Người gửi |
Nội dung |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Chủ nhật 13/11/11 23:37
|
|
|
KINH CHUẨN ĐỀ BẢN TÔN QUYỂN THỨ HAI BỒ TÁT VÂN TẬP PHẨM THỨ BA MẬT SƯ: THÍCH GIÁC TIẾN – THIỀN NHÂN
Lúc bấy giờ nơi thế giới Liên Hoa Tạng trên mành lưới báu bỗng nhiên xuất sinh ánh sáng lớn chưa từng có, sáu điệu vang động lên, tất cả các loài hoa báu phát ra mùi thơm vi diệu. Bồ Tát Sư Tử Hoa Tạng Lễ nơi chân Phật Tỳ Lô Mâu Ni Kim Cang đi nhiễu ba vòng, rồi ở giữa đại chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di và Bát-Bộ Kim-Cang Thần mà bạch rằng: - Thế Tôn! Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề nơi thế giới Tổng Trì hay thị hiện mười tám cánh tay sắc vàng phát ra muôn đạo hào quang diệu huyền. Hiện nay Phật ấy đang nhập vào chánh định mật môn đệ nhất Viên-Minh-Bố-Liệt Phạn Thơ-Đồ khó tu khó ứng dụng, sở hành đa dạng, sức biến hóa tự tại vô cùng tận, trí huệ bậc nhất thu nhiếp chúng sinh nơi pháp giới mà vẫn lặng im thanh thản dường như hư không. Chúng con muốn đến đó để viếng thăm và cúng dường, xin Phật từ bi chấp thuận cho. Xin Phật từ bi chấp thuận cho… Đức Phật Tỳ-Lô Mâu-Ni Kim-Cang mỉm cười im lặng nạp thọ lời thỉnh cầu ấy. Ở nơi thế giới Bảo Tòa Kim Cang có đức Bồ Tát thượng thủ tên là Thánh Sư bỗng thấy ánh sáng màu xanh biếc chiếu diệu ở trong chúng hội. Đức Bồ Tát đến đảnh lễ đức Mật Âm Đại Oai-Đức Như-Lai rồi bạch rằng : - Ngưỡng bạch đức Thế Tôn! Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề thị hiện mười tám cánh tay sắc vàng phóng ra muôn đạo hào quang vân tập các vị đại Bồ Tát. Chúng con chưa từng thấy sức đại tự tại mạnh nhanh trang nghiêm quốc độ bằng ánh hào quang sáng suốt, trong hào quang có vô số cõi Phật đang ngự, hàng Bồ Tát vây quanh làm hàng cây báu, tiếng linh báu ca ngâm, tiếng tỳ bà, ống tiêu, ống địch hòa reo nhẹ nhàng thư thái. Xin đức Phật mở lòng bi mẫn cho con được đến đó cúng dường Phật Mẫu Chuẩn Đề. Phật im lặng nhận lời thưa thỉnh. Bồ Tát Thánh, sư nói kệ rằng;
1. Xin Phật mở lòng thương Cho chúng con thăm viếng Cúng dường Phật Chuẩn Đề Chổ trang nghiêm hiếm có Hay tàng trữ Mật-Pháp Bí yếu khó lường được Diệu môn Đà Ra Ni Kim-Cang đại phương tiện Nơi chánh định im lặng Như hư không vô tận Xuất sinh phạn thơ đồ Ma ha Phật đảnh chú Tiếng thanh tao lạ tường Các trói buộc ghê sợ Quỉ quái cùng hổ dữ Nghe tiếng đều qui phục. 2. Cõi Trời Đại-Tự-Tại Thích, Phạm cùng Ma chúng Đang rãi hoa cúng dường Trãi số trăm nghìn kiếp Các hoa héo lại nở Các hương thơm xuyên suốt Khiến mười phương cõi Phật Thảy đều biết mùi ấy Thật vi diệu khó lường Xin Phật cho chúng con Đến cúng dường Phật Mẫu
Lúc ấy ở phương Nam nơi thế giới Siêu Độ có Bồ Tát thượng thủ tên là Thiên Tịnh Chủ bạch cùng đức Thiên-Thượng Tổng-Trì Phật rằng : - Thế Tôn ! Nơi thế giới Tổng-Trì đức Phật Mẫu Chuẩn Đề đang thị hiện thần biến tướng phát ra mười tám cánh tay sắc vàng chiếu khắp cả mười phương cõi nước, ý muốn vân tập chư đại Bồ Tát thượng thủ. Nay xin đức Thế Tôn cho con đến cúng dường vị Phật có sức thần thông lớn, sức oai đức mạnh nhanh, trang nghiêm các cõi Phật độ không ai sánh bằng. Chư Thiên, Nhân cùng tám bộ Quỉ, Thần đều rải hoa cúng dường, đồng phát ra lời ca tụng ngơi khen, trong hào quang xuất sinh bốn loại sen báu xanh, đỏ, trắng, vàng mùi thơm lạ thường. Xin Phật mở lòng lân mẫn chấp nhận và hộ niệm cho. Đức Phật Thiên Thượng Tổng-Trì im lặng. Bồ – Tát Thiên-Tịnh-Chủ nói kệ khen rằng :
1. Đức Phật lòng lân mẫn Hay cứu khổ chúng sinh Chúng con nhở đuốc tuệ Thắp sáng ngọn đèn pháp Lưu bố cả Thế Gian Trời, Người, Rồng, Quỷ, Thần Cả thảy đều quy phục Tín ngưỡng và tán thán Nghe pháp như say đắm Quên mất việc làm ác Bậc xuất thế cao thượng Chẳng nhiễm chút trần nhơ Chúng sinh mê tục lụy Sinh lòng yếu mỏi mệt. 2. Phật dạy thóat sinh tử Diệt ba độc phá nghi Chỉ có Phật với Phật Mới hiểu được việc này Chúng con thường điên đảo Nay thế giới Tổng-Trì Chuẩn Đề Phật vi diệu Chúng con lòng tham chấp Muốn làm pháp cúng dường Xin Phật hộ niệm cho.
