ ÔNG TIÊU Án!!! Tiêu Diện đại sĩ diệm cụ quỉ vương Giảo hai tay quỉ sợ thần kinh Trừng đôi mắt yêu tinh vỡ chạy Le lưỡi ra lửa cháy rần rần Đầu ông đội Tam Sơn ngủ nhạc Chân bước ra triệu tập các đảng cô hồn Hỡi các Đảng Cô Hồn! Mau trở về thọ trì Mật pháp Nam mô Trừ Tà Hộ Chánh Tiêu Diện Đại Sĩ Bồ Tát (3 lần) Ma Ha Bát Nhã Ma La Mật Đa Nam mô Chuẩn-Đề Vương Phật (10 lần) Nam mô Uế Tích Kim Cương Bồ Tát (3 lần) Nam mô Mật Tích Kim Cương Bồ Tát (3 lần) Nam mô Quán Thế Âm Bồ-Tát (3 lần) Nam mô Đại Thế Chí Bồ-Tát (3 lần) Nam mô Địa Tạng Vương Bồ-Tát (3 lần) Nam mô Đạo Tràng Chuẩn Đề Hội Thượng Phật Bồ-Tát (3 lần) NGUYỆN HỒI HƯỚNG Khi con tụng niệm vừa xong Nguyện đem hồi hướng hồng ân cao dày Nguyện lên Phật Tổ Như Lai Các vì Bồ-Tát thần oai diệu huyền Nguyện nhờ phước đức vô biên Thánh thần hộ độ nhơn duyên căn lành Nguyện cho cả thảy chúng sanh Cửu huyền thất tổ siêu thăng Liên đài Nguyện cho cửu phẩm cao ngai Khiến cho nội ngoại sớm mai trở về Nguyện cùng ánh đạo Bồ-Đề Cô hồn các loại cận kề quê xưa Nguyện tu Mật Giáo đại thừa Âm siêu dương thới cũng vừa độ qua Nguyện cho Phật Tử gần xa Khắp trong thân quyến trẻ già an khương Nguyện cho đất nước quê hương Mưa hòa gió thuận tình thương dồi dào Nguyện vì Phật pháp thanh cao Xin đem phước đức rưới vào ngục môn Nguyện lên các đấng Thế Tôn Huệ quang khai mở linh hồn chúng con Nguyện cùng Thiên Địa núi non Chẳng còn lay chuyển sắc son chứng lòng Nguyện cho được trí rảnh không Đắc thành chánh giác tâm tông lưu truyền. PHÚNG KINH Tụng kinh công đức tuyệt vời Xin đem hồi hướng khắp người gần xa Chúng sanh pháp giới Ta Bà Mau về cõi Phật Di Đà Tây Thiên NGUYỆN TIÊU Nguyện tiêu tan chướng não phiền Nguyện thành trí huệ vô biên tuyệt vời Nguyện bao nghiệp tội xa rời Nguyện thành Bồ-Tát đời đời độ tha. NGUYỆN SANH Nguyện về tịnh độ nước nhà Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình Hoa khai ngộ pháp vô sanh Bất Thối Bồ Tát bạn lành vựa nương HỒI HƯỚNG Nguyện đem công đức lành Hồi hướng cho tất cả Chúng con với chúng sanh Đều chứng thành Phật quả TỰ QUY-Y Tự quy-y Phật Cầu cho chúng sanh Hiểu rõ đạo lành Phát lòng vô thượng Tự quy-y pháp Cầu cho chúng sanh Kinh luật hiểu rành Trí huệ như biển Tự quy y tăng Cầu cho chúng sanh Hiệp chúng đồng tình Chẳng hề trở ngại PHỔ TỐNG Nhất tâm thỉnh Phật mười phương Chư Hiền Thánh chúng mở đường Lạc Bang Oai nghi Phật Mẫu rõ ràng Thanh Văn, Duyên Giác hai hàng vây quanh Thiên Long Bát Bộ oai danh Thiên Vương hộ Pháp tâm lành chứng tri Bây giờ khóa lễ qui y Đã xong thỉnh rước các ngài hồi cung. Chơn ngôn thần chú cẩn đương trì tụng: Án giả lễ chủ lễ, chuẩn nê nghiệt xa nghiệt xa. Bà nga phạ để, bà phạ bà phạ Nẫm bổ noa ra nga. Ma na giả ta phạ ha (3 lần). HẾT |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 2 02/01/12 15:08
|
|
|
phúc định đã đăng rất nhiều bài nhưng vì nó là những bài mà ai đi vào con đường tu cũng đều phải biết , và nếu như chính chủ nhân của bài đó hay người đọc mà thực hiện được một chút xíu xíu thôi thì cũng đủ đạt được quả vị trong đường tu rồi, và vì thế nên Minh Thiên chỉ đọc thôi mà không bình luận gì.. nhưng bài hôm nay Minh Thiên phải nói rằng cám ơn em dã đăng bài này lên..nó rát có ý nghĩa đối với tất cả những ai dù có tu hay không tu, đời hay đạo..trong đạo nếu ta không có lòng vị tha tha thứ xả bỏ thì rất khó vượt lên đến đỉnh cao của việc tu tập .. xin một lần nữa cảm ơn em, và anh cũng mong em đã đăng được thì cũng sẽ làm được như bài viết. |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 2 02/01/12 18:45
|
|
|
Bạn không được cấp phép để xem chuyên mục này. |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 3 10/01/12 23:02
|
|
|
Bạn không được cấp phép để xem chuyên mục này. |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 4 11/01/12 13:07
|
|
|
Bạn không được cấp phép để xem chuyên mục này. |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Chủ nhật 13/11/11 23:37
|
|
|
KINH CHUẨN ĐỀ BẢN TÔN QUYỂN THỨ HAI BỒ TÁT VÂN TẬP PHẨM THỨ BA MẬT SƯ: THÍCH GIÁC TIẾN – THIỀN NHÂN
Lúc bấy giờ nơi thế giới Liên Hoa Tạng trên mành lưới báu bỗng nhiên xuất sinh ánh sáng lớn chưa từng có, sáu điệu vang động lên, tất cả các loài hoa báu phát ra mùi thơm vi diệu. Bồ Tát Sư Tử Hoa Tạng Lễ nơi chân Phật Tỳ Lô Mâu Ni Kim Cang đi nhiễu ba vòng, rồi ở giữa đại chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di và Bát-Bộ Kim-Cang Thần mà bạch rằng: - Thế Tôn! Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề nơi thế giới Tổng Trì hay thị hiện mười tám cánh tay sắc vàng phát ra muôn đạo hào quang diệu huyền. Hiện nay Phật ấy đang nhập vào chánh định mật môn đệ nhất Viên-Minh-Bố-Liệt Phạn Thơ-Đồ khó tu khó ứng dụng, sở hành đa dạng, sức biến hóa tự tại vô cùng tận, trí huệ bậc nhất thu nhiếp chúng sinh nơi pháp giới mà vẫn lặng im thanh thản dường như hư không. Chúng con muốn đến đó để viếng thăm và cúng dường, xin Phật từ bi chấp thuận cho. Xin Phật từ bi chấp thuận cho… Đức Phật Tỳ-Lô Mâu-Ni Kim-Cang mỉm cười im lặng nạp thọ lời thỉnh cầu ấy. Ở nơi thế giới Bảo Tòa Kim Cang có đức Bồ Tát thượng thủ tên là Thánh Sư bỗng thấy ánh sáng màu xanh biếc chiếu diệu ở trong chúng hội. Đức Bồ Tát đến đảnh lễ đức Mật Âm Đại Oai-Đức Như-Lai rồi bạch rằng : - Ngưỡng bạch đức Thế Tôn! Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề thị hiện mười tám cánh tay sắc vàng phóng ra muôn đạo hào quang vân tập các vị đại Bồ Tát. Chúng con chưa từng thấy sức đại tự tại mạnh nhanh trang nghiêm quốc độ bằng ánh hào quang sáng suốt, trong hào quang có vô số cõi Phật đang ngự, hàng Bồ Tát vây quanh làm hàng cây báu, tiếng linh báu ca ngâm, tiếng tỳ bà, ống tiêu, ống địch hòa reo nhẹ nhàng thư thái. Xin đức Phật mở lòng bi mẫn cho con được đến đó cúng dường Phật Mẫu Chuẩn Đề. Phật im lặng nhận lời thưa thỉnh. Bồ Tát Thánh, sư nói kệ rằng;
1. Xin Phật mở lòng thương Cho chúng con thăm viếng Cúng dường Phật Chuẩn Đề Chổ trang nghiêm hiếm có Hay tàng trữ Mật-Pháp Bí yếu khó lường được Diệu môn Đà Ra Ni Kim-Cang đại phương tiện Nơi chánh định im lặng Như hư không vô tận Xuất sinh phạn thơ đồ Ma ha Phật đảnh chú Tiếng thanh tao lạ tường Các trói buộc ghê sợ Quỉ quái cùng hổ dữ Nghe tiếng đều qui phục. 2. Cõi Trời Đại-Tự-Tại Thích, Phạm cùng Ma chúng Đang rãi hoa cúng dường Trãi số trăm nghìn kiếp Các hoa héo lại nở Các hương thơm xuyên suốt Khiến mười phương cõi Phật Thảy đều biết mùi ấy Thật vi diệu khó lường Xin Phật cho chúng con Đến cúng dường Phật Mẫu
Lúc ấy ở phương Nam nơi thế giới Siêu Độ có Bồ Tát thượng thủ tên là Thiên Tịnh Chủ bạch cùng đức Thiên-Thượng Tổng-Trì Phật rằng : - Thế Tôn ! Nơi thế giới Tổng-Trì đức Phật Mẫu Chuẩn Đề đang thị hiện thần biến tướng phát ra mười tám cánh tay sắc vàng chiếu khắp cả mười phương cõi nước, ý muốn vân tập chư đại Bồ Tát thượng thủ. Nay xin đức Thế Tôn cho con đến cúng dường vị Phật có sức thần thông lớn, sức oai đức mạnh nhanh, trang nghiêm các cõi Phật độ không ai sánh bằng. Chư Thiên, Nhân cùng tám bộ Quỉ, Thần đều rải hoa cúng dường, đồng phát ra lời ca tụng ngơi khen, trong hào quang xuất sinh bốn loại sen báu xanh, đỏ, trắng, vàng mùi thơm lạ thường. Xin Phật mở lòng lân mẫn chấp nhận và hộ niệm cho. Đức Phật Thiên Thượng Tổng-Trì im lặng. Bồ – Tát Thiên-Tịnh-Chủ nói kệ khen rằng :
1. Đức Phật lòng lân mẫn Hay cứu khổ chúng sinh Chúng con nhở đuốc tuệ Thắp sáng ngọn đèn pháp Lưu bố cả Thế Gian Trời, Người, Rồng, Quỷ, Thần Cả thảy đều quy phục Tín ngưỡng và tán thán Nghe pháp như say đắm Quên mất việc làm ác Bậc xuất thế cao thượng Chẳng nhiễm chút trần nhơ Chúng sinh mê tục lụy Sinh lòng yếu mỏi mệt. 2. Phật dạy thóat sinh tử Diệt ba độc phá nghi Chỉ có Phật với Phật Mới hiểu được việc này Chúng con thường điên đảo Nay thế giới Tổng-Trì Chuẩn Đề Phật vi diệu Chúng con lòng tham chấp Muốn làm pháp cúng dường Xin Phật hộ niệm cho.
Ở phương Bắc nơi thế giới Mỹ-Âm có Bồ Tát thượng thủ tên là Mật Ngữ Đà La Ni bạch cùng đức Phật Diệu-Ấn-Tướng rằng : - Bạch đức Thế Tôn ! Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề nơi thế giới Tổng-Trì đang thị hiện mười tám món thần thông, ánh sáng chiếu thông cả mười phương thế giới, các cõi Phật quốc đều được trang nghiêm, trong hào quang có vô số hóa Phật. Các chúng Bồ Tát, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di và Bát-Bộ Kim-Cang Thần vây quanh các đức Phật. Chư Thiên cõi Trời, Người rưới hoa Mạn đà la, hoa Ma ha Mạn thù sa khắp cùng cõi nước. Nay con thấy điềm lành này kính mong Phật từ bi thương xót giúp thần lực cho con đến cõi nước ấy mà cúng dường nơi Phật Mẫu Chuẩn Đề. Lúc ấy Phật Diệu-Ấn-Tướng im lặng nhận lời đó. Bồ Tát Mật ngữ Đà La Ni nói kệ khen Phật :
1. Thấy Phật lòng thanh tịnh Trãi qua vô số kiếp Mói được gặp một lần Như sa mạc rớt mưa Cõi trần gian tham đắm Chúng sinh ưa nghĩ tưởng Chạy theo hướng ngũ dục Không hay trong sinh tử Nhiều cạm bẫy bỏ thân Chúng con nay được phước Nương nhờ nơi Phật độ Lòng thanh tịnh nhẹ nhàng Dứt mọi sự lo sợ Đấng cha lành Tam giới Vui ưa vào thiền định Chúng con muốn nương theo Nay nghe Phật Chuẩn Đề Thị hiện tướng oai đức Chúng con muốn chiêm ngưỡng Gần gũi để cúng dường Mong Phật hộ niệm cho
Bấy giờ, ở phương Đông nơi thế giới Đại-Bảo có Bồ Tát Pháp Mật là bậc thượng thủ đúng đầu trong chúng bạch cùng đức Phật Liên Hoa Vương rằng : - Thế Tôn ! Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề đang hiện tướng thần thông biến hóa khắp mười phương cõi nước, ánh sáng chiếu diệu như một mành lưới lan rộng ra khắp hư không đại địa, trong ánh sáng có vô số vị hóa Phật, các hàng Bồ Tát vây quanh vòng trong vòng ngoài tứ phương theo hình viên minh rất lớn. Các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni tụng thần chú Mật Pháp Chuẩn Đề như đang vào nơi thiền định. Các hàng Cận Sự nam, Cận Sự nữ, Trời, Rồng, Thần, Quỉ đều rải hoa cúng dường cung kính ủng hộ. Rất mong Thế Tôn thương tưởng mà cho chúng con đến thế giới Tổng-Trì của Phật Mẫu Chuẩn Đề để cúng dường. Xin đức Thế Tôn thọ nạp lời thỉnh cầu tha thiết này. Đức Phật Liên-Hoa-Vương im lặng nhận lời. Bồ Tát Pháp Mật nói kệ khen rằng :
1. Ánh sáng Phật chiếu diệu Soi thấu suốt chúng sinh Thoáng qua nhẹ nhàng đến Sáu loài chúng sinh thảy Như tắm ánh hào quang Bỏ quên các khổ não Vui ưa và muốn thấy Cảm niệm ý không rời Chúng con hàng Bồ Tát Giữ y báo chánh báo Thấy việc khó làm này Siêng tu quên cực khổ Nay gặp Phật nghe pháp Lòng đã nhuốm đầy đủ Gặp Phật rất ít thấy Rất mong đức Thế Tôn Cho con được cúng dường Chuẩn Đề Phật vi diệu Mong Phật lân mẫn cho
Ở thế giới Tây Phương có đức Bồ Tát thượng thủ tên là Đại Bi Quán Thế Âm bạch cùng đức Vô Lượng Thọ Phật rằng : - Thế Tôn ! Nay đức Phật Mẫu Chuẩn Đề đang quay mạnh bánh xe pháp để nhắc nhở hàng Đại Bồ Tát thủ trì giáo môn Mật Tông nên hiện thần biến tướng thi triển mười tám món thần thông, chính là vì để vân tập các hàng Bồ Tát ở mười phương thế giới. Trong háo quang có vô số vị hóa Phật và Bồ Tát, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di, Trời, Rồng, A-Tu-La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhân Phi, Nhân… v.v… đang vi nhiễu chung quanh đức Phật thành một vòng tròn lớn, trong hư không có hoa rải xuống, tiếng ca ngâm đàn sáo, tiếng linh báu hòa reo cúng dường nơi thân cửa đức Phật Mẫu Chuẩn Đề. Kính xin đức Thế Tôn từ bi thọ nạp lời thỉnh cầu, cho con được đến chỗ Phật đó để cúng dường. Đức Phật Vô-Lượng-Thọ từ bi im lặng nhận lời. Bồ Tát Quán-Thế-Âm nói kệ khen Phật rằng :
1. Đức Thế Tôn vô thượng Dung nhan sắc tốt đẹp Trí đại hùng đại lực Hay cứu khổ thế gian Việc làm hiếm ít thấy Khiến trời, Người kính phục Tu công hạnh khó làm Nhẫn trì nhiếp Mật pháp Bố Pháp thật kiên cố Tinh tấn vượt ba cõi Khiến pháp Ma qui thuận Trời rưới hoa cúng dường Im lặng như hư không Tam muội không chen lộn Bụi trần đều biến mất Nay Chuẩn Đề Phật Mẫu Hiện các món thần biến Phóng vô lượng hào quang Trong mỗi tia hào quang Hóa ra vô số Phật Để vân tập Bồ Tát Chúng Thanh Văn Duyên Giác Số đông vô cùng tận Nhạc Trời tự nhiên vang Tiếng trống, đàn hòa tấu Dùng để cúng dường Phật Xin với Đức Thế Tôn Thọ nạp lời thỉnh cầu Cho con viếng Phật đó.
Bấy giờ, các vị Bồ Tát mười phương thấy ánh sáng của Phật Mẫu Chuẩn Đề chiếu đến cùng cõi quốc độ của mình; các vị Bồ Tát thượng thủ đồng đến thỉnh cầu đức Phật của mình xin đến tham dự cúng dường nơi Phật Mẫu Chuẩn Đề. Giữa hư không trỗi các kỹ nhạc, hương hoa, lọng phướn, cờ bốn màu xanh, đỏ, trắng, vàng. Mỗi vị thượng thủ Bồ Tát của mỗi vị Đức Phật đều có các thất bảo khác nhau mỗi thứ đều đẹp lạ màu sắc cổ kính, cách trang nghiêm y phục cùng các Loại sen báu cũng đều khác nhau. Các tướng chính của mỗi vị oai đức đoan nghiêm, tướng phụ như hình long phụng uy nghi tự tại. Khi ấy Phật Mẫu Chuẩn Đề thu nhiếp các vị hóa Phật ở mười phương thế giới trong khoảng sát na cùng với mười tám món thần thông, rồi nhập vào môn Tam Muội Quán-Đảnh Tâm Chú : “Án ma ha tát đa bát đát ra” an nhiên tự tại giữa đại chúng hơn năm nghìn người. Bốn bộ chúng thấy việc từ xưa đến nay chưa từng có mà sinh lòng nghi hối. Ông Uất-Đơn-Đầu cung kính tin chắc nơi đạo vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên cùng với đại chúng hữu nhiễu ba vòng cúng dường nơi thân Phật. Trên hư không các vị thượng thủ Bồ Tát đều rải hoa cúng dường nơi thân Phật rồi đồng tiếng nói kệ khen rằng :
1. Phật Mẫu Chuẩn Đề Vương Tiếng vang dội bốn phương Sức thủ trì Mật chú Nơi mật tịnh tam muội Mạnh nhanh khó nghĩ bàn An nhiên không chướng ngại Vân tập cả đại chúng Bồ Tát khắp mười phương Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni Ưu-Bà-Tắc, Bà-Di Trời, Người cùng Quỉ, Thần Ca Lầu Na, Khẩn Na La Với Ma Hầu La Già Nhân và phi Nhân thảy Đủ Bát-Bộ Kim-Cang Khiến đó được hiểu đạo Mà tu tập pháp môn Tuyên bày tạng Bí Mật Trong đời cả Trời, Người Không ai hay làm nổi Khai mở đạo giải thoát Vẹt bóng mờ vô minh Giữ gìn Luật nghi giới Thanh tịnh pháp đà la Ra vào nơi ba cõi Không lường sức thần bí Qua lại ở mười phương Chư Phật đồng khen ngợi Bồ Tát hay tín ngưỡng Giúp chúng sinh thấy đạo Ưa vui phát lòng từ Tu tập hạnh chất trực Mà ngộ pháp chân thường Siêng năng cùng tinh tấn Mật định trí phát ra Thần lực vô cùng tận Huệ mầu soi sáng khắp Chúng sinh ưa pháp nhỏ Chẳng biết gì mê, ngộ Ưa vui chọn ngũ dục Phật khéo dùng phương tiện Dẫn dắt ra ba cõi Độ tất cả chúng sinh Mà hiện tướng thần biến Chúng con hàng Bồ Tát Từ xa mới đến đây Chúc tụng rải hoa cúng Để chiêm ngưỡng lễ bái Và xem cõi Phật tịnh Phát huy đạo vô thượng Nam mô Chuẩn Đề Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)
Hết Phẩm Thứ Ba
KINH CHUẨN ĐỀ BẢN TÔN PHẨM MẬT HẠNH BỒ TÁT THỨ TƯ MẬT SƯ: THÍCH GIÁC TIẾN – THIỀN NHÂN
Lúc bấy giờ Chư Đại Bồ – Tát ở mười phương thế giới đều là bậc thượng thủ ngự trên hư không nói kệ tán thán công đức của Phật Mẫu Chuẩn Đề vừa xong. Các vị Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật vi nhiễu ba vòng đồng quỳ xuống hiệp chưởng hướng Phật khác tiếng đồng lời bạch rằng : - Ngưỡng bạch, đức Đại Thánh Chuẩn Đề Vương Phật. Chúng con vâng mệnh đức Thế Tôn từ nơi bản quốc đến đây kính lễ thưa hỏi Phật thân tâm có thư thái không? Có ít bịnh ít não chăng? Chúng sinh có dễ độ chăng? Chuyển lời đức Thế Tôn chỉ dạy chúng con nương nơi thần lực mà đến đây thưa hỏi. Kính mong Phật từ bi chỉ dạy phương tiện tu hành thiết thực để chúng con học hỏi những điều chưa học tập và tu tập những pháp còn thiếu sót, xin đức Phật mở lòng rộng độ mà hứa khả cho, xin đức Phật mở lòng rộng độ mà hứa khả cho… Bồ Tát Kim Cang Mật Tích vì chúng Bồ – Tát ở mười phương mà nói kệ khen rằng :
1. Oai nghi rất đẹp lạ Tướng tốt phước trang nghiêm Thị hiện khác phàm phu Do công hạnh tu tập Cần khổ nơi ức kiếp Nghiệp đạo sâu vô lượng Bỏ thân thể đáng yêu Hy sinh không lẩn tiếc Làm lợi ích chúng sinh Để cầu vô thượng đạo 2. Các Bồ – Tát thượng thủ Việc làm đã đầy đủ Hôm nay đến viếng Phật Ngỏ lời tán cúng dường Chuẩn Đề Chân Phật Mẫu Trí cầu tạng Bí-Mật Tỳ lô đại quán đảnh Xuất sinh nhất nghĩa chú Nhập tam muội thành tựu Không lường muôn ức cõi Thoáng qua như hư không Độ ba cõi sáu đường Nơi địa ngục đau khổ Sức chuyên trì chú độ Khổ luyện thành tinh tấn Nhập định chuyển diệu âm Đà-Ra-Ni hộ pháp Chúng Ngạ Quỉ nghe thấy Cổ họng nở to ra Lưu thông sự ăn uống Nhập vào định Ác Thú Đà-Ra-Ni ngữ ngôn Loài súc sinh chuyển động Kiếp thú mau chuyển hóa Thoát khỏi mê ác hại Nhập vào định vô tâm Đà-Ra-Ni vô ảnh Chúng cõi trời mê đắm Ngũ dục trói buộc nhau Liền thức tỉnh rời bỏ Mà theo tu đại đạo Nhập vào tịnh Toái-Trừ Đà-Ra-Ni vô trước Bứt rơi các phiền não Thanh tịnh nhẹ hư không Xú uế liền tan biến Cõi nhân đều cung kính Nhập vào định giáng bạt Đà-Ra-Ni đại chú Các sân nộ tiêu diệt Ánh mắt khởi lòng từ Gươm đao buông xuống đất Chư Quỉ Thần qui phục Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề Thần lực như thế đó.
Bấy giờ Ông Uất-Đơn-Đầu cùng bốn bộ chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di và chúng hội Trời, Người, Quỉ, Thần… mà bạch Phật rằng : - Thế Tôn ! Chúng con hàng hữu học, chưa từng thấy sự cảm ứng diệu dụng mạnh nhanh của các vị đại Bồ – Tát thượng thủ ở mười phương thế giới câu hội đến trong pháp hội này. Lại thưa hỏi những điều chưa từng có dịp nghe Phật chỉ dạy cho hàng Bồ – Tát, rất mong Thế Tôn thọ nạp lời thỉnh cầu của chúng con. Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề từ nơi tam muội Du Hí Đà Ra Ni Giáng Bạt Chú Đại Vũ nhẹ nhàng xuất định mà mở bày pháp âm phương tiện dạy cho tất cả đại chúng rằng : - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhân ! Lời của Phật nói ra đều đúng đắn không hư dối. Đúng như vậy ! Như Lai là đấng ứng cúng chánh đẳng giác, thân tâm ít bịnh, ít não, các phiền trược nhiễm nhơ đã quét không còn chừa. Các pháp Như Lai đã được như đang ẩn hiện trước mắt không bị lệch lạc. Như Lai thị hiện ra cõi đời ác ngũ trược chính là vì có nhân duyên căn lành lớn đối với chúng sanh nơi quốc độ này. Nay ta đem pháp Bí-Mật của giáo môn chỉ dạy riêng cho hàng Bồ Tát để lưu bố kinh này và tất cả chúng sinh trong pháp giới nơi mười phương cõi được sự lợi ích lớn. Sự lợi ích lớn này trong tánh của Như Lai là một sự bất động vĩnh cửu khó ai bì kịp. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhơn ! Pháp Bí Chú của giáo môn Mật Tông xưa nay có tướng mà chẳng phải tướng, vì đó là tường hư ảo chẳng phải chân thiệt. Tướng chân thiệt không thể dùng mắt mà thấy được, không thể dùng tai mà nghe được… v. v… cho đến không thể dùng ý mà suy nghĩ được. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhơn ! Pháp Bí Yếu của giáo môn mật Tông xưa nay có tính mà chẳng phải tính, vì đó là tính hư ảo chẳng phải là chân thật tính. Tính chân thật không thể dùng mắt mà thấy được, không thể dùng tai mà nghe được… v. v… nhẫn đến không thể dùng ý mà suy nghĩ được. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhơn ! Pháp Bí Chú của giáo môn Mật Tông xưa nay vốn có tướng mà tướng bất hư, vì tướng này không ở ngoài, ở trong hay khoảng giữa. Tướng bất hư này không thể dùng mắt mà thấy, không thể dùng tai mà nghe được… v. v… nhẫn đến không thể dùng ý mà suy nghĩ được. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhơn ! Pháp Bí Chú của giáo môn Mật Tông xưa nay có tính mà tính bất diệt, vì tính này không ở ngoài ở trong hay khoảng giữa. Tính bất diệt này không thể dùng mắt mà thấy, dùng tai mà nghe được… v. v… nhẫn đến không thể dùng ý mà suy nghĩ được. Cho nên pháp tướng và pháp tính của giáo môn MậtTông chỉ có Phật với Phật mới hiểu nhau mà thôi. Các hàng Thanh Văn Duyên Giác không thể hiểu được. Duy có hàng Bồ Tát nương nơi sức thần của chư Phật mới có thể biết được tính tướng chân thật của các pháp. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhân ! Pháp tướng Đà-Ra-Ni vốn không diêu động, Thanh Tịnh Đại Cú Nghĩa không thể nghĩ bàn, chưa từng luận thuyết là chỗ sâu mầu tiềm tàng ẩn chứa không thể đến được. Pháp tướng này khó tu khó học, hay xuất sinh các môn Tam Muội Biến Pháp Giới, giúp cho người tu hành nhanh chóng thành tựu môn Tổng-Trì- Đà-Ra-Ni. Pháp tướng Đà-Ra-Ni này ở nơi thế gian hay bị kẻ ác phê phán, Trời, Người không hiểu biết ưa vui thử thách, vì Pháp tướng này chẳng xuất sinh, chẳng biến hiện, chẳng hư ảo chẳng đến đi. Pháp tướng này không bị người tu và kẻ chẳng tu làm tốt làm xấu, làm cho thanh tịnh mà được, vì Pháp tướng này chẳng xuất sinh, chẳng biến hiện, chẳng hư ảo chẳng đến đi. Pháp tướng này không bị người tu và kẻ chẳng tu làm tốt làm xấu, làm cho thanh tịnh mà được, vì Pháp tướng này chẳng bị ô hợp bởi phiền não vọng chấp, chê bai hay bỏ quên, nên gọi Pháp tướng ấy là một trong những tạng Bí Mật khó tu khó học và khó thành tựu. Pháp tính ấy cũng lại như vậy. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhân ! Trong thời kỳ Mạt Pháp nơi quốc độ Thiện Vô Úy ở thế giới Bảo-Đài. Bấy giờ đức Phật Hoa Đăng Vương đã nhập diệt hơn ba ngàn tiểu kiếp. Lúc ấy ta mới sinh trở lại nước Nhân-Đà nơi thế giới Bảo-Đài tu hành Bồ Tát đạo, gặp lúc đất nươc bị hạn hán, thủy triều dâng cao làm trôi dạt tài sản, ruộng vườn, voi ngựa v..v… bị cuốn trôi theo dòng nước. Nhân dân đói khổ lầm than không nơi nương tựa, bệnh dịch nổi lên, tai ách họa hoạn rất nặng nề. Lúc ấy ta vì tất cả chúng sanh mà thủ trì tu tập pháp tướng Đà-Ra-Ni nơi thần chú Tài-Bảo chân ngôn : Úm hoa ti ra, hoa ti ra, hoa ta ra hùm phấn tra …. Trong một thời gian ngắn khiến các vị thần cảm đức đều đem đến cúng dường tài bảo vật thực nơi thân ta. Bấy giờ các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di thấy ta có nhiều tài bảo vật thực như thế, đều rủ nhau xa lánh, họ nghĩ ta chẳng còn chí tâm tu hành nữa. Nhân đó ta đem của cải ấy mà phân phát cho bách tính để cứu khổ do thiên tai gây ra. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhân ! Không phải ta chỉ mới tu tập bài thần chú mầu nhiệm này, mà ta đã từng nhiếp tâm tu tập vô lượng đại thần chú của giáo môn Mật Tông và đến nay đã thành tựu quả vị Tô-Tất-Địa. Vì do sức trì niệm mạnh nhanh như thế, nên ta đã cụ túc mười tám tay sắc vàng óng ánh, trên đỉnh môn lúc nào cũng ẩn hiện chữ ( Án Bộ Lâm – Án A Hồng). Đó là những tướng pháp của giáo môn Mật Tông mà ta đã không ngần ngại giữ gìn suốt trong vô lượng kiếp, thân và tâm không hề chán mỏi. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhân ! Lúc ta hành đạo Bồ Tát nghe Mật Chủ Đạo Sư Đức Phật thuyết về tạng Bí Yếu của chư Phật và dạy cho ta chuyên trì thần chú Tỵ hỏa Đà Ra Ni. Vì sơ ý bỏ quên, nên khi mạng chung ta sinh vào cõi nước có thế giới là Đa-Hỏa, kiếp tên là Hửu Hoại, quốc độ Đại Linh Ứng là chổ có nhiều tai nạn đất nứt, lửa cháy, nước trôi, và đầy rẫy nạn binh đao. Thế giới Đa Hỏa không có Phật, không có hiền Thánh, chúng sinh ngu si chỉ biết sát hại lẫn nhau, hận thù, máu và khói lửa là món ăn chính. Bấy giờ ta ra đời trong dòng dõi Thủ Đà La, thấy dân chúng bị đói khổ vì tai nạn nước lửa nặng nề, nên ta thưa cùng với Cha Mẹ đem của ra bố thí. Không bao lâu của cải hết sạch, Cha Mẹ ta chịu không nỗi sự đói khổ nên đã qua đời. Ta âm thầm vào rừng cạo bỏ râu tóc mặc y phấn tảo ngồi nhập định dưới cây đại thọ. Khi ta nhập vào môn tam muội Định Phân Thủy Đà Ra Ni thời nước liền rút xuống đất và trở về nguồn. Nhưng lửa đã làm khô mặt đất nhanh chóng khiến cho loài người và súc vật đều bị chết lần chết mòn không thể chịu đựng lâu được. Nhà cửa, đền đài, cung điện, vườn cây, ruộng lúa và các nơi cư trú đều bị lửa thiêu. Sức nóng tỏa ra càng lúc càng mạnh mẽ. Chỗ ta ngồi tu cỏ cây đều biến thành màu vàng úa và bốc cháy thành từng cụm, mồ hôi nơi thân thể của ta chảy liên tục. Xác người chạy đến bên ta ngã chết không kể xiết. Trãi qua hơn một tháng ta không có gì để ăn và uống chỉ còn lại bộ xương gầy mặt mày hốc hác, hơi thở yếu ớt. Cây đại thọ cũng vàng úa không còn lá xanh, ta dùng dao cắt vỏ cây để vắt nước mà uống, rồi ngồi kiết già nhập vào tam muội Tỵ Hỏa Đà Ra Ni, nhưng không đạt được. Quá thất vọng và kiệt sức, trong cơn hôn mê ta thấy đức Đại Nhật Như Lai rải lên thân thể ta một dòng nước tịnh thủy, rồi dạy cho bài thần chú Chuẩn Đề :
Khể thủ qui y Tô-Tất-Đế Đầu diện đỉnh lễ thất cu chi Ngã Kim xưng tán Đại Chuẩn Đề Duy nguyện từ bi thùy gia hộ. Nam mô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đề câu chi nẫm đát điệt tha. Án chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề ta bà ha.
- Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhân ! Do nhân duyên ấy, khi ta tỉnh lại thời thấy thân thể phấn chấn khỏe mạnh cơ hồ như trong giấc chiêm bao. Lửa bốn phía càng cháy mạnh, xác nhiều người bị lửa dữ thiêu rụi thành than. Ta liền ngồi xếp bằng kiết già niệm thần chú Chuẩn Đề hơn một nghìn biến lửa dữ bị xô bạt bốn phía an lành. Có nhiều người chạy thoát khỏi lửa đến gần bên ta tức thời được êm mát nhẹ nhàng dường như thoát nạn. Bấy giờ ta liền thúc liễm thân tâm nhập vào đại định Chuẩn Đề Bản-Tôn Đà-Ra-Ni khiến cho trời đất trở lại quang đãng khí hậu điều hòa, cây cối hoa lá trở lại xanh tươi, nhưng chúng sinh chết vô số kể. Từ đó nạn kiếp thiêu mới chấm dứt. Do lẽ ấy mà ta tôn trọng bài thần chú Chuẩn Đề và phát nguyện tu tập trong hằng hà sa ức kiếp đến khi thành vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác được chư Phật mười phương ca ngợi và thọ ký cho ta thành Phật hiệu là Phật Mẫu Chuẩn Đề. Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhơn ! Không phải ta thành tựu thần chú Chuẩn Đề vi diệu Đà-Ra-Ni này ở nơi thời chánh pháp, mà ở trong hiền kiếp ta vì tôn trọng đức Đại Nhật Như Lai mà thủ trì tu tập và làm lợi ích cho vô lượng chư đại Bồ Tát chư hiền Thánh Tăng cùng với Trời, Người, tám bộ quỉ, Thần và được tất cả chúng sinh phát tâm tu học theo con đường của giáo môn Mật Tông mầu nhiệm này. Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề vừa nói xong, ngài Đại Luân Kim Cang Thủ Bồ Tát cùng chư Thiên Nhơn rải hoa cúng dường. Ngài Kim Cang Mật Tích Bồ Tát nói kệ khen Phật:
1. Đức Chuẩn Đề Phật Mẫu Bậc tối thượng Đại Thánh Thủ trì pháp vô ngại Đà Ra Ni bổn tôn Nơi Phật Đảnh quang minh Sắc vàng kim óng ánh Mũ Tỳ-Lô chiếu diệu Sức Đại Mật hàng Ma Nhẫn tu phương tiện pháp Bỏ thân vô số kiếp Để cúng Phật và Tăng Siêng hành Bồ Tát đạo Nghiệp duyên lành cùng dữ Báo ứng có chậm nhanh Sức tinh tấn uyển chuyển Chẳng thóai chẳng sợ sệt Các côn trùng cỏ cây Nghe tiếng mầu vi diệu Mật giáo đại thần bí Thác sinh đều tiến hóa Cọp, Voi, Beo, Sư Tử Bồ Cạp, Nhộng, Rắn Rết Hoặc Ly Mỵ Võng lượng Nghe âm thanh mật chú Bỏ ác đều quy thuận Sự nhiệm mầu khó bàn Diệu chú, Quán Đảnh chú Bi chú, Thanh Tịnh chú Nhất chú, Vô Lượng chú Diện chú, Thâm tâm chú Thiên Thủ, Thiên Nhãn chú Nhập tam muội Từ Tôn Im lặng hằng muôn kiếp Thí ác năng bỏ ác Chí tâm hành Mật Pháp Chẳng ai thấu hiểu được Phiền não hay tảo trừ Hết lòng tế độ chúng Tu món pháp vô lượng Nguyện sẽ thành Phật đạo. 2. Thế gian nhiều đau khổ Biết khổ vui giải thoát Đại chúng lễ cúng dường Bậc Tối Thượng Đạo-Sư Đã lìa sự khủng bố An nhiên định tâm chú Đà Ra Ni tổng trì Vui vẻ khắp đại chúng Lòng Tham lam dập tắt Lửa dữ cõi trần mê Thoáng biến vào hư không Mật pháp hàng Ma Pháp Diệu pháp phục Quỉ-Mỵ Đạo pháp trừ khổ não Chư Phật hằng khen ngợi Đệ nhất Đại Tổng Trì Viên Minh Mật Tạng chú Oai đức lớn trùm khắp Hư không cùng vũ trụ. 3. Tiếng Án, ôm, Um, Um Các thế giới chuyển động Khơi lòng từ lân mẫn Nơi chúng sinh cư ngụ Khiến đó phát tâm lành Tu tập món Mật Giáo Hiển chú đại chân ngôn Sức oai thần chú võ Thông suốt các tiếng tăm Sáu loài chúng sanh thảy Địa Ngục, Quỉ, Ác Thú Thảy đều đến qui phục Trên suốt Trời Cứu-Cánh Dưới đến ngục A-Tỳ Năng trừ tai gió lửa Hoặc kiếp nạn thiêu đốt. 4. Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Khi hành Bồ Tát đạo Dùng tâm từ bố thí Khiến chúng sinh qui ngưỡng Dùng tâm bi, trì giới Phá mê đặng giác ngộ Dùng tâm hỉ, nhẫn nhục Vượt chướng ngại vô minh Dùng tâm xả, tinh tấn Chuyên cần nơi đức hạnh Dùng tâm bất động chuyển Nơi mật định nghiêm trì Khiến đó đặng huệ pháp Rồi nương Đại Tâm chú Cúng dường Phật và Tăng Chư Thiên Long ủng hộ Hoa rưới như trái núi Ủng hộ người trì chú Tán dương đại công đức Trống Trời tự nhiên vang Âm nhạc nhẹ êm dịu Để cúng Phật và Tăng Xuyên suốt pháp mãi mãi Nhơn duyên từ nơi Phật Chuyển đạo từ nơi pháp Tu tập nhờ nơi Tăng. 5. Nên đức Phật Vũ Trụ Mở bày đại thần chú Thọ ký nơi thân ta Thành Phật Mẫu Chuẩn Đề Mười phương các đức Phật Khen ngơi đồn vang khắp Vô lượng chúng Trời, Người Quy- y pháp Mật Giáo Khó nói khó nghĩ bàn Chứng vào môn Tam Muội Thành Vô Thượng Chánh Giác.
2. Bấy giờ các vị đại Bồ Tát ở mười phương nghe lời dạy của Phật Mẫu Chuẩn Đề thảy đều đặng pháp Vô Thượng Đà Ra Ni thành tựu Tam Muội Chuẩn Đề Bản Tôn, vi nhiễu ba vòng rải hoa cúng dường thành kính nói kệ khen Phật :
3. 1. Đấng Tỳ-Lô Mật-Tạng Chiếu soi rõ chân pháp Đà-Ra-Ni Tịnh Địa Vượt khỏi pháp Thế gian vững chắc như Tu-Di Trùm khắp các Phật-Quốc Công đức thật vi diệu 2. Chúng con hàng Bồ Tát Nương Phật lực đến đây Thấy nghe học pháp mầu Tâm tư mau lắng đọng Ít có khó nghĩ bàn Khiến vào các Tất Địa An ổn cả đại chúng Trời, Người đều tin hiểu Vui mừng thấy được Phật Quy-y Pháp mầu nhiệm Viên thành Tối Chánh Giác.
4. Các vị đại Bồ Tát thượng thủ nơi mười phương cúng dường tán thán Pháp Phật vừa xong, rồi làm Lễ đức Phật Mẫu Chuẩn Đề xin trở về bản quốc. Sáu ngàn chúng Thanh Văn được pháp hỷ Đại Tổng Trì. Ba nghìn Bồ Tát được môn Tam Muội Mật Định Bổn Tôn, vô lượng Thánh chúng trong pháp hội đều vui mừng đặng pháp chưa từng có của giáo môn Mật Tông. Tất cả đều tín thọ phụng hành rồi cáo lui.
Nam mô Chuẩn Đề Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)
KINH CHUẨN ĐỀ BẢN TÔN QUYỂN THỨ HAI
Thế Tôn hiển thần thông, chuyển động mười phương cõi. Bồ Tát nghe tiếng tăm, viếng Phật cầu Phật mở lòng từ. Bánh xe pháp xoay mạnh, mở bày tướng chân thật của giáo môn. Nước Nhân Đà hành đạo Bồ Tát. Kiếp Hữu Hoại, Đức Đại Nhật Như Lai truyền Mật Giáo, kiếp thiêu chấm dứt Chú Tổng Trì gợi khơi cơn Mật Định.
Nammô Thường Trụ Thập phương Phật Nammô Thường Trụ Thập phương Pháp Nammô Thường Trụ Thập phương Tăng Nammô Chuẩn Đề Vương Phật (3 lần) (Hết Phẩm Thứ Tư)
KINH CHUẨN ĐỀ BẢN TÔN QUYỂN THỨ BA TẾ ĐỘ Ô NẪU VƯƠNG PHẨM THỨ NĂM Mật sư: Thích Giác Tiến – Thiền Nhân
Khi ấy vào tiết mùa đông, đức Phật Mẫu Chuẩn Đề ngự tại rừng Uôn-Ba thuyết về tạng Bí-Yếu của giáo môn Mật Tông. Một hôm có Tỳ Kheo Sim-Sum Pa đi đến nhiểu quanh Phật ba vòng rồi quỳ xuống chắp tay bạch rằng : - Ngưỡng bạch đấng Đại Thánh Thế Tôn! Hôm nay có nhân duyên lành, hàng Tỳ kheo chúng con số đông vô lượng, nay xin đức Thế Tôn lập ra giáo hội Tăng Già để có người trông coi trước sau tiện lợi cho việc đi lại tu hành trong chúng và giúp cho chúng con bớt phần lo lắng mệt nhọc, ngưỡng mong Thế Tôn từ bi hứa khả lời cầu xin tha thiết này. Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề im lặng không đáp. Tỳ Kheo Sim-Sum Pa tác bạch ba phen thưa thỉnh. Bấy giờ Phật vì ông mà mở lời dạy bảo : - Này Tỳ Kheo Sim-Sum Pa! Những lời giáo hóa vi mật thậm thâm của ta hằng dạy cho các ông từ trước đến nay đều nhắm vào một hướng tu thân và tâm. Hôm nay duyên cớ gì ông xin ta thành lập Giáo Hội ? Giáo Hội Du Già Tỳ Kheo Tăng đã thành lập từ lâu rồi, ông không biết hay sao? Ta đã làm những chỗ không cần làm, vì đó chỉ là hình thức mà thôi. Nếu các ông không chịu tu hành thì thành lập Giáo Hội có ích lợi gì? Ông hãy lo tu hành đi đừng nên vọng tưởng quá đáng sẽ có hại cho tinh thần tu tập. Bấy giờ Phật nói kệ rằng :
1. Hỡi này các Tỳ Kheo Chớ nên nhiều lo lắng Bỏ đi các tục đế Mà nhẫn tu Mật Pháp Phiền não là cơ nguy Đưa người đến chổ ác Kẻ trí nên tránh khỏi Chẳng lầm chẳng thay đổi Ai biết được việc này Tinh tấn khéo tu tập Như Lai thường tán thán Công đức chẳng nghĩ bàn.
2. Nói xong Phật im lặng vào thiền định Mật Giáo Môn Tam Muội Đà-Ra-Ni. Ông Tỳ Kheo Sim-Sum Pa biết không lay chuyển được Phật nên ngài cúi đầu lễ Phật rồi lui ra bên ngoài hiệp cùng ông Diêm Đê Ra Tỳ Kheo và năm trăm vị Tỳ Kheo lặng lẽ rời chỗ Phật ngự ra đi thành lập Giáo Hội riêng biệt. Bấy giờ Ông Uất Đơn Đầu hay tin ấy bèn cùng đại chúng đến bạch Phật rằng : - Kính bạch đức Đại Thánh Thế Tôn ! Ông Tỳ Kheo Sim-Sum Pa và ông Tỳ Kheo Diêm Đê Ra đã hội hợp năm trăm vị Tỳ Kheo vừa rời khỏi đại chúng mà ra đi. Xin Thế Tôn dạy rõ nguyên nhân nào đã khiến cho các thầy Tỳ Kheo làm như thế ? Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề ở giữa đại chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di mà dạy rằng : - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhơn ! Các ông nên biết đường Chân Lý khó đi dễ bị thóai tâm. Người tu hành khó sửa tính ý thanh tịnh, những hạng người biết tu hành rất hiếm ít trong nhân gian, còn những người không tu thời rất nhiều không thể tính đếm thí dụ cho được. Nay ta đem thí dụ để chỉ rõ nghĩa trên. Ví như bọn thương thuyền thích ham sóng gió, bão táp, ngọc ngà, châu báu ..v.v.. nên họ rủ nhau làm thủy thủ sống giữa biển cả. Kẻ cờ bạc ham mê đỏ đen thời chỗ họ thường đến là sòng bài .v.v… Những hạng người này trong chốn nhân gian rất đông. Những người Hiền Sĩ tìm cầu Thiện Hửu-Tri-Thức thời lại rất hiếm ít. Nay Ông Sim-Sum Pa cùng với năm trăm Tỳ Kheo hẹn ước nhau bỏ đi đó là điều tất yếu so với ví dụ của ta. Nếu năm ngàn người trong pháp hội này muốn bỏ đi, ta cũng không ngăn cản được, vì sự giác ngộ và mê mờ không có chổ nương gá, nên không ai có thể phủ nhận việc làm của mình khi đã lỡ gây ra. Tỳ Kheo Sim-Sum Pa ao ước lập ra Giáo Hội, nhưng ta ngăn cản là để trừ vọng nghiệp của vị Tỳ Kheo này, còn các thầy theo ta tu tập công hạnh Bồ Đề số đông vô kể, như vậy ta tuy không lập Giáo Hội Du Già, mà thật ra đó mới chính là Giáo Hội Du Già vậy. Phật Mẫu Chuẩn Đề nói kệ rằng :
3. Hạnh Phật xưa nay đã sẵn rồi Thực hành tu tập khó xét soi Trí nhân nghe thấy đều đúng đắn Lo việc tịnh tu thoát luân hồi Sống chết lại qua trong chớp mắt Có ai hiểu được khéo dừng thôi Lập nguyện chí tu hồi hướng chúng Giác mê nào khác chổ đứng ngồi. Các thầy Tỳ Kheo nghe lời Phật chỉ dạy đúng với chân lý, khiến cho đại chúng và Ông Uất Đơn Đầu sinh lòng quý trọng sâu xa, phát tâm vô thượng Đà-Ra-Ni tu hành không thóai chuyển ghi nhận những lời Phật chỉ dạy mà y giáo phụng hành. Khi ấy ông Sim-Sum Pa rời khỏi rừng Uôn-Ba đến núi Lâu Phất Già dựng lập Giáo Hội, đặt để quyền hành hung hăng ngang ngược khiến cho hơn ba trăm người hiểu được lời Phật dạy quí báu ban đầu mà quay về rừng Uôn-Ba. Tỳ Kheo Sim-Sum Pa không ngừng tạo tội ác, ông cho người giao hảo với vua đại ác tên là Ô-Nẫu-Vương tính ưa chinh phạt, lúc nào thân vua cũng ngồi trên lưng ngựa mang theo cung kiếm, dao nhọn để sát hại kẻ trái nghịch làm vui. Dân chúng trong nước Lan-Ca-Lan bị vua áp bức lưu đày kẻ có tài, phụ nữ có nhan sắc bị đưa vào cung. Cư dân ngoài biển bị khổ sai mò ngọc chết chóc không cùng. Tiều phu trong rừng núi bị sai đi đào vàng kiếm sừng, ngà voi đem về kho tàng lưu trữ. Học trò không được vào trường, bắt làm khinh binh, sách vở bị đốt. Bà già phụ nữ, trẻ con đều lùa ra ruộng đồng cày cấy vất vả có đốc phu đánh đập sai khiến rất là tệ bạc, cơm không đủ ăn. Dân chúng than oán thấu tận trời xanh. Bạo chúa này có một người con trai là Thái Tử Ô-Phiến, lúc sinh ra và lớn lên tính ý hiền hậu thường khuyên cha dừng bớt việc làm phi nhân phi nghĩa. Nhưng vua Ô-Nẫu-Vương không nghe, trái lại trong lúc nóng giận đã toan giết chết Thái Tử. Do đó vua ít gần gũi Thái Tử, những việc làm độc ác đều giữ kín không cho Thái Tử biết, sợ ngài ngăn cản mà hỏng việc đại sự. Lúc ấy Tỳ Kheo Diêm Đê Ra thừa hành lệnh của Tỳ Kheo Sim-Sum Pa đến nước Lan-Ca-Lan, Kinh Thành tên là Diêu-Ác do vua Ô-Nẫu-Vương thống lĩnh cải sửa danh hiệu Tỳ Kheo Diêm Đê Ra đến diện kiến Ô-Nẫu-Vương, rồi dùng lời xúi giục khiến cho vua nổi giận. Ô-Nẫu-Vương liền hẹn ước với Tỳ Kheo Sim-Sum Pa sẽ bất thần tấn công vào rừng Uôn-Ba để chinh phạt Phật Mẫu Chuẩn Đề. Tỳ Kheo Diêm Đê Ra nghe lời ấy xong vui mừng đứng dậy cáo lui. Trên đường về núi Lâu Phất Già, Tỳ Kheo Diêm Đê Ra đi ngang qua ngôi làng Khon-Sa-Bút gặp một thiếu nữ sắc nước hương trời tên là Ma La La. Tỳ Kheo Diêm Đê Ra thuyết phục dụ dẫn khiến cho thiếu nữ Ma La La sinh lòng cảm mến. Thiếu nữ về xin cha mẹ đi theo Tỳ Kheo Diêm Đê Ra làm tín đồ của Giáo Hội Du Già do Tỳ Kheo Sim-Sum Pa chỉ đạo đứng đầu. Những cơ hội ác đã đến, Tỳ Kheo Sim-Sum Pa quên lời Phật dạy sanh ác tâm, có tham vọng muốn chiếm đoạt cả đại chúng của Phật Mẫu Chuẩn Đề, nên tự xưng mình là Giáo chủ Sim-Sum Pa chí tôn, ngầm cho người đến rừng Uôn-Ba gặp ông La Hán Uất-Đơn-Đầu hợp tác với Giáo Hội Du Già bằng những lời khuyến dụ. Nhưng Ông Uất-Đơn-Đầu đã từ chối và im lặng. Giáo Chủ Sim-Sum Pa sai Tỳ Kheo Diêm Đê Ra dẫn thiếu nữ Ma La La sang rừng Uôn-Ba để phá hoại công hạnh của Phật Mẫu Chuẩn Đề, đồng thời ước hẹn với vua Ô-Nẫu-Vương xua binh mã tàn sát khu vực rừng Uôn-Ba chỗ Phật đang ngự cùng với bốn bộ chúng. Lúc bấy giờ Phật Mẫu Chuẩn Đề từ nơi chánh định dậy an lành, rồi bảo các thầy Tỳ Kheo rằng : - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhân ! Các ông hãy y theo giáo môn Mật Tông này của ba đời chư Phật, an trú tâm mình vào con đường Thánh Thiện thanh cao, phiền não của các ông sẽ xoay chiều chuyển động như cái chong chóng, rối loạn tơi bời không còn hàng ngũ, như kẻ bại trận, chỉ còn con đường duy nhất là phải quy thuận chánh niệm Mật Pháp. Đây là lời của ta đã nói cũng như lời của bảy mươi ức câu chi đức Phật đã nói trong sự quyết định để cho hàng Thanh Văn, Duyên Giác các ông tu tập, biết được tâm mình như đang soi gương đẹp xấu tự rõ nét. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhân ! Những ai tự gieo điều ác cảm phiền não cho riêng mình, kẻ ấy như người mù loạng choạng té xuống bùn nhơ, trần lao vọng nghiệp rất nặng, đời đời sinh ra không thấy đạo Chánh-Giác, ví như người mù suốt đời không thấy được ánh sáng. Nếu có thấy đó chỉ là một cơn ảo giác huyễn mộng. Chúng sinh khi tạo tội ác dù lớn hay nhỏ cũng đều ham thích, họ tạo tác một cách mù quáng mà không biết tai nạn sẽ đến trong khoảnh khắc. Chư Phật đã tự rõ biết tâm mình và tâm chúng sinh mà hằng ban bố cho Pháp hỷ Thanh-Tịnh Đà Ra Ni, cho bầu diệu dược Thánh Thiện mật ngôn, cho pháp Đà Ra Ni chú mênh mông để che đậy tội lỗi và ảo giác quán. - Này các thầy Tỳ Kheo ! Các thầy biết cái nhân khổ là khổ khổ thì tu tâm tức là hết khổ, vì khổ ấy không có nguồn gốc, mà tâm ý vốn dĩ vô căn. Hai thứ này gặp nhau đối trị thời cái khổ nhân liền tan biến, cái tâm tu cũng không còn, chỉ còn khoảng không vắng lặng. Sự im lặng đó chính là chữ Om nằm trên đỉnh môn, cũng là tạng Bí Mật Du Gìa của giáo môn Mật Tông vậy. - Này các thầy Tỳ Kheo ! Các thầy biết cái quả là khổ thời chớ nên gieo cái nhân khổ. Do chẳng gieo nhân nên cái quả khổ chẳng từ đâu mà sinh. Hai thứ này bị cắt đứt nguồn gốc cái khổ liền tan biến, mà cái tâm cũng không còn, chỉ còn khoảng không vắng lặng. Sự im lặng đó chính là chữ Om nằm trên đỉnh môn, cũng là tạng Bí-Mật Du-Già của giáo môn Mật Tông. - Này các thầy Tỳ Kheo ! Các thầy biết tạo lành là cái nhân vui giúp đỡ chúng sinh, nên nỗ lực tu hành. Cái nhân vui này vốn dĩ không có nguồn gốc và tồn tại không bao lâu. Tính và tướng không có chỗ trụ nên cái nhân vui liền tan biến, cái tâm tu cũng không còn, chỉ còn khoảng không vắng lặng. Sự im lặng đó chính là chữ Om nằm trên đỉnh môn, cũng là tạng Bí Mật Du Già của giáo môn Mật Tông. - Này các thầy Tỳ Kheo ! Các thầy biết đạo lành là cái quả vui giúp đỡ chúng sinh nên nỗ lực tu hành. Cái quả vui này vốn không có nguồn gốc và tồn tại không bao lâu. Tính tướng không có chỗ trụ nên cái quả vui liền tan biến, cái tâm tu cũng không còn, chỉ còn khoảng không vắng lặng. Sự im lặng đó chính là chữ Om nằm trên đảnh môn cũng là tạng Bí Mật Du Già của giáo môn Mật Tông vậy. - Này các thầy Tỳ Kheo ! Các thầy thường an trụ trong chánh niệm giải thoát Đà Ra Ni môn để tảo trừ vọng nghiệp điên đảo. Lúc vọng tưởng biến mất thời chánh niệm cũng không còn, chỉ còn bầu vắng lặng hư không tĩnh mịch. Đây gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân Tam-Muội Đà Ra Ni. Cũng ví như ta nói Pháp các thầy Tỳ Kheo lắng nghe, khi ta nín nghĩ, thì lời nói của ta và cái nghe của các thầy cũng không còn. Chỉ còn lại sự im lặng rỗng không đầy đủ thiện mật Trí Huệ Đà Ra Ni mà thôi. Ông Uất-Đơn-Đầu muốn khai thông nguyên lý của pháp tu hành cho chính mình và tất cả đại chúng trong Pháp hội. Ông vi nhiễu ba vòng rồi quỳ xuống bạch Phật rằng : - Ngưỡng mong đấng thánh chúa Sư Tử chỉ dạy cho chúng con. Bạch Thế Tôn ! Nếu hư không là chỗ vĩnh hằng thị tịch Niết Bàn, thì riêng ai cũng sẵn có. Vậy phiền não ô nhiễm cả đời con người khi chết lại trở về hư không, vậy thì cần gì phải tu, cần gì phải học, cần gì phải nỗ lực tu tập giáo môn cực khổ này ? Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề chỉ dạy đạo toàn chân : - Này Ông Uất-Đơn-Đầu ! Ông chớ nên nói sự nỗ lực tu tập nơi giáo môn này là cực khổ. Theo nghĩa ông hỏi như thế là chẳng đúng. Con người lúc sinh ra không biết gì tự chiêu cảm lấy ác nghiệp, đến khi gặp Thiện Trí Thức được giác ngộ bỏ ác nghiệp mà tu hành. Như vậy hai hoàn cảnh trái nghịch nhau, một bên là vắng lặng thanh cao, một bên là dẫy đầy ác nghiệp điên đảo sầu thương. Nếu đem so thì sẽ thấy rất rõ rệt. Các ông chớ vội cho cái tính này không bị ô nhiểm là lầm lẩn, mà phải nói sự ô nhiễm này không chừa một ai cả. Chỉ khi nào hành giả biết tu và tự tu thời tâm tính mới được nhẹ nhàng thư thả vắng lặng. Đây gọi là Tam Muội Tịch Tà Biến Pháp Giới Đà Ra Ni Cú, mà hàng Thanh Văn Duyên Giác cần phải tu cần phải học. Bấy giờ Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề liền nói kệ rằng :
1. Này các thầy Tỳ kheo Trong hằng sa số kiếp Ta vì pháp bỏ thân Tìm cầu trong vũ trụ Đạo chánh để tấn tu Nghe đạo tâm an lạc Bỏ quên các vật chất Thấy đạo lòng hân hoan Quên cả mọi cảnh vật Hy sinh không lẫn tiếc Giác ngộ cảnh vô thường Tâm ta hằng lắng đọng Mê đạo chẳng mê ăn Ham tu chẳng ham ngủ Dù mạt Pháp đã đến Chánh đạo chẳng lưu truyền Vì cần cầu đạo cả 2. Vấn thân khắp bốn phương Để tầm bậc đạo sư Thân thể dù yếu đuối Sắp chết hồn lìa xác Thâm tâm vẫn kiên cố Bền chặt chí không phai Vì để cầu chánh Pháp 3. Hỡi Nam Tử ! Nữ Nhân ! Lời Phật không hư dối Chẳng phỉnh nịnh gạt người Kẻ chẳng biết ưa vui Thử thách việc ta làm Vì đạo ưa tu đạo Bỏ thân thể đáng yêu Thế gian vua cõi chết Vô thường đến dẫn dắt Nào ai tránh khỏi được Thấy chết mà chẳng chết Vì để cầu chánh Pháp 4. Các thế giới mười phương Qua lại trong chớp mắt Thọ mạng rất bền chắc Cũng không ai hay biết Việc của Phật đã làm Dù sinh ở cõi Trời Cũng chẳng màng địa vị Nhớ đạo lòng bỏ ác Tìm đạo thí công lao Qui ngưỡng Thiện Tri Thức Tập rèn luyện chịu khó Dậy sớm lúc thức khuya Thân thể tuy mỏi mệt Mà thân tâm kiên cố Vì để cầu chánh Pháp 5. Mỹ Pháp và Hải Pháp Ảo Pháp thuật Tổng Trì Chân Pháp thành Pháp Báu Tạng Pháp cùng Mật Pháp Định Pháp, Vắng Lặng Pháp Các Pháp tướng như thế Phương tiện tu phạm hạnh Chẳng sợ chẳng chướng ngại Bi Pháp và Từ Pháp Mẫn Pháp, Đại Chú Pháp Toái Pháp, Hàng ma Pháp Chuẩn Đề Viên Định Mật Từ vô lượng ức kiếp Trở lại vẫn còn thừa Sức tu trí không nản Thân mệt, tâm chẳng phai Thế gian nhiều sự ác Nối nhau thành hiểm họa Thấy chúng sanh đau khổ Sáu nẻo cùng ba đường Chẳng bao giờ ngưng dứt Kiếp số không cùng tận Thấy chúng sinh tạo tội 6. Như Lai vì đó nói Diệu nghĩa của các khổ Khiến đó liền quy thú Các Tỳ Kheo phá giới Nghe tịnh pháp ta nói Ngẫn ngơ xin về nương Đạo có nghĩa thường còn Ham đắm mà bắt lấy Như nắm vào khoảng không Chẳng hiểu được đạo Phật Vô thường tuy có nghĩa Sự thật vốn xưa nay Không ai không chấp nhận Nhưng nghĩa đó chẳng có Vì mê nên lầm lẫn Pháp chẳng luận vô thường Hai nghĩa này khác xa Nên gọi là chân Nghĩa Chú Nghĩa Đà Ra Ni Tổng Trì các Mật Nghĩa Thu gọn trong Diệu Pháp Trãi qua hằng sa kiếp Cũng vì cầu chánh pháp Như Lai hành Mật Pháp Chuẩn Đề Định Bản Tôn Do lòng tin sâu chắc Ý chí lại kiên cường Nhẩn tu lòng chẳng sợ Quy-y các đức Phật Trời, Người rãi hoa cúng Âm nhạc tự nhiên vang Sáu loài chúng sinh thảy Nghe tiếng chú vang dội Thức tỉnh nhẹ an vui Tự nhiên đặng giải thoát 7. Ta tầm cầu chánh pháp Dù thân thể đáng yêu Bị tàn tật, câm, ngọng Điếc, lác hoặc gù lưng Bị kẻ hại đánh đập Bức tử uống thuốc độc Không thể cầm cự lại Vẫn không thể bỏ quên Con đường sáng chân lý Của các Phật ba đời Hôm nay giữa pháp hội Ta thành Tối Chánh Giác Chính nhờ sức bền trí Không lay cũng không chuyển Trãi qua vô ức kiếp Thành vô thượng Bồ Đề.