Ở phương Bắc nơi thế giới Mỹ-Âm có Bồ Tát thượng thủ tên là Mật Ngữ Đà La Ni bạch cùng đức Phật Diệu-Ấn-Tướng rằng : - Bạch đức Thế Tôn ! Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề nơi thế giới Tổng-Trì đang thị hiện mười tám món thần thông, ánh sáng chiếu thông cả mười phương thế giới, các cõi Phật quốc đều được trang nghiêm, trong hào quang có vô số hóa Phật. Các chúng Bồ Tát, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di và Bát-Bộ Kim-Cang Thần vây quanh các đức Phật. Chư Thiên cõi Trời, Người rưới hoa Mạn đà la, hoa Ma ha Mạn thù sa khắp cùng cõi nước. Nay con thấy điềm lành này kính mong Phật từ bi thương xót giúp thần lực cho con đến cõi nước ấy mà cúng dường nơi Phật Mẫu Chuẩn Đề. Lúc ấy Phật Diệu-Ấn-Tướng im lặng nhận lời đó. Bồ Tát Mật ngữ Đà La Ni nói kệ khen Phật :
1. Thấy Phật lòng thanh tịnh Trãi qua vô số kiếp Mói được gặp một lần Như sa mạc rớt mưa Cõi trần gian tham đắm Chúng sinh ưa nghĩ tưởng Chạy theo hướng ngũ dục Không hay trong sinh tử Nhiều cạm bẫy bỏ thân Chúng con nay được phước Nương nhờ nơi Phật độ Lòng thanh tịnh nhẹ nhàng Dứt mọi sự lo sợ Đấng cha lành Tam giới Vui ưa vào thiền định Chúng con muốn nương theo Nay nghe Phật Chuẩn Đề Thị hiện tướng oai đức Chúng con muốn chiêm ngưỡng Gần gũi để cúng dường Mong Phật hộ niệm cho
Bấy giờ, ở phương Đông nơi thế giới Đại-Bảo có Bồ Tát Pháp Mật là bậc thượng thủ đúng đầu trong chúng bạch cùng đức Phật Liên Hoa Vương rằng : - Thế Tôn ! Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề đang hiện tướng thần thông biến hóa khắp mười phương cõi nước, ánh sáng chiếu diệu như một mành lưới lan rộng ra khắp hư không đại địa, trong ánh sáng có vô số vị hóa Phật, các hàng Bồ Tát vây quanh vòng trong vòng ngoài tứ phương theo hình viên minh rất lớn. Các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni tụng thần chú Mật Pháp Chuẩn Đề như đang vào nơi thiền định. Các hàng Cận Sự nam, Cận Sự nữ, Trời, Rồng, Thần, Quỉ đều rải hoa cúng dường cung kính ủng hộ. Rất mong Thế Tôn thương tưởng mà cho chúng con đến thế giới Tổng-Trì của Phật Mẫu Chuẩn Đề để cúng dường. Xin đức Thế Tôn thọ nạp lời thỉnh cầu tha thiết này. Đức Phật Liên-Hoa-Vương im lặng nhận lời. Bồ Tát Pháp Mật nói kệ khen rằng :
1. Ánh sáng Phật chiếu diệu Soi thấu suốt chúng sinh Thoáng qua nhẹ nhàng đến Sáu loài chúng sinh thảy Như tắm ánh hào quang Bỏ quên các khổ não Vui ưa và muốn thấy Cảm niệm ý không rời Chúng con hàng Bồ Tát Giữ y báo chánh báo Thấy việc khó làm này Siêng tu quên cực khổ Nay gặp Phật nghe pháp Lòng đã nhuốm đầy đủ Gặp Phật rất ít thấy Rất mong đức Thế Tôn Cho con được cúng dường Chuẩn Đề Phật vi diệu Mong Phật lân mẫn cho
Ở thế giới Tây Phương có đức Bồ Tát thượng thủ tên là Đại Bi Quán Thế Âm bạch cùng đức Vô Lượng Thọ Phật rằng : - Thế Tôn ! Nay đức Phật Mẫu Chuẩn Đề đang quay mạnh bánh xe pháp để nhắc nhở hàng Đại Bồ Tát thủ trì giáo môn Mật Tông nên hiện thần biến tướng thi triển mười tám món thần thông, chính là vì để vân tập các hàng Bồ Tát ở mười phương thế giới. Trong háo quang có vô số vị hóa Phật và Bồ Tát, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di, Trời, Rồng, A-Tu-La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhân Phi, Nhân… v.v… đang vi nhiễu chung quanh đức Phật thành một vòng tròn lớn, trong hư không có hoa rải xuống, tiếng ca ngâm đàn sáo, tiếng linh báu hòa reo cúng dường nơi thân cửa đức Phật Mẫu Chuẩn Đề. Kính xin đức Thế Tôn từ bi thọ nạp lời thỉnh cầu, cho con được đến chỗ Phật đó để cúng dường. Đức Phật Vô-Lượng-Thọ từ bi im lặng nhận lời. Bồ Tát Quán-Thế-Âm nói kệ khen Phật rằng :
1. Đức Thế Tôn vô thượng Dung nhan sắc tốt đẹp Trí đại hùng đại lực Hay cứu khổ thế gian Việc làm hiếm ít thấy Khiến trời, Người kính phục Tu công hạnh khó làm Nhẫn trì nhiếp Mật pháp Bố Pháp thật kiên cố Tinh tấn vượt ba cõi Khiến pháp Ma qui thuận Trời rưới hoa cúng dường Im lặng như hư không Tam muội không chen lộn Bụi trần đều biến mất Nay Chuẩn Đề Phật Mẫu Hiện các món thần biến Phóng vô lượng hào quang Trong mỗi tia hào quang Hóa ra vô số Phật Để vân tập Bồ Tát Chúng Thanh Văn Duyên Giác Số đông vô cùng tận Nhạc Trời tự nhiên vang Tiếng trống, đàn hòa tấu Dùng để cúng dường Phật Xin với Đức Thế Tôn Thọ nạp lời thỉnh cầu Cho con viếng Phật đó.
Bấy giờ, các vị Bồ Tát mười phương thấy ánh sáng của Phật Mẫu Chuẩn Đề chiếu đến cùng cõi quốc độ của mình; các vị Bồ Tát thượng thủ đồng đến thỉnh cầu đức Phật của mình xin đến tham dự cúng dường nơi Phật Mẫu Chuẩn Đề. Giữa hư không trỗi các kỹ nhạc, hương hoa, lọng phướn, cờ bốn màu xanh, đỏ, trắng, vàng. Mỗi vị thượng thủ Bồ Tát của mỗi vị Đức Phật đều có các thất bảo khác nhau mỗi thứ đều đẹp lạ màu sắc cổ kính, cách trang nghiêm y phục cùng các Loại sen báu cũng đều khác nhau. Các tướng chính của mỗi vị oai đức đoan nghiêm, tướng phụ như hình long phụng uy nghi tự tại. Khi ấy Phật Mẫu Chuẩn Đề thu nhiếp các vị hóa Phật ở mười phương thế giới trong khoảng sát na cùng với mười tám món thần thông, rồi nhập vào môn Tam Muội Quán-Đảnh Tâm Chú : “Án ma ha tát đa bát đát ra” an nhiên tự tại giữa đại chúng hơn năm nghìn người. Bốn bộ chúng thấy việc từ xưa đến nay chưa từng có mà sinh lòng nghi hối. Ông Uất-Đơn-Đầu cung kính tin chắc nơi đạo vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên cùng với đại chúng hữu nhiễu ba vòng cúng dường nơi thân Phật. Trên hư không các vị thượng thủ Bồ Tát đều rải hoa cúng dường nơi thân Phật rồi đồng tiếng nói kệ khen rằng :
1. Phật Mẫu Chuẩn Đề Vương Tiếng vang dội bốn phương Sức thủ trì Mật chú Nơi mật tịnh tam muội Mạnh nhanh khó nghĩ bàn An nhiên không chướng ngại Vân tập cả đại chúng Bồ Tát khắp mười phương Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni Ưu-Bà-Tắc, Bà-Di Trời, Người cùng Quỉ, Thần Ca Lầu Na, Khẩn Na La Với Ma Hầu La Già Nhân và phi Nhân thảy Đủ Bát-Bộ Kim-Cang Khiến đó được hiểu đạo Mà tu tập pháp môn Tuyên bày tạng Bí Mật Trong đời cả Trời, Người Không ai hay làm nổi Khai mở đạo giải thoát Vẹt bóng mờ vô minh Giữ gìn Luật nghi giới Thanh tịnh pháp đà la Ra vào nơi ba cõi Không lường sức thần bí Qua lại ở mười phương Chư Phật đồng khen ngợi Bồ Tát hay tín ngưỡng Giúp chúng sinh thấy đạo Ưa vui phát lòng từ Tu tập hạnh chất trực Mà ngộ pháp chân thường Siêng năng cùng tinh tấn Mật định trí phát ra Thần lực vô cùng tận Huệ mầu soi sáng khắp Chúng sinh ưa pháp nhỏ Chẳng biết gì mê, ngộ Ưa vui chọn ngũ dục Phật khéo dùng phương tiện Dẫn dắt ra ba cõi Độ tất cả chúng sinh Mà hiện tướng thần biến Chúng con hàng Bồ Tát Từ xa mới đến đây Chúc tụng rải hoa cúng Để chiêm ngưỡng lễ bái Và xem cõi Phật tịnh Phát huy đạo vô thượng Nam mô Chuẩn Đề Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)
Hết Phẩm Thứ Ba
KINH CHUẨN ĐỀ BẢN TÔN PHẨM MẬT HẠNH BỒ TÁT THỨ TƯ MẬT SƯ: THÍCH GIÁC TIẾN – THIỀN NHÂN