Thuyết xong lời kệ pháp, Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề nhập vào Tam Muội Đệ Nhất Ngữ Ngôn Đà Ra Ni không gián đoạn. Khi ấy ven rừng Uôn Ba Ô-Nẫu-Vương cùng với đoàn quân thiện chiến cung tên giáo ngắn giáo dài hơn mười nghìn người kéo đến định tàn sát phá hoại chổ tu hành của Phật để cho Giáo chủ Sim Sum Pa được thống nhất Giáo Hội chư Tăng. Bấy giờ đức La Hán Thiên Long hành giả trong cơn thiền định sâu thẳm vào môn Tam Muội Ly Ác Chư-Thiền Đà Ra Ni quên tất cả cảnh vật bên ngoài, thân và tâm bất động. Lúc ấy ở ven rừng Uôn-Ba đoàn quân của vua Ô-Nẫu-Vương kéo đến uy hiếp La Hán nhưng không thành, chúng lấy giáo đâm vào đùi vào lưng vào bụng máu chảy đầm đìa mà La Hán vẫn giữ gìn vị trí của Đại-Tam-Muội. Quân sĩ về cấp báo cho vua biết, vua Ô-Nẫu-Vương thân hành đến, vứa thấy La Hán Thiện Long, vua rút tên lắp vào dây cung bắn liền ba phát, tên ghim sâu vào thân của La Hán, máu tiếp tục thi nhau chảy ra rất nhiều, mà La Hán vẫn giữ vững thân mình trong cơn đại định. Khi ấy nơi cung Trời Đế Thích đức vua đang ngự tại Thiện Pháp Đường để xem kinh thư, bỗng nhiên có ánh sáng từ đâu chiếu đến thân vua, Khiến cho vua cảm thấy làm lạ. Vua Đế Thích Tiên-Chủ liền cùng với các vị Đế Thích xem xét ánh quang minh, thấy đức La Hán Thiện Long đang tu hành nơi đại tịnh tam muội bị nhiều người đến gần toan ác hại. Tiên-Chủ Đế Thích lấy nước tịnh thủy rải lên người của đức La Hán khiến cho cung tên đều hóa thành bông sen, máu biến thành sữa. Vua Ô-Nẫu-Vương vô cùng kinh ngạc và tức giận cùng với quân sĩ áp đến định giết La Hán lần thứ hai. Nhưng lòng đất tự nhiên chuyển động dữ dội, đất nứt nẻ thành một bờ vực thẵm sâu hút chôn sống vua Ô-Nẫu-Vương và cả đoàn quân. Đức La Hán Thiện-Long sinh tâm từ lớn cầu Phật mở lòng bi thương xót cứu vớt chúng sinh. Tức thời ngài nương theo thần lực của Phật thị hiện thần thông hóa ra hai bàn tay lớn đưa vua Ô-Nẫu-Vương và cả đoàn quân lên khỏi mặt đất. Mặt đất từ từ khép lại như cũ, vua Ô-Nẫu-Vương sợ hãi kinh cuồng quỳ xuống chắp tay sám hối, cả đoàn quân cũng đều làm như thế. Tiên chủ Đế-Thích khiến các vị trời rải hoa cúng dường La-Hán rồi trở về Thiên Cung. Bấy giờ vua Ô-Nẫu-Vương bạch cùng ngài Thiện Long Tôn Giả rằng : - Ngưỡng bạch đức La-Hán Đại Tôn Giả ! Tôi từ xưa đến nay chưa từng thấy người nào có tâm tốt cùng sức thần thông tự tại như thế. Rất mong ngài chiếu cố cho bọn chúng tôi được quy-y cải tà quy chính sám bỏ lỗi lầm ngày hôm nay. Ngài La Hán Thiện Long ôn tồn chỉ dạy : - Xin Đại Vương hãy đến sám hối với Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề, tôi nay nhờ nương oai thần của Phật mà được những sự không thể nghĩ bàn như thế. Đức La Hán nói kệ rằng :
Oai đức đại dũng mãnh Thắng phục sự kinh sợ Sự ác đều lui tán Gương Phật rất trong sáng Suốt thấu như lưu ly Khó bì hạnh vô thượng Trí Phật không nao núng Hổ lang rất nguy hiểm Dường tợ như chỗ không Phật là đấng đại giác Bước đi nhẹ trang nghiêm Trời người đều kính phục Mắt Phật rất chiêu cảm Tận đáy lòng chúng sinh Các tướng tốt đẹp lạ Khiến cả ác ngơ ngác Nghe pháp âm vi diệu Bỏ gươm giáo quy y Đại vương nên viếng Phật Để nghe lời chỉ dạy Cao Thượng khó nghĩ bàn.
Nghe bài kệ ấy xong, vua Ô-Nẫu-Vương vì kính mến công hạnh của ngài Thiện Long Tôn-Giả nên ưng thuận đến đảnh Lễ Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề để quy-y sám hối. Đức vua cùng mười vạn binh sĩ đồng đến chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, mắt chẳng tạm rời đồng cất tiếng bạch rằng: - Chúng con xin quy y Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề. Chúng con xin quy-y Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề. Lúc bấy giờ, Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề ở nơi tam muội đại định mà dậy an lành. Ngài Thiện Long Tôn Giả tác bạch duyên sự của vua Ô-Nẫu-Vương, rồi thưa hỏi rằng : - Bạch đức Đại Thánh Thế Tôn! Hàng đệ tử chúng con do vô minh che đậy không biết lỗi lầm phạm phải tội ác. Nay tỉnh ngộ lòng ăn năn muốn rửa sạch tội lỗi. Kính mong Phật vì tất cả chúng con ban bố pháp lành dạy cho cách quy-y sám hối tu hành thiện nghiệp, để cho chúng con có chổ quy thú về nương. Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề vì bốn bộ chúng và vua Ô-Nẫu-Vương mà mở lời dạy rằng : - Này Đại vương nên biết! Nếu có Trang Nam Tử, Thiện Nữ Nhân nào hay quy thú thiện pháp Mật Giáo Môn Du Già Đệ Nhất Căn Bản Bản Tôn Đà Ra Ni chú này, thời thường sinh căn lành tính tâm vững chắc, tội lỗi mau được rửa sạch tiêu trừ không còn hoạnh tử khổ đau nũa. Nếu người đó biết xả bỏ quá khứ ác, vật ác, hành động ác, cử chỉ ác, tôi tớ ác, bạn ác v.v… Đây gọi là môn Ly Chư Ác Thú Tam Muội Đà Ra Ni, rất được Người, Trời và thế gian tôn trọng. Ở thời hiện tại và vị lai cũng lại như vậy. - Này Đại Vương nên biết! Người quy y sám hối là người biết sửa tâm ác thành tâm thiện đây gọi là Tổng-Trì Đà Ra Ni Chú. Người không biết quy-y sám hối sửa tâm chân chính đánh mất căn lành đây gọi là tính phàm phu. Người biết ăn năn sám hối sửa tâm chân chính, được một thời gian ngắn tự nhiên buông bỏ Pháp sám hối thi hành tội ác, đây là người thiếu nghị lực không đủ sức mạnh kiềm chế hành động của mình. Người biết ăn năn sám rửa lỗi lầm hay có tâm tỉnh ngộ cho kẻ khác bằng hoàn cảnh ác khiến kẻ đó phát tâm Bồ-Đề vun trồng cội phúc, tín căn tinh tấn, người này rất hiếm quý trong chốn nhân gian là vị Bồ-Tát nghịch cảnh ưa hành đạo khó hành. - Đại Vương nên biết! Ngươi biết sửa lỗi lầm quay về nẻo chính cải ác thành thiện tinh tấn lướt lên, dùng sức mạnh lương tâm vượt qua tất cả chướng ngại khổ đau và hoàn cảnh nghịch trong hiện tại, cố gắng khắc phục để tu hành hóa độ chúng sinh không mỏi mệt trong hiện tại. Những hạng người này rất hiếm quí trong chốn nhân gian có một công hạnh cực kỳ quý báu, đó là nhờ tu tập Mật-Giáo Môn Tam-Muội Đà Ra Ni vậy. - Này Đại Vương! Bản lai con người sinh ra không có tính ác. Bản Lai Thánh-Hiền sinh ra không có tính thiện. Đó là do tập nhiễm tính khí của con người có sai khác nhau về hoàn cảnh thiện ác, luân lý và đạo đức mà hàng Thanh Văn, Duyên Giác cần phải tu cần phải học. Ngài Thiện Long Tôn Giả lại bạch Phật rằng : - Bạch Đức Đại Thánh Thế Tôn! Ngưỡng mong Phật từ bi chỉ dạy cho chúng con được biết ác ở đâu mà có, thiện ở đâu mà sinh? Tập nhiễm là cần hay không cần? Tánh khí chúng sinh hay thay đổi, làm sao quyết định được là người giác ngộ hay còn mê mờ ? Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề nghe xong lời tác bạch, ngài khen ngợi đức Tôn Giả Thiện Long rồi dạy rằng : - Này Thiện Long Tỳ Kheo! Cái tâm ác mà có chẳng phải tự sinh, cái tâm ác tự sinh chẳng phải là tự có. Do lẽ này hai nghĩa trái nhau, người làm ác biết mình không cố ý nên mới có chổ sám hối. - Này Thiện Long Tỳ Kheo! Cái tâm thiện mà có cũng chẳng phải tự sinh, cái tâm thiện tự sinh cũng chẳng phải là thật có. Bởi vì hai nghĩa này trái nhau, nên người tu thiện khi vận công phu tu tập có thể mất tâm Bồ-Đề nếu gặp nghịch cảnh, mà hàng Thanh Văn, Duyên Giác cần phải chú ý điểm này. - Này Thiện Long Tỳ Kheo! Tập nhiễm thói quen tức là có hại, dù thiện hay ác cũng thế. Ví như người đánh xe ngựa đi trên con đường rộng và bằng thẳng. Nếu người ấy có thói quen cho ngựa hướng về bên phải mà chạy, tức thời cả người lẫm ngựa đều rơi xuống lề đường, nếu lái cho ngựa chạy về bên trái cũng lại như thế. Nhưng người có trí biết đánh ngựa đi theo con đường rộng và thẳng không có thói quen hướng về bên trái hay bên phải nên người ấy đi suốt cả chặng đường dài theo ý muốn của mình. Do đó mà biết rằng tập nhiểm dù tốt hay xấu cũng đều lọt vào thói quen tai hại, chỉ có duy nhất để tâm thanh tịnh là quí báu hơn hết. Này Thiện Long Tỳ Kheo! Tính khí con người không có gì quyết định được, trừ khi bản thân tự quyết định cho mình một hướng đi trung đạo đến vô thượng chánh-Đẳng Chánh Giác mà thôi. Bấy giờ đức Phật trùng tuyên lại nghĩa kệ rằng :
1. Chư Phật cả ba đời Y theo Pháp Mật Giáo Đà Ra Ni Tối-Thắng Mà viễn ly ác nghiệp Lìa bỏ các tập khí Chủng tử dễ ô nhiễm Đánh đấm đâm giết chết Thuốc độc và cạm bẫy Bài bạc, rượu chè chén Dối gạt thích dua nịnh Mỵ bày việc hung hiểm Thích dục lòng ưu vui Sống ác chẳng biết ác Gần tội chẳng biết tội Chẳng biết được chân lý Nhận kẻ dữ làm thân Chẳng phân biệt phải trái Mà tạo tội vô lượng Do vô minh che đậy Kẻ phàm tục đê mê Danh lợi mồi cám dỗ Làm hại nhiều thế nhân Bạc ác và phi nghĩa Như thú dữ rình mồi Chẳng thiết gì mạng sống Thế gian nhiều đau khổ Chất chứa nhóm phiền não Như dao cắt vào thân Mình mẩy đều thương tổn Máu chảy tuôn xối xã Kẻ ngu ham nương gá Tội khổ tự chuốt lấy Bởi vô minh làm hại 2. Chẳng thấy được đạo nghĩa Gốc tham vua lớn nhất Giục giã kẻ trần mê Chạy vào đường ác đạo Thi đua rất hăng hái Dù chết cũng cam lòng Như thiêu thân vào lửa Chẳng biết gì khổ chết Thế gian ưa vật dục Kẻ mê mẩn đáng thương Loay hoay không định hướng Bởi vô minh làm hại 3. Tội nghiệp tuy chưa có Mà nay đã sẵn chờ Chúng sinh nhiều si mê Theo đường ác ghê sợ Lấp ló những tà kiến Vọng chấp theo điên đảo Tự cho là đúng đắn Chẳng biết các quả báo Chiêu cảm từ nơi thân Tham dục theo bóng sắc Ảo vọng và cuồng nhiệt! Bởi vô minh làm hại 4. Các Tỳ-Kheo nên biết! Dầu làm ác rất lớn Mà nó chẳng đến đâu Mục đích không định hướng Nên lọt vào nhân quả Tội báo không cùng tận Kẻ trí biết tội lỗi Chỉ một lần quay đầu Bến giác sẽ gồm thâu Các ác nghiệp lắng động Lần hồi mau tan biến Như mây che ánh trăng Mây tan gió thổi đến Trăng sáng chiếu mênh mông Trí Phật cũng như thế Từ bi vô chướng ngại Diệu dụng dạy chúng sanh Cứu thoát tam đồ khổ Tuy làm việc khó làm Chư Phật đủ bi nguyện Cảnh tỉnh lòng nhân thế Không thêm cũng không bớt Xoa dịu vết thương đau Tắm rửa căn nhơ đục Siêng năng thường tu tập Hàng phục các phiền não Trở thành ý Thánh Pháp Dụ dẫn các tà kiến Ác kiến và biên kiến Xảo kiến cùng dục kiến Chấp kiến, nghịch kiến thảy Đều trở thành đạo bạn Việc khó làm như thế Trời người không làm được Nên khiến người tu tập Được công đức xuất thế Gọi đó là chư Phật Nhổ được gốc sinh tử Nguyên nhân tạo các khổ Bứng được cội phiền nảo Tập chủng các nghiệp ác Mà viễn ly thế gian Viên thành vô thượng đạo. Nam mô Chuẩn-Đề Hội Thượng Phật Bồ-Tát (3 lần)
Hết Phẩm Thứ Năm |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 2 20/02/12 8:55
|
|
|
Hòa Thượng Tuyên Hóa Chúng ta phải "mượn cái giả để tu cái chân thật", phải học hỏi trí tuệ hơn người và thần thông khó nghĩ bàn của chư Phật cùng chư Bồ Tát. Vì sao các ngài có thể đạt tới chỗ trí tuệ hơn người? Làm sao các ngài có thể đạt được thần thông khó nghĩ bàn? Nói một cách tóm tắt, đó là vì khi còn ở nhân địa thì chư Phật và Bồ Tát bao giờ cũng tu hành một cách nghiêm túc, chân thật, và lúc nào cũng giữ Giới hết sức cẩn thận. Bất luận lúc nào các ngài cũng tự mình nêu gương, đi đứng nằm ngồi đầy đủ oai nghi. Ðối với chúng sanh, thì các ngài không ngại vất vả, sẵn sàng hy sinh, chẳng tiếc thân mạng, mà tuyệt nhiên không bao giờ tự quảng cáo hay khoe khoang công đức mà các ngài đã làm vì lợi ích của chúng sanh. Ðó là vì các ngài xem việc cứu độ chúng sanh là bổn phận và trách nhiệm của chính mình. Chư Phật và chư Bồ Tát đều có tư tưởng:
Thi ân bất cầu báo, Dữ nhân bất truy hối. (Ban ơn, không mong đáp, Cho rồi, không hối tiếc.)
Đồng thời, các ngài đều có hành vi "vô duyên đại từ, đồng thể đại bi" - có lòng nhân từ bao la đối với kẻ không có duyên với mình, và thực hành hạnh đại bi bằng cách xem mọi loài là cùng một thể với mình. Chính nhờ tu hành như vậy nên các ngài mới được trí tuệ hơn người và đạt thần thông khó nghĩ bàn.
Khi nghe giảng Kinh, chúng ta cần phải suy ngẫm, "tiêu hóa" các nghĩa lý mình nghe được thì mới có ích; bằng không, thì nghe Kinh tuy nhiều nhưng lại chẳng lãnh hội được những đạo lý trong Kinh, thậm chí đem các nghĩa lý của Kinh mà "đặt đằng sau ót", chẳng nghiên cứu, chẳng suy gẫm; rồi vì chỉ dùng con quỷ "tinh ranh", con sâu "lanh lợi" của riêng mình mà gây ra những chuyện hồ đồ, điên đảo. Làm điều xằng bậy như thế tức là bất hiếu với chư Phật và chư Bồ Tát, và cũng là bất hiếu với tổ tiên, cha mẹ cùng sư trưởng của họ. Thế thì chúng ta phải như thế nào? Chúng ta phải hành trì Phật Pháp một cách đàng hoàng, chân thật, không được lười biếng trễ nãi, không được phóng dật buông lung; dù ở nơi đâu chúng ta cũng nên cẩn thận, lúc nào cũng thận trọng, và phải luôn luôn dũng mãnh tinh tấn, nghiêm thủ Giới Luật. Ðó là những điều kiện tất yếu mà người tu Ðạo phải tuân theo.
Nếu chúng ta có những tập khí, thói quen không chánh đáng thì nhất định phải sửa đổi. Có lỗi mà không chịu sửa đổi, còn tìm cách che đậy, thì đó chính là "trợ Trụ vi ngược", nghĩa là giúp vua Trụ làm những điều tàn ác, bạo ngược. Ân Trụ Vương, vị vua cuối cùng của nhà Thương (Trung Hoa), vốn là một hôn quân vô đạo; cho nên những người làm điều độc ác thì được gọi là "trợ Trụ vi ngược". Trong số những người tu Ðạo cũng có “Trụ Vương”. Ðó là ai? Chính là Ma Vương! Thấy Phật Pháp trở nên hưng thịnh thì Ma Vương rất khó chịu, bèn dùng trăm phương ngàn kế để phá hoại Phật Pháp, nhiễu loạn đạo tràng. Nếu quý vị có đạo tràng thì Ma Vương tới quấy nhiễu đạo tràng. Nếu quý vị không có đạo tràng thì Ma Vương sẽ quấy nhiễu thân tâm của quý vị, làm cho quý vị thân không an, tâm không ổn; một khi thân tâm bị điên đảo thì quý vị không thể tu hành có thứ lớp theo như giáo pháp được. Ðó là cách phá hoại trực tiếp. Còn cách phá hoại gián tiếp của Ma Vương là lợi dụng đủ thứ cảnh giới để dẫn dụ, mê hoặc, làm cho quý vị không còn Ðịnh lực, thần hồn điên đảo. Vì trúng phải độc kế của Ma Vương nên quý vị đánh mất chân tâm tu Ðạo, đến khi hối hận thì đã trễ! Do đó, người tu Ðạo thì tâm cần phải yên định, vững chãi như núi Tu Di; dù gặp bất kỳ cảnh giới nào cũng không động tâm. Khi ấy, Ma Vương phải đành bó tay, chỉ còn cách quăng giáp tháo chạy mà thôi!
|
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 2 20/02/12 8:53
|
|
|
Nguyên Nhân Gì Phát Sinh Tam Tai?
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Tam tai gồm có hai loại là đại tam tai và tiểu tam tai. Đại tam tai là ba tai họa lớn về lửa, nước và gió. Tiểu tam tai là ba tai họa nhỏ về chiến tranh, đói kém và bệnh dịch. Đó cũng tức là tai kiếp. Trong một đại kiếp thì có bốn trung kiếp, gồm thành, trụ, hoại, và không. Mỗi trung kiếp lại có hai mươi tiểu kiếp. Vào cuối thời kỳ giảm kiếp của mỗi trụ kiếp thì phát sanh hiện tượng tiểu tam tai. Còn đại tam tai thì phát sanh trong thời kỳ hoại kiếp của mỗi đại kiếp. Bây giờ chúng ta hãy bàn đến nguyên nhân phát sanh đại tam tai.
Bởi con người có tâm tham nên mới phát sanh ra thủy tai; con người có tâm sân hận mới sanh ra hỏa tai; con người có tâm ngu si mới sanh ra phong tai. Cho nên tam tai đều là do tam độc mà sanh khởi. Trong tâm chúng ta, ai ai cũng có đầy đủ cả ba độc - tham, sân, si. Ba thứ độc trong tâm này mỗi ngày một lớn rộng ra và khi đến một mức độ nhất định, sẽ hình thành đại tai kiếp.
Tam tai phát sanh cũng có thứ lớp, bởi con người có thất tình - hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục (tức là vui, giận, buồn, sợ, thương, ghét, muốn). Bảy loại tình cảm này dần dần phát triển rộng ra. Và mỗi một loại tình sẽ phát sanh một lần tai họa, cho nên mới hình thành bảy lần hỏa tai. Sau bảy lần hỏa tai thì sẽ phát sanh một lần thủy tai. Trong bảy loại tình cảm, mỗi loại lại chia ra làm bảy, cho nên mỗi cái “thất hỏa nhất thủy” (bảy trận lửa cháy, một trận nước lụt) này sẽ theo thứ tự mà xảy ra bảy lần. Rồi lại xảy ra bảy lần hỏa tai khác. Đến lúc sau cùng thì phong tai phát sanh và hủy diệt toàn cả thế giới.
Khi hỏa tai phát sanh, ngọn lửa có thể thiêu đốt đến tầng trời Sơ thiền của Sắc giới (tức gồm các cõi Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên và Đại Phạm Thiên).
Lúc thủy tai phát sanh thì nước có thể ngập đến tầng trời Nhị thiền của Sắc giới (tức gồm các cõi Trời Thiểu Quang, Trời Vô Lượng Quang và Trời Quang Âm). Khi phong tai phát sanh thì gió có thể thổi đến các tầng trời Tam thiền của Sắc giới (tức là các cõi Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên và Biến Tịnh Thiên). Cho nên nói:
Sáu cõi trời Dục có năm suy, Cõi Trời Tam Thiền có phong tai, Dẫu như tu đến Phi Phi Tưởng, Không bằng về Tây rồi trở lại.
Phong tai từ đâu tới? Nó đến từ sự tổng kết của bảy thứ tình cảm - hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Phong tai thì tượng trưng cho si độc. Khi con người còn ngu si, thì cái gì cũng quên bẵng. Do đó, khi đại phong phát khởi, mọi thứ từ cõi trời Tam Thiền đến tận dưới địa ngục đều không còn, tất cả đều bị quét sạch. Tuy nhiên, dù cho hỏa tai, thủy tai hoặc phong tai có phát sanh đi nữa, thì nội viện ở trên cõi trời Đâu Suất của Dục giới cũng vẫn tồn tại, chẳng bị ảnh hưởng mảy may nào. Tại sao vậy? Bởi đó là cõi Tịnh độ của chư Phật và Bồ Tát. Hiện nay, Bồ Tát Di Lặc đang ngự tại nội viện trên cung trời Đâu Suất, chờ đến trụ kiếp thứ mười trong thời kỳ Hiền Kiếp, Ngài mới giáng lâm thế giới Ta Bà để giáo hóa chúng sanh (hiện tại chúng ta đang ở vào thời Giảm Kiếp của Trụ Kiếp thứ chín).
Tham sân si hình thành biết bao loại ác khí, giống như những hạt nguyên tử trong bom nguyên tử; nguyên tử là thứ vật chất đáng sợ, nhưng thứ nguyên tử phát sanh từ lửa Tam muội của chúng ta thì lại càng đáng sợ hơn nữa. Loại nguyên tử này không phải đến từ bên ngoài, mà vốn đã có sẵn trong tự tánh của chúng ta. Chân hỏa Tam muội trong tự tánh của chúng ta vốn là thuần dương, nhưng vì bị chúng ta lạm dụng nên biến thành lửa dục vọng.
Trong thân người có tam tiêu hỏa (ba tầng hỏa khí) là thượng tiêu hỏa, trung tiêu hỏa và hạ tiêu hỏa. Tam tiêu hỏa này có thể hình thành hỏa tai, hoặc biến thành bom nguyên tử để hủy diệt tất cả mọi thứ. Bởi bên trong chúng ta có bom nguyên tử, cho nên bên ngoài mới có bom nguyên tử. Chúng được hình thành bởi có sự tương ứng và tương tục với nhau. Hiện nay trên thế giới xảy ra nhiều vấn đề cũng đều là từ điểm này.
Trong tâm chúng ta có cái gì thì bên ngoài có cái đó. Nếu trong tâm chúng ta không có chiến tranh thì bên ngoài cũng sẽ không có chiến tranh. Cho nên nói “Tất cả do tâm tạo” là vậy!
Giảng ngày 29 tháng 7 năm 1985
Chú thích: Tam tiêu: Ba tầng hỏa khí, tức là ba ngăn trống trong thân mình: Thượng tiêu (ngăn trên - nơi chứa phổi, tim, gan); Trung tiêu (ngăn giữa - nơi chứa bao tử, lá lách, ruột non); Hạ tiêu (ngăn dưới - nơi chứa bang quang, ruột già). |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 2 20/02/12 8:50
|
|
|
Sám Hối Nghiệp Chướng
Lưu Thời Phủ
Phật dạy rằng tất cả chúng sanh đều có trí tuệ nhưng vì vọng tưởng chấp chướng mà không chứng được tính giác ngộ của Như Lai. Mấy câu này thật là nói tận nguồn căn. Vọng tưởng chấp trước tức là chướng ngại. Có chướng ngại này rồi mà không trừ, thì chính là gốc căn bệnh khiến ta khổ. Vọng tưởng là tâm phân biệt, chấp trước cho có mình và vạn sự.
Phật dạy: “ Nghiệp không nặng không sanh Ta-Bà.” Mình vì nghiệp nặng mới sanh ở thế giới này. Mình đã nghiệp thiện ác vô biên vô số từ vô thủy kiếp đến nay. Do mê hoặc nên tạo nghiệp, vì tạo nghiệp mà chịu khổ. Hoặc nghiệp khổ xoay vần, càng khổ thì càng mê không biết tỉnh giác; càng mê thì càng khổ. Khi nhiều kiếp trước mình tạo nghiệp nặng, chướng duyên trong ngoài đầy dẫy thì dù kiếp này có tạo chút ít thiện căn, gặp Thiện Tri Thức, thân cận Phật Pháp muốn tu hành cũng khó. Các thứ việc không như ý sẽ tới cản trở đường tu. Cho nên cần phải dẹp sạch chướng ngại thì mới có thể học Phật. Cách để dẹp sạch chướng ngại chính là Sám Hối Nghiệp Chướng.
Kinh Hoa Nghiêm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm thập đại nguyện vương: thứ nhất là lễ kính chư Phật, thú hai là khen ngợi Như Lai, thứ ba là rộng tu cúng dường, thứ tư là sám hối nghiệp chướng.
Đối với sám hối nghiệp chướng, Kinh dạy:
“ Lại nữa Thiện nam tử, khi nói đến sám hối nghiệp chướng, Bồ Tát tự nghĩ rằng:
Từ trong vô thủy kiếp từ quá khứ đến nay, ta vì do tham sân si, phát khởi ở thân, miệng, ý nên tạo ác nghiệp nhiều vô số kể. Nếu những ác nghiệp ấy mà có hình tướng thì tận cùng hư không trong vũ trụ cũng không thể nào chứa hết. Con nay xin dùng ba nghiệp thanh tịnh, biến khắp thế giới nhiều như hạt bụi ở trong pháp giới, con đến trước mỗi vị Phật và Bồ Tát, thành tâm sám hối nguyện sau không tái phạm, và con luôn sẽ an trụ trong tịnh giới, nơi mọi thứ công đức.
Cho đến khi cõi hư không tận cùng, cõi chúng sanh không còn ai, nghiệp của chúng sanh đều hết tận, phiền não của chúng sanh đều hết sạch, khi đó sự sám hối của con mới ngừng. Song le cõi hư không nhẫn đến phiền não của chúng sanh không bao giờ hết sạch, do đó sự sám hối của con cũng không bao giờ chấm dứt. Niệm sám hối trong tâm con lien tục không hề gián đoạn. Thân, miệng, và ý ba nghiệp cũng không hề mỏi mệt.”
Đọc xong đoạn kinh trên, mình mới thấy sự vĩ đại, sâu sắc của hạnh nguyện Phổ Hiền. Nó như không hề cùng tận, không hề gián đoạn, cũng không hề nhàm mỏi. Tuy mình là kẻ phàm phu, không thể làm đặng hoàn toàn như trên, song mình phải tận lực. nếu không thì nghiệp mình nặng, chướng ngại sâu dày, biển khổ sẽ không bờ bến đấy.
Sám hối là lời dịch của chữ Hoa và Phạn. Sám là tiếng Phạn ( Ksama ) có nghĩa là hối cải, phát lồ tội đã tạo trước đây, bộc bạch để đại chúng biết, thì tội lỗi sẽ giảm nhẹ. Hễ càng giấu tội thì tội càng không tiêu. Hối là sửa quá khứ tu vị lai. Có lỗi biết sửa, sau này không tái phạm. Tinh thần và sự lợi ích của sự sám hối là để trừ nghiệp ác; sàm hối chia làm sự sám và lý sám:
1/ Sự Sám: Đệ tử Phật đã phạm lỗi hay giới, theo kinh điển lời dạy để tu sám hối. Trong kinh Phương Đẳng có cách để tu Sám - đốt đèn nhang, cúng tượng Phật, trang nghiêm đạo tràng, tận tâm tận lực cúng dường. Trước khi vào điện bái sám phải tắm rửa thay đồ mới, lòng phải thành kính mới có hiệu nghiệm. Ngẫu ích Đại Sư đã từng tu sám pháp mười mấy năm, rất có cảm ứng.
2/ Lý Sám: Lý sám là dùng phương pháp quán sát như lúc trưởng giả Duy-Ma chiều kiến ngủ uẩn đều là không thì tội ở đâu? Tâm không có ở trong ở ngoài ở giữa. Tội cũng như thế, kiếm không ra tánh của tội; từ trong tâm giải thoát, từ trên lý để giải thoát. Khi lý được giải thoát, sự tự nhiên giải thoát. Tính là thanh tịnh, vọng tưởng là dơ bẩn. Dứt vọng tưởng là lý sám. Lý sám không lưu dấu vết. Cổ đức ngày xưa có nói rằng: “Tốt nhất là Sự Lý đều sám vì sám Sự Lý không ngại.” Tất cả khổ nghiệp chướng đều sinh từ vọng tưởng. Nếu không dứt vọng tưởng không phải sám hối chân thật.
Niệm Phật là pháp môn sám hối tốt nhất. Niệm một tiếng Phật tương ưng với lý, sẽ có lực lượng to lớn vô cùng. Kẻ niệm Phật trong sáu thời niệm niệm phân minh thì chánh niệm hiện tiền, không có vọng tưởng do vậy một tiếng niệm Phật diệt được tám mươi ức kiếp trọng tội sanh tử.
Vọng niệm bớt đi thì công phu tự nhiên tăng trưởng, trước khi chưa phá Ngã Pháp nhị chấp, phải phá cái tâm được mất ( đắc thất ).
Theo giới luật Tiểu thừa thì nếu có vị Tỳ kheo phạm bốn giới căn bản thì tội ấy không thông sám hối ( tức là phạm bất cứ một trong bốn giới sát đạo dâm vọng, dù cho sám hối cũng không diệt được tội ). Trừ bốn giới căn bản ra, nếu có phá giới khác phải sám hối trước 20 vị Tỳ- Kheo. Vì Tiểu Thừa chưa phát Bồ-Đề tâm nên phạm bốn tội trọng không được thông sám hối. Phật Đại Thừa thì khác; trong kinh Phật Danh nói rằng: “Nghe một danh hiệu Phật diệt vô lượng tội.” Trong kinh Đại Niết Bàn cũng nói rằng: “ Phạm tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, bị ma quỷ bao vây, nếu nghe được kinh Đại Niết Bàn thì tội tức tiêu diệt ngay.” Có người niệm Phật cả một hai mươi năm, phiền não chưa diệt được, nghiệp chướng dường như cũng chưa tiêu trừ. Lý do tại đâu? Chẳng lẽ niệm Phật lại không linh ứng như thế sao? Phải biết rằng trong kinh nói Thiện nam tử như thế nào. Thiện nam tử đây chỉ những kẻ phát Bồ-Đề tâm để mà nói: nếu phát Bồ-Đề tâm có thể thật sự được như vậy. Kinh Kim Cang có nói: “ Bồ Tát vô tứ tướng, tức vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng.” Tứ tướng đều không có thì cái nào để nhận tội đây? Phàm phu và tiễu nhân có tội mới chịu tội, nếu không tội thì ai chịu tội. Những kẻ Tiểu Thừa đã phá ngã chấp, sao phải chịu tội? Vì họ chỉ phá kiến tư phiền não trong tam giới mà chưa phá kiến tư phiền não của ngoại giới nên vẫn chưa tiêu được tội.
Nếu có phát Bồ-Đề tâm tức vào cảnh giới viên dung tự tại rồi.
Bồ Đề tâm gồm có 3 tâm thái, tức trực tâm, thâm tâm và đại bi tâm. Trực tâm chánh niệm chân như, tương ưng với lý thể chân như. Mọi nơi mọi lúc tâm trong sạch, không chút hư tình giả ý, tâm không hướng ngoại cầu duyên là bước thứ nhất của Bồ Tát Đại Thừa . Tâm như thái hư, như như bầt động, tất cả vạn tượng, mặc kỳ qua lại, mặc kỳ sanh diệt, tôt cũng không lấy, xấu cũng không từ. Trong thâm tâm là tâm thích đức thiện, chiếu soi đề lý, có quyết tâm, có nghị lực, vui vẻ mà làm tầt cả việc thiện. Đại bi tâm là tin tưởng mình có thể làm lợi ích chúng sanh, rộng tu lục độ, phổ tế hữu tình mà không trước tướng; ba loại “tâm” này họp lại tức là Bồ-Đề tâm.
Trên đây là trên từ phương diện giáo lý lập luận dường như rất khó hiểu, thật ra chỉ cần buông bỏ tất cả “ danh văn, lợi dưỡng, ” để tâm vào Đạo, tức đắc được cảnh giới này. “Ảnh Trần Hồi Ức Lục” của Đạm Hư Đại Sư nói về kinh nghiệm đời Ngài, có đề cập đến chuyện Lưu Văn Hóa ( nghiên cứu Phật Pháp ) thành tâm hơn chúng ta nhiều. Y bình thường hễ đọc kinh không hiểu thì quỳ lạy trước Phật cầu trí huệ, ngày đêm đều vậy.
Về Phật Pháp nhìn bề ngoài dường như rất khó, nếu lòng ngay thẳng, tâm lý chuyên nhất, buông bỏ tất cả chấp trước, thì không khó gì. Chỉ cần thành tâm và thực hành lâu dài.
Lưu Văn Hóa đọc kinh giống như bị nhập ma vậy; lắm lúc suốt đêm quỳ trước Phật suốt cả đêm; quả nhiên ông được một linh nghiệm.
Có một hôm ông ở tiệm thuốc (ông có mở tiệm thuốc khi chưa xuất gia ) đọc kinh Lăng- Nghiêm. Đối diện bàn ông có một ông quản lý trông coi sổ sách của tiệm, họ Huỳnh, tên là Huỳnh Sinh Chi, khoảng cách giữa hai người rất gần; ông Huỳnh đang cúi đầu làm sổ sách; ông Lưu Văn Hóa đọc kinh như đã nhập định vậy. Trong tâm khoát nhiên mở sáng ra, mắt thấy trong ánh sáng hiện ra một cảnh giới có sơn hà đại địa, lầu các cung điện, chung quanh có lan-can, trong suốt như thế giới Lưu-Ly vậy. Còn có một số Thiên Long quỷ thần, bát bộ hộ pháp trong tay cầm bửu chùy, đứng hầu trên hư không. Còn thế giới hàng ngày bỗng hoàn toàn biến mất. Ông Lưu Văn Hóa lòng bức rức và thắc mắc lắm; trong lúc coi đến xuất thần bỗng có hai con quỷ tới, chúng nhận rằng có quen với ông Hóa. Thì ra lúc còn ở trên thế gian chúng đối với ông Hóa rất tốt. Sau nhân vì kiện vụ ruộng đất mất, hai ông vì thua kiện tức mà chết đi. Ông Hóa tuy thắng kiện, nhưng vì giành một chút đầt làm chết hai người, tư nghĩ thật vô nghĩa, rất hối hận; do đó ông giao gia đình cho người em chăm sóc, tự mình đi tìm thẩy phỏng Đạo, bằt đầu cấm tuyệt tửu sắc tài khí. Nguyên do vì kỵ sắc, giữa vợ chồng mất hòa, vợ ông tức chết. Vợ ông vừa chết, đứa con nhỏ cũng chết theo. Từ đó sau này ông Hóa càng đau buồn, lại không việc gì để bó buộc, nên ngày nào cũng ở trong tiệm thuốc của ông Huỳnh, thành tâm thành ý đọc kinh Lăng Nghiêm. Hiện nay được gặp cảnh giới nhu vầy, lại gặp hai quỷ, mà hai quỷ không những chẳng giận ông lại quỳ đền trước ông Hóa. Lúc ấy ông Hóa cò vẻ sợ sệt, hỏi:
- “ Ông đến có chuyện gì?”
- “ Xin ông từ bi,” hai quỷ nói: “ Chúng tôi đến cầu ông siêu độ chúng tôi.”
Ông Hóa nghĩ rằng: “ Nều họ muốn mình siêu độ họ thì chắc họ không đòi mạng mình đâu.” Nhưng ông lại do dự nói với hai quỷ rằng:
- “ Tự tôi chưa giải thoát, làm sao có thể siêu độ ông vậy?”
- “Ôi!” Hai quỷ ấy lại như ai cầu mà nói: “ Chỉ cần ông hứa một câu, chúng tôi đạp lên vai ông thì được thăng thiên!”
Ông Hóa nghĩ: đã không cần mình đền mạng, mình hứa một câu, còn được thăng thiên, vậy tại sao không làm? Bèn thuận miệng hứa một câu: “Được rồi!” Hai quỷ chạy lại đạp lên vai ông, đều một lượt phiêu nhiên thăng thiên. Một lúc sau, vợ chết của ông, bồng đứa con cũng đến. Lần này đến không giống như hai quỷ kia, bà rất vui vẻ, bỏ con bé xuống đất cúi đầu cầu độ. Ông Hóa hứa một câu rồi thì vợ ông và đứa con cũng đạp trên vai ông thăng thiên.
Ông Lưu Văn Hóa lấy rất làm lạ, tự mình cũng không hiểu vì sao. Bỗng nhiên phụ mẫu quá khứ của ông cũng đến, gặp ông rất vui vẻ nhưng không có quỳ xuống, nói vài câu với nhau, cũng đạp trên vai ông thăng thiên.
Đối với những cảnh giới này, ông Hóa thấy rõ ràng; những câu nói cũng nhớ rất là rõ, song đáo để ông không biết là chuyện gì. Trong lúc đang suy nghĩ, đột nhiên cảnh giới ấy biến mất.
Trong nhà tịch nhiên im lặng không tiếng động. Ông Huỳnh vẫn khom đầu làm sổ sách trên bàn đối diện, không những mắt không nhìn thấy cảnh giới ấy, chính long ông cũng không nghi đến chuyện gì cả. Trong chớp mắt cảnh giới không thấy nữa. Ông bỗng đứng lên hỏi: “ Huỳnh đại gia! Ông vừa rồi có thấy không?” Ông Huỳnh ngước đầu lên giống như ngây dại vậy hỏi lại ông: “Thấy chuyện gì?” Hỏi xong ông Huỳnh tiếp tục: “Tôi chẳng thấy gì cả!” Người hỏi người đáp phá tan bầu không khí trầm tịch. Ông Huỳnh vì lời mình hỏi chưa được giải đáp, cũng không thèm để ý thêm nữa, nên khom đầu xuống tiếp tục làm sổ sách. Ông Lưu Văn Hóa tưởng cảnh giới vừa rồi ông Huỳnh cũng thấy, nhưng ngược lại, ông Huỳnh nào thấy chi. Ông biết đây là chuyện bí mật của mình nên cũng im lặng không phát biểu.
Sau ông đem chuyện này kể cho tôi biết rõ ràng, lúc đó tôi nói với ông: “Đây là công phu phá thức uẩn, khi thức uẩn phá rồi thì lắm lúc được cảnh giới này.”
Từ đoạn văn có thể thấy, nếu mình có thể như Lưu Văn Hóa, buông bỏ tất cả, sám hối trước Phật, cầu trí huệ, ngày đêm làm vậy thi có thể siêu độ những tiên vong của gia đình quyến thuộc và kẻ oán thù đều siêu độ. Tục ngữ có nói: “ Nhất nhân đắc Đạo, thất tổ thăng thiên.” Phật Pháp không khó chỉ cần mình thành tâm là được.
Cuối đời nhà Thanh, đầu đời Trung Hoa Dân Quốc, Đại Sư Đạm Hư là cao đồ của Đại Sư Đế Nhàn phái Thiên Thai. Ngài tinh thâm nghiên cứu về Thiên Thai giáo. Người đời gọi Ngài là một trong ba vị Tam Hư - Hư Vân, Thái Hư và Đạm Hư - ba vị đều là cao tăng của Dân Quốc, là ngọc bảo của quốc gia. Cuốn “Ánh Trần Hồi Ức Lục” của Đại Sư Đạm Hư, mỗi lời mỗi câu đều do Ngài đích thân thấy nghe. Chuyện kể về Lưu Văn Hóa đương nhiên rất đáng tin. Mọi người đều có nghiệp chướng, song nghiệp chướng nặng nhẹ có khác biệt; SÁM HỐI NGHIỆP CHƯỚNG thì mới không có chướng ngại khi tu đạo. Nguyện với các đồng tu cùng cố gắng. |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 2 12/03/12 20:10
|
|
|
Theo như Minh Thiên áp dụng thì nếu khi bạn bị chứng bệnh đau đó, nếu ngồi xuống kết ấn trì chú Chuẩn đề hoặc thiền định niệm chú chuẩn đề trong tâm thì một lát sau bệnh sẽ biến mất.. nếu kiên trì vài hôm thì không còn bệnh nữa, các bạn thử làm xem sao.. tất nhiên là khi viết thế này Minh Thiên cũng đã trải qua chuyện này và thực hành chữa trị như cách trên rồi. |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 6 16/03/12 15:34
|
|
|
Kiến thức và nghệ thuật tôn lư hương trong gia đình. Trong bài tản mạn về bốc bát hương lần trước khi đăng lên thì Minh Thiên đã nhận được rất nhiều sự quan tâm chia sẻ của các thành viên diễn đàn về vấn đề này..đã có rất nhiều thành viên diễn đàn trong nam ngoài bắc gọi điện nhờ tư vấn cũng như trực tiếp đến hành pháp giúp cho gia đình ,đó là nguồn động lực rất lớn trên con đường hành pháp của Minh Thiên. Đế tỏ lòng tri ân đến các thành viên và các thân chủ Minh Thiên xin được viết tổng hợp về vấn đề này sâu hơn nhằm giúp cho những quý bạn sơ cơ trên con đường tâm linh có một kiến thức rõ ràng hơn về quy trình tôn hương cũng như những điều kiện để có thể thành lập một án thờ, lư hương đầy đủ nghiêm trang đúng phép tắc nhằm phù hợp vói tiêu chí âm có siêu thì dương mới thái… Những kiến thức này được Minh Thiên tổng hợp lại trong quá trình đi hành pháp và áp vong gọi hồn, cùng triệu thỉnh các vị thành hoàng thổ công, thổ địa và thành tâm lắng nghe những yêu cầu chỉ dạy của thần linh cũng như vong linh…tất nhiên những điều mà Minh Thiên biết thì chỉ là giọt nước trong đại dương tâm linh, và nó cũng chưa hẳn là phù hợp với toàn bộ với tập tục lễ nghi của từng vùng miền..và cũng có rất nhiều anh chị em thành viên trong diễn đàn có kiến thức còn sâu rộng hơn Minh Thiên rất nhiều nhưng không muốn lộ diện..nhưng với tâm thành muốn đóng góp chút ít kiến thức tâm linh cho những người sơ cơ trên diễn đàn đang cần tìm hiểu về vấn đề này ..vậy Minh Thiên cũng xin mạnh dạn viết ra đây..rất mong quý vị hoan hỷ mà bỏ qua cho những phần nào còn thiếu khuyết hoặc chưa hẳn đã là tư liệu chính xác. Cách đây không xa khi đất nước còn ngèo thì mọi người mọi gia đình không chú ý lắm đến phần tâm linh..nhưng gần đây khi mà nền kinh tế đất nước đã chuyển mình đi lên, thì rất nhiều gia đình trở nên giàu có khá giả hơn và lúc đó thì lá rụng về cội..họ bắt đầu để ý đến mồ mả ông cha tổ tiên..và có tâm mong muốn tìm hiểu sâu hơn về thờ cúng sao cho phải phép..thời kỳ này phần âm đã bắt đầu thịnh lên. Thông qua các cuộc áp vong gọi hồn, các vụ báo mộng, hoặc khi gặp điều xấu ác gì đó xảy ra liên tục trong đời sống dẫn đến việc phải đi đến các thầy bà giải mã thì bây giờ phần lớn mọi người đã rõ đúng là có một thế giới người âm và phải thờ cúng sao cho đúng luật âm để có thể nhận được sự phù trì từ tổ tiên cũng như các vị tôn thần chịu trách nhiệm quản cai đến nơi mình đang sinh sống và làm việc….và tiêu biểu cho việc thờ cúng đó là việc lập án thờ tôn bát hương phụng tự bản gia thổ công, gia tiên bà tổ cô trong gia đình…hay các vị thần linh chủ quản nơi cơ sở làm việc hoặc các công ty nhà máy. Tuy hiểu là như vậy nhưng rất nhiều người đều bối rối không biết phải làm gì , chuẩn bị ra sao xung quanh việc tôn hương..bài hôm nay Minh Thiên xin được viết chi tiết hơn về việc tôn hương và nghệ thuật sắp xếp bài trí đàn lễ cũng như hành pháp để tôn hương. Việc tôn hương và thờ cúng muốn thành tựu đem lại sự tốt đẹp cho gia chủ thì cũng như giống như kết tập một bộ kinh điển, tức là cũng phải có các chủng thành tựu, ở đây là : A. phải có đối tượng cần đến việc tôn hương.. B. kiến thức về mua sắm đồ lễ và vật dụng để tôn hương… C. không gian địa điểm để thiết lập án thờ … D. buổi hành pháp để tôn hương gồm có sắp xếp bài trí đàn lễ và tiến hành khoa pháp . A, đối tượng cần đến việc tôn lư hương hoặc tôn lại lư hương: Đây là những gia đình vợ chồng trẻ bắt đầu cuộc sống mới và ra ở riêng, hoặc là những thân chủ tuy còn sống chung với ông bà bố mẹ nhưng đã đến lúc phải gánh vác trách nhiệm thờ cúng của gia tiên dòng tộc, hoặc là những vị chủ nhà sau những thất bại ê chề của cuộc sống và công việc, hoặc gặp những việc bất xứng ý trong đời mặc dù mình có rất nhiều kinh nghiệm và năng lực trong công việc , họ đi tìm đến các thầy bà xem vận số nó ra sao và mới té ngửa ra là gia đình mình đã có truyền thống thờ cúng sai lầm từ rất lâu rồi , thí dụ như theo trật tự của việc thờ cúng trong gia đình thì lư hương thổ công phải nằm ở giữa và to và cao hơn bát gia tiên , tổ cô. Nhưng các gia đình hoặc thân chủ trên đã mắc sai phạm là họ để hoặc bát hương thổ công con cò be bé hơn gia tiên , hoặc có gia đình lại thờ chỉ gia tiên thần linh không có bà tổ cô, mà cái vị hay đi theo phù trì các bạn ấy lại tên là bà tổ cô cơ ..vì thế khi các bạn đi xem bói ý, các thầy bà toàn phán là bạn có bà tổ cô linh thiêng đi theo phù hộ chứ có thấy nói là các vị khác trong gia tiên linh thiêng đi theo phù hộ đâu nhỉ …hoặc là có người là con thứ trong gia đình thì chỉ thờ thần linh không thờ tổ tiên, thật ra thì vấn đề này đã được Minh Thiên hỏi chuyện các vong linh mỗi khi có dịp tiếp xúc và họ bảo con nào mà chả là con..thằng nào tốt thờ thì đến ở với thằng ấy thôi..và tất nhiên là sẽ phù trì người ấy hơn...chứ chả lẽ thằng trưởng ấy nó có hương khói gì đâu và cho ông bà ngồi mốc cả mép ra thì lại cứ ở chỗ nó sao. Và có những người thì không sai phạm vấn đề trên nhưng lại tự làm bát hương lấy..có nghĩa là họ cho một ít tro vào bát hương và tự gán cho đây là thờ gia tiên, đây là tổ cô.. tất nhiên là như thế thì đâu có ai vào được ..âm dương có luật ,với lại là bạn có thể tự làm được thì đâu cần sinh ra thầy bà làm chi, xã hội đâu cần phân công người này làm việc này , người kia làm việc kia..mai Minh Thiên cũng có thể cầm gậy giao thông ra chỉ đường thay cảnh sát,tất nhiên là tự làm và không có nghiệp vụ và quyền hạn thì sẽ làm sai bét , vi phạm luật và làm rối loạn việc giao thông. Thế có người sẽ lý luận là tôi đã làm thế rồi đến bây giờ có thấy sao đâu..bạn chưa sao hoặc gia cảnh chưa sao là vì bạn vẫn còn phúc từ đời xa xưa nào đó đã gieo nhân lành..và hoàn toàn cái phúc bạn đang có chả trông nhờ liên quan gì vào chuyện hương khói cả, mà thật ra tổ tiên lúc đó cũng đâu có phù trì gì được cho bạn đâu vì họ đâu có được thần linh cho vào nhà, khi phúc hết nghiệp đổ thì bạn sẽ thấy ngay..nhưng chắc chắn một điều là gia tiên nhà bạn lúc này đang khổ sở vì bạn lắm..cũng như thế một số giám đốc công ty sau khi đọc sách tâm linh hoặc lên mạng thì thử kiêm luôn cả làm thầy nữa , và cũng tự tôn lư hương theo sách hướng dẫn, sau một thời gian thì thấy ngay, công việc đổ bể mà rõ ràng trên trang đầu của diễn đàn TGVH và một số trang khác đều ghi rõ là đọc để tham khảo thôi chứ đừng áp dụng…và thế là đan đi không bằng dậm lại, mất trâu thì mới rào chuồng, và Minh Thiên lại có việc để làm. Có gia đình thì thờ đúng theo trật tự nhưng chưa đủ phúc nên gặp thầy kém kinh nghiệm ít học hoặc tà kiến nên họ cho tiền thật vào bát hương, hoặc gương và mấy cây kim vào bát hương..sau những vụ làm ăn thất bát hoặc gia đình gặp nhiều tai họa , hoặc có người được tổ tiên linh thiêng về báo mộng cho thì mới biết..hoặc có những gia đình làm ăn đổi đời nên cũng muốn thay đổi lư hương cho bề thế hoành tráng hơn cho hợp cảnh nhà , những thành phần này thì bây giờ Minh Thiên đang làm cho rất nhiều….và nguyên nhân thì còn nhiều nhưng Minh Thiên chỉ tạm kể ra như vậy..và vì những lý do trên mà họ cần đến việc tôn hương. B. kiến thức về mua sắm đồ lễ và vật dụng để tôn hương… vậy là sau những nguyên nhân trên dẫn đến việc bạn cần phải tôn tạo lư hương để thờ phụng thì việc tiếp theo là phải làm gì và bạn sẽ tìm đến một ông thầy để nhờ tư vấn và giúp cho việc tôn lư hương, cụ thể là họ tìm đến Minh Thiên và Minh Thiên sẽ chuyển sang cho họ một bảng danh sách những thứ cần mua sắm, và đây là phần chi tiết :
Đồ lễ cho TÔN HƯƠNG . A, Đồ thờ : Ra phố hàng Quạt ,phố này tất nhiên ở Hà nội rồi , mua 3 gói thất bảo trong đó có lá vàng lá bạc và 5 loại đá, 3 bát hương sứ Bát Tràng vì sứ Bát Tràng bây giờ rất đẹp và bền màu,không như bát Trung quốc sau một thời gian sử dụng là bị bay màu, kích cỡ thì nếu bạn dùng tủ thờ thì nên mua bát thổ công phi 20cm, gia tiên bà tổ cô phi 18 cm. - túi tro, 3 cái đế bát hương tròn bằng gỗ, đôi đèn hoa sen, đĩa hoa quả, bình hoa , lọ hương.bộ chén 3 cái. Một cái kệ tam sơn bằng gỗ. - Mua một cái chậu nhựa sạch và một cái khăn mặt bông. - Một cái ban thờ kích cỡ tùy theo cảnh nhà, nếu mua tủ thờ thì nên đi ra phố La Thành. B, Đồ lễ : Thường thì rất nhiều gia đình nhất là các ban trẻ mới ra ở riêng mỗi khi có việc động đến thờ cúng như ngày rằm giỗ thì thường rất lúng túng không biết phải sắp bao nhiêu lễ và sắp xếp như thê nào để tiến cúng những ai, vị nào…? Theo như trật tự thờ cúng các vị thần thánh bây giờ thì thường là trong gia đình dù có ban thờ phật hay không thì ai cũng đều có lễ phật cả vì câu cửa miệng khi lễ bao giờ cũng là Nam mô a di đà phật… Sau đó là ông bản cảnh thành hoàng, ông này chức vụ tương đương với trưởng công an phường trên dương trần. Ngày xưa các vị thần linh cai quản bản gia bản thổ bản địa có nhiều vị nhưng bây giờ rút gọn lại chỉ có những vị chính là : 1, ông bản gia thổ công ( ông này quan trọng nhất )
2, ông thổ địa mà trong văn sớ vẫn viết là bản xứ thổ địa phúc đức chính thần, 3, bà chúa đất mà trong văn sớ vẫn viết là ngũ phương vạn phúc phu nhân và bà đứng đầu tờ sớ chứng tỏ chế độ mẫu hệ từ xưa là rất quan trọng, lệnh ông không bằng cồng bà, 4, ông thần bếp trong sớ văn vẫn gọi là định phúc táo quân mà không hiểu sao bây giờ vẫn có người nhầm lẫn là ông thổ công và vì thế đến 23 tết vẫn đem bộ 3 mũ giày lên ban thờ thổ công để cúng, ông này bây giờ hiếm nhà tôn lư hương thờ lắm chắc do điều kiện nhà cửa đất đai bây giờ chật quá..nếu ai tinh ý để ý đến đồ mã thì ông thổ công có quần áo đầy đủ còn ông táo quân ấy chỉ có áo mà không mặc quần vì ông ấy chủ trương tiết kiệm là quốc sách…để thế cho nó thoáng. 5, ông tài thần , ông này có nhà thờ có nhà không thờ, phần lớn chỉ các cửa hàng cửa hiệu, công ty là hay thờ. 6, Ngoài các vị thần linh này ra thì nhà nào cũng có các hương linh ông bà tiền chủ, đây là những vong linh chết tại bản đất này từ xa xưa mà không siêu mà cũng không muốn đi đâu vì còn quyến luyến bản đất và cũng có thể do điều kiện chưa có ai phát tâm giúp cho họ đi, họ sẽ biết ơn bạn lắm nếu ngày tuần rằm bạn có kêu khấn và tiến lễ cho họ, chắc chắn họ sẽ phù trì cho bạn và sẽ không quấy phá vì bạn biết sống. Vậy bây giờ khi Minh Thiên đã liệt kê ra đây cho bạn biết để sắp đồ cho lễ tôn hương thì từ nay mỗi khi ngày rằm mùng một bạn cũng nên sửa soạn những cái lễ như thế để cúng cho đầy đủ . 1, Lễ phật : đĩa ngũ quả ,xôi trắng ,gói chè .bình hoa cúc,đôi nến cốc vàng, 5 chai la vi. 1 cây oản.1 hoặc 2 túi tiền phật quan, 1 gói bánh, kẹo. 2, lễ thành hoàng, đĩa ngũ quả ,xôi thịt ,trầu cau chè thuốc, bình hoa cúc , 1 gói bánh, kẹo.đôi nến cốc đỏ,3 cái chén không để rót rượu, 5 túi vàng tiền thường đóng sẵn. 3, lễ thổ công, thần linh: đĩa ngũ quả, xôi thịt ,trầu cau chè thuốc.bình hoa cúc, 1 gói bánh kẹo, đôi nến cốc đỏ, 3 cái chén, 5 túi vàng tiền thường đóng sẵn. 4, lễ ông bà tiền chủ , đĩa ngũ quả,đôi nến cốc ,xôi thịt ,trầu cau chè thuốc,bình hoa cúc, 1 gói bánh,kẹo, 3 cái chén, 5 túi vàng tiền thường đóng sẵn. 5, lễ gia tiên : đĩa ngũ quả, xôi thịt ,trầu cau chè thuốc, 1 gói bánh kẹo,bình hoa cúc, đôi nến cốc đỏ, 3 cái chén, 5 túi vàng tiền thường đóng sẵn, nếu là lễ tôn hương hoặc ngày giỗ kỵ thì có thêm mâm cơm cúng to nhỏ tùy gia chủ. 6, Lễ chúng sinh : Quần áo vàng tiền , cháo bỏng lẻ, khoai sắn…lễ này cũng tùy theo có vụ gì ví dụ như lễ tôn hương thì mới cúng chứ không nhất thiết mùng 1 ngày rằm phải có. 7, Cắm hoa : khi đến nhiều nhà làm lễ Minh Thiên có một nhận xét là các bà các cô bây giờ vụng về nhiều họ cắm một bình hoa cúng trông mới thật thảm hại làm sao, vậy để có một bình hoa đẹp và có ý nghĩa thì bạn nên sắp 5 bông hoa cúc hơi cao thấp so le nhau ôm lấy một bông hoa hồng ở giữa cao nhất và nên tuốt bớt lá đi và độ cao đừng quá cao so với miệng bình hoa, nó mang ý nghĩa là hồng phúc và 6 bông hoa mang ý nghĩa là lộc vì số 6 đọc là lục hiểu trại đi là lộc. C, Đồ mã : Bây giờ một số quý bà quý cô đi chùa và nghe các thầy thuyết pháp là không nên đốt đồ mã và họ thực hiện luôn. Một thời gian sau khi Minh Thiên đến nhà họ gọi vong lên nói chuyện thì vong bảo sao không tiến cúng cho họ quần áo vàng tiền để họ bây giờ dưới đó rách rưới khổ lắm..thế là gia đình té ngửa ra lại sấp ngửa đi mua đồ mã để tiến cúng. Một số gia đình thì tiến mã nhiều kinh khủng nhưng khi vong lên vẫn bảo là chả nhận được gì vì gia đình không làm đúng quy cách, muốn vong nhận được thì bạn phải viết một tờ giấy nhỏ nội dung là gia chủ tên là …địa chỉ tại...biếu vong họ tên là ..ngày mất ..mộ phần tại..rồi cho vào túi mã và khi đốt thì phải khấn thổ công thổ địa xin cho các vong tên vậy nhận rồi rắc ít gạo muối thì họ mới nhận được. Vấn đề đốt vàng mã được đặt ra là chả lẽ các sư thầy đại đức nói sai sao..kinh điển đức phật tuyên thuyết cũng không hề nói đến chuyện đốt vàng mã... Không… chư tăng không hề nói sai mà vấn đề các bạn áp dụng sai thôi. Nếu một vong linh lúc sống có tu học phật pháp và tạm thời trừ diệt bớt tâm tham , khi chết đi lại được theo chư vị bồ tát tu học thì họ chẳng cần đến vàng mã làm chi…nhưng rõ ràng phần lớn các vong lúc sống đâu có tu..lúc chết thì chỉ mất thân tứ đại còn tính nết thì đâu có gì thay đổi nên trong thần thức họ vẫn còn đòi hỏi để thỏa mãn tâm tham, nếu không được đáp ứng thì họ khổ sở vô cùng..cũng như người ngiện ấy không có thuốc lắc họ đâu có chết..nhưng làm thế nào mà họ có thể dứt trừ cơn ngiện nếu không đi cai..và tâm tham của vong linh nhà bạn cũng vậy..bạn chịu khó tu tập phật pháp , bố thí làm thiện và ngày đêm hồi hướng công đức cho họ , nhờ công đức ấy sẽ làm chuyển nghiệp cho họ lên thiên đi theo chư phật tu học họ sẽ không còn đòi đốt vàng mã nữa đâu… Và trong lúc cuộc tranh luận về có nên đốt vàng mã hay không còn dài dài trên mạng thì những người làm mã ngày càng phát triển và việc đốt mã ngày càng nhiều hơn..và cũng chả ông thầy nào ở cả hai miền nam bắc dở hơi đi làm trái với nền văn hóa tín ngưỡng cổ truyền và quy luật nguyên tắc trong siêu hình để đổ bể cuộc hành lễ của mình…năm ngoái khi Minh Thiên đi gọi vong tìm mộ cho một gia đình ở bên Như quỳnh ngày 29 tết mà chỉ thiếu có một đôi giày thôi , à không phải chỉ là một bên chân giầy mà thành hoàng nghĩa trang nhất định không cho vong chỉ mộ, các bạn có thể tham khảo vấn đề này ở bài CUỘC GỌI VONG TÌM MỘ NGÀY CUỐI CỦA NĂM trong mục áp vong gọi hồn trong trang diễn đàn MATVIET.ORG. Vì vậy Minh Thiên cũng liệt kê những đồ này ra giấy và bạn đem ra hàng mã bảo họ sắp cho đúng như vậy và cho xe ôm đem đến nhà là được. 1. -1 bộ quan thành hòang màu đỏ gồm có mũ giầy quần áo ngựa và 1 cây vàng khối đỏ. 2. -1 bô thần linh thổ công màu đỏ gồm có mũ giày quần áo,ngựa và 1 cây vàng khối đỏ. 3. -1bộ thổ địa màu đen hoặc tím gồm có mũ giày quần áo ngựa và 1 cây vàng khối tím. 4 -1 bộ bà chúa đất màu xanh gồm nón hài trang sức quần áo ngựa và 1 cây vàng khối xanh. 5 -2 bộ quần áo nam nữ mũ giày cho ông bà tiền chủ 6 - 1 bộ quần áo giày dép màu trắng, bộ trang sức cho bà tổ cô. 7- -Quần áo cho các vong gia tiên nhà bạn có bao nhiều đàn ông đàn bà mà bạn thấy cần phải biếu họ cho đỡ áy náy thì liệt kê ra giấy để nhà mã họ sắp theo yêu cầu...nhất là bà tổ cô, bà này chả chịu đi đâu chơi mà cứ ngồi một góc nhà ủ mưu để phù hộ cho ông chủ nhà, vậy bạn cứ đầu tư vào cho bà là không bao giờ sợ thiệt…và vì bà là người chết trẻ và chưa chồng bao giờ nên bạn phải mua đồ mã quần áo màu trắng cho bà chứ lắm khi nhà mã họ cũng chả biết vấn đề này đâu..tiện bộ nào là họ cho bộ ấy vào luôn đấy. 8- 2 túi tiền phật quan 9- Tiền vàng đã đóng sắn trong túi nilon giá đâu 8 ngàn 1 gói, mua độ 30 gói. C, không gian địa điểm để thiết lập án thờ : Nếu nhà bạn chỉ có một tầng thì Ban thờ hoặc tủ thờ nên đặt ở ở nơi trang trọng thí dụ như giữa phòng khách, còn nếu nhà nhiều tầng thì nên đặt tại tầng trên cùng và một điều bạn nên cần nhắc giữa hướng ban thờ và thế đặt ban thờ , có người thầy xem cho là tuổi này thì phải hợp hướng này nhưng khi kê ban thờ vào đó thì lại phát hiện ra ban thờ nhìn ra chỗ uế tạp. Vì vậy ta nên chọn sao cho ban thờ trước tiên không nhìn ra chỗ phơi quần áo, ra phòng vệ sinh, hoặc dựa lưng vào tường nhà vệ sinh. Lúc trước Minh Thiên có đi làm chung với một ông thầy là anh em rất thân thiết, khi đến nhà người ta đặt bát hương ban thờ thì ông bấm đốt tay đo đạc lẩm nhẩm tý sửu dần mòn..càn khảm cấn chấn tốn mãi và quyết định đặt ban thờ theo một hướng mà ông cho là tốt nhất theo ý ông. Thế tý nữa Minh Thiên gọi cái vong mà ông ấy lập bát hương ban thờ cho vong ấy lên..không ngờ cái vong ấy cũng biết về huyền thuật nên hắn cãi nhau với ông ấy mãi về việc đặt ban thờ và hắn bảo ông thử mở cửa ra xem là ban thờ đang nhìn về đâu..kết quả là đang nhìn về một nơi khó nói..vậy là phải kê lại. Thế hắn bảo tý nữa ra khỏi đây ông sẽ ngã xuống một cái hố cho nhớ đời..quả thật rõ ràng ba người Minh Thiên đi sau, bà chủ nhà đi trước, ông ấy đi giữa..và rõ ràng có một cái hố mới đào trên vỉa hè, mình và bà chủ nhà đều thấy và né tránh, còn ông ấy như bị bịt mắt và ngã nhào xuống hố. Còn một điều nữa bạn chớ nên để hai ban thờ đối chiếu nhau, vấn đề này Minh Thiên hay gặp nhiều khi đến vùng quê, họ để cây hương ngoài sân chiếu thẳng vào ban thờ trong nhà. Theo như trật tự của việc thờ cúng trong gia đình thì lư hương thổ công phải nằm ở giữa và to và cao hơn bát gia tiên , tổ cô, và lư hương gia tiên thì phải nằm bên phải tay bạn khi bạn đứng nhìn vào ban thờ và tổ cô thì ở bên trái.. Không phải là vô lý khi từ ngày xưa thợ mộc họ đã đóng cái kệ tam sơn mà ở giữa thì cao hơn hai bên cạnh..thợ mộc thì đâu có để ý gì đến chuyện cao thấp..họ chỉ làm cái đó hoàn toàn theo chỉ dẫn của các thầy tâm linh ngày xưa thôi, mà các thầy thật ra cũng không tự nghĩ ra được, cái vấn đề này cũng chỉ là nhận được thông tin từ trong siêu hình thôi. Và có một số gia đình đã mắc sai phạm trong việc bài trí lư hương,như hoặc là họ để lư hương gia tiên ở chính giữa còn thổ công sang cánh gà ngồi cho nó thoáng gió..hoặc là gia tiên sang bên trái còn tổ cô sang bên phải nếu bạn đứng nhìn vào ban thờ ..mà theo quan niệm của người xưa thì bên phải của bạn ấy nó quan trọng hơn bên trái vậy tức là bạn đã thiên vị coi một người to hơn cả họ rồi Ban thờ là nơi linh thiêng để chư thần và gia tiên ngự vì vậy các bạn chớ biến thành nhà kho, cái bệnh này thì Minh Thiên đến nhiều nơi trên đất nước Việt nam đều thấy, ở dưới ban thờ ý họ để nào là chai lọ,bình nước đủ thứ vậy là nhà kho chứ đâu phải ban thờ..rồi thỉnh thoảng gia đình có người cứ bị ngã va đầu mẻ trán sứt chân tay mà vẫn không biết tại sao bị thế và vẫn cứ hồn nhiên như thường mà không hề biết là mình bị các vị làm cho ra thế. Rồi hoa quả ấy để một hai hôm thì nó là đồ lễ, ba bốn hôm thì nó chuyển sang hư hỏng rồi..thì nó là rác trên ban thờ ..vậy các bạn cố gắng dọn dẹp đi đừng để lâu quá..những hộp bánh kẹo nữa..đem xuống phân phát cho con cháu đi đừng để đến nửa năm nữa..vàng tiền thì lễ xong đem hóa luôn đừng lưu mãi trên ban thờ kiểu như dứ các vị ấy..hãy luôn dọn dẹp cho quang đãng ban thờ thì khí mới lưu chuyển..vận mới lên được. D, buổi hành pháp để tôn lư hương: Vậy là bạn đã chuẩn bị đầy đủ các thứ và bây giờ là lúc Minh Thiên sẽ đến nhà bạn để trực tiếp tiến hành khoa pháp tôn hương. Việc đầu tiên là Minh Thiên sẽ thắp nén hương lên khấn trình diện và xin phép thổ công thần linh gia tiên nhà bạn chứng minh để tiến hành tác pháp..dù bạn có là ai pháp có cao đến đâu thì bạn cũng phải có lễ độ và khiêm tốn..và sau đó nếu bạn sử dụng đến ấn chú trong buổi lễ để hành pháp thì chư vị thần linh cũng không hề khó chịu và họ lại thêm quý trọng bạn bởi vì bạn rất biết sống và có lễ độ. Thường là thần chú mà Minh Thiên sử dụng tác pháp là thần chú Chuẩn đề một loại thần chú cực mạnh công năng rất lớn tỗng nhiếp 25 bộ thần chú mà trước khi mình vào tác pháp mà không thông báo với chư vị thần linh và không niệm chú An thổ địa chân ngôn sẽ khiến kinh động đến chư vị . Tiếp đó là việc bày đàn lễ..như Minh Thiên đã kê phần đồ lễ thì bây giờ là việc sắp lễ cho đúng vị trí..tất nhiên cao nhất là ban phật..sau đó là đến ngài bản cảnh thành hoàng..và đến chư vị thần linh bản gia gồm có thổ công thổ địa và bà chúa đất. Và tất nhiên hai bên cạnh ban thần linh sẽ là ban gia tiên và ông bà tiền chủ , đó là trật tự sắp lễ mỗi khi nhà bạn có lễ , và đây là sơ đồ : • ban phật. • ban thành hoàng. *ban thần linh : thổ công, thổ địa, bà địa chủ. * ban gia tiên * ban ông bà tiền chủ.