Lúc bấy giờ Chư Đại Bồ – Tát ở mười phương thế giới đều là bậc thượng thủ ngự trên hư không nói kệ tán thán công đức của Phật Mẫu Chuẩn Đề vừa xong. Các vị Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật vi nhiễu ba vòng đồng quỳ xuống hiệp chưởng hướng Phật khác tiếng đồng lời bạch rằng : - Ngưỡng bạch, đức Đại Thánh Chuẩn Đề Vương Phật. Chúng con vâng mệnh đức Thế Tôn từ nơi bản quốc đến đây kính lễ thưa hỏi Phật thân tâm có thư thái không? Có ít bịnh ít não chăng? Chúng sinh có dễ độ chăng? Chuyển lời đức Thế Tôn chỉ dạy chúng con nương nơi thần lực mà đến đây thưa hỏi. Kính mong Phật từ bi chỉ dạy phương tiện tu hành thiết thực để chúng con học hỏi những điều chưa học tập và tu tập những pháp còn thiếu sót, xin đức Phật mở lòng rộng độ mà hứa khả cho, xin đức Phật mở lòng rộng độ mà hứa khả cho… Bồ Tát Kim Cang Mật Tích vì chúng Bồ – Tát ở mười phương mà nói kệ khen rằng :
1. Oai nghi rất đẹp lạ Tướng tốt phước trang nghiêm Thị hiện khác phàm phu Do công hạnh tu tập Cần khổ nơi ức kiếp Nghiệp đạo sâu vô lượng Bỏ thân thể đáng yêu Hy sinh không lẩn tiếc Làm lợi ích chúng sinh Để cầu vô thượng đạo 2. Các Bồ – Tát thượng thủ Việc làm đã đầy đủ Hôm nay đến viếng Phật Ngỏ lời tán cúng dường Chuẩn Đề Chân Phật Mẫu Trí cầu tạng Bí-Mật Tỳ lô đại quán đảnh Xuất sinh nhất nghĩa chú Nhập tam muội thành tựu Không lường muôn ức cõi Thoáng qua như hư không Độ ba cõi sáu đường Nơi địa ngục đau khổ Sức chuyên trì chú độ Khổ luyện thành tinh tấn Nhập định chuyển diệu âm Đà-Ra-Ni hộ pháp Chúng Ngạ Quỉ nghe thấy Cổ họng nở to ra Lưu thông sự ăn uống Nhập vào định Ác Thú Đà-Ra-Ni ngữ ngôn Loài súc sinh chuyển động Kiếp thú mau chuyển hóa Thoát khỏi mê ác hại Nhập vào định vô tâm Đà-Ra-Ni vô ảnh Chúng cõi trời mê đắm Ngũ dục trói buộc nhau Liền thức tỉnh rời bỏ Mà theo tu đại đạo Nhập vào tịnh Toái-Trừ Đà-Ra-Ni vô trước Bứt rơi các phiền não Thanh tịnh nhẹ hư không Xú uế liền tan biến Cõi nhân đều cung kính Nhập vào định giáng bạt Đà-Ra-Ni đại chú Các sân nộ tiêu diệt Ánh mắt khởi lòng từ Gươm đao buông xuống đất Chư Quỉ Thần qui phục Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề Thần lực như thế đó.
Bấy giờ Ông Uất-Đơn-Đầu cùng bốn bộ chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di và chúng hội Trời, Người, Quỉ, Thần… mà bạch Phật rằng : - Thế Tôn ! Chúng con hàng hữu học, chưa từng thấy sự cảm ứng diệu dụng mạnh nhanh của các vị đại Bồ – Tát thượng thủ ở mười phương thế giới câu hội đến trong pháp hội này. Lại thưa hỏi những điều chưa từng có dịp nghe Phật chỉ dạy cho hàng Bồ – Tát, rất mong Thế Tôn thọ nạp lời thỉnh cầu của chúng con. Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề từ nơi tam muội Du Hí Đà Ra Ni Giáng Bạt Chú Đại Vũ nhẹ nhàng xuất định mà mở bày pháp âm phương tiện dạy cho tất cả đại chúng rằng : - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhân ! Lời của Phật nói ra đều đúng đắn không hư dối. Đúng như vậy ! Như Lai là đấng ứng cúng chánh đẳng giác, thân tâm ít bịnh, ít não, các phiền trược nhiễm nhơ đã quét không còn chừa. Các pháp Như Lai đã được như đang ẩn hiện trước mắt không bị lệch lạc. Như Lai thị hiện ra cõi đời ác ngũ trược chính là vì có nhân duyên căn lành lớn đối với chúng sanh nơi quốc độ này. Nay ta đem pháp Bí-Mật của giáo môn chỉ dạy riêng cho hàng Bồ Tát để lưu bố kinh này và tất cả chúng sinh trong pháp giới nơi mười phương cõi được sự lợi ích lớn. Sự lợi ích lớn này trong tánh của Như Lai là một sự bất động vĩnh cửu khó ai bì kịp. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhơn ! Pháp Bí Chú của giáo môn Mật Tông xưa nay có tướng mà chẳng phải tướng, vì đó là tường hư ảo chẳng phải chân thiệt. Tướng chân thiệt không thể dùng mắt mà thấy được, không thể dùng tai mà nghe được… v. v… cho đến không thể dùng ý mà suy nghĩ được. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhơn ! Pháp Bí Yếu của giáo môn mật Tông xưa nay có tính mà chẳng phải tính, vì đó là tính hư ảo chẳng phải là chân thật tính. Tính chân thật không thể dùng mắt mà thấy được, không thể dùng tai mà nghe được… v. v… nhẫn đến không thể dùng ý mà suy nghĩ được. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhơn ! Pháp Bí Chú của giáo môn Mật Tông xưa nay vốn có tướng mà tướng bất hư, vì tướng này không ở ngoài, ở trong hay khoảng giữa. Tướng bất hư này không thể dùng mắt mà thấy, không thể dùng tai mà nghe được… v. v… nhẫn đến không thể dùng ý mà suy nghĩ được. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhơn ! Pháp Bí Chú của giáo môn Mật Tông xưa nay có tính mà tính bất diệt, vì tính này không ở ngoài ở trong hay khoảng giữa. Tính bất diệt này không thể dùng mắt mà thấy, dùng tai mà nghe được… v. v… nhẫn đến không thể dùng ý mà suy nghĩ được. Cho nên pháp tướng và pháp tính của giáo môn MậtTông chỉ có Phật với Phật mới hiểu nhau mà thôi. Các hàng Thanh Văn Duyên Giác không thể hiểu được. Duy có hàng Bồ Tát nương nơi sức thần của chư Phật mới có thể biết được tính tướng chân thật của các pháp. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhân ! Pháp tướng Đà-Ra-Ni vốn không diêu động, Thanh Tịnh Đại Cú Nghĩa không thể nghĩ bàn, chưa từng luận thuyết là chỗ sâu mầu tiềm tàng ẩn chứa không thể đến được. Pháp tướng này khó tu khó học, hay xuất sinh các môn Tam Muội Biến Pháp Giới, giúp cho người tu hành nhanh chóng thành tựu môn Tổng-Trì- Đà-Ra-Ni. Pháp tướng Đà-Ra-Ni này ở nơi thế gian hay bị kẻ ác phê phán, Trời, Người không hiểu biết ưa vui thử thách, vì Pháp tướng này chẳng xuất sinh, chẳng biến hiện, chẳng hư ảo chẳng đến đi. Pháp tướng này không bị người tu và kẻ chẳng tu làm tốt làm xấu, làm cho thanh tịnh mà được, vì Pháp tướng này chẳng xuất sinh, chẳng biến hiện, chẳng hư ảo chẳng đến đi. Pháp tướng này không bị người tu và kẻ chẳng tu làm tốt làm xấu, làm cho thanh tịnh mà được, vì Pháp tướng này chẳng bị ô hợp bởi phiền não vọng chấp, chê bai hay bỏ quên, nên gọi Pháp tướng ấy là một trong những tạng Bí Mật khó tu khó học và khó thành tựu. Pháp tính ấy cũng lại như vậy. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhân ! Trong thời kỳ Mạt Pháp nơi quốc độ Thiện Vô Úy ở thế giới Bảo-Đài. Bấy giờ đức Phật Hoa Đăng Vương đã nhập diệt hơn ba ngàn tiểu kiếp. Lúc ấy ta mới sinh trở lại nước Nhân-Đà nơi thế giới Bảo-Đài tu hành Bồ Tát đạo, gặp lúc đất nươc bị hạn hán, thủy triều dâng cao làm trôi dạt tài sản, ruộng vườn, voi ngựa v..v… bị cuốn trôi theo dòng nước. Nhân dân đói khổ lầm than không nơi nương tựa, bệnh dịch nổi lên, tai ách họa hoạn rất nặng nề. Lúc ấy ta vì tất cả chúng sanh mà thủ trì tu tập pháp tướng Đà-Ra-Ni nơi thần chú Tài-Bảo chân ngôn : Úm hoa ti ra, hoa ti ra, hoa ta ra hùm phấn tra …. Trong một thời gian ngắn khiến các vị thần cảm đức đều đem đến cúng dường tài bảo vật thực nơi thân ta. Bấy giờ các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di thấy ta có nhiều tài bảo vật thực như thế, đều rủ nhau xa lánh, họ nghĩ ta chẳng còn chí tâm tu hành nữa. Nhân đó ta đem của cải ấy mà phân phát cho bách tính để cứu khổ do thiên tai gây ra. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhân ! Không phải ta chỉ mới tu tập bài thần chú mầu nhiệm này, mà ta đã từng nhiếp tâm tu tập vô lượng đại thần chú của giáo môn Mật Tông và đến nay đã thành tựu quả vị Tô-Tất-Địa. Vì do sức trì niệm mạnh nhanh như thế, nên ta đã cụ túc mười tám tay sắc vàng óng ánh, trên đỉnh môn lúc nào cũng ẩn hiện chữ ( Án Bộ Lâm – Án A Hồng). Đó là những tướng pháp của giáo môn Mật Tông mà ta đã không ngần ngại giữ gìn suốt trong vô lượng kiếp, thân và tâm không hề chán mỏi. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhân ! Lúc ta hành đạo Bồ Tát nghe Mật Chủ Đạo Sư Đức Phật thuyết về tạng Bí Yếu của chư Phật và dạy cho ta chuyên trì thần chú Tỵ hỏa Đà Ra Ni. Vì sơ ý bỏ quên, nên khi mạng chung ta sinh vào cõi nước có thế giới là Đa-Hỏa, kiếp tên là Hửu Hoại, quốc độ Đại Linh Ứng là chổ có nhiều tai nạn đất nứt, lửa cháy, nước trôi, và đầy rẫy nạn binh đao. Thế giới Đa Hỏa không có Phật, không có hiền Thánh, chúng sinh ngu si chỉ biết sát hại lẫn nhau, hận thù, máu và khói lửa là món ăn chính. Bấy giờ ta ra đời trong dòng dõi Thủ Đà La, thấy dân chúng bị đói khổ vì tai nạn nước lửa nặng nề, nên ta thưa cùng với Cha Mẹ đem của ra bố thí. Không bao lâu của cải hết sạch, Cha Mẹ ta chịu không nỗi sự đói khổ nên đã qua đời. Ta âm thầm vào rừng cạo bỏ râu tóc mặc y phấn tảo ngồi nhập định dưới cây đại thọ. Khi ta nhập vào môn tam muội Định Phân Thủy Đà Ra Ni thời nước liền rút xuống đất và trở về nguồn. Nhưng lửa đã làm khô mặt đất nhanh chóng khiến cho loài người và súc vật đều bị chết lần chết mòn không thể chịu đựng lâu được. Nhà cửa, đền đài, cung điện, vườn cây, ruộng lúa và các nơi cư trú đều bị lửa thiêu. Sức nóng tỏa ra càng lúc càng mạnh mẽ. Chỗ ta ngồi tu cỏ cây đều biến thành màu vàng úa và bốc cháy thành từng cụm, mồ hôi nơi thân thể của ta chảy liên tục. Xác người chạy đến bên ta ngã chết không kể xiết. Trãi qua hơn một tháng ta không có gì để ăn và uống chỉ còn lại bộ xương gầy mặt mày hốc hác, hơi thở yếu ớt. Cây đại thọ cũng vàng úa không còn lá xanh, ta dùng dao cắt vỏ cây để vắt nước mà uống, rồi ngồi kiết già nhập vào tam muội Tỵ Hỏa Đà Ra Ni, nhưng không đạt được. Quá thất vọng và kiệt sức, trong cơn hôn mê ta thấy đức Đại Nhật Như Lai rải lên thân thể ta một dòng nước tịnh thủy, rồi dạy cho bài thần chú Chuẩn Đề :
Khể thủ qui y Tô-Tất-Đế Đầu diện đỉnh lễ thất cu chi Ngã Kim xưng tán Đại Chuẩn Đề Duy nguyện từ bi thùy gia hộ. Nam mô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đề câu chi nẫm đát điệt tha. Án chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề ta bà ha.
- Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhân ! Do nhân duyên ấy, khi ta tỉnh lại thời thấy thân thể phấn chấn khỏe mạnh cơ hồ như trong giấc chiêm bao. Lửa bốn phía càng cháy mạnh, xác nhiều người bị lửa dữ thiêu rụi thành than. Ta liền ngồi xếp bằng kiết già niệm thần chú Chuẩn Đề hơn một nghìn biến lửa dữ bị xô bạt bốn phía an lành. Có nhiều người chạy thoát khỏi lửa đến gần bên ta tức thời được êm mát nhẹ nhàng dường như thoát nạn. Bấy giờ ta liền thúc liễm thân tâm nhập vào đại định Chuẩn Đề Bản-Tôn Đà-Ra-Ni khiến cho trời đất trở lại quang đãng khí hậu điều hòa, cây cối hoa lá trở lại xanh tươi, nhưng chúng sinh chết vô số kể. Từ đó nạn kiếp thiêu mới chấm dứt. Do lẽ ấy mà ta tôn trọng bài thần chú Chuẩn Đề và phát nguyện tu tập trong hằng hà sa ức kiếp đến khi thành vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác được chư Phật mười phương ca ngợi và thọ ký cho ta thành Phật hiệu là Phật Mẫu Chuẩn Đề. Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhơn ! Không phải ta thành tựu thần chú Chuẩn Đề vi diệu Đà-Ra-Ni này ở nơi thời chánh pháp, mà ở trong hiền kiếp ta vì tôn trọng đức Đại Nhật Như Lai mà thủ trì tu tập và làm lợi ích cho vô lượng chư đại Bồ Tát chư hiền Thánh Tăng cùng với Trời, Người, tám bộ quỉ, Thần và được tất cả chúng sinh phát tâm tu học theo con đường của giáo môn Mật Tông mầu nhiệm này. Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề vừa nói xong, ngài Đại Luân Kim Cang Thủ Bồ Tát cùng chư Thiên Nhơn rải hoa cúng dường. Ngài Kim Cang Mật Tích Bồ Tát nói kệ khen Phật:
1. Đức Chuẩn Đề Phật Mẫu Bậc tối thượng Đại Thánh Thủ trì pháp vô ngại Đà Ra Ni bổn tôn Nơi Phật Đảnh quang minh Sắc vàng kim óng ánh Mũ Tỳ-Lô chiếu diệu Sức Đại Mật hàng Ma Nhẫn tu phương tiện pháp Bỏ thân vô số kiếp Để cúng Phật và Tăng Siêng hành Bồ Tát đạo Nghiệp duyên lành cùng dữ Báo ứng có chậm nhanh Sức tinh tấn uyển chuyển Chẳng thóai chẳng sợ sệt Các côn trùng cỏ cây Nghe tiếng mầu vi diệu Mật giáo đại thần bí Thác sinh đều tiến hóa Cọp, Voi, Beo, Sư Tử Bồ Cạp, Nhộng, Rắn Rết Hoặc Ly Mỵ Võng lượng Nghe âm thanh mật chú Bỏ ác đều quy thuận Sự nhiệm mầu khó bàn Diệu chú, Quán Đảnh chú Bi chú, Thanh Tịnh chú Nhất chú, Vô Lượng chú Diện chú, Thâm tâm chú Thiên Thủ, Thiên Nhãn chú Nhập tam muội Từ Tôn Im lặng hằng muôn kiếp Thí ác năng bỏ ác Chí tâm hành Mật Pháp Chẳng ai thấu hiểu được Phiền não hay tảo trừ Hết lòng tế độ chúng Tu món pháp vô lượng Nguyện sẽ thành Phật đạo. 2. Thế gian nhiều đau khổ Biết khổ vui giải thoát Đại chúng lễ cúng dường Bậc Tối Thượng Đạo-Sư Đã lìa sự khủng bố An nhiên định tâm chú Đà Ra Ni tổng trì Vui vẻ khắp đại chúng Lòng Tham lam dập tắt Lửa dữ cõi trần mê Thoáng biến vào hư không Mật pháp hàng Ma Pháp Diệu pháp phục Quỉ-Mỵ Đạo pháp trừ khổ não Chư Phật hằng khen ngợi Đệ nhất Đại Tổng Trì Viên Minh Mật Tạng chú Oai đức lớn trùm khắp Hư không cùng vũ trụ. 3. Tiếng Án, ôm, Um, Um Các thế giới chuyển động Khơi lòng từ lân mẫn Nơi chúng sinh cư ngụ Khiến đó phát tâm lành Tu tập món Mật Giáo Hiển chú đại chân ngôn Sức oai thần chú võ Thông suốt các tiếng tăm Sáu loài chúng sanh thảy Địa Ngục, Quỉ, Ác Thú Thảy đều đến qui phục Trên suốt Trời Cứu-Cánh Dưới đến ngục A-Tỳ Năng trừ tai gió lửa Hoặc kiếp nạn thiêu đốt. 4. Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Khi hành Bồ Tát đạo Dùng tâm từ bố thí Khiến chúng sinh qui ngưỡng Dùng tâm bi, trì giới Phá mê đặng giác ngộ Dùng tâm hỉ, nhẫn nhục Vượt chướng ngại vô minh Dùng tâm xả, tinh tấn Chuyên cần nơi đức hạnh Dùng tâm bất động chuyển Nơi mật định nghiêm trì Khiến đó đặng huệ pháp Rồi nương Đại Tâm chú Cúng dường Phật và Tăng Chư Thiên Long ủng hộ Hoa rưới như trái núi Ủng hộ người trì chú Tán dương đại công đức Trống Trời tự nhiên vang Âm nhạc nhẹ êm dịu Để cúng Phật và Tăng Xuyên suốt pháp mãi mãi Nhơn duyên từ nơi Phật Chuyển đạo từ nơi pháp Tu tập nhờ nơi Tăng. 5. Nên đức Phật Vũ Trụ Mở bày đại thần chú Thọ ký nơi thân ta Thành Phật Mẫu Chuẩn Đề Mười phương các đức Phật Khen ngơi đồn vang khắp Vô lượng chúng Trời, Người Quy- y pháp Mật Giáo Khó nói khó nghĩ bàn Chứng vào môn Tam Muội Thành Vô Thượng Chánh Giác.