Sau khi đã sắp xếp xong thì gia chủ sẽ sắp ra một chậu nước cho vài cánh hoa hồng hay hoa cúc vào, rồi xịt một ít nước hoa vào đó, lúc này Minh Thiên sẽ thắp 5 nén hương thư chữ Lam 3 lần vào chậu nước rồi ngồi xếp bằng ngay ngắn kết ấn Tịnh pháp giới quán tưởng từ trong tâm lưu xuất ra chữ Lam tự sáng trắng trong tam giác lửa đỏ trên đỉnh đầu phóng hồng quang xuống chậu nước rồi trì niệm 21 biến chú Um Lam gia trì vào chậu nước,tiếp đó chuyển ấn sang kết ấn Chuẩn Đề niệm 21 biến chú Chuẩn Đề gia trì vào chậu nước..và chuyển tay ấn sang Liên hoa và niệm biến chú Đại bi..và sau đó cho các lư hương vào tráng sạch và lau khô bằng khăn mặt bông, việc làm này sẽ tẩy uế hết các phần tinh linh bám vào bát hương và làm thanh tịnh bát hương…nếu bạn chỉ tráng rửa bằng rượu gừng muối thì chỉ sạch phần uế tạp hữu hình thôi, còn nếu bằng phần nước có gia trì thần chú nhà Phật như trên sẽ tẩy luôn phần uế tạp vô hình luôn. Sau đó mỗi bát hương Minh Thiên sẽ cho vào dưới đáy một gói thất bảo, chỉ ngũ sắc cùng một tờ dị hiệu hay còn gọi là bài vị, trong tờ dị hiệu đó có viết bằng chữ nho : phụng tự ….chi vị, sau đó bạn gấp 1 tờ giấy trang kim theo hình bát quái đặt lên trên và đổ tro vào..có thầy thì sẽ chỉ đổ đầy 2 phần 3 bát hương vì thầy quan niệm là về sau thân chủ thắp hương nó sẽ đầy là vừa, nhưng các vị trong siêu hình thì lại dạy Minh Thiên là nên đổ đầy để gia chủ còn làm ăn cho có lộc, sau đó chậu nước có gia trì thần chú sẽ được đem rải ra trước cửa nhà để làm thanh tịnh trước cửa luôn, và ba bát hương sẽ được để vào một cái mâm trước mặt theo trật tự giữa thổ công, phải gia tiên, trái tổ cô, bát tổ cô sẽ được đánh dấu tránh nhầm. Việc chuẩn bị như thế là đã xong và bây giờ sẽ là vào phần khoa pháp, sẽ có các phần khoa pháp như sau :
1, tiến cúng tôn thần xin chứng minh và ân chuẩn cho việc tôn hương. Tuyên sớ. 2, tiến cúng gia tiên kính nguyện tổ tiên lai phó án đường chứng minh công đức độ trì tử tôn,trong phần này gia đình có hoặc không một mâm cơm tùy theo hoàn cảnh của gia chủ. Tuyên sớ. 3, tôn hương và khai quang an vị. 4.cúng chúng sinh. Một khoa cúng thì về cơ bản nó chỉ có thế thôi nhưng nó sẽ thể hiện sự nhiệt tâm thực hiện của người hành pháp…bạn hoặc chỉ là một người thầy pháp làm tròn phận sự của mình khi có thân chủ nhờ đến hoặc bạn thật sự có cuộc trình diễn ngoạn mục trước thánh thần mà sự chứng minh độ trì của chư vị sẽ là đánh giá chấm điểm mức độ thành công của bạn. Khi đọc kỹ phần khoa pháp tiến cúng thì chúng ta sẽ thấy rằng có rất nhiều thần chú nhà phật được sử dụng trong khoa pháp chứng minh một điều rằng các pháp sư ngày xưa đều kiêm tu trì mật chú, mỗi một loại thần chú trong khoa pháp người hành pháp đều phải thông thạo ấn khế đi kèm bởi vì nếu chú đọc lên mà không có ấn khế đi kèm thì phần tác dụng cuả nó giảm đi rất nhiều..có rất nhiều chú cơ bản như chú biến thực biến thủy, phổ cúng dường, chú triệu thỉnh. Ngày trước mỗi khi theo thầy đi hành pháp, khi thấy thầy đọc các câu chú trong khoa pháp ví dụ như câu : Nam mô tát phạ đát tha nga đá phạ rô chỉ đế án tam bạt la tam bạt la hồng thì Minh Thiên có thắc mắc hỏi thầy là câu này có ý nghĩa tác dụng gì và dùng vào việc gì thì thầy bảo cứ làm đi rồi từ từ khắc hiểu..vì sự tò mò mà Minh Thiên cố đi tìm hiểu cuối cùng dẫn đến học mật pháp Chuẩn Đề, và càng học sâu hơn thì mới càng biết mình mới đang đứng ở ngưỡng cửa mật pháp thôi..còn lâu mới thật sự là một hành giả. Trong mỗi lần tiến hành khoa pháp tiến cúng cho gia đình hoặc công ty nào thì Minh Thiên đều hoàn toàn hòa mình vào khoa cúng đó gần như chỉ còn thấy có mình ngồi trên chiếu và cảm nhận chư thần đang an tọa trên pháp đàn lắng nghe mình tuân y khoa giáo pháp sự tuyên hành mà thôi và mỗi khi đọc đến câu : Thần đức tòng không lai giáng hạ Khoát nhiên tâm nguyệt thính dà đà. Tùy phương ứng hiện biến quang minh. Giáng phó gia đường an vị tọa.. Mỗi khi hành pháp mà đọc đến đoạn này là Minh Thiên đều cảm thấy chấn động toàn thân, dường như trước mắt đang hiển hiện và Minh Thiên cảm nhận thấy chư thần đang vân lai giáng hạ án đường phóng ra muôn hồng ngàn tía an tọa vị chứng minh công đức…thật sự những lúc như thế bạn phải thật có một cảm xúc rất lớn như người ta vẫn nói là yêu nghề..và bạn cũng sẽ cảm xúc rất lớn lúc hành pháp nếu buổi hành pháp đó có ông chủ nhà đang quỳ bên kính cẩn lắng nghe bạn hành pháp , đây là nguồn động viên rất lớn vì phần lớn khi Minh Thiên đi hành pháp cho gia đình người ta thì chỉ tiếp xúc được với đàn bà còn đàn ông đi đâu hết, dường như là họ nghĩ rằng đây là việc của đàn bà mà không biết rằng gia tiên nhà mình vô cùng buồn khổ tức giận khi không thấy ông chủ nhà có mặt, mình từ chốn âm cung lên chứ có phải ở ngay dương trần lúc nào cũng có thể gặp mặt được đâu, có lẽ vì thế mà nhiều cuộc gọi vong khi vong lên chả nói gì vì vong dỗi. Những cuộc cúng bái đối với tổ tiên là rất quan trọng là lúc để cả họ về để gặp mặt con cháu thì ông con lại mất tăm, bạn cứ thử chết đi rồi gặp cảnh ấy xem có bực không nếu khi được gọi về mà không gặp con cháu thì bạn sẽ hiểu ngay ra vấn đề…chỉ tiếc là lúc đó có muốn bày tỏ cũng không được nữa rồi và cũng chả con cháu nào nghe thấy, nhìn thấy. Sau khi đã hoàn thành khoa pháp tiến cúng tôn thần, gia tiên thì giờ là sang khoa tôn lư hương phụng tự thổ công, gia tiên bà tổ cô hoặc tôn thần ,lúc này ba lư hương và một chai nước tịnh thủy sẽ được đặt trước mặt Minh Thiên. Và trong giờ phút này Minh Thiên sẽ chuyển tư thế sang ngồi kiết già nhắm mắt tịnh tâm tay kết ấn Tịnh pháp giới hướng về ba lư hương, từ trong tâm thức sẽ xuất hiện một chữ Lam tự sáng trắng bạc nằm trong tam giác lửa đỏ bên ngoài là một vòng ánh sáng màu vàng kim hình tròn bao lấy tam giác lửa đỏ, Minh Thiên sẽ vận tâm thức chuyển chữ Lam tự và vòng lửa đỏ phóng vào ba lư hương và ly nước ba lần, và bắt đầu trì thần chú Um Lam 108 biến gia trì vào lư hương..tiếp đó tay sẽ liên hoàn chuyển ấn sang ấn Chuẩn Đề , lúc này từ trong tâm Minh Thiên sẽ xuất hiện kính đàn trắng bạc lung linh như vầng trăng, trong vầng trăng đó sẽ xuất hiện cửu thánh tự lung linh trong vòng nguyệt luân, chữ ÁN trắng bạc, chữ Chiết sáng màu nhật nguyệt , chữ LỆ hai màu xanh đỏ giao xen, chữ Chủ như tơ màu trắng trong, chữ Lệ màu vàng kim, chữ Chuẩn màu vàng trắng, chữ Đề màu vàng nhạt, chữ Ta Bà màu đỏ rực rỡ , chữ Ha màu sáng bạc an bố trong vòng nguyệt luân ánh sáng giao xen rực rỡ , và kính đàn nguyệt luân này đứng lơ lửng trước trán Minh Thiên phóng quang rực rỡ xuống lư hương, và bắt đầu Minh Thiên cất tiếng trì niệm 108 biến chú Chuẩn Đề gia trì vào bát hương, tiếng niệm chú liên miên tương tục nối nhau không nhanh không chậm rõ ràng từng câu ,trong khoảng thời gian niệm chú đó Minh Thiên đã thật sự hoà mình vào câu chú đến độ cảm giác không còn thân, thân này dường như đã hòa tan vào không gian vô cùng và thời gian vô tận , khoảnh khắc như thiên thu và thiên thu như khoảnh khắc … trong lúc nhắm mắt niệm chú như vậy chỉ còn cảm thấy thân mình gần như mất tiêu và chỉ còn có một khối cầu lửa quay tròn trong lồng ngực và vòng nguyệt luân Viên minh bố liệt Phạn thư đồ đang rực rỡ trước mắt mà thôi, để có thể quán tưởng cho ra Viên minh bố liệt Phạn thư đồ rõ nét phân minh y như một bức tranh lơ lửng trước mặt Minh Thiên cũng rất phải mất nhiều ngày tháng kiên trì tập luyện..và câu chú cũng phải mất rất lâu thời gian khổ luyện để khi phát ra âm thanh có độ rung trầm không chậm không nhanh, câu tiếng phân minh, chữ Án ( Um ) nguyên ngôn của vũ trụ khi phát ra phải có sức chấn động ra không gian xung quanh và có độ rung và trầm . Vậy là lúc này ba lư hương đã hoàn toàn có đủ điều kiện để triệu thỉnh các chư vị và hương linh tốc giáng lư hương an vị tọa và Minh Thiên sẽ cầm 5 nén hương đang cháy thư vào lư hương và đọc câu triệu thỉnh : Cung thỉnh….tốc giáng lư hương an tọa vị, chứng minh gia chủ …..phát tâm tôn lư hương phụng tự 3 lần.. Và đây là giây phút tuyệt đỉnh của phần tôn hương, trong không gian im lặng, trong khói hương lan tỏa, mọi người như nín thở…. câu thần chú Lục tự đại minh được cất lên kéo dài và trầm : Um ..m ..ma.. ni pad ….me hùm..ùm…cung thỉnh gia tiên tiên tiền tổ nội ngoại đẳng chư chân linh tốc giáng lư hương…. Sau câu triệu thỉnh đó thì tay hương của Minh Thiên vẽ một vòng tròn trên miệng lư hương và 5 nén hương đã được định vị vào trong lư hương..những người nào nếu có phần cảm nhận về siêu hình nhạy bén thì ngay trong giờ phút đó sẽ cảm nhận thấy một luồng xoáy như vòi rồng tất nhiên nhẹ thôi hút xuống lư hương..linh khí của thần linh..linh khí của tổ tiên đã trong giây phút linh thiêng đó đã giáng xuống lư hương an vị tọa..những người đó sẽ cảm nhận thấy một luồng khí lạnh hoặc ấm như một dòng điện chạy qua thân mình để rồi đổ ào vào lư hương như để chứng minh một điều công việc tôn hương đã thành công viên mãn, sau khi đã định vị 5 nén hương vào giữa tâm lư hương thì Minh Thiên sẽ rưới một ít nước từ ly nước để bên cạnh đã có gia trì thần chú vào lư hương…lúc trước Minh Thiên có thắc mắc hỏi về tại sao lại phải có ly nước đó thì được thần thánh các ngài giải thích tro tàn ở trong lư hương được ví cho địa đại, ly nước là ví cho thủy đại,đây là thiên hà thủy…đất thì phải có nước thì vạn vật mới sinh sôi nảy nở được, và như thế khi con tôn hương cho gia đình người ta họ mới phát ra phúc lộc được, điều này Minh Thiên chưa bao giờ được ông thầy hữu hình nào ở thế gian giảng cho biết cả.
Còn việc Minh Thiên được dạy là trì chú Chuẩn đề gia trì vào trong lư hương thì Trong bộ mật tông của thầy Thích Viên Đức có những đoạn viết như sau : A, Kinh Bồ đề Trường Trang Nghiêm Ðà Ra Ni, kinh Tối Thắng Tổng Trì, kinh Lầu các Ðà Ra Ni … Hơn hai mươi bản kinh đều nói viết, chép Ðà Ra Ni để trong tượng Phật, tháp, trong bảo xử, hoặc viết trên tràng phan, trên điện đường, viết trên giấy lụa, vải, tre, hoặc trên vỏ cây hoa, tường vách, bảng mộc. Có chúng sanh được xem thấy hoặc thân tay rờ đến hoặc trong bóng ngã qua, hoặc những bụi trần trên chữ Chơn ngôn gió thổi nơi thân. Hoặc viết chép đeo mang tại đảnh, trên thân, trong áo hoặc viết trên tràng phan, nếu gió thổi phan động, phan kia chỉ chỗ chúng sanh. Hoặc chép lên chuông, trống, linh, mõ, loa, bạt … các tiếng trên vật ấy phát ra, nghe được tiếng ấy Trên đây đã nói: Các chúng sanh dù bị tội ngũ vô gián là nghiệp mà chư Phật cho rằng không sám hối được, cũng thảy đểu diệt tận. Ðời sau sanh về các nước Phật, huống chi thân tụng trì đó ư? Cho nên người xưa nói rằng: Tội ngũ nghịch vô gián rất nặng, niệm chú liền tiêu vong. Nghiệp thập ác là cự khiên, vừa nghe liền bay mất... B, -Lợi lạc hữu tình cứu thoát u linh: Ðại Bảo Lầu Các kinh, Ðại Bi Tâm kinh cùng Mâu Lê Chú … hơn mười lăm bổn kinh đều nói: Nếu có chúng sanh được thấy thân người trì chú, hoặc nghe âm thanh lời nói, hoặc đi qua trong bóng của họ thì được tận diệt tội thập ác, ngũ nghịch, đời sau được sanh vào các nước Phật. Lại người trì chú, chỗ mắt họ thấy, chỗ thân họ chạm xúc, hết thảy loài hữu tình cũng diệt tất cả tội, đời sau sanh các nước Phật. Những người trì chú khi đi đường gió thổi, hơn gió này chạm vào hành giả rồi cuốn đi; hoặc thân rửa, tắm trong sông, suối nước cuốn đi những gì kỳ cọ; hoặc khi trời mưa, ngửa mặt lên không trung tụng chú, những hạt nước mưa trên không trung cũng thấm nhuần linh lực; hoặc trên đỉnh núi tụng chú, chỗ nào tầm mắt phóng tới tất cả sự kiện trên ảnh hưởng đến các chúng sinh như sau: mọi tội lỗi đều tiêu diệt, đời sau được sanh về cõi Tịnh độ của chư Phật, hóa sanh trong hoa sen. Như thế gian chỗ có thuốc độc, đi qua dưới gió, khi gió chạm vào liền bị tổn thương; còn có công lực khó lường huống nữa là Thần chú không thể nghĩ bàn ư! Lại kinh Quyến Tác nói: “Nếu nghe Ðà Ra Ni mà sanh hủy báng, cũng vẫn được lợi ích. Như người có ác tâm đi vào trong rừng long não, chiên đàn rồi chặt bẻ, giậm, đạp, làm cho gãy, ngã tất cả, chính thân thể kẻ phá hoại đó cũng dính được cái hương khí thơm tho kia. Cho nên trong Phật Ðảnh Tụng có nói: “thần thông thắng hoá, khó nghĩ bàn, Ðà Ra Ni môn thật là đệ nhất.” Lại trong kinh Vô Cấu Tịnh Quang, kinh Bất Không Quyến Tác, kinh Phật Ðảnh Tôn Thắng, kinh Tùy Cầu … nói “Nếu vong nhơn đã tạo nhiều ác nghiệp, khi chết đọa tam đồ; Chơn ngôn hành giả liền xưng tên tuổi, tộc họ của vong linh rồi chuyên tâm tụng chú, lúc bấy giờ vong ấy sẽ lìa khỏi được ác thú và sanh nơi thiên thượng...
Lại lấy Chơn ngôn chú vào nơi đất cát, hoặc hoa sen rải trên mộ, trên thi hài của vong nhơn liền được sanh về các cõi Tịnh độ của chư Phật. Ngoài ra các y vật, thân phần cốt nhục của vong nhơn mà được bóng người trì chú chói vào cũng được sanh về những nước Phật. Lại chép Ðà Ra Ni rồi đặt trên hài cốt của vong nhơn, vong đó liền sanh nơi thiên cung. Cho nên bực Tiên triết nói rằng: Bụi rơi, bóng chói, Thần dạo thiên cung; rải đất, rưới nước, thức lìa ác thú”.
Và vì thế với niềm tin vào công năng của thần chú, nên mỗi khi hành pháp tôn lư hương cho ai Minh Thiên đều niệm chú Chuẩn đề gia trì vào lư hương và phát khởi thiện tâm nguyện cầu chư vị thần linh, chư vị hương linh an toạ nơi lư hương sẽ được hưởng lợi ích của thần chú gia trì mà gieo được mầm bồ đề trong kiếp này và vô lượng kiếp về sau. Vậy là công việc tôn hương đã xong, bây giờ đến phần an vị…ở miền trung thì họ thường đặt lư hương ở ngay phía trước ban thờ, đặt ở ngay mặt ban thờ ưu điểm là dễ thắp hương nhưng khi ta có đồ lễ như hoa quả chè nước thì phải đặt vào bên trong,trong qúa trình đó thì rất dễ bị đụng chạm vào bát hương là điều mọi người rất kiêng kỵ Ở miền bắc thì phần lớn các gia đình đều đặt lư hương trong đế gỗ tròn đặt trên kệ tam sơn dựa lưng vào tường..và phía trước là chiếc đỉnh và đỉnh này phải thấp hơn lư hương..theo như cấu trúc như vậy Minh Thiên cũng thấy hợp lý hơn bởi vì trông nó có thứ lớp và uy nghi. và sau đó Minh Thiên sẽ cân chỉnh xoay mặt nguyệt ra chính giữa và tiến hành khoa pháp khai quang an vị lư hương,lúc đó lư hương mới chính thức được đưa vào sử dụng và mới có đủ linh lực , và đến 100 ngày sau kể từ ngày tôn lư hương gia đình sẽ làm một cái lễ gọi là lễ tạ bách nhật tôn hương… Sau khi xong phần trên thì sẽ đến việc cúng chúng sinh, việc này thể hiện lòng từ tâm của gia chủ thương xót đến thập loại chúng sinh cơ nhỡ nhưng có thầy khi tác pháp toàn cắt bớt phần này để còn đi chạy sô nhà khác cho kịp giờ y như ca sĩ nhỉ. Sau khi cúng chúng sinh xong thì ta chỉ nên hóa mã thần linh và chúng sinh, còn gia tiên thì chưa hóa vội vì nếu bạn hóa thì tức là bảo tổ tiên lặn đi cho nước nó trong..bạn đã tiễn họ đi đấy..bạn cứ để ý tại sao trong ngày tết mà phải đến ngày mùng 3 hay 4 5 gì đó mọi người mới làm lễ hóa vàng để tiễn gia tiên về nơi âm giới là vậy. Và đến lúc này dọn mâm cơm cúng ra ăn thì mọi người chỉ chúc rượu nhau chén chú chén anh mà quên mất hoặc là không biết lúc trước khi thầy đang cúng cơm thì gia tiên họ chỉ chứng thôi chứ họ chưa có măm măm đâu vì lúc đó có rất nhiều chư vị thần linh đang ở đó, chỉ đến khi xong việc và chư vị đã quy hồi bản xứ rồi thì tổ tiên mới cùng ngồi xuống ăn cùng con cháu…vậy bạn nên để thêm vài đôi bát đũa không ở mâm cơm và nhớ là phải mời tổ tiên hưởng thực trước như mời các cụ trong nhà đang còn sống ấy nhé, hoặc là mời to lên hoặc ngại quá thì bác trưởng hay chủ nhà có thể khấn thầm trong tâm là thôi bây giờ đã đến bữa chúng con xin kính mời các cụ và các hương linh nội ngoại cùng thụ hưởng cơm canh cùng con cháu ạ..thế là gia tiên các cụ cùng vui và đều hồ hởi vuốt râu khen tấm tắc con cháu mình bây giờ thật là có lễ độ và có phép tắc, không như lúc trước mình còn sống cứ động nói gì là mình nói chưa xong nó cãi đã xong như chém chả, đúng là nhà mình bây giờ đang phát phúc thật. Với lòng chân thành mong ước mọi gia đình đều có được một kiến thức tâm linh để áp dụng sao cho âm siêu dương thái, và với lòng biết ơn đến các anh chị em thành viên diễn đàn đã nhiệt tâm động viên ủng hộ góp ý cho Minh Thiên, và với lòng biết ơn đến các thân chủ đã tín nhiệm đến Minh Thiên mặc dù kinh nghiệm nghề nghiệp và thời gian hành pháp còn rất non trẻ so với các bậc tiền bối trong làng tâm linh,mặc dù kiến thức còn rất hạn hẹp và còn phải đi nhiều học hỏi thêm từ những người đi trước, Minh Thiên cũng xin được viết ra bài viết này với một trái tim chân thành, nguyện cầu sẽ một lần nữa lại nhận được sự ủng hộ động viên của các quý bạn để cố gắng hơn trên con đường hành pháp giúp đỡ âm dương chúng sinh. Minh Thiên sdt 0943666611 email : minhthien.matviet@yahoo.com diễn đàn tâm linh MATVIET.ORG
|
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 6 23/03/12 20:16
|
|
|
Chú Đại Bi & Lược Giải Chú Đại Bi
Nam mô đại bi hội thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni:
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đá sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá (na ma bà tát đa *) na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế lị dạ. Na ra cẩn trì. Địa lị sắt ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a lị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ, ta bà ha.
“Án, tất điện đô. Mạn đa ra. Bạt đa da, ta bà ha.”. (3 lần)
(Ghi chú : (*) Trong bản Hán văn và hình thứ 16 có năm chữ nầy. Tuy nhiên, không biết lý do nào và vì sao đã mất hẳn sự trì tụng từ lâu qua các bản Việt văn? Chúng tôi cũng ghi ra cho rõ, để quý vị tham khảo và biết sự thiếu sót nầy.)
*
* *
Lược Giải Chú Đại Bi
1.- Dẫn nhập:
Chú Đại Bi được phát xuất từ sự xác quyết do kim khẩu của Bồ tát Quán Thế Âm. Thường được gọi là Thần chú, Linh chú. Bởi vì ai tin và thành tâm hành trì thần chú nầy thì bản thân người ấy đã có đủ Đại bi tâm. Thần chú nầy do Bồ tát Quán Thế Âm nói ra và được chư Phật ấn chứng mà gần nhất là đức Thích Ca Như Lai Từ Phụ của chúng ta nghe và đức Thích Ca cũng ấn chứng.
Thần chú nầy có rất nhiều tên khác nhau như:
Quảng đại Viên mãn, Vô ngại Đại bi, Cứu khổ Đà la ni, Diên thọ Đà la ni, Mãn nguyện Đà la ni, Diệt ác thú Đà la ni, Phá ác nghiệp chướng Đà la ni, Tối siêu thượng Đà la ni,..
Những danh hiệu trên đây, đức Phật đã trực tiếp hướng dẫn cho ngài A Nan và Đại chúng biết. Nguyên Thần chú nầy tên rất dài: “Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm Bồ tát Quảng đại Viên mãn Vô ngại Đại bi tâm Đà la ni thần chú”. Bài chú gồm có 84 câu.
Đức Phật đã từng nói với Bồ tát Quán Thế Âm:
- “Hởi thiện nam tử, ngươi nên bền lòng trì tụng Thần chú nầy, sẽ có tác dụng lớn trong việc tế độ chúng sanh trong những ác nghiệp của các kiếp sau ....”