2. Bấy giờ các vị đại Bồ Tát ở mười phương nghe lời dạy của Phật Mẫu Chuẩn Đề thảy đều đặng pháp Vô Thượng Đà Ra Ni thành tựu Tam Muội Chuẩn Đề Bản Tôn, vi nhiễu ba vòng rải hoa cúng dường thành kính nói kệ khen Phật :
3. 1. Đấng Tỳ-Lô Mật-Tạng Chiếu soi rõ chân pháp Đà-Ra-Ni Tịnh Địa Vượt khỏi pháp Thế gian vững chắc như Tu-Di Trùm khắp các Phật-Quốc Công đức thật vi diệu 2. Chúng con hàng Bồ Tát Nương Phật lực đến đây Thấy nghe học pháp mầu Tâm tư mau lắng đọng Ít có khó nghĩ bàn Khiến vào các Tất Địa An ổn cả đại chúng Trời, Người đều tin hiểu Vui mừng thấy được Phật Quy-y Pháp mầu nhiệm Viên thành Tối Chánh Giác.
4. Các vị đại Bồ Tát thượng thủ nơi mười phương cúng dường tán thán Pháp Phật vừa xong, rồi làm Lễ đức Phật Mẫu Chuẩn Đề xin trở về bản quốc. Sáu ngàn chúng Thanh Văn được pháp hỷ Đại Tổng Trì. Ba nghìn Bồ Tát được môn Tam Muội Mật Định Bổn Tôn, vô lượng Thánh chúng trong pháp hội đều vui mừng đặng pháp chưa từng có của giáo môn Mật Tông. Tất cả đều tín thọ phụng hành rồi cáo lui.
Nam mô Chuẩn Đề Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)
KINH CHUẨN ĐỀ BẢN TÔN QUYỂN THỨ HAI
Thế Tôn hiển thần thông, chuyển động mười phương cõi. Bồ Tát nghe tiếng tăm, viếng Phật cầu Phật mở lòng từ. Bánh xe pháp xoay mạnh, mở bày tướng chân thật của giáo môn. Nước Nhân Đà hành đạo Bồ Tát. Kiếp Hữu Hoại, Đức Đại Nhật Như Lai truyền Mật Giáo, kiếp thiêu chấm dứt Chú Tổng Trì gợi khơi cơn Mật Định.
Nammô Thường Trụ Thập phương Phật Nammô Thường Trụ Thập phương Pháp Nammô Thường Trụ Thập phương Tăng Nammô Chuẩn Đề Vương Phật (3 lần) (Hết Phẩm Thứ Tư)
KINH CHUẨN ĐỀ BẢN TÔN QUYỂN THỨ BA TẾ ĐỘ Ô NẪU VƯƠNG PHẨM THỨ NĂM Mật sư: Thích Giác Tiến – Thiền Nhân
Khi ấy vào tiết mùa đông, đức Phật Mẫu Chuẩn Đề ngự tại rừng Uôn-Ba thuyết về tạng Bí-Yếu của giáo môn Mật Tông. Một hôm có Tỳ Kheo Sim-Sum Pa đi đến nhiểu quanh Phật ba vòng rồi quỳ xuống chắp tay bạch rằng : - Ngưỡng bạch đấng Đại Thánh Thế Tôn! Hôm nay có nhân duyên lành, hàng Tỳ kheo chúng con số đông vô lượng, nay xin đức Thế Tôn lập ra giáo hội Tăng Già để có người trông coi trước sau tiện lợi cho việc đi lại tu hành trong chúng và giúp cho chúng con bớt phần lo lắng mệt nhọc, ngưỡng mong Thế Tôn từ bi hứa khả lời cầu xin tha thiết này. Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề im lặng không đáp. Tỳ Kheo Sim-Sum Pa tác bạch ba phen thưa thỉnh. Bấy giờ Phật vì ông mà mở lời dạy bảo : - Này Tỳ Kheo Sim-Sum Pa! Những lời giáo hóa vi mật thậm thâm của ta hằng dạy cho các ông từ trước đến nay đều nhắm vào một hướng tu thân và tâm. Hôm nay duyên cớ gì ông xin ta thành lập Giáo Hội ? Giáo Hội Du Già Tỳ Kheo Tăng đã thành lập từ lâu rồi, ông không biết hay sao? Ta đã làm những chỗ không cần làm, vì đó chỉ là hình thức mà thôi. Nếu các ông không chịu tu hành thì thành lập Giáo Hội có ích lợi gì? Ông hãy lo tu hành đi đừng nên vọng tưởng quá đáng sẽ có hại cho tinh thần tu tập. Bấy giờ Phật nói kệ rằng :
1. Hỡi này các Tỳ Kheo Chớ nên nhiều lo lắng Bỏ đi các tục đế Mà nhẫn tu Mật Pháp Phiền não là cơ nguy Đưa người đến chổ ác Kẻ trí nên tránh khỏi Chẳng lầm chẳng thay đổi Ai biết được việc này Tinh tấn khéo tu tập Như Lai thường tán thán Công đức chẳng nghĩ bàn.