Căn cứ vào sự ghi chép trong kinh điển, lúc ấy Bồ tát Quán Thế Âm sau khi nghe đức Phật hướng dẫn, Ngài liền phát nguyện trì tụng liên tục từ cảnh giới Sơ địa đến Bát địa và thẳng lên Bất động địa. Cũng từ đó, ngài phát đại nguyện: Cầu cho kiếp sau của ngài phổ độ cho hết thảy chúng sanh đều được vui thích và mong cho ngài được ngàn cánh tay, ngàn con mắt.
Sau khi phát nguyện xong, phút chốc, toàn thân ngài đã đầy đủ cả ngàn tay, ngàn mắt; tất cả mười phương đều chấn động và mưa hoa cúng dường. Chư Phật cũng phóng hào quang rực rỡ, soi khắp đó đây. Từ đó, Thần chú nầy mới có nhiều danh hiệu như vậy.
Đức Phật bảo ngài An Nan rằng:
Kết quả có được của Bồ tát Quán Thế Âm là do sự phát đại thệ nguyện vì chúng sanh.
Những ai phát nguyện nhất tâm trì tụng thì sẽ được tiêu trừ tội chướng trong đời nầy và kiếp vị lai. Trong giây phút lâm chung, nếu mình tự niệm hoặc được thiện tín thành tâm hộ niệm thì sẽ được vãng sanh hoặc đến quốc độ mà mình muốn đến. Có đức Phật A Di Đà và chư vị Bồ tát thùy từ tiếp dẫn.
Những ai trong đời nầy, nhất tâm trì tụng Đại bi tâm chú thì sẽ được toại nguyện về 15 loại thiện sanh và trừ được 15 loại ác tử.
a. Mười lăm loại thiện sanh:
1. Nơi được sanh ra thường gặp năm điều lành.
2. Thường được sanh ở nước lành (thiện quốc).
3. Thường gặp thời hay, vận tốt.
4. Thường gặp được thầy sáng, bạn lành.
5. Thân các căn đều trọn vẹn, đầy đủ (lục căn hoàn cụ)
6. Đạo tâm luôn được thuần hậu, chơn chánh.
7. Không phạm cấm giới.
8. Tình anh em cốt nhục đều được thuận hòa, an lạc.
9. Trọn đời cơm áo đầy đủ, nhàn nhã.
10. Luôn luôn được mọi người kính mến, thương giúp.
11. Tài sản, của cải không bao giờ bị cướp đoạt.
12. Cầu gì đều được toại ý. (Sở cầu như ý)
13. Luôn được thiện thần, hộ pháp bảo vệ.
14. Nơi được sinh ra thường được nghe Phật thuyết pháp.
15. Khi nghe được Chánh pháp là hiểu ngay được thâm ý mà trực ngộ lời Phật dạy.
b. Mười lăm loại về ác tử:
1. Không bị chết khốn khổ về đói khát, loạn lạc.
2. Không bị chết vì giam cầm, đánh đập.
3. Không bị chết vì thù oán.
4. Không bị chết nơi trận địa.
5. Không bị chết vì thú dữ cắn xé.
6. Không bị chết vì rắn, rết cắn.
7. Không bị chết cháy hay chết đuối.
8. Không bị trúng độc khi ăn uống mà chết.
9. Không bị các loại trùng độc sát hại.
10. Không bị cuồng loạn hay thất vọng mà chết.
11. Không bị cây cối rơi trúng hoặc sa xuống hầm hố mà chết.
12. Không bị người khác trấn ếm, trù ẻo mà chết.
13. Không bị tà thần, ác quỷ làm hại để chết.
14. Không bị chết vì ác bệnh.
15. Không bị chết oan (tự tử, bất đắc kỳ tử, ...).
Vì những điều nêu trên, Chú Đại Bi có thể trừ được tất cả những tai nạn, những khổ nạn và thành tựu được những toại nguyện. Những ai chí thành trì niệm thì được những điều lợi ích như trên và sẽ được xa lánh mọi ưu bi, khổ não cho chính mình và có thể cứu giúp được tha nhân như Đại bi tâm của Bồ tát Quán Thế Âm.
2.- Giải thích:
Nam mô : tức là Quy y, nương về, nương theo,
Hát ra đát na đá ra dạ da : tức là Tam bảo (Phật, Pháp Tăng),
Nam mô : tức là Quy mạng, cũng có nghĩa là Quy y,
A lị da : tức là Thánh,
Bà lô yết đế : tức là Quán,
Thước bát ra da : tức Tự tại,
Bồ đề tát đỏa bà da : tức là Giác hữu tình,
Ma ha tát đỏa bà da : tức là Đại giác hữu tình,
Ma ha ca lô ni ca da : tức là người có lòng đại bi. (Đại bi tâm giả),
Án : tức là Quy mạng,
Tát bàn ra phạt duệ : tức là Nhất thế tôn,
Số đát na đát tả : tức là Vị cứu hết thảy sự khủng bố,
Nam mô : tức là Quy mạng,
Nam mô tất cát (hay kiết) : tức là kẻ ở bên kia (Ư bỉ),
Y mông a lị da : tức là Thánh của chúng ta (Ngã thánh),
Bà lô cát đế, thất Phật ra lăng đà bà : tức là Quán tự tại Hương sơn,
Nam mô : tức là Quy mạng,
Na ra cẩn trì : tức là Uy lực của Thánh Quán tự tại, tên là Thanh cảnh chí tâm chơn ngôn,
Hê rị ma ha bàn đá sa mế : tức là Ta nay tuyên thuyết,
Tát bà a tha đậu du bằng : tức là Vị có hết thảy mọi sự hy vọng viên mãn và có ánh sáng rực rỡ,
A thệ dựng : tức là Không gì có thể so sánh được,
Tát bà tát đá : tức là Hết thảy mọi quỷ thần không thể đánh thắng được.
(* ma bà tát đá) na ma bà dà : tức là Đồng chơn,
Ma phạt đặc đậu : tức là Người có đạo tâm đang ở trong cõi mê khiến sớm cho được thanh tịnh,
Đát điệt tha : tức là Có nghĩa là,
Án : tức là Quy mạng,
A bà lô hê : tức là Bậc có trí tuệ sáng suốt,
Lô ca đế : tức là Quán tự tại,
Ca ra đế : tức là Đấng siêu việt thế gian,
Di hê lị : tức là Vị sư tử vương,
Ma ha bồ đề tát đỏa : tức là Đại Bồ tát,
Tát bà tát bà : tức là Hết thảy hết thảy,
Ma ra ma ra : tức là Ghi nhớ, ghi nhớ,
Ma hê ma hê rị đà dựng : tức là Tâm chơn ngôn,
Câu lô câu lô yết mông : tức là Làm sự nghiệp,
Độ lô độ lô : tức là Bảo trì, bảo trì,
Phạt xà da đế : tức là Người dạo chơi ở trên không (Du không giả),
Ma ha phạt xà da đế : tức là Người oai đức lớn (Ma ha) dạo chơi ở trên không (Đại du không giả),
Đà ra đà ra : tức là Bảo trì, bảo trì,
Địa rị ni : tức là Kẻ trì tụng,
Thất Phật ra da : tức là Vua Tự tại (Đế vương tự tại),
Dá ra dá ra : tức là hành động,
Mạ mạ phạt ma ra : tức là Không bị bụi bám vào (Vô cấu nhiễm),
Mục đế lệ : tức là Thể không nhơ nhớp (Vô cấu thể),
Y hê y hê : tức là Lời giáo dục, dạy dỗ (Giáo ngữ),
Thất na thất na : tức là Lời thề rộng lớn (Đại thệ nguyện),
A ra sâm : tức là vua (Vương),
Phật ra xá lị : tức là sự Giác ngộ kiên cố (Giác kiên cố tử),
Phạt sa phạt sâm : tức là Hoan hỷ, vui vẻ,
Phật ra xá da : tức là Trừ mọi độc hại do tham sân si gây nên,
Hô lô hô lô ma ra : tức là Làm phép không bị nhiễm ô (tác pháp vô cấu
nhiễm),
Hô lô hô lô hê rị : tức là mau chóng, mau chóng, tóc đã bạc rồi.
Ta ra ta ra : tức là Kiên cố vậy (kiên cố giả),
Tất rị tất rị : tức là Hoa sen,
Tô rô tô rô : tức là Cọng hoa sen,
Bồ đề dạ bồ đề dạ : tức là tỉnh ngộ, tỉnh ngộ,
Bồ đà dạ bồ đà dạ : tức là Dạy cho được Giác ngộ,
Di đế rị dạ : tức là Người có lòng từ bi,
Na ra cẩn trì : tức là Thanh cảnh, xinh đẹp,
Địa lị săt ni na : tức là Bền chắc và lanh lợi,
Ba dạ ma na : tức là Nghe tên (danh văn),
Ta bà ha : tức là Lòng mong mỏi được gặp thì sẽ được hiển hiện, sanh lòng hoan hỷ, viên mãn tới niết bàn,
Tất đà dạ : tức là Nghĩa,
Ta bà ha : tức là Bậc đã được thành tựu,
Ma ha tất đà dạ : tức là Bậc đại nghĩa,
Ta bà ha : tức là bậc đã được thành tựu lớn lao, đại thành tựu,
Tất đà du nghệ : tức là Vô vi,
Thất bàn ra dạ : tức là Bậc Đại tự tại,
Ta bà ha : Bậc Tự tại bởi Tất địa và Du già,
Na ra cẩn trì : tức là Hiền ái,
Ta bà ha : tức là Vì thanh cảnh viên mãn nên được thành tựu,
Ma ra na ra : tức là Như ý tối tôn,
Ta bà ha : tức là được Thành tựu,
Tất ra tăng a mục khư da : tức là Nghĩa thứ nhất của tiếng yêu thương (ái ngữ đệ nhất nghĩa),
Ta bà ha : tức là Tay cầm hoa sen,
Ta bà ma ha : tức là Đại thành tựu,
A tất đà dạ : tức là Không có gì so sánh được (Vô tỷ),
Ta bà ha : tức là Thành tựu,
Giả cát ra a tất đà dạ : tức là Không có gì để so sánh được,
Ta bà ha : tức là Thành tựu,
Ba đà ma yết tất đà dạ : tức là Đại nghĩa,
Ta bà ha : Đấng được khai ngộ vì nghe được tiếng pháp loa,
Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ : tức là Bậc hiền thủ thánh tôn,
Ta bà ha : tức là Thành tựu,
Ma bà lợi thắng yết ra dạ : tức là Anh hùng uy đức sanh tánh,
Ta bà ha : tức là Thành tựu, đại thành tựu (sự chinh phục tất cả ma chướng).
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da : tức là Quy mạng Tam bảo (Phật Pháp Tăng),
Nam mô : tức là Quy mạng, quy y,
A lị da : tức là Thánh,
Bà lô cát đế : tức là Quán,
Thước bàn ra dạ : tức là Tự tại,
Ta bà ha : tức là Thành tựu,
Án : tức là Quy mạng, quy y,
Tất điện đô : tức là Khiến cho tôi sớm được thành tựu,
Mạn đà ra : tức là Chơn ngôn,
Bạt đà da : tức là Đều (Câu hay cu),
Ta bà ha : Thành tựu, sớm thành tựu.
3.- Đại ý của bài Thần chú:
Con kính cẩn cúi đầu trước ngôi Tam bảo Phật Pháp Tăng. Nguyện xin quy y theo đức Thánh Quan Tự Tại. Con nguyện đem thân mạng mà quy y với đức đại Bồ tát có lòng đại từ đại bi, mà cầu xin sớm được thành tựu sự giác ngộ để cứu độ cho hết thảy chúng sanh do mê muội đang bị khủng bố trên thế gian nầy. Do đó, con đem cả thân mạng mà quy y với đức Đại Bồ Tát có lòng đại từ bi. Một lòng thề nguyện truyền bá rộng rãi lòng từ bi của đức Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát; lắng nghe tâm chơn ngôn (tổng trì pháp môn tâm chơn ngôn và Phật nội chứng), vâng theo mệnh của bổn tôn là Đại bi tâm đà la ni nầy mà hết lòng xưng tụng công đức Quán Tự Tại Bồ Tát, tất cả mọi hy vọng đều được viên mãn, làm sáng tỏ tính chất đồng thể đại bi thanh tịnh viên minh và làm cho tất cả quỷ thần đều không thể đánh thắng được uy lực to lớn của Ngài. Với những kẻ có đạo tâm, không bao giờ bị vô minh phiền não mê hoặc, không bao giờ bị đắm chìm trong cảnh mê muội, u tối và được dẫn dắt tới thế giới quang minh của đức Đại Bồ Tát. Trí tuệ quang minh được biểu hiện siêu tuyệt nhất thế gian là đức Bồ Tát có công đức vô cùng vĩ đại. Có đấng quy mạng giống như đức Tự Tại Sư Tử Vương Đại Bồ Tát. Ức niệm nói chung của bản thể tâm chơn ngôn của Bồ tát cũng giống như đi ở trên không trung để thuyết giảng chánh pháp một cách lớn lao và tự tại, hoặc là làm công việc tư duy về một công việc to rộng. Cũng như các bậc vua chúa, bất kể việc gì, đều được đức Bồ tát làm một cách tự do, tự tại. Được hành động bởi một thân thể thanh tịnh, không mảy may dơ bẩn, hoặc để trừ mọi hành vi dơ bẩn của ba cái độc hại là tham, sân và si; cũng như diệt trừ mọi ác ma độc hại ở trên thế gian nầy. Như thế sẽ nhanh chóng có mái tóc đẹp như hoa sen thanh tịnh và cầm lấy được hoa sen của đức Bồ tát. Giáo hóa được nghiệp ngu si của ta và chứng ngộ được lòng yêu thương vô bờ bến. Khiến được sanh lòng hoan hỷ của Bồ tát Quán Tự tại.
Muốn được tới cõi niết bàn (thành tựu viên mãn) sẽ được thấy cõi niết bàn, và cũng tới được cảnh giới Tất địa (nơi ngộ đạo) với Du già (tương ứng hiệp nhập) thì được tự do, vô ngại. Trong đó, cũng có kẻ không phải là loài người (mặt heo cổ xanh, có kẻ mặt sư tử), con nào từ bi thì biểu thị tay cầm hoa sen, để thâu nhiếp chánh pháp trừ ma quỷ phiền não. Nghe tiếng pháp loa vi diệu được chuyển mê khai ngộ, hết thảy đều quy y Tam bảo.
Nam mô Thánh Quan Tự Tại Bồ Tát, khiến cho được tới cõi niết bàn, để trì tụng lời chơn ngôn này ở nơi niết bàn thanh tịnh, trang nghiêm.
Trên đây là đại ý toàn bài Chú đại bi, mong quý vị đọc nhiều lần và thành tâm hành trì thì sẽ được như nguyện; đồng thời, một khi đã được thâm hiểu, xin quý vị hướng dẫn bằng hữu cùng tu tập theo, để gieo duyên với cảnh giới Thường Tịch Quang Tịnh Độ.
|
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 2 26/03/12 15:22
|
|
|
BẢY ĐOẠN PHẬT HỎI VỀ TÂM
Nói về con người, chúng ta có sáu căn là mắt, tai, mũi, lưởi, thân và ý. Đây là sáu cánh cửa để giao tiếp với sáu trần bên ngoài là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà phát sinh ra sáu thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và sau cùng là ý thức. Trong sáu căn thì mắt và tai là hai căn sắc bén nhất vì nó tiếp xúc với ngoại trần nhiều hơn những căn khác. Tuy nhiên giữa tai và mắt thì tai nghe âm thanh vẫn là nhạy bén hơn. Thí dụ như chúng ta đang ở trong một căn phòng kín thì đâu có thấy gì bên ngoài, nhưng tai vẫn nghe âm thanh rồi từ đó phát sinh ra vọng tưởng. Vì thế muốn nghiêm trì sáu căn thì chúng sinh tùy theo căn cơ, sở nguyện mà chọn căn nào thích hợp với mình để tu chớ không thể tu một lần sáu căn được. Tuy có sáu căn, nhưng chúng sinh chỉ cần chọn một căn để tu là đủ bởi vì nếu một căn đã viên thông tức là có sự thanh tịnh thì năm căn còn lại cũng từ đó mà thông suốt tức là hoàn toàn thanh tịnh. Trong tâm của chúng sinh có tám mươi bốn ngàn phiền não chướng cho nên Đức Phật mới có tám mươi bốn ngàn pháp môn để giải trừ.
Tuy nhiên, trong kinh Lăng Nghiêm này, Đức Phật Thích Ca chỉ yêu cầu Ngài Văn Thù Sư Lợi chọn một pháp môn để giúp cho ông A Nan và đặc biệt là cho tất cả chúng sinh căn cơ còn yếu dựa theo đó mà tu hành. Chính Ngài Văn Thù đã chọn pháp môn nhĩ căn viên thông. Tại sao? Bởi vì nhĩ căn có tới một ngàn hai trăm công đức và thông đạt nhiều nhất so với năm căn còn lại. Do đó, nếu nhĩ căn trở về với thanh tịnh thì năm căn còn lại lập tức cũng trở về với thanh tịnh. Đây chính là nhất hạnh pháp môn tức là chỉ chọn một pháp môn duy nhất để tu. Vì thế nếu chúng sinh dựa theo nhĩ căn viên thông mà đạt được đại định tức là có được Thủ Lăng Nghiêm tam muội nghĩa là trở về với bản lai diện mục, với Phật tánh, với chơn tâm, với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của chính mình thì trong bốn oai nghi là đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào họ cũng sống trong Pháp thân đó. Khác với định của Tiểu thừa là phải ngồi thiền nên còn lệ thuộc xuất, nhập và trụ, vì thế còn ngồi thiền tâm còn định nhưng khi xả thiền thì vọng tâm trở lại. Còn định của Đại thừa là thể hiện ngay trong cuộc sống hằng ngày, từng giây, từng phút. Đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào cũng định. Do đó khi đã thấy được chơn tâm thường trú của mình thì người đó suốt cuộc đời luôn sống với đại định, với Phật tánh, với Pháp thân hằng thanh tịnh của chính mình.
Vậy tâm ở đâu?
Cái tâm của con người thật là quan trọng, nó là trung tâm của sự sống, của vũ trụ và chứa nhóm tất cả muôn pháp. Nó là hào lũy ẩn náu của mọi tật xấu, nhưng cũng là mảnh đất phì nhiêu nẩy sanh mầm giống giác ngộ. Vì thế, chính tâm tạo nên hạnh phúc và cũng chính tâm tạo biết bao nỗi khổ đau. Vậy cái tâm của nó nằm ở đâu?
Để trả lời câu hỏi nầy, Đức Phật lần thứ nhất đã gạn hỏi ông A Nan bảy lần về nơi thường trụ của tâm để có cái nhìn rõ ràng về sự khác nhau giữa vọng tâm sinh diệt thay đổi từng giây từng phút, từng cảnh giới, chạy theo lục dục thất tình, tham đắm sắc tài danh lợi và sự thanh tịnh không thay đổi, lúc nào cũng an vui tự tại và luôn ở trong ta, là chơn tâm. Trên con đường giải thoát Bồ-đề, văn hay chữ tốt không quan trọng, kiến thức thế gian không cần thiết mà một điều tối quan trọng là khả năng dập tắt mọi vô minh phiền não, pháp giới của trần gian để phát triển trí tuệ mà có được giải thoát giác ngộ. Do đó một người không liễu ngộ được bản tâm, cho dù có tu hành suốt kiếp cũng không ích lợi gì vì vẫn là phàm phu. Còn nếu đã ngộ được bản tâm và dùng bản tâm này đi vào bản giác viên dung thì người này cho dù có tu một ngày còn hơn là tu một kiếp tức là họ đã chứng đạo. Ngày xưa, Lục Tổ Huệ Năng xuất thân là người quê mùa, dốt nát. Nhưng chỉ qua một thời gian ngắn tu tập với Tổ Hoằng Nhẫn đã liễu ngộ được chơn tâm của mình trong khi đó đệ tử của ngũ Tổ có biết bao người văn hay chữ tốt mà người nổi tiếng nhất là Thiền Sư Thần Tú mà vẫn không đạt được đạo. Càng học giỏi, càng thông minh, càng trí thức cao, càng hiểu biết nhiều thì càng dễ rơi vào thế trí biện thông nghĩa là có càng nhiều tự cao, ngã mạn để chôn họ vào nấm mồ sinh tử luân hồi. --
|
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 5 24/11/11 12:51
|
|
|
KINH CHUẨN ĐỀ BẢN TÔN QUYỂN THỨ VI MẬT SƯ: THÍCH GIÁC TIẾN - THIỀN NHÂN TẾ ĐỘ TỲ KHEO DIÊM ĐÊ RA PHẨM THỨ MƯỜI MỘT Lúc bấy giờ Phật Mẫu Chuẩn Đề cùng với bốn bộ chúng an trú trong Mật Định Tam Muội Tổng Trì vào lúc giữa đêm. Tỳ Kheo Diêm Đê Ra thân thể đầy máu, các vết thương trên người ông quá nặng té xuống ngất xỉu giữa pháp hội. Ngài Chiết Độc Hành Giả đỡ Tỳ Kheo Diêm Đê Ra, rồi dùng sức thần thông phương tiện thu hết máu độc và truyền vào người ông một luồng dương khí cực thịnh khiến cho ông lần hồi tỉnh lại. Tỳ Kheo Diêm Đê Ra thấy thân mình chẳng có một chút máu thì vô cùng kinh ngạc. Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề dạy rằng: - Ông nên tạ ơn ngài Chiết Độc Hành Giả, vừa rồi người đã cứu ông thoát khỏi tai nạn hiểm nghèo ấy. Tỳ Kheo Diêm Đê Ra quỳ lạy Chiết Độc Hành Giả rồi bạch cùng đức Phật rằng: - Kính bạch đấng Thánh Huệ Thế Tôn! Con là người vô trí, vì nghe lời Tỳ Kheo Sim Sum Pa nên đã gây ra vô lượng tội ác. Hôm nay con quỳ trước Thế Tôn và đại chúng cầu xin sám hối, sau là cầu Phật dùng hình phạt để nghiêm trị kẻ tội đồ. Rất mong Phật vì đệ tử chúng con mà chỉ dạy cho phương pháp tu hành thoát khỏi sự trằn trọc khổ đau trong kiếp sống hiện tại. Phật Mẫu Chuẩn Đề ôn tồn dạy bảo: - Này Tỳ Kheo Diêm Đê Ra! Trước kia ông ở trong pháp hội của Như Lai, Như Lai đã vì ông chỉ dạy cho những thiện pháp. Sau khi ông rời khỏi pháp hội để làm những ác nghiệp, nhưng thân tâm ông không chịu làm. Hôm nay ông trở về đây chính là để cầu thiện pháp vi diệu của Như Lai. - Này Tỳ Kheo Diêm Đê Ra! Trước, sau và hôm nay ba thời này cũng không có gì thay đổi. Tại sao ông cầu Như Lai làm pháp nghiêm trị. Như Lai đã sẵn lòng đại bi thương xót chúng sanh như con một. Như Lai là chổ nương nhờ rộng lớn không có gì sánh kịp. Như Lai hay cứu hộ tất cả chúng sinh không chán mỏi. Như Lai ví như vị Đại Lương Y gỡ mũi tên độc tham, sân, si cho chúng sinh mà chẳng bao giờ nghĩ đến công lao. Như Lai hay ban pháp vô úy giải thoát Cam Lộ cho chúng sinh được giải thoát. Như Lai hay đánh thức cơn mê mờ của chúng sinh từ nay đến vô lượng ức kiếp. Như Lai là bậc đạo sư của cả thảy chúng sinh ứng cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Như Lai đã bỏ tất cả những món đồ chơi hung hiểm của Thế Gian. Như Lai đã dứt trừ tất cả những tư tưởng điên đảo, thù oán, ganh ghét, khôn ngu, tỵ hiềm, trách móc, đua đòi, thắng bại, phải trái v.v… Như Lai đã thành tựu những pháp khó tu khó học mà Trời Người không làm được. Thế gian hết sức ca ngợi, tôn trọng cúng dường, tán thán kinh Chuẩn Đề Đệ Nhất Bản-Tôn này. Kinh này là tạng báu trong các kinh, được chư Phật mười phương ủng hộ và phân thân đến nghe pháp. Nếu chỗ nào có ánh sáng của Viên Minh Bố Liệt Phạn Thư Đồ phải biết chổ đó có phân thân của chư phật mười phương. Chư Bồ-Tát thường bảo vệ đó, ủng hộ giúp sức cho người trì tụng kinh này được đầy đủ bản nguyện công đức. Nếu có pháp sư diễn nói kinh này có chỗ bị quên mất, chư Phật vì kinh này khiến cho vị pháp sư ấy được lưu thông giảng nghĩa đầy đủ, pháp âm thâm diệu. Chúng sinh nghe pháp vui ưa phát tâm tu tập theo con đường chân lý của Giáo Môn Mật Tông. Cõi hư không đại địa do sức thâm nhập thần chú đại Tổng Trì Chuẩn-Đề Tối Thắng Tôn Đà Ra Ni này, khiến cho vạn vật đều sinh mầm phước thiện hoan hỷ. Bông hoa cây trái xanh tươi, cỏ nước, vườn, rừng, ao tắm, đất đai, núi non, sông, biển tự nhiên phát sinh vật báu và các bậc Thượng Sĩ Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Các loài sinh vật trở nên hiền hậu thuần hóa dứt sự khủng bố của các loài mạnh mẽ hơn nó. Cõi đất muôn hoa đua nở, cung điện, lâu đài bỗng nhiên xuất hiện. Quốc độ tự trang nghiêm và thấy các Phật quốc cũng lại như thế. Trong gió hư không lại có tiếng vang vi diệu như ngàn nhạc âm, khiến cho thân tâm của chúng sinh tín ngưỡng tu hành, lễ bái, trì niệm đắc nhập các môn tam muội. Đó là do sức mạnh thuần hậu của Như Lai đã trải qua vô lượng thế giới thành tựu pháp môn Bí-Mật Bản Tôn Chuẩn Đề Đà Ra Ni chú: Khể thủ qui-y Tô Tất Đế Đầu diện đãnh lễ Thất Câu Chi Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn-Đề Duy nguyện từ bi thùy gia hộ Nammô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đề câu chi nẫm đát điệt tha. Án chiết lệ chủ Lệ Chuẩn-Đề Ta bà ha. Bấy giờ phật Mẫu Chuẩn-Đề muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 1. Đấng Siêu Thắng Tự Tại Bi, Nguyện vượt thế gian Trong nghìn muôn ức cõi Ta bỏ công khổ nhọc Quên cả sự chết chóc Mà tu tập kinh này Dùng mãnh lực thiện pháp Hóa giải các triền phược 2. Như Lai Chân Mật Giác Tính thể rất kinh lạ Xưa nay chưa từng có Mở nhẹ tạng Bí-Yếu Chuyển động bánh xe pháp Rung động đến mười phương Luân chuyển rất êm dịu Làm vui đẹp lòng chúng Dạo đi khắp cõi nước Sáu điệu đều vang động Danh đồn, tiếng khen thảy Bậc nhất của ba cõi Thầy dạy khắp Trời, Người Thành tựu chân Mật Pháp Món Bí-Pháp Tam Muội Ẩn sâu niệm Tổng Trì Đà la đại thần chú Tóm thâu Tối Mật Môn Pháp nghĩa rộng diễn nói Trước sau, thượng trung hạ Lời lẽ rất trong sáng Nhiếp phục lòng chúng sinh Đạo đức được hưng thịnh Phát huy đường chánh giác Tứ chúng đều hoan hỷ Nương theo Phật Pháp Tạng Thủ trì giới, định, huệ Xa lìa sự chơi cười Im lặng tâm bền bỉ Lúc động tâm, tịnh tâm Hoặc động hoặc thanh tịnh Oai nghi là cấm giới Tính lặng như hư không Ít nói lòng an ổn Nghiệp thức liền chấm dứt 3. Đấng Đạo Sư Đẳng Huệ Diễn nói bốn nghĩa đế Dạy chúng sinh vào đạo Đoạn lìa cả hai bên Thiện ác đã thuần thục Mà nhân quả chẳng sinh Ta nói pháp xuất thế Thành vô thượng Bồ Đề Bấy giờ Tỳ Kheo Diêm Đê Ra lại bạch Phật rằng: - Thế Tôn! Cớ sao ngài không tổ chức ra Giáo Hội để cho việc tu hành được mở mang rộng lớn hơn. Thế Tôn lại để cho Tỳ Kheo Sim Sum Pa thành lập Giáo Hội dùng nhiều thế lực nguy hiểm hãm hại đức Thế Tôn như thế. Cúi mong Phật từ bi rộng lớn chỉ dạy cho hàng hậu học chúng con những pháp chưa hiểu biết được sáng tỏ thuần thục. Phật Mẫu Chuẩn-Đề mĩm cười chỉ dạy cho ông Tỳ Kheo Diêm Đê Ra rằng: - Này các Tỳ Kheo! Các ông chớ nên nói rằng Như Lai đã sáng lập ra Giáo Hội Du Già để cho bực hiền thánh chê ta là người vô trí tham danh cầu thực. Cái danh ấy chỉ để cho người đời ca tụng. Còn việc tu hành của Như Lai không cần ai biết đến, có như vậy pháp tu của Như Lai mới được tồn tại nơi thế gian. Các ông chớ nên nói Như Lai dùng hình luật để nghiêm trị kẻ tội đồ như ông. Như Lai đã tự nghiêm trị nơi bản thân mình rất khắc nghiệt, và đã bỏ thân mạng để cầu chính pháp. Vào thời Hiền Kiếp, ta đã vì người cần ánh sáng mà hiến cho đôi mắt, đã vì người cần thịt mà cắt bỏ thân mình, đã vì hổ đói mà thí thân, đã vì cha mẹ mà lấy máu trị bệnh cho song đường, đã vì vua mà chết thế cho bực minh quân v.v… Đó là những việc làm hiếm có khó được mà trong thế gian Trời, Người, Rồng, A Tu La, Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh không ai làm được. - Này các Tỳ Kheo! Không phải ở trong hiền kiếp Như Lai mới làm việc bố thí thân mạng, mà thực sự Như Lai đã bỏ thân trải qua ba A Tăng Kỳ Kiếp trong vô số kiếp làm những việ khó làm, tu những pháp khó tu như thế. Vì vậy Như Lai tuyên bố giữa pháp hội rằng: Như Lai chẳng có tổ chức Giáo-Hội để nghiêm trị kẻ tội đồ. Như Lai là đấng Chánh Giác hay giác ngộ cho kẻ lỗi lầm biết con đường tu hành giải thoát. Như Lai không bị trói buộc bởi tính hiếu kỳ của Thế gian và Xuất Thế gian. Như Lai không bị sự phân biệt làm ô nhiễm và cũng chẳng bị pháp vô phân biệt làm nhiễu loạn. Như Lai là bậc Tịnh Trụ Đà Ra Ni thành tựu đầy đủ Mật Giáo môn tam muội ở nơi pháp nhất nghĩa, nhất cú, nhất môn, nhất pháp, nhất âm, nhất trụ, nhất tướng, nhất vị v.v… tiến thẳng đến quả vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ông Tỳ Kheo Diêm Đê Ra nghe lời Phật dạy, sinh lòng Hoan Hỷ Đà Ra Ni, tâm lành nẩy nở, sức cung kính và tinh tấn vượt lên làm cho ngài phát tâm đại Bồ-Đề thọ trì thần chú Chuẩn Đề theo đúng con đường tu tập của giáo môn Mật Tông. Ông Tỳ Kheo Diêm Đê Ra lại bạch Phật rằng: - Thế Tôn! Chúng con đã bị mũi tên sinh tử ghim chặt vào người rất là