2. Nói xong Phật im lặng vào thiền định Mật Giáo Môn Tam Muội Đà-Ra-Ni. Ông Tỳ Kheo Sim-Sum Pa biết không lay chuyển được Phật nên ngài cúi đầu lễ Phật rồi lui ra bên ngoài hiệp cùng ông Diêm Đê Ra Tỳ Kheo và năm trăm vị Tỳ Kheo lặng lẽ rời chỗ Phật ngự ra đi thành lập Giáo Hội riêng biệt. Bấy giờ Ông Uất Đơn Đầu hay tin ấy bèn cùng đại chúng đến bạch Phật rằng : - Kính bạch đức Đại Thánh Thế Tôn ! Ông Tỳ Kheo Sim-Sum Pa và ông Tỳ Kheo Diêm Đê Ra đã hội hợp năm trăm vị Tỳ Kheo vừa rời khỏi đại chúng mà ra đi. Xin Thế Tôn dạy rõ nguyên nhân nào đã khiến cho các thầy Tỳ Kheo làm như thế ? Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề ở giữa đại chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di mà dạy rằng : - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhơn ! Các ông nên biết đường Chân Lý khó đi dễ bị thóai tâm. Người tu hành khó sửa tính ý thanh tịnh, những hạng người biết tu hành rất hiếm ít trong nhân gian, còn những người không tu thời rất nhiều không thể tính đếm thí dụ cho được. Nay ta đem thí dụ để chỉ rõ nghĩa trên. Ví như bọn thương thuyền thích ham sóng gió, bão táp, ngọc ngà, châu báu ..v.v.. nên họ rủ nhau làm thủy thủ sống giữa biển cả. Kẻ cờ bạc ham mê đỏ đen thời chỗ họ thường đến là sòng bài .v.v… Những hạng người này trong chốn nhân gian rất đông. Những người Hiền Sĩ tìm cầu Thiện Hửu-Tri-Thức thời lại rất hiếm ít. Nay Ông Sim-Sum Pa cùng với năm trăm Tỳ Kheo hẹn ước nhau bỏ đi đó là điều tất yếu so với ví dụ của ta. Nếu năm ngàn người trong pháp hội này muốn bỏ đi, ta cũng không ngăn cản được, vì sự giác ngộ và mê mờ không có chổ nương gá, nên không ai có thể phủ nhận việc làm của mình khi đã lỡ gây ra. Tỳ Kheo Sim-Sum Pa ao ước lập ra Giáo Hội, nhưng ta ngăn cản là để trừ vọng nghiệp của vị Tỳ Kheo này, còn các thầy theo ta tu tập công hạnh Bồ Đề số đông vô kể, như vậy ta tuy không lập Giáo Hội Du Già, mà thật ra đó mới chính là Giáo Hội Du Già vậy. Phật Mẫu Chuẩn Đề nói kệ rằng :
3. Hạnh Phật xưa nay đã sẵn rồi Thực hành tu tập khó xét soi Trí nhân nghe thấy đều đúng đắn Lo việc tịnh tu thoát luân hồi Sống chết lại qua trong chớp mắt Có ai hiểu được khéo dừng thôi Lập nguyện chí tu hồi hướng chúng Giác mê nào khác chổ đứng ngồi. Các thầy Tỳ Kheo nghe lời Phật chỉ dạy đúng với chân lý, khiến cho đại chúng và Ông Uất Đơn Đầu sinh lòng quý trọng sâu xa, phát tâm vô thượng Đà-Ra-Ni tu hành không thóai chuyển ghi nhận những lời Phật chỉ dạy mà y giáo phụng hành. Khi ấy ông Sim-Sum Pa rời khỏi rừng Uôn-Ba đến núi Lâu Phất Già dựng lập Giáo Hội, đặt để quyền hành hung hăng ngang ngược khiến cho hơn ba trăm người hiểu được lời Phật dạy quí báu ban đầu mà quay về rừng Uôn-Ba. Tỳ Kheo Sim-Sum Pa không ngừng tạo tội ác, ông cho người giao hảo với vua đại ác tên là Ô-Nẫu-Vương tính ưa chinh phạt, lúc nào thân vua cũng ngồi trên lưng ngựa mang theo cung kiếm, dao nhọn để sát hại kẻ trái nghịch làm vui. Dân chúng trong nước Lan-Ca-Lan bị vua áp bức lưu đày kẻ có tài, phụ nữ có nhan sắc bị đưa vào cung. Cư dân ngoài biển bị khổ sai mò ngọc chết chóc không cùng. Tiều phu trong rừng núi bị sai đi đào vàng kiếm sừng, ngà voi đem về kho tàng lưu trữ. Học trò không được vào trường, bắt làm khinh binh, sách vở bị đốt. Bà già phụ nữ, trẻ con đều lùa ra ruộng đồng cày cấy vất vả có đốc phu đánh đập sai khiến rất là tệ bạc, cơm không đủ ăn. Dân chúng than oán thấu tận trời xanh. Bạo chúa này có một người con trai là Thái Tử Ô-Phiến, lúc sinh ra và lớn lên tính ý hiền hậu thường khuyên cha dừng bớt việc làm phi nhân phi nghĩa. Nhưng vua Ô-Nẫu-Vương không nghe, trái lại trong lúc nóng giận đã toan giết chết Thái Tử. Do đó vua ít gần gũi Thái Tử, những việc làm độc ác đều giữ kín không cho Thái Tử biết, sợ ngài ngăn cản mà hỏng việc đại sự. Lúc ấy Tỳ Kheo Diêm Đê Ra thừa hành lệnh của Tỳ Kheo Sim-Sum Pa đến nước Lan-Ca-Lan, Kinh Thành tên là Diêu-Ác do vua Ô-Nẫu-Vương thống lĩnh cải sửa danh hiệu Tỳ Kheo Diêm Đê Ra đến diện kiến Ô-Nẫu-Vương, rồi dùng lời xúi giục khiến cho vua nổi giận. Ô-Nẫu-Vương liền hẹn ước với Tỳ Kheo Sim-Sum Pa sẽ bất thần tấn công vào rừng Uôn-Ba để chinh phạt Phật Mẫu Chuẩn Đề. Tỳ Kheo Diêm Đê Ra nghe lời ấy xong vui mừng đứng dậy cáo lui. Trên đường về núi Lâu Phất Già, Tỳ Kheo Diêm Đê Ra đi ngang qua ngôi làng Khon-Sa-Bút gặp một thiếu nữ sắc nước hương trời tên là Ma La La. Tỳ Kheo Diêm Đê Ra thuyết phục dụ dẫn khiến cho thiếu nữ Ma La La sinh lòng cảm mến. Thiếu nữ về xin cha mẹ đi theo Tỳ Kheo Diêm Đê Ra làm tín đồ của Giáo Hội Du Già do Tỳ Kheo Sim-Sum Pa chỉ đạo đứng đầu. Những cơ hội ác đã đến, Tỳ Kheo Sim-Sum Pa quên lời Phật dạy sanh ác tâm, có tham vọng muốn chiếm đoạt cả đại chúng của Phật Mẫu Chuẩn Đề, nên tự xưng mình là Giáo chủ Sim-Sum Pa chí tôn, ngầm cho người đến rừng Uôn-Ba gặp ông La Hán Uất-Đơn-Đầu hợp tác với Giáo Hội Du Già bằng những lời khuyến dụ. Nhưng Ông Uất-Đơn-Đầu đã từ chối và im lặng. Giáo Chủ Sim-Sum Pa sai Tỳ Kheo Diêm Đê Ra dẫn thiếu nữ Ma La La sang rừng Uôn-Ba để phá hoại công hạnh của Phật Mẫu Chuẩn Đề, đồng thời ước hẹn với vua Ô-Nẫu-Vương xua binh mã tàn sát khu vực rừng Uôn-Ba chỗ Phật đang ngự cùng với bốn bộ chúng. Lúc bấy giờ Phật Mẫu Chuẩn Đề từ nơi chánh định dậy an lành, rồi bảo các thầy Tỳ Kheo rằng : - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhân ! Các ông hãy y theo giáo môn Mật Tông này của ba đời chư Phật, an trú tâm mình vào con đường Thánh Thiện thanh cao, phiền não của các ông sẽ xoay chiều chuyển động như cái chong chóng, rối loạn tơi bời không còn hàng ngũ, như kẻ bại trận, chỉ còn con đường duy nhất là phải quy thuận chánh niệm Mật Pháp. Đây là lời của ta đã nói cũng như lời của bảy mươi ức câu chi đức Phật đã nói trong sự quyết định để cho hàng Thanh Văn, Duyên Giác các ông tu tập, biết được tâm mình như đang soi gương đẹp xấu tự rõ nét. - Này Thiện Nam Tử ! Thiện Nữ Nhân ! Những ai tự gieo điều ác cảm phiền não cho riêng mình, kẻ ấy như người mù loạng choạng té xuống bùn nhơ, trần lao vọng nghiệp rất nặng, đời đời sinh ra không thấy đạo Chánh-Giác, ví như người mù suốt đời không thấy được ánh sáng. Nếu có thấy đó chỉ là một cơn ảo giác huyễn mộng. Chúng sinh khi tạo tội ác dù lớn hay nhỏ cũng đều ham thích, họ tạo tác một cách mù quáng mà không biết tai nạn sẽ đến trong khoảnh khắc. Chư Phật đã tự rõ biết tâm mình và tâm chúng sinh mà hằng ban bố cho Pháp hỷ Thanh-Tịnh Đà Ra Ni, cho bầu diệu dược Thánh Thiện mật ngôn, cho pháp Đà Ra Ni chú mênh mông để che đậy tội lỗi và ảo giác quán. - Này các thầy Tỳ Kheo ! Các thầy biết cái nhân khổ là khổ khổ thì tu tâm tức là hết khổ, vì khổ ấy không có nguồn gốc, mà tâm ý vốn dĩ vô căn. Hai thứ này gặp nhau đối trị thời cái khổ nhân liền tan biến, cái tâm tu cũng không còn, chỉ còn khoảng không vắng lặng. Sự im lặng đó chính là chữ Om nằm trên đỉnh môn, cũng là tạng Bí Mật Du Gìa của giáo môn Mật Tông vậy. - Này các thầy Tỳ Kheo ! Các thầy biết cái quả là khổ thời chớ nên gieo cái nhân khổ. Do chẳng gieo nhân nên cái quả khổ chẳng từ đâu mà sinh. Hai thứ này bị cắt đứt nguồn gốc cái khổ liền tan biến, mà cái tâm cũng không còn, chỉ còn khoảng không vắng lặng. Sự im lặng đó chính là chữ Om nằm trên đỉnh môn, cũng là tạng Bí-Mật Du-Già của giáo môn Mật Tông. - Này các thầy Tỳ Kheo ! Các thầy biết tạo lành là cái nhân vui giúp đỡ chúng sinh, nên nỗ lực tu hành. Cái nhân vui này vốn dĩ không có nguồn gốc và tồn tại không bao lâu. Tính và tướng không có chỗ trụ nên cái nhân vui liền tan biến, cái tâm tu cũng không còn, chỉ còn khoảng không vắng lặng. Sự im lặng đó chính là chữ Om nằm trên đỉnh môn, cũng là tạng Bí Mật Du Già của giáo môn Mật Tông. - Này các thầy Tỳ Kheo ! Các thầy biết đạo lành là cái quả vui giúp đỡ chúng sinh nên nỗ lực tu hành. Cái quả vui này vốn không có nguồn gốc và tồn tại không bao lâu. Tính tướng không có chỗ trụ nên cái quả vui liền tan biến, cái tâm tu cũng không còn, chỉ còn khoảng không vắng lặng. Sự im lặng đó chính là chữ Om nằm trên đảnh môn cũng là tạng Bí Mật Du Già của giáo môn Mật Tông vậy. - Này các thầy Tỳ Kheo ! Các thầy thường an trụ trong chánh niệm giải thoát Đà Ra Ni môn để tảo trừ vọng nghiệp điên đảo. Lúc vọng tưởng biến mất thời chánh niệm cũng không còn, chỉ còn bầu vắng lặng hư không tĩnh mịch. Đây gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân Tam-Muội Đà Ra Ni. Cũng ví như ta nói Pháp các thầy Tỳ Kheo lắng nghe, khi ta nín nghĩ, thì lời nói của ta và cái nghe của các thầy cũng không còn. Chỉ còn lại sự im lặng rỗng không đầy đủ thiện mật Trí Huệ Đà Ra Ni mà thôi. Ông Uất-Đơn-Đầu muốn khai thông nguyên lý của pháp tu hành cho chính mình và tất cả đại chúng trong Pháp hội. Ông vi nhiễu ba vòng rồi quỳ xuống bạch Phật rằng : - Ngưỡng mong đấng thánh chúa Sư Tử chỉ dạy cho chúng con. Bạch Thế Tôn ! Nếu hư không là chỗ vĩnh hằng thị tịch Niết Bàn, thì riêng ai cũng sẵn có. Vậy phiền não ô nhiễm cả đời con người khi chết lại trở về hư không, vậy thì cần gì phải tu, cần gì phải học, cần gì phải nỗ lực tu tập giáo môn cực khổ này ? Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề chỉ dạy đạo toàn chân : - Này Ông Uất-Đơn-Đầu ! Ông chớ nên nói sự nỗ lực tu tập nơi giáo môn này là cực khổ. Theo nghĩa ông hỏi như thế là chẳng đúng. Con người lúc sinh ra không biết gì tự chiêu cảm lấy ác nghiệp, đến khi gặp Thiện Trí Thức được giác ngộ bỏ ác nghiệp mà tu hành. Như vậy hai hoàn cảnh trái nghịch nhau, một bên là vắng lặng thanh cao, một bên là dẫy đầy ác nghiệp điên đảo sầu thương. Nếu đem so thì sẽ thấy rất rõ rệt. Các ông chớ vội cho cái tính này không bị ô nhiểm là lầm lẩn, mà phải nói sự ô nhiễm này không chừa một ai cả. Chỉ khi nào hành giả biết tu và tự tu thời tâm tính mới được nhẹ nhàng thư thả vắng lặng. Đây gọi là Tam Muội Tịch Tà Biến Pháp Giới Đà Ra Ni Cú, mà hàng Thanh Văn Duyên Giác cần phải tu cần phải học. Bấy giờ Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề liền nói kệ rằng :
1. Này các thầy Tỳ kheo Trong hằng sa số kiếp Ta vì pháp bỏ thân Tìm cầu trong vũ trụ Đạo chánh để tấn tu Nghe đạo tâm an lạc Bỏ quên các vật chất Thấy đạo lòng hân hoan Quên cả mọi cảnh vật Hy sinh không lẫn tiếc Giác ngộ cảnh vô thường Tâm ta hằng lắng đọng Mê đạo chẳng mê ăn Ham tu chẳng ham ngủ Dù mạt Pháp đã đến Chánh đạo chẳng lưu truyền Vì cần cầu đạo cả 2. Vấn thân khắp bốn phương Để tầm bậc đạo sư Thân thể dù yếu đuối Sắp chết hồn lìa xác Thâm tâm vẫn kiên cố Bền chặt chí không phai Vì để cầu chánh Pháp 3. Hỡi Nam Tử ! Nữ Nhân ! Lời Phật không hư dối Chẳng phỉnh nịnh gạt người Kẻ chẳng biết ưa vui Thử thách việc ta làm Vì đạo ưa tu đạo Bỏ thân thể đáng yêu Thế gian vua cõi chết Vô thường đến dẫn dắt Nào ai tránh khỏi được Thấy chết mà chẳng chết Vì để cầu chánh Pháp 4. Các thế giới mười phương Qua lại trong chớp mắt Thọ mạng rất bền chắc Cũng không ai hay biết Việc của Phật đã làm Dù sinh ở cõi Trời Cũng chẳng màng địa vị Nhớ đạo lòng bỏ ác Tìm đạo thí công lao Qui ngưỡng Thiện Tri Thức Tập rèn luyện chịu khó Dậy sớm lúc thức khuya Thân thể tuy mỏi mệt Mà thân tâm kiên cố Vì để cầu chánh Pháp 5. Mỹ Pháp và Hải Pháp Ảo Pháp thuật Tổng Trì Chân Pháp thành Pháp Báu Tạng Pháp cùng Mật Pháp Định Pháp, Vắng Lặng Pháp Các Pháp tướng như thế Phương tiện tu phạm hạnh Chẳng sợ chẳng chướng ngại Bi Pháp và Từ Pháp Mẫn Pháp, Đại Chú Pháp Toái Pháp, Hàng ma Pháp Chuẩn Đề Viên Định Mật Từ vô lượng ức kiếp Trở lại vẫn còn thừa Sức tu trí không nản Thân mệt, tâm chẳng phai Thế gian nhiều sự ác Nối nhau thành hiểm họa Thấy chúng sanh đau khổ Sáu nẻo cùng ba đường Chẳng bao giờ ngưng dứt Kiếp số không cùng tận Thấy chúng sinh tạo tội 6. Như Lai vì đó nói Diệu nghĩa của các khổ Khiến đó liền quy thú Các Tỳ Kheo phá giới Nghe tịnh pháp ta nói Ngẫn ngơ xin về nương Đạo có nghĩa thường còn Ham đắm mà bắt lấy Như nắm vào khoảng không Chẳng hiểu được đạo Phật Vô thường tuy có nghĩa Sự thật vốn xưa nay Không ai không chấp nhận Nhưng nghĩa đó chẳng có Vì mê nên lầm lẫn Pháp chẳng luận vô thường Hai nghĩa này khác xa Nên gọi là chân Nghĩa Chú Nghĩa Đà Ra Ni Tổng Trì các Mật Nghĩa Thu gọn trong Diệu Pháp Trãi qua hằng sa kiếp Cũng vì cầu chánh pháp Như Lai hành Mật Pháp Chuẩn Đề Định Bản Tôn Do lòng tin sâu chắc Ý chí lại kiên cường Nhẩn tu lòng chẳng sợ Quy-y các đức Phật Trời, Người rãi hoa cúng Âm nhạc tự nhiên vang Sáu loài chúng sinh thảy Nghe tiếng chú vang dội Thức tỉnh nhẹ an vui Tự nhiên đặng giải thoát 7. Ta tầm cầu chánh pháp Dù thân thể đáng yêu Bị tàn tật, câm, ngọng Điếc, lác hoặc gù lưng Bị kẻ hại đánh đập Bức tử uống thuốc độc Không thể cầm cự lại Vẫn không thể bỏ quên Con đường sáng chân lý Của các Phật ba đời Hôm nay giữa pháp hội Ta thành Tối Chánh Giác Chính nhờ sức bền trí Không lay cũng không chuyển Trãi qua vô ức kiếp Thành vô thượng Bồ Đề.