sâu nặng, vết thương bị nhiễm độc trải qua vô lượng kiếp khó bề chữa trị. Rất may mắn thay có đấng Đại Pháp Vương sáng chế thuốc lành chữa tâm bệnh cho chúng con. Hôm nay con nghe lời Phật chỉ dạy khiến cho tội lỗi biến mất, thân tâm an ổn dường như nhổ được mũi tên sinh tử của nhiều đời nhiều kiếp đã qua. - Thế Tôn! Rất mong người từ bi chỉ dạy cho chúng con biết cái lỗi của sinh tử, và nguyên nhân nào sinh ra vô minh. Ngưỡng mong Thế Tôn chỉ dạy cho chúng con phương pháp nào sống trong vô minh mà chẳng bị vô minh lôi cuốn, và phương pháp nào sống trong sinh tử khổ đau mà thân tâm chẳng bị trói buộc? Phật Mẫu Chuẩn Đề mĩm cười ôn tồn chỉ dạy: - Này các Tỳ Kheo! Cái lỗi của sinh tử từ xưa đến nay chẳng bao giờ có. Sở dĩ mà có là bởi tập nhiễm theo tính xấu của Thế gian. Các Tỳ Kheo hãy quan sát quá trình sống của con người từ khi còn tấm bé sinh ra lớn dần đến mười ba tuổi, trong tuổi ấu thơ nó chẳng biết tạo tội là gì và thiện ác là gì? Này các Tỳ Kheo? Khi nó ở tuổi mười bảy cho đến già, do tập nhiễm thói quen xấu của thế gian nên cái lỗi sinh tử từ đó mà sinh ra. Nếu có người trí thiện căn đầy đủ thấy rõ ác tâm ưa phát sinh nơi bản tính thanh tịnh của mình, lòng muốn xa lìa tìm Thiện Trí Thức xuất gia tu theo đại đạo. - Này các Tỳ Kheo! Tội lỗi có hai thứ: một là nặng hai là nhẹ. Những kẻ làm ác biết sợ quả báo hay lo tu hành đoạn trừ nghiệp lậu gọi là tội nhẹ. Những kẻ làm ác, chuyên chủ phá hoại Tam Bảo, ăn cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, giết người lòng chẳng sợ sệt gọi là tội nặng. - Này các Tỳ Kheo! Những người làm lành có hai hạng: một là làm lành mà tâm chẳng lành, làm tốt mà tâm chẳng tốt, cử chỉ nghiêm trang mà tâm bất hiếu bất kính. Giới luật tinh thông mà tâm hay tạo tội lỗi gọi là tội nặng. Hai là những người làm lành thấy rõ tội lỗi của phiền não lòng muốn xa lìa, theo đường thiện đạo, phát khởi phương tiện tầm tu giải thoát, gần gũi bạn lành, theo chân Thiện Tri Thức rèn luyện ý chí phá hoại ác Ma thu phục phiền não gọi là tội nhẹ. Người này học hỏi biết được các món Ma: Phiền não Ma, Ám Ma, Độn Ma, Trừng Ma, Khảo Ma, Cảnh Ma, Dục Ma, Si Ma, Bạo Ma, Tham Ma, Ảo Ma, Cảm Xúc Ma, Thọ Ma, Tưởng Ma, Ngũ ấm Ma, Nghịch Ý Ma, Thuận Ma, Thiên Ma, Chướng Ma, Nhu Nhược Ma, Dụ Dỗ Ma, Âm Thanh Ma, Ru Ngủ Ma, Hắc Ám Ma, Vương Giả Ma, Vật Báu Ma, Thúc Dục Ma, Chiêu Cảm Ma, và vô lượng các món Ma khác nhau rất khó phân biệt. Các thứ Ma như thế rất đa dạng hay làm mất công hạnh của những hàng Thanh Văn, Duyên Giác mới tu mới học rất dễ dàng. Các Tỳ Kheo nên quan sát cho thấu đáo phiền não ác tâm cho thật chín chắn để khỏi lầm lẫn với bọn Ma Quân trong một đường tơ kẻ tóc, mà mỗi người tu hành đều phải hiểu rõ điểm này. Đây gọi là sống trong sinh tử mà chằng bị sinh tử làm hại, sống trong vô minh mà chẳng bị vô minh lôi cuốn. Bấy giờ Đức Phật muốn tóm lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 1. Đức Phật thuở quá khứ Cùng vị lai hiện tại Đều nương theo Mật Pháp Thành tựu Đại Tổng Trì Mật chủ Án Ma Pháp Nhập vào Vô Gián Môn Khởi sức đại dũng mãnh Tu hành nơi số kiếp Không chuyển chẳng thay đổi Lòng kiên cố bền vững Như ngọn Tu Di Sơn Các phiền não nhiễu loạn Như số bụi vi trần Đến đi trong chốc lát Không hại và vô hại Nhờ tu tập kinh này Thẩm sâu nơi Mật Định Xác xuất các Tam Muội Chuyển vời Ác Ma Pháp Xóa đêm tối vô minh Mà chẳng ai hay biết Bằng hành động thực tế Đắp y và mang bát Cử chỉ nhẹ êm dịu Im lặng ít nói năng Dường như vào đại định 2. Hạnh Bồ Tát bất thóai Trải qua vô số kiếp Trồng các cội công đức Như số bụi vi trần Thời gian thoáng qua mau Xem như đang dừng lại Tịch tĩnh lòng thanh thoát Chẳng động cũng chẳng chuyển Chẳng được cũng chẳng mất Chẳng có cũng chẳng không Phải trái chẳng vin động Chiều hướng chẳng có tên Bí quyết khó lường được Tạo thành chân Mật-Pháp Phiền não tuy thịnh hành Thoáng chốc hóa thành không Tuy không mà lại có Bổn phận của phiền não Gieo chủng tử ác khổ Trải qua sa số kiếp Ở từ đời vô thủy Không có chỗ ngừng nghỉ 3. Do đó Phật phương tiện Dùng sức Siêu Mật Pháp Trãi qua ức tăng kỳ Nơi vô lượng số kiếp Hàng phục chúng Ma quân Thành ra là đạo bạn Pháp nghịch chuyển thành thuận Niệm ác quy niệm thiện Đảo lộn pháp Thế gian Phật chế Y Ca Sa Viên thành pháp xuất thế Từ bi vô chướng ngại Ăn uống khác phàm phu Đi đứng rất chậm rãi Chẳng ngó liếc phi thời Mà ngó vào tâm tính Xa lìa các sắc dục Ngồi thiền hoặc kinh hành Không có chỗ gián đoạn Đời sống rất giản dị Tam y và nhất bát Tùy thân đi bốn phương Gieo duyên cùng khai đạo Tịnh tu các phạm hạnh Thanh tịnh phát trí huệ 4. Bồ Tát hành như thế Mà chẳng thấy đạo hành Bồ Tát tu như thế Mà chẳng thấy pháp tu Dường như trụ hư không Chẳng mến tiếc vật, pháp Chẳng vin động tưởng niệm Xa lìa nội ngoại pháp Gọn nhẹ chẳng chấp chặt Tâm rỗng lặng hồn nhiên Bỏ mục đích Tối-Thượng Thành chính đẳng chánh giác Nên gọi đó là Phật Trang nghiêm cả quốc độ Khiến Trời, Người thức tỉnh Đến cúng dường nghe pháp Rải hoa hoặc xông hương Dùng các cách trang điểm Ngợi khen cùng tán thán Những công hạnh khó làm Qui-y giữ tịnh giới Vâng hành các phạm hạnh Đèn nến đốt cúng dường Trái cây cùng hoa quả Cúng Phật Hiền Thánh Tăng 5. Kinh Phật Mẫu Chuẩn-Đề Đứng đầu trong các kinh Sức mạnh đại tự tại Oai đức vô cùng cực Khó nói khó nghĩ bàn Diệu linh ứng tùy chỗ Lúc ta thành Phật đạo Quán sát các chúng sinh Căn cơ quá thấp kém Chẳng phải chỗ truyền thừa Nên đem pháp giáo hóa Mật truyền cho Bồ-Tát Giữ gìn bản kinh này Lưu bố khắp mười phương Chỗ của Phật Vô-Động Hoặc nơi cõi Ta Bà Thích Ca Mâu Ni Phật Trợ pháp rất mạnh mẽ Được chúng sinh ưa chuộng Tu tập càng tinh tấn Đắc nhập các tam-muội Thành vô thượng Bồ-Đề. Khi Phật Mẫu Chuẩn Đề thuyết xong bài kệ pháp, ngài im lặng vào bản tính Chân Như Đà Ra Ni của Tối Đại Minh chú, an trụ mạnh mẽ như Tu Di Sơn. Bồ-Tát Kim Cang Mật Tích cùng các chúng Bồ-Tát, A La Hán trong pháp hội sinh lòng cung kính, nhiễu Phật ba vòng cúng dường tán thán đủ mọi cách. Sáu ngàn Thánh Chúng Bồ-Tát được Pháp Luân thường chuyển Đà Ra Ni. Các bậc đại A-La-Hán được pháp Vô Sinh Nhẫn Đà Ra Ni. Năm vạn thính giả phát Bồ-Đề tâm ủng hộ chính pháp. Pháp Hội Chư Phật, Bồ-Tát, Hiền Thánh Tăng được chư thiên, Nhân rải hoa cúng dường, tất cả đều hoan hỷ tín thọ phụng hành. Nam mô Chuẩn-Đề Hội Thượng Phật Bồ-Tát (3 lần)
(Hết phẩm thứ mười một)
|
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 2 02/04/12 18:34
|
|
|
Vị luận sư nổi tiếng nhất trong lịch sử Phật giáo Là vị luận sư nổi danh trong lịch sử Phật giáo, được ghi nhận như là lần chuyển pháp luân thứ 2 của tôn giáo này, cho tới tận ngày nay, Long Thụ Bồ tát vẫn được người đời truyền tụng nhau những câu chuyện đẫm chất truyền kỳ trong cuộc đời tu hành và hoằng dương Phật pháp của ông… 1. Cho tới nay, không có bất cứ tư liệu nào được coi là chính xác về thân thế và cuộc đời của tổ sư Long Thụ. Hầu hết những tư liệu có ghi chép về Long Thụ đều là những truyền thuyết được biến tấu cho phù hợp với tư tưởng và giáo lý của của tác giả soạn sách.
Tuy nhiên, về đại thể, qua những truyền thuyết này, người ta vẫn có thể tìm thấy những nét chung nhất về cuộc đời của vị luận sư nổi danh nay.
Long Thụ, tiếng Phạn gọi là Nagajuna sinh ra trong một gia đình Bà la môn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên ở vương quốc Vidarbha, miền Nam Ấn Độ, ngày nay là vùng Maharashatra và Andhra Pradesh. Ngay từ khi Long Thụ mới sinh ra, một vị tiên tri đã đoán rằng ông chỉ có thể sống được trong 7 ngày.
Nhưng nếu cha mẹ của Long Thụ cúng dường đủ cho một trăm vị sa môn thì Long Thụ có thể sống tới năm lên 7. Lo sợ cho sự sống của Long Thụ, nên khi ông được 7 tuổi, cha mẹ của Long Thụ đã đưa ông tới Đại học tu viện Na Lan Đà ở miền Bắc Ấn Độ. Đây là nơi Long Thụ gặp được vị đại sư Phật giáo Saraha.
Vừa nhìn thấy Long Thụ, Saraha đã nói rằng, nếu như Long Thụ đồng ý xuất gia và kiên trì tụng niệm mật ngôn A Di Đà thì không những ông có thể vượt qua được kiếp nạn mà còn có thể sống trường thọ. Cha mẹ Long Thụ muốn cho con mình được sống nên đồng ý để Long Thụ cạo đầu xuất gia theo Saraha ngày ngày tụng niệm kinh Phật.
Tại tu viện Na Lan Đà, Long Thụ nhận pháp danh là Shrimanta và theo học rất nhiều thứ, từ kinh điển hiển giáo và mật điển tantra với Ratnamati, một hóa thân của Văn Thù Sư Lợi và Saraha.
Ngoài ra, trong thời gian này, Long Thụ cũng học thuật giả kim với một vị đạo sư Bà là môn. Nhờ sự thông minh và cần cù, chỉ ít năm sau đó, Long Thụ đã có thể đạt tới khả năng biến sắt thành vàng. Chính nhờ khả năng này, Long Thụ có thể nuôi dưỡng những tu sĩ của tu viện Na Lan Đà trong nạn đói.
Cuối cùng, sau nhiều năm tu dưỡng, Long Thụ đã trở thành viện trưởng của tu viện Na Lan Đà. Vào thời gian này, Long Thụ đã đuổi tới hơn 8.000 tu sĩ, những người không giữ gìn giới luật của những người xuất gia một cách thích đáng.
Với tư cách viện trưởng tu viện Na Lan Đà và khả năng biện luận đầy sự thuyết phục, Long Thụ đã đánh bại hơn 500 những luận sư của các giáo phái khác tới Na Lan Đà tìm ngài tranh luận. Long Thu Vị luận sư nổi tiếng nhất trong lịch sử Phật giáo Long Thụ Vị luận sư nổi tiếng nhất trong lịch sử Phật giáo
2. Truyền thuyết kể rằng, một lần có hai người thanh niên trẻ tuổi, khôi ngô tuấn tú tìm đến Na Lan Đà. Thực chất, họ là hóa thân của các hoàng tử, con của long vương. Khi họ bước vào cổng tu viện Na Lan Đà, từ họ tỏa ra một thứ hương thơm tự nhiên còn thơm hơn cả trầm hương mà người ta thường đốt trong điện.
Hai người thanh niên nọ gây được sự chú ý của Long Thụ. Ông cho gọi họ tới trước mặt mình và hỏi, họ làm cách nào để từ người tỏa ra được hương thơm độc đáo như thế. Trước mặt vị viện trưởng đáng kính của mình, hai vị hoàng tử của long vương đã thú nhận tất cả về thân phận của mình.
Long Thụ nghe hai người hoàng tử con long vương nói xong, mừng lắm. Ông đề nghị hai hoàng tử tạo ra tinh dầu trầm hương giống như mùi thơm trên cơ thể họ cho bức tượng của nữ bồ tát Tara đồng thời nhờ họ dùng khả năng siêu phàm của mình để giúp đỡ công việc dựng các chùa chiền vốn tốn rất nhiều công sức và tiền bạc khi đó.
Hai vị hoàng tử băn khoăn mang theo lời đề nghị của Long Thụ trở về thế giới rồng và nói với cha của họ. Tuy nhiên, long vương nói rằng ông ta chỉ đồng ý giúp đỡ khi Long Thụ đích thân xuống thế giới của họ dưới biển để giảng dạy về Phật pháp cho họ.
Để có thể cứu độ chúng sinh trên dương gian và hoằng dương Phật pháp, Long Thụ đã nhận lời. Một mình ông lặn lội xuống thế giới của loài rồng dưới đáy biển tiến hành nhiều lễ cúng dường và giảng dạy cho loài rồng.
Trước khi xuống thế giới của loài rồng, Long Thụ biết rằng, loài rồng có một bộ kinh tên là “Một trăm nghìn bài kệ Bát Nhã Ba La Mật Đa” vì vậy khi xuống và gặp long vương, Long Thụ đã xin long vương cho ông một bản.
Theo truyền thuyết thì khi đức Phật Thích Ca Mầu Ni thuyết giảng về kinh Bát Nhã Ba La Mật Da, loài rồng đã đem bộ kinh này về long cung để bảo quản.
Ngoài long cung thì chư thiên và những chúa quỷ dạ xoa cũng giữ một bản khác của bộ kinh này. Sau nhiều lần thuyết phục, long vương cuối cùng cũng đã đồng ý để Long Thụ mang bộ kinh mà họ lưu giữ suốt nhiều trăm năm về dương gian.
Mặc dù vậy, long vương vẫn bí mật giữ lại hai chương cuối cùng của cuốn sách để đảm bảo rằng Long Thụ sẽ quay trở lại một lần nữa để tiếp tục giảng giải cho họ về Phật pháp. Khi trở về, Long Thụ cũng được long vương cho đem theo rất nhiều đất sét của loài rồng, giúp ông có thể xây dựng rất nhiều chùa chiền và tháp miếu một cách dễ ràng.
Một lần khi Long Thụ đang giảng dạy kinh Bát Nhã Ba La Mật Da thì bỗng nhiên xuất hiện 6 con rồng lớn. Chúng lượn vòng vòng trên bầu trời, nơi Long Thụ đang ngồi rồi tụ lại với nhau, hình thành một cái lộng, che chở cho Long Thụ khỏi ánh nắng mặt trời. Chính vì thế, người đương thời gọi ông là Long – Naga.
Và do khả năng biện luận cực kỳ sắc sảo của ông trong việc giảng dạy Phật pháp, giúp cho những người nghe nắm ngay được trọng tâm của vấn đề giống như những mũi tên bắn ra là trúng đích của Arjuna, một cung thủ nổi tiếng thời cổ đại của Ấn Độ, người ta bắt đầu gọi ông là Arjuna. Chính vì thế, từ đó, người ta gọi ông là Nagarjuna hay còn gọi là Long Thụ.
Dẫu ai cũng biết rằng, câu chuyện về Long Thụ và loài rồng chỉ là một truyền thuyết không hơn không kém, song người ta vẫn tin đó là sự thực. Bằng chứng là, trong những hình ảnh ma các tín đồ Phật giáo tưởng tượng về vị bồ tát Long Thụ, vầng hào quang trên đỉnh đầu của ông thường xuất hiện những con rắn, con vật mà người ta cho là hóa thân của loài rồng.
3. Một truyền thuyết khác nói rằng, sau khi rời khỏi long cung, Long Thọ đi lên miền Bắc Hải đảo (Bắc Lục địa) để giảng dạy Phật pháp. Trên đường, Long Thụ đã gặp một số trẻ con đang nô đùa trên đường.
Ngài tiên tri rằng một đứa trong chúng, tên là Jataka, sẽ trở thành một vị vua tên là Udayibhadra. Khi Long Thọ trở lại từ Bắc Hải đảo, cậu bé trong thực tế đã trưởng thành và trở thành vị vua của một vương quốc rộng lớn ở Nam Ấn.
Tuy nhiên, khi đó, vị vua này không hề coi trọng Phật giáo, khiến trong nước ngoại đạo rất thịnh hành. Long Thọ quyết định ở lại quốc gia này để hoằng dương Phật pháp, giáo hóa nhân dân tại đất nước này.
Một hôm, quốc vương cho gọi Long Thụ vào hỏi: “Ông là ai?” Long Thụ đáp: “Tôi là một người thể biết tất cả”. Quốc vương Udayibahadar nghe xong rất lấy làm kinh ngạc: “Người lại dám nói như thế à! Một kẻ có thể biết tất cả mọi điều đứng trước mặt ta?” Long Thụ nói: “Tôi không pharhi nói bừa. Nếu như ngài muốn biết bản lĩnh của tôi chỉ cần chúng ta tranh luận một chút thì biết ngay thôi”.
Quốc vương nghĩ rằng: “Nếu như ta thắng thì cũng chẳng có gì là vẻ vang vì dù sao ta cũng là quốc vương, còn nếu như thua thì thật xấu mặt…” Vì vậy, quốc vương suy nghĩ hồi lâu rồi hỏi: “Hiện tại, trời đang làm gì?”. Tượng đại sư Long Thụ Tượng đại sư Long Thụ
Long Thụ không chần chừ lâu, đáp ngay: “Hiện tại trời đang đánh nhau với A tu la!”. Trời có đánh nhau hay không thì quả thực chỉ có trời mới biết được. Ngay từ câu đầu tiên, quốc vương đã không còn biết phải nói sao nữa, cứ ú ớ liên hồi.
Lúc này, Long Thụ mới nói: “Tôi không nói bậy, hãy đợi một lát tôi có thể chứng minh cho ngài xem”.
Long Thụ vừa nói xong thì bỗng nhiên từ trên trời vọng xuống tiếng binh khí va chạm khiến những người có mặt đinh tai nhức óc. Lúc này, quốc vương mới chịu thua trí tuệ của Long Thụ, từ đó giữ ông ở lại bên mình, phong làm Đại hộ pháp.
Chuyện kể rằng, quốc vương Udayibhadra có một người con trai tên là Kumara Shaktiman, người muốn trở thành vua. Mẹ ông ta nói với ông rằng ông ta sẽ chẳng bao giờ có thể lên ngôi cho đến khi Long Thọ chết, vì Long Thọ và quốc vương Udayibhadra có cùng tuổi thọ. Mẹ ông ta nói hãy thỉnh cầu Long Thọ cho thủ cấp của ông ta và vì Long Thọ là người rất từ bi và ông ta sẽ không bao giờ từ chối lời thỉnh cầu. Long Thọ thật sự đã đồng ý, nhưng Kumara không thể cắt đầu của ông bằng một thanh gươm.
Long Thọ nói rằng trong tiền kiếp, ông đã từng giết hại một con kiến trong khi cắt cỏ. Như một kết quả nghiệp báo, đầu của ông chỉ có thể cắt rời với lá của của cỏ kusha. Kumara làm như thế và Long Thọ lìa đời.
Máu từ cái đầu bị cắt đứt biến thành sưa và thủ cấp nói: “Bây giờ ta sẽ đi đến Cực Lạc Tịnh Độ, nhưng ta sẽ nhập vào thân thể này lần nữa”.
Kumara đưa thủ cấp xa khỏi thân thể để Long Thụ không thể nhập lại thân thể nhưng cứ mỗi năm, thủ cấp và thân thể của Long Thụ lại tiến đến gần nhau hơn một chút. Khi chúng hợp lại, Long Thọ sẽ trở lại và giảng dạy lần nữa. Theo truyền thuyết, Long Thọ đã sống sáu trăm năm.
sưu tầm |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 4 04/04/12 12:41
|
|
|
Tu Hành Phải Biết Hồi Quang Phản Chiếu
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Người tu hành phải thực tình, phải thật sự tu, phải bỏ công sức ra chớ không thể nhởn nhơ. Có một số người nói họ hành đạo Bồ-tát, nhưng đúng ra là họ cốt biểu diễn cho bà con thấy. Mỗi một cử chỉ, mỗi một hành động, mỗi lời nói ra, họ đều phô trương cho mọi người thấy, chớ không phải cho chính họ thấy. Những người đó cần phải biết hồi quang phản chiếu, còn như chờ người khác trông thấy mới niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát - nếu quả có tử tưởng đó thì phải mau mau sửa đổi lại.
Phàm kẻ tu hành mà chỉ muốn người khác trông thấy mình tu, chính là bỏ gốc cầu ngọn. Quên cái gốc rễ để chạy theo cái ngọn là chuyện không được. Tu hành là để cho chính mình thấy, trông thấy được mình tức là hồi quang phản chiếu. Nhớ kỹ! Hồi quang phản chiếu, chớ không phải phóng quang ngoại chiếu. Nếu phóng quang để chiếu ra ngoài, tức là chỉ muốn cho người khác nhận thấy, để họ bảo rằng mình là người thật sự tu. Phải biết rằng khi đã phóng quang ra ngoài thì chẳng còn gì nữa, bởi hào quang của mình chẳng có bao nhiêu, một khi phóng ra là hết. Mình chưa tu hành đến độ viên mãn, quang độ yếu ớt, chờ khi nào tu đến viên mãn, lúc đó phóng quang cũng chưa muộn. Bây giờ đang trong giai đoạn tu hành, không nên phóng quang.
Việc tu hành cũng giống như việc học. Mới đầu học tiểu học, tiếp theo là trung học, sau lên đại học, rồi sau nữa mới có bằng tiến sĩ. Tu hành cũng như vậy, cứ từng bước một mà tiến lên dần dần, chớ không thể đi theo lối tắt. Có người bảo: Thiền tông đề xướng đốn ngộ, khai ngộ một cách chớp nhoáng. Chúng ta nên hiểu rằng đốn ngộ là nói về lý - cái lý về ngộ ngay tức khắc, nhưng về sự thì phải tu tập dần dần. Ðốn ngộ là nói về cá nhân đốn ngộ, chớ không phải nói về thời hạn đốn ngộ, một khi tu là ngộ ngay. Trước đây từ vô lượng kiếp, người ta đã tu rồi, đã từng gieo trồng hạt giống Bồ-đề rồi, lại nỗ lực canh tác, mỗi ngày một ít tích lũy lại, cho tới ngày nào đó công phu mới trổ thành quả chín. Không khi nào có trường hợp chẳng tu mà được khai ngộ. Câu nói: "Lý là đốn ngộ, sự là tiệm tu" chính là nghĩa này.
|
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 5 19/04/12 23:52
|
|
|
KHUYÊN PHÁT TÂM BỒ ÐỀ Tịnh Ðộ Tông Thập Nhất Tổ Tỉnh Am Pháp Sư soạn Việt Dịch: Tâm Nguyên
Thật Hiền tôi, một sư tăng phàm phu, hư hèn ngu muội, dập đầu lạy khóc, rớm máu quanh mi, van xin đại chúng hiện tiền, cùng tín hữu nam nữ mai hậu, cúi xin quý vị thương xót, ghé tai nghe xét.
Từng nghe: Cửa yếu vào đạo lấy sự phát tâm đứng hàng đầu, việc cấp thiết tu hành lấy sự lập nguyện làm bước trước. Nguyện có lập thì chúng sanh mới độ nổi, tâm có phát thì đạo mới tựu thành. Nếu tâm rộng lớn không phát, nguyện kiên cố không lập, thì dù trải qua trăm kiếp ngàn đời vẫn cứ quanh quẩn trong vòng luân hồi mãi mãi. Dù có gia công tu hành cũng chỉ có nhọc công vô ích, đắng cay vẫn hoàn đắng cay. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: Quên mất tâm bồ đề mà tu hành các thiện pháp, gọi là hành động của ma. Quên mất mà còn như thế, huống nữa là chưa phát? Cho nên biết rằng, muốn học đạo Như Lai trước hết phải phát nguyện Bồ đề. Không thể hoãn đãi được.
Nhưng tâm nguyện có nhiều tướng trạng khác nhau, nếu không trình bày, biết đâu mà hướng tới? Nay vì đại chúng, xin nói tóm lược. Tướng trạng tâm nguyện có tám. Ðó là tà, chánh, chân, ngụy, đại, tiểu, thiên, viên.
· Ðời có người tu, sau khi vào chùa chẳng xét tâm mình, chuyên lo ngoại vụ. Hoặc cầu sướng thân, hoặc tham nổi tiếng, hoặc ưa thích dục lạc thế gian, hoặc mong cầu quả vui mai hậu. Phát tâm như thế gọi là tà.
· Danh lợi không ham, quả vui chẳng thiết, chỉ mong giải thoát, đạt đạo bồ đề. Phát tâm như thế được gọi là chánh.
· Niệm niệm liên tục, ngước lên thì cầu Phật đạo, cúi xuống thì độ chúng sanh. Nghe Phật đạo cao siêu không sanh sầu lo thoái chí, thấy chúng sanh khó độ, không sanh mệt mỏi sờn lòng. Như trèo núi cao muôn trượng, quyết lên thấu đỉnh, như leo tháp lớn chín tầng phải leo tận nóc. Phát tâm như thế được gọi là chân.
· Có tội không sám hối, có lỗi không dứt trừ. Ngoài sạch trong dơ, trước siêng sau nhác. Tâm tuy tốt đấy nhưng phần lớn bị danh lợi giao xen, pháp tuy hay đấy, nhưng oan uổng bị vọng nghiệp nhuốm bẩn. Phát tâm như thế đích thị là ngụy.
· Cõi chúng sanh hết, nguyện ta mới hết, đạo bồ đề thành, nguyện ta mới thành. Phát tâm như thế được gọi là đại.
· Xem ba cõi như lao ngục, nhìn sanh tử như oan gia. Chỉ mong tự độ, không muốn độ người. Phát tâm như thế đích thị là tiểu.
· Ngoài tâm nếu thấy có chúng sanh cần độ, có Phật đạo mong thành, công phu không xả, thấy biết không tan. Phát tâm như thế đích thị là thiên.
· Nếu biết tự tánh là chúng sanh, nên nguyện độ thoát, tự tánh là Phật đạo, nên nguyện tu hành. Không thấy pháp nào ngoài tâm riêng có. Ðem tâm hư không phát nguyện hư không, tu hạnh hư không, chứng quả hư không. Cũng không có tướng hư không có thể chứng đắc. Phát tâm như thế được gọi là viên.
Biết được tám tướng khác nhau trên đây là biết cứu xét. Biết cứu xét là biết lấy bỏ. Biết lấy bỏ là biết phát tâm. Cứu xét như thế nào? Cứu xét tâm mình phát ra, so với tám tướng nói trên, là chánh, là tà, là chân, là ngụy, là đại, là tiểu, là thiên hay viên. Lấy bỏ thế nào? Bỏ tà, bỏ ngụy, bỏ tiểu, bỏ thiên. Lấy chánh, lấy chân, lấy đại, lấy viên. Phát tâm như thế mới gọi chân chánh phát tâm bồ đề.
Tâm bồ đề này là pháp lành hàng đầu trong các pháp lành. Phát khởi được tâm ấy hẳn phải có nhân duyên. Nhân duyên phát khởi tóm lược có mười. Một là nhớ nghĩ ơn nặng của Phật. Hai là nhớ nghĩ công ơn cha mẹ. Ba là nhớ nghĩ công ơn sư trưởng. Bốn là nhớ nghĩ công ơn thí chủ. Năm là nhớ nghĩ công ơn chúng sanh. Sáu là nhớ nghĩ khổ đau sanh tử. Bảy là tôn trọng tánh linh của mình. Tám là sám hối nghiệp chướng đã gây. Chính là cầu vãng sinh Tịnh độ. Mười là làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài.
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ ÂN NẶNG CỦA PHẬT?
Ðức Thế Tôn Thích Ca Như Lai chúng ta, khi mới phát tâm, vì tất cả chúng ta mà tu hành đạo Bồ Tát: trải qua vô lượng kiếp, nếm đủ mọi mùi cay đắng gian lao. Khi ta gây nghiệp, Ngài rất xót xa, tìm cách giáo hóa, nhưng ta u mê, chẳng chịu nghe. Ta đọa địa ngục, Ngài càng xót đau hơn, muốn thay ta chịu khổ, nhưng nghiệp ta quá nặng cứu vớt thật vô phương. Ta sinh cõi người. Ngài dùng phương tiện giúp ta trồng gieo căn lành. Ðời đời kiếp kiếp Ngài theo dõi ta không lúc nào bỏ. Khi Ngài xuất thế, ta còn đắm chìm, nay được làm người thì Phật đã diệt. Tội lỗi gì khiến ta sinh vào thời mạt pháp, phước đức nào đưa ta vào hàng ngũ xuất gia? Nghiệp chướng nào khiến ta không được thấy thân vàng của Phật, may mắn nào xui ta được cung chiêm xá lợi của Ngài? Suy nghĩ như thế thì mới rõ lẽ: Giả sử quá khứ ta không trồng thiện căn, thì sao hôm nay được nghe Phật pháp? Không nghe Phật pháp thì làm sao biết mình thường thọ Phật ân? Ân ấy đức ấy non khâu khó sánh. Trừ phi tự mình phát tâm rộng lớn, hành đạo bồ tát, xây dựng pháp tràng, cứu độ chúng sanh, dù cho bị thịt nát xương tan, cũng khó mà đền đáp cho xứng. Ðó là nhân duyên thứ nhất của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ CÔNG ƠN CHA MẸ?
Thương thay cha mẹ, sanh ta nhọc nhằn. Mười tháng cưu mang, ba năm bú mớm. Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn. Ngậm đắng nuốt cay, ngọt bùi chẳng tưởng. Khổ công nhường ấy, ta mới thành người. Hy vọng về sau, tiếp nối gia phong, lo phần tế tự. Vậy mà nay ta lại đi xuất gia. Lạm xưng Thích tử, nhục hiệu Sa môn. Ngọt bùi không cung cấp, giỗ chạp chẳng thừa đương. Lúc còn sống ta đã không chu toàn được miếng cơm manh áo, khi chết rồi ta lại chẳng đủ sức tiếp dẫn giác linh. Ðối với thế gian ta là kẻ ăn hại, về mặt xuất thế ta cũng chẳng được ích chi. Hai đường đều mất tội nặng khó thoát. Suy nghĩ như thế thì chỉ có một cách là thường hành Phật đạo trong trăm kiếp ngàn đời, độ khắp chúng sinh trong mười phương ba cõi. Như vậy không những cha mẹ một đời, mà cha mẹ nhiều kiếp đều được siêu thăng, không những cha mẹ một người mà cha mẹ của tất cả đều được cứu vớt. Ðó là nhân duyên thứ hai của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ CÔNG ƠN SƯ TRƯỞNG?
Cha mẹ ta tuy sinh ra và nuôi ta khôn lớn, nhưng nếu không có sư trưởng thế gian thì lễ nghĩa không biết, không có sư trưởng xuất thế thì Phật pháp không hay. Không biết lễ nghĩa khác gì cầm thú, không tin Phật pháp tương đồng phàm phu. Chúng ta ngày nay Phật pháp có hiểu sơ qua, lễ nghĩa có biết tạm đủ. Thân phủ cà sa, mình được giới phẩm. Công ơn lớn ấy chính nhơ sư trưởng mà có.
Nếu cầu quả nhỏ chỉ được lợi mình. Nay theo Ðại thừa, nguyện đem lợi lạc đến khắp quần sanh, thì sư trưởng thế gian và sư trưởng xuất thế, cả hai đều được lợi ích, do ta cung hiến. Ðó là nhân duyên thứ ba của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ CÔNG ƠN THÍ CHỦ?
Chúng ta ngày nay, nhu dụng hằng ngày chẳng phải do ta tự cấp. Cháo cơm ba bữa, quần áo bốn mùa. Thuốc men trị bệnh, chi phí linh tinh. Hết thảy đều do sức lực kẻ khác làm ra, mang đến cho ta chi dùng. Họ thì dốc sức cày cấy, bụng chẳng đủ no, ta thì ngồi không an hưởng, lòng vẫn chưa thỏa. Họ thì dệt đan không ngừng tay mà suốt đời gian khổ, ta thì may mặc đến thừa mứa mà đâu biết tiếc thương. Họ thì nhà tranh cửa lá, nghèo khó suốt đời, ta thì sân rộng nhà dài, thong thả quanh năm. Ðem sức lao nhọc của họ để cung cấp cho cái sống an nhàn của ta, lòng sao yên được. Lấy cái lợi của người để bồi dưỡng thân ta sung sướng, lý có thuận không? Nếu chẳng phải mình vận dụng hai đức bi trí trang nghiêm hai quả phước tuệ, để tín thí nhờ ơn, chúng sanh thọ sủng, thì dù gạo chỉ một hột, vải chỉ một ô, mà mình đã thọ cúng trước kia đến nay đều phải trả đủ, không thì ác báo khó trốn. Ðó là nhân duyên thứ tư của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ CÔNG ƠN CHÚNG SANH?
Ta với chúng sinh từ bao kiếp trước, hết đời nọ qua đời kia, từng làm cha mẹ của nhau. Ơn nghĩa qua lại, nhiều kiếp nhiều tầng. Nay vì cách đời cho nên hôn mê không nhận ra nhau. Cứ lý mà suy há không đền đáp. Nay là loài mang lông đội sừng (1), biết đâu xưa kia không là con cái ta? Nay là loài bò bay máy cựa (2), biết đâu xưa kia chẳng là cha mẹ ta? Thường thấy bao kẻ, trẻ lìa gia đình, lúc lớn trở về, dung mạo đổi khác, không thể nhận ra. Huống nữa là cha mẹ ta đời trước, ngày nay, kẻ họ Trương người họ Vương, làm sao nhớ được? Họ đang gào thét trong địa ngục, hoặc đang ngất ngư trong chốn ngạ quỷ. Khổ đau ai biết, đói khát kêu ai? Ta tuy không thấy không nghe, họ hẳn xin cứu xin vớt. Nếu chẳng phải kinh không đâu nói rành việc ấy, nếu chẳng phải Phật không ai tả rõ cảnh này. Hạng người tà kiến làm sao biết nổi! Cho nên bồ tát nhìn sâu kiến thấy toàn cha mẹ quá khứ và chư Phật vị lai thường nghĩ cách giúp đỡ để báo đền ơn chúng. Ðó là nhân duyên thứ hai của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ KHỔ ÐAU SINH TỬ?
Ta cùng chúng sanh từ bao kiếp trước sanh tử quẩn quanh chưa hề thoát khỏi.
Khi ở cõi trời, lúc sanh cõi người.
Nơi kia chốn nọ, vào ra muôn mối, lên xuống nửa giây.
Thoắt đâu làm trời, thoắt đâu làm người.
Thoắt đâu chui vào địa ngục ngạ quỷ súc sanh.
Cổng đen sáng ra chiều vào, hang sắt mới khép đã mở.
Leo lên núi dao thì không còn mảnh da nguyên vẹn.
Vịn vào cây kiếm thì các ô thịt đều bị rách bươm.
Hoàn sắt nóng không trừ được đói, nuốt vào rồi gan ruột nát tan.
Nước đồng sôi không giải được khát, uống vào rồi thịt xương nhừ ngấu.
Cưa bén xẻ thây, đứt xong liền nối.
Gió nghiệp thổi mặt, chết rồi lại sanh.
Trong thành rực lửa, thảm thê tiếng hét rú lên.
Trên bàn ngào nướng, tê tái tiếng gào vang vọng.
Băng giá đông lại thì thân hình xanh như sen xanh kết nhụy.
Máu thịt rửa ra thì mình mẩy đỏ tựa sen đỏ trổ hoa.
Trong chốn địa ngục một đêm chết sống kể cả vạn lần.
So với nhân gian một buổi thọ hình lâu tròn thế kỷ.
Bao phen lính ngục ra tay nhọc mệt, nào ai chịu tin lời Diêm chúa răn khuyên.
Lúc thọ báo mới kêu van khổ, nhưng dù hối cũng chẳng kịp nào.
Khi thoát rồi thì vội quên ngay, vẫn nghiệp cũ lại gây như trước.
Ðánh lừa văng máu đâu hay chính mẹ mình đang khóc thảm.
Xua heo vào lò đâu ngờ cha mình sắp rã thây.
Ăn thịt con mà không biết, Văn Vương còn như thế.
Ăn thịt cha mà chẳng hay, phàm phu cũng thế thôi.
Năm xưa ân ái nay thành oan gia, hôm qua oán cừu nay thành ruột thịt.
Ðời trước là mẹ mà nay là vợ, thuở xưa là cha nay lại là chồng.
Lấy trí túc mạng mà soi thì đáng hổ thẹn biết mấy.
Lấy mắt thiên nhãn mà nhìn thì đáng chán đáng cười biết bao!
Trong bụng đầy phẫn, mười tháng rúc chui.
Hết còn chịu nổi, qua đường ngập máu.
Một phen chúi xuống, thương thật là thương!
Nhỏ dại biết chi, mô tê chẳng rõ.
Lớn khôn dần hiểu, tham dục bèn sanh.
Loáng thoáng mới đó mà già đau đã tới kiếm.
Thình lình xuất hiện gã vô thường lại hỏi thăm.
Gió lửa trong lúc giao tranh, thần thức tơi bời rối loạn.
Khí huyết bên trong vơi cạn, xương thịt bên ngoài teo khô.
Không một kẻ chân lông nào không bị kim đâm,
Không một khiếu huyệt nào không bị dao cắt.
Rùa già đem nấu, lột được vỏ ra, tưởng e còn dễ,
Thần thức sắp đi, phải lìa khỏi xác, khó gấp bội phần.
Tâm là ông chủ vô thường, giống chú lái buôn khắp nơi bôn tẩu.
Thân là cái hình vô định, khác nào phòng ốc rày đổi mai thay.
Chỉ như mảy bụi ở cõi ba ngàn, thân nọ quay cuồng qua lại vô tận vô cùng.
Nhấp nhô như sóng bốn biển, nước mắt ly biệt trào tuôn, kể sao cho xiết!
Cao quá núi cao chất ngất xương chồng, dày hơn đất dày, rậm rịt thây sắp .
Giả sử không được nghe lời Phật, việc ấy ai thấy ai nghe.
Không được xem kinh Phật, lý đó ai hay ai biết?
Vậy mà có kẻ vẫn tham luyến như xưa, si mê không bỏ.
Chỉ e ngàn đời muôn kiếp mới được làm người.
Một lầm hai lỡ rây rưa trăm kiếp.
Thân người khó được mà dễ mất, vận may dễ qua mà khó tìm.
Ðường đời mờ mịt, ly biệt dài lâu.
Ác báo ba đường, rồi phải tự thọ.
Khổ hết chỗ nói, ai chịu thay đây?
Nhân hứng mà nói dông dài, đến đây không thể không thấy lòng mình giá buốt.
Cho nên phải dứt lòng sanh tử, vượt nẻo ái hà,
Mình người cùng thoát, bờ giác cùng lên.
Công lao muôn kiếp, chính được bắt đầu từ buổi hôm nay.
Ðó là nhân duyên thứ sáu của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ TÔN TRỌNG TÁNH LINH CỦA MÌNH?
Tâm của chúng ta trong hiện tiền, so với Ðức Thế Tôn Thích Ca, không hai không khác. Thế thì vì sao, Thế Tôn đã thành chánh giác từ vô lượng kiếp, còn chúng ta thì điên đảo hôn mê vẫn làm phàm phu? Lại nữa, Thế Tôn thì đủ vô lượng thần thông trí tuệ, công đức trang nghiêm, cò chúng ta thì chỉ có vô lượng phiền não, nghiệp chướng sanh tử buộc chặt. Tâm tánh chỉ một mà mê ngộ trời vực cách xa. Cứ im lặng mà suy, há chẳng đáng xấu hổ sao? Ví như ngọc báu vô giá, rơi xuống bùng dơ, xem đồng ngói gạch, chẳng được quý yêu. Cho nên phải dùng vô lượng thiện pháp, mà đối trị vô lượng phiền não. Có gia công tu đức thì tánh đức mới sáng ra. Như ngọc báu được lau chùi, treo trên phướn cao, ánh sáng rực chiếu, che lấp tất cả. Thế mới đáng gọi là không phụ sự giáo hoá của Phật, chẳng phụ tánh linh của mình. Ðó là nhân duyên thứ bảy của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ SÁM HỐI NGHIỆP CHƯỚNG?
Kinh dạy phạm một cát la (3) bị đọa địa ngục lâu bằng năm trăm tuổi thọ của cõi trời Tứ thiên vương. Cát la tội nhỏ mà còn như thế, huống nữa tội nặng, báo lớn đến đâu? Chúng ta ngày nay trong nếp sống, nhứt cử nhứt động thường trái luật Phật! Khi ăn lúc uống phạm giới bao phen. Kể cả các vi phạm trong một ngày cũng đã vô lượng, huống nữa trọn đời nhiều kiếp, tội lỗi gây ra, khó mà nói hết. Chỉ lấy riêng ngũ giới, cứ mười giữ đã hết chín người phạm. Phát lộ thì ít, ém nhẹm thì nhiều. Ngũ giới là giới tại gia, còn không giữ nổi, huống nữa là các sa di, tỳ kheo, bồ tát, thôi khỏi bàn chi! Hỏi đến danh nghĩa thì ta đây là tỳ kheo, hỏi về thực chất thì chưa xứng để làm một tại gia đệ tử. Há chẳng đáng hổ thẹn sao? Nên biết rằng giới Phật đã không thọ thì thôi, đã thọ thì không được huỷ phạm, không phạm thì thôi, đã phạm thì khó tránh đọa sa. Nếu không vì xót mình thương người mà miệng van lơn, thân quỳ lạy, khóc lóc thảm thiết, cùng với chúng sanh, cầu xin sám hối, thì dù ngàn đời muôn kiếp ác báo khó bề tránh khỏi. Ðó là nhân duyên thứ tám của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ CẦU SANH TỊNH ÐỘ?
Tu ở cõi này sự tiến đạo quá khó, nhưng vãng sanh cõi kia, việc thành Phật cũng dễ thôi. Dễ cho nên một đời có thể đạt được, khó cho nên muôn kiếp chưa chắc tựu thành. Vì vậy mà thánh hiền đời trước, ai ai cũng thú hướng về đây, ngàn kinh muôn luận, đâu đâu cũng giải bày nghĩa này. Việc tu hành trong thời mạt pháp, không pháp nào hơn được pháp ấy. Song le kinh còn chua thêm: Ðiều lành nhỏ khó khiến sanh lên, phước đức dày mới đưa đến đó. Mà nói phước đức dày, thì không chi bằng chấp trì danh hiệu, nói điều lành nhiều thì phát tâm rộng lớn chiếm ưu tiên. Cho nên chấp trì danh hiệu trong chốc lát, hơn hẳn công đức bố thí cả trăm năm, phát dược tâm bồ đề rộng lớn, vuợt trội công đức tu hành trong nhiều kiếp. Bởi vậy niệm Phật là mong được làm Phật, nếu tâm lớn không phát thì niệm cũng chẳng ích chi. Phát tâm là nhằm mục đích tu, nếu tịnh độ không sanh thì tuy có phát nhưng cũng dễ thoái. Thế thì gieo giống bồ đề, phải cày bằng cày niệm Phật, đạo quả tự nhiên tăng trưởng, cởi thuyền đại nguyện, vào được biển lớn Tịnh độ, Tây phương quyết định vãng sanh. Ðó là nhân duyên thứ chín của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ LÀM CHO CHÁNH PHÁP TỒN TẠI LÂU DÀI?
Thế Tôn chúng ta từ vô lượng kiếp, vì tất cả chúng ta mà tu đạo bồ đề. Ngài làm được việc khó làm, nhẫn được việc khó nhẫn. Cho nên khi nhân tròn quả đủ, Ngài mới thành Phật. Sau khi thành Phật, giáo hoá hoàn tất, Ngài vào niết bàn. Nay thì chánh pháp tượng pháp đã qua. Chúng ta đang ở trong đời mạt pháp. Phật pháp còn đó mà không có người tu hành. Tà chánh lộn xộn phải trái khó phân. Ganh đua nhân ngã toàn phường lợi danh. Ngước mắt nhìn quanh mọi người đều vậy, chẳng ai thoát khỏi. Mịt mù chẳng biết Phật là ông nào? Pháp nghĩa ra sao? Tăng là cái gì? Suy tàn đến nói ra bất nhẫn. Nhưng mỗi khi nghĩ đến bất giác lệ tuôn. Ta là con Phật mà không thể đền đáp công ơn Phật? Trong không ích cho mình ngoài chẳng ích cho người. Sống không ích cho đương thời, chết chẳng ích cho hậu thế. Trời tuy cao không che nổi ta, đất tuy dày không che nổi ta. Cái đứa cực ác, không ta thì ai? Do đó lòng đau không thể chịu nổi, mà toan tính thì cũng chẳng đề xuất được kế gì. Bỗng nhiên vụt quên rằng mình quê mùa, vụt phát tâm chí rộng lớn. Tuy chưa thể vãn hồi mạt vận ngay trong lúc này, nhưng quyết định phải hộ trì được chánh pháp mai sau. Cho nên cùng các thiện hữu dắt nhau đến đạo tràng soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này. Phát bốn mươi tám đại nguyện, nguyện nào cũng nhằm hóa độ chúng sinh, cầu trăm ngàn kiếp thâm tâm, tâm nào cũng hướng tiêu đích làm Phật, Kể từ hôm nay cho đến tận cùng đời vị lai, phải thanh toán cho xong cái hình hài này, và thề quyết phải sanh về An dưỡng. Sau khi lên xong chín phẩm lại lùi về Ta bà. Mặt trời Phật pháp sẽ được sáng lại, cửa vào chánh pháp phải được mở toang. Biển lòng tăng giới lặng trong ở cõi này, nhân dân đông độ được tiếp hóa ngay tại chỗ. Vận hội nhờ đó mà kéo dài ra thêm, chánh pháp nhờ đó mà tồn tại lâu dài. Ðây là tâm nguyện chân thành, từng được thiết tha ấp ủ. Ðó là nhân duyên thứ mười của sự phát tâm bồ đề.
Như vậy là mười duyên đã biết, tám hướng đã rõ. Thú hướng có lối, khai phát có nơi. Chúng ta đã được làm người được ở đất có văn hóa, sáu căn không thiếu, cơ thể khỏe mạnh, đầy đủ tín tâm, may mắn không gặp ma chướng. Huống nữa còn được xuất gia, được gặp đạo tràng, được thọ cụ giới, được thờ xá lợi, được tu sám pháp, được gặp bạn lành, được đủ duyên may. Như thế mà nếu hôm nay không chịu phát tâm rộng lớn thì đợi đến bao giờ?
Cúi xin đại chúng xót đau cho tấm lòng thành ngu muội của tôi, tiếc thương cho cái chí nguyện khổ sở của tôi, để cùng nhau cùng lập nguyện ấy, cùng phát tâm này. Ai chưa phát thì nay phát. Ai phát rồi thì kích thích tăng trưởng. Ai tăng trưởng rồi thì nay cứ tiếp tục. Ðừng sợ khó mà sợ hãi lùi bước. Ðừng cho dễ mà khinh thường chậm bước. Ðừng ham mau mà không giữ được bền lâu. Ðừng lười nhác mà mất đi dõng mãnh. Ðừng rụt rè mà giảm khí thế đang lên. Ðừng vì chần chờ mà hẹn rày hẹn mai. Ðừng tự cho mình ngu mà buông thả tất cả. Ðừng vì căn cơ chậm lụt mà tự ti rằng mình không được dự phần. Ví như trồng cây trồng lâu thì rễ càng ngày càng ăn sâu. Lại ví như mài dao, mài hoài thì dao đùi cũng phải bén. Há nên vì cạn mà không trồng, để mặc cho cây khô héo, hay vì đùi mà không mài để mặc cho dao sét rỉ, thành vật vô dụng. Lại nữa nếu bảo tu là khổ thì lười lại càng khổ. Tu thì chỉ khó nhọc nhứt thời mà an vui vĩnh viễn, lười thì tạm thong thả một đời, mà chịu khổ muôn kiếp. Huống nữa, lấy pháp môn Tịnh độ làm tàu thuyền thì lo gì thoái chuyển, lại thêm có trí tuệ vô sanh làm sức đẩy thì ngại gì gian nan. Nên biết tội nhân ở địa ngục mà còn phát tâm bồ đề từ kiếp trước, huống nữa con Phật trong nhân luân, há lại không lập đại nguyện ngay trong đời này.
Vì hôn mê từ bao kiếp trước, những gì qua rồi thì không thể cản ngăn, nhưng ngày nay đã tỉnh ngộ, những gì sắp đến còn có thể đón bắt. Nhưng mê mà tỉnh đương nhiên là việc đáng thương, còn biết mà không làm thì mới thật là điều đáng tiếc. Nếu sợ cái khổ địa ngục thì tinh tấn tự sanh, nếu nghĩ cái chết gần kề thì lười nhác không dấy.
Lại nữa, phải lấy Phật pháp làm roi giục, lấy bạn lành làm tay dắt. Vội mấy cũng không rời, trọn đời bám chặt vào. Như vậy thì không còn lo gì thoái chuyển nữa. Chớ bảo rằng một niệm chẳng đi đến đâu, đừng cho rằng niệm rỗng chẳng có ích gì. Tâm chân thì sự việc thật, nguyện rộng thì công hạnh sâu xa. Hư không đâu có lớn, cái tâm mới là lớn, kim cương đâu có rắn, sức nguyện mới thật rắn.
Nếu đại chúng thật tâm, không vứt bỏ lời tôi, thì quyến thuộc bồ đề từ đây kết hợp, liên minh sen vàng từ đây tương giao.
NGUYỆN RẰNG:
Cùng sanh Tịnh Ðộ
Cùng thấy Di Ðà
Cùng độ chúng sanh
Cùng thành Chánh Giác.
Biết đâu ba mươi hai tướng tốt và trăm phước trang nghiêm sau này, chẳng phải bắt đầu từ buổi phát tâm lập nguyện hôm nay! Nguyện cùng đại chúng cùng nhau gắng sức.
RẤT MONG LẮM THAY! RẤT MONG LẮM THAY! __________________ |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 5 19/04/12 23:27
|
|
|
Theo trong Giáo Lý Đại Thừa thì Đức Phật có 3 Thân được giảng giải như sau:
Pháp Thân
1-Tự Tánh Pháp Thân 2-Trí Pháp Thân
Pháp Thân thì Không Có Tất Cả Tướng Trạng thường tịch thường chiếu vô thủy vô chung.
Báo Thân
Có 2 loại
1-Tự Thọ Dụng Thân:
Là Thân Phật có không hạn lượng tướng hảo vi diệu trang nghiêm mà chỉ riêng Chư Phật chứng biết cho dù là Bậc Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Xứ cũng không thể thấy biết đừng nói chi đến các Bậc Thánh khác trong Ba Thừa.
Tự Thọ Dụng Thân của Phật thì Chẳng Phải Là Sắc Tướng Chẳng Phải Chẳng Sắc Tướng.
Chẳng Phải Sắc Tướng bởi vì Thân Phật này không phải là Thân Do 5 Ấm Hợp.
Chẳng Phải Chẳng Sắc Tướng bởi vì có đủ tất cả không hạn lượng các tướng hảo vi diệu trang nghiêm.
Tự Thọ Dụng Thân Phật thì trụ nơi Tự Thọ Dụng Độ.
Thân Tự Thọ Dụng thì Thân Tức Là Cõi, Cõi Tức Là Thân.
Thân Tự Thọ Dụng biến khắp pháp giới không có biên tế hạn lượng.
Tự Thọ Dụng Thân Phật có ba đặc tính
1-Hư Không Pháp Thân Thân Không Có Biên Tế, Biến Khắp Vô Ngại.
2-Công Đức Pháp Thân Đầy ĐủTất Cả Các Công Đức Vi Diệu
3-Kim Cang Bất Hoại Thân Thân Thường Trụ Không Biến Đổi Cùng Tột Vi Lai Tế.
2-Tha Thọ Dụng Thân
Là Thân Phật hiện ra giáo hóa Chư Bồ Tát từ Sơ Địa cho đến Bậc Nhất Sanh Bổ Xứ.
Kinh nói Bồ Tát Sơ Địa thấy thân Phật lớn như 100 thế giới, ngồi trên hoa sen 100 cánh, có 100 Hóa Phật vậy quây, nói 100 Pháp Minh Môn..v..v..
Nhị Địa Bồ Tát thấy thân Phật lớn như 1000 thế giới, ngồi trên hoa sen 1000 cánh, có 1000 Hóa Phật vậy quây, nói 1000 Pháp Minh Môn..v..v..
Như vậy tăng mãi cho đến Bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bổ Tát thấy thân Phật cùng khắp pháp giới không có ngằn mé v.v..
Hóa Thân
Là Thân Phật thị hiện giáo hóa cho các Bồ Tát trong Tam Hiền cũng như là các Bậc Thanh Văn, Duyên Giác, Trời, Người, 6 đạo chúng sanh.
1-Thắng Ứng Hóa Thân Là Thân Phật 32 tướng tốt 80 tùy hảo.
2-Liệt Ứng Hóa Thân: Là Thân hiện ra trong 6 đạo chúng sanh.
3-Tùy Loại Hóa Là Thân Biến Hóa ra làm lợi ích cho chúng sanh như là cây, cỏ, vườn, rừng v.v... __________________ |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 5 19/04/12 23:22
|
|
|
Tại sao gọi là mật tông . Mật tông không phải là Bí Mật tông như nhiều người vẫn hiểu lầm .- Bí mật vì nó không được giải nghĩa.
- Bí mật vì chỉ có chư Phật mới hiểu trọn vẹn.
- Bí mật vì tùy trình độ, căn cơ và sự ứng dụng mà mỗi người một khác, đạt một kết quả khác.
- Bí mật vì nó chỉ được thông đạt qua Tâm truyền Tâm, giữa thầy trò, giữa chư Phật (hoặc người nói ra chân ngôn) với hành giả. Điều này chỉ người nào tu Mật rồi mới chứng nghiệm được).
- Bí mật vì kết quả đạt được tùy Tâm hành giả. _____ |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 5 19/04/12 23:10
|
|
|
CHÚ NGỬ – CHÂN NGÔN
Ngử mật là một trong tam mật tu trì , thân , khẩu , ý của Mật Tông , ngử mật được gọi là Thanh Mật – Chú Ngử hay Chân Ngôn . Chú ngữ là ngôn ngử bí mật mà Chư Phật phát ra trong khi thiền định , là một ngôn ngử vi diệu kết thông được hành giả và thế giới của Chư Phật ; Chú ngữ còn được gọi là Vủ Trụ Âm giúp cho tâm của hành giả tu Mật được tiếp cận và hòa nhập vào tâm của Vủ Trụ , hoạch đắc được năng lực của Vũ Trụ , nhanh chóng được đi vào cảnh giới của Chư Phật . Chú Ngử – Chân ngôn giúp cho hành giả dể dàng đi vào nhập định ; Chú Ngử – Chân ngôn có sự liên hệ đến âm thanh và khí mạch của con người . Chú Ngử – Chân ngôn có rất nhiều loại , trong đó gồm có 4 loại : Phật Bộ Chân Ngôn – Bồ Tác Bộ Chân Ngôn – Minh Vương Bộ Chân Ngôn và Chư Thiên Bộ Chân Ngôn ; Về phương diện tu pháp có thể phân ra thành : Tức Tai – Tăng Ích – Kính Ái – Hàng Phục .Về hình thức thì gồm có : Đại Chân ngôn – Trung Chân Ngôn – Tiểu Chân Ngôn – Căn Bản Chú – Tâm Chú – Chủng Tử Chân Ngôn ...... Tác dụng của sự Niệm Tụng Chân Ngôn , là hành giả xử dụng một loại Âm Phù đặc biệt , hay gọi nôm na là một sự kết hợp của cường độ , nhịp điệu , âm bậc theo một công thức đặc biệt của sự phát âm để làm chấn động khơi hoạt những khí mạch bên trong cơ thể , để từ đó làm phóng phát tiềm năng của cơ thể , thu hoạch thần thông và có được trí huệ vô lậu . Chú Ngử có một loại âm ba có tầng số rung động riêng của nó và ý thức của vủ trụ cũng có nhiều loại âm ba có tầng số rung động riêng ; khi hai tầng số rung động nầy có sự rung động đồng bộ , thì chúng sẻ cộng hưởng và tương ứng với nhau , khiến cho khí của cơ thể đi vào trung mạch , khai thông tam mạch thất luân , mà đạt đến cảnh giới quang minh thanh tịnh tâm thức . Thí dụ như Tam Tự Căn Bản Chú là OM A HUM là ba chử cái căn bản của Phạn ngử , thanh âm của ba chử nầy là âm thanh căn bản hình thành sinh mạng của vủ trụ vạn hửu ; khi hành giả tụng đọc chú ngử nầy sẻ làm chấn động các khí mạch , tiêu trừ bệnh tật trong tạng phủ , khiến cho tâm thần được sáng suốt , minh mẩn và sảng khoái khỏe mạnh . Khoa học âm thanh ngày nay chưa đi vào nghiên cứu tỉ mỉ những sự liên quan giửa âm thanh và các loại sanh mệnh trong vủ trụ , như sự phản ứng và bức xạ hạ âm của thực vật và khoáng vật ? Kiến thức về âm thanh học của khoa học ngày nay ; nhân loại chỉ có thể dùng âm thanh tiếng nói , để thông tin liên lạc , biểu hiện tư tưởng , tình cảm giửa người và người , người và vật ; nhưng con người chưa biết dùng âm thanh để tái tạo sinh mạng hay cảm thọ , tìm ra bí mật của tử vong ..... Nhiều loại chú ngử do sự tổ hợp của một đơn âm , khi tụng đọc lên nghe như tiếng kêu của côn trùng , chim chóc hay nghe như tiếng mưa rơi tầm tả ; nhiều loại chân ngôn phức tạp do tổ hợp nhiều đơn âm khác nhau , khi tụng đọc lên , cấu thành một âm điệu du dương như tiếng sáo trời khiến cho con người đi vào cảnh giới không - linh -thanh tịnh . Hành giả khi niệm tụng chân ngôn , tùy theo phương pháp tu tập , có lúc miệng phát ra âm thanh , do sự phối hợp của miệng và lưởi , sự niệm chú của tâm cùng chư pháp niệm thông chân thật ; nếu tương ứng với tâm thiện thì , sự niệm thông không chậm không nhanh , thanh và điều hòa ; nếu tương ứng với tâm hỷ xả thì sự niệm thông tựa như lần chuổi hạt kim cương , thanh thoát vui tươi .... Mật Tông nhận rằng : Tâm Chú là một loại tầng số âm ba rung động đặc biệt của Chư Phật ; hành giả khi tu tập Bổn Tôn Pháp , trước tiên cần phải quán tưởng linh ảnh của Bổn Tôn , sau đó gọi Tên và tụng niệm Tâm Chú của Bổn Tôn ; việc nầy giống như chúng ta xử dụng máy radio là thân của chúng ta , đem tầng số của mình lên cao để cho đồng bộ với tầng số của Bổn Tôn hầu được tương ứng gia trì ; Tầng số rung động của Bổn Tôn giống như một Mật Mả Thông Tin cao cấp đặc biệt vậy . |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 6 20/04/12 0:03
|
|
|
Chân ngôn khi ăn thịt Chân ngôn khi ăn thịt không bị nghiệp chướng. Đọc thổi vào đồ ăn.
Oṃ ah bira khe chara hūṃ (7x) (Om Ahbira Kay Tsara Hum: Ram Yam Kha
Âm Việt: ôm ah bi-ra khê cha-ra hùm
Ngoài ra kinh sách và các lama tây tạng đã dạy dùng Lục Tự Đại Minh Thần Chú hay Quáng Đỉnh Dược Sư Phật Chân Ngôn khi ăn thịt. ________ |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 5 19/04/12 23:37
|
|
|
Vì Sao Trì Chú Không Linh Ứng
Tại sao có nhiều người Tụng Chú mà không có cảm ứng gì cả?
Đó là Vì Không Có Giữ Giới Thanh Tịnh.
Nhiều Người Không Hiểu Đúng Kinh Phật dạy nghe nói rằng Tụng Chú thì Tiêu Tội Giải Nghiệp nhưng lại không biết Đức Phật dạy là Tụng Chú là Tiêu Tội Cũ Giải Nghiệp Cũ chứ không phải là Vừa Trì Chú Vừa Tạo Nghiệp.
Trì Chú Mà Không Giữ Giới Thì Không Bao Giờ Có Sự Linh Ứng Thành Tựu Gì Cả.
Tất cả các Kinh Điển Mật Tông đều dạy Hành Giả Trì Chú Phải Giữu Giới Thanh Tịnh.
Không Giữ Giới Mà Trì Chú Thì Cũng Như Là Lấy Cái Ly Dơ Mà Đựng Nuớc Sạch.
Giới Là Căn Bản Của Tất Cả Mọi Sự Hành Trì Phật Pháp.
Không Giữ Giới Tu Gì Cũng Không Thành Tựu. __________________ |
|
 |
|