Thuyết xong lời kệ pháp, Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề nhập vào Tam Muội Đệ Nhất Ngữ Ngôn Đà Ra Ni không gián đoạn. Khi ấy ven rừng Uôn Ba Ô-Nẫu-Vương cùng với đoàn quân thiện chiến cung tên giáo ngắn giáo dài hơn mười nghìn người kéo đến định tàn sát phá hoại chổ tu hành của Phật để cho Giáo chủ Sim Sum Pa được thống nhất Giáo Hội chư Tăng. Bấy giờ đức La Hán Thiên Long hành giả trong cơn thiền định sâu thẳm vào môn Tam Muội Ly Ác Chư-Thiền Đà Ra Ni quên tất cả cảnh vật bên ngoài, thân và tâm bất động. Lúc ấy ở ven rừng Uôn-Ba đoàn quân của vua Ô-Nẫu-Vương kéo đến uy hiếp La Hán nhưng không thành, chúng lấy giáo đâm vào đùi vào lưng vào bụng máu chảy đầm đìa mà La Hán vẫn giữ gìn vị trí của Đại-Tam-Muội. Quân sĩ về cấp báo cho vua biết, vua Ô-Nẫu-Vương thân hành đến, vứa thấy La Hán Thiện Long, vua rút tên lắp vào dây cung bắn liền ba phát, tên ghim sâu vào thân của La Hán, máu tiếp tục thi nhau chảy ra rất nhiều, mà La Hán vẫn giữ vững thân mình trong cơn đại định. Khi ấy nơi cung Trời Đế Thích đức vua đang ngự tại Thiện Pháp Đường để xem kinh thư, bỗng nhiên có ánh sáng từ đâu chiếu đến thân vua, Khiến cho vua cảm thấy làm lạ. Vua Đế Thích Tiên-Chủ liền cùng với các vị Đế Thích xem xét ánh quang minh, thấy đức La Hán Thiện Long đang tu hành nơi đại tịnh tam muội bị nhiều người đến gần toan ác hại. Tiên-Chủ Đế Thích lấy nước tịnh thủy rải lên người của đức La Hán khiến cho cung tên đều hóa thành bông sen, máu biến thành sữa. Vua Ô-Nẫu-Vương vô cùng kinh ngạc và tức giận cùng với quân sĩ áp đến định giết La Hán lần thứ hai. Nhưng lòng đất tự nhiên chuyển động dữ dội, đất nứt nẻ thành một bờ vực thẵm sâu hút chôn sống vua Ô-Nẫu-Vương và cả đoàn quân. Đức La Hán Thiện-Long sinh tâm từ lớn cầu Phật mở lòng bi thương xót cứu vớt chúng sinh. Tức thời ngài nương theo thần lực của Phật thị hiện thần thông hóa ra hai bàn tay lớn đưa vua Ô-Nẫu-Vương và cả đoàn quân lên khỏi mặt đất. Mặt đất từ từ khép lại như cũ, vua Ô-Nẫu-Vương sợ hãi kinh cuồng quỳ xuống chắp tay sám hối, cả đoàn quân cũng đều làm như thế. Tiên chủ Đế-Thích khiến các vị trời rải hoa cúng dường La-Hán rồi trở về Thiên Cung. Bấy giờ vua Ô-Nẫu-Vương bạch cùng ngài Thiện Long Tôn Giả rằng : - Ngưỡng bạch đức La-Hán Đại Tôn Giả ! Tôi từ xưa đến nay chưa từng thấy người nào có tâm tốt cùng sức thần thông tự tại như thế. Rất mong ngài chiếu cố cho bọn chúng tôi được quy-y cải tà quy chính sám bỏ lỗi lầm ngày hôm nay. Ngài La Hán Thiện Long ôn tồn chỉ dạy : - Xin Đại Vương hãy đến sám hối với Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề, tôi nay nhờ nương oai thần của Phật mà được những sự không thể nghĩ bàn như thế. Đức La Hán nói kệ rằng :
Oai đức đại dũng mãnh Thắng phục sự kinh sợ Sự ác đều lui tán Gương Phật rất trong sáng Suốt thấu như lưu ly Khó bì hạnh vô thượng Trí Phật không nao núng Hổ lang rất nguy hiểm Dường tợ như chỗ không Phật là đấng đại giác Bước đi nhẹ trang nghiêm Trời người đều kính phục Mắt Phật rất chiêu cảm Tận đáy lòng chúng sinh Các tướng tốt đẹp lạ Khiến cả ác ngơ ngác Nghe pháp âm vi diệu Bỏ gươm giáo quy y Đại vương nên viếng Phật Để nghe lời chỉ dạy Cao Thượng khó nghĩ bàn.
Nghe bài kệ ấy xong, vua Ô-Nẫu-Vương vì kính mến công hạnh của ngài Thiện Long Tôn-Giả nên ưng thuận đến đảnh Lễ Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề để quy-y sám hối. Đức vua cùng mười vạn binh sĩ đồng đến chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, mắt chẳng tạm rời đồng cất tiếng bạch rằng: - Chúng con xin quy y Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề. Chúng con xin quy-y Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề. Lúc bấy giờ, Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề ở nơi tam muội đại định mà dậy an lành. Ngài Thiện Long Tôn Giả tác bạch duyên sự của vua Ô-Nẫu-Vương, rồi thưa hỏi rằng : - Bạch đức Đại Thánh Thế Tôn! Hàng đệ tử chúng con do vô minh che đậy không biết lỗi lầm phạm phải tội ác. Nay tỉnh ngộ lòng ăn năn muốn rửa sạch tội lỗi. Kính mong Phật vì tất cả chúng con ban bố pháp lành dạy cho cách quy-y sám hối tu hành thiện nghiệp, để cho chúng con có chổ quy thú về nương. Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề vì bốn bộ chúng và vua Ô-Nẫu-Vương mà mở lời dạy rằng : - Này Đại vương nên biết! Nếu có Trang Nam Tử, Thiện Nữ Nhân nào hay quy thú thiện pháp Mật Giáo Môn Du Già Đệ Nhất Căn Bản Bản Tôn Đà Ra Ni chú này, thời thường sinh căn lành tính tâm vững chắc, tội lỗi mau được rửa sạch tiêu trừ không còn hoạnh tử khổ đau nũa. Nếu người đó biết xả bỏ quá khứ ác, vật ác, hành động ác, cử chỉ ác, tôi tớ ác, bạn ác v.v… Đây gọi là môn Ly Chư Ác Thú Tam Muội Đà Ra Ni, rất được Người, Trời và thế gian tôn trọng. Ở thời hiện tại và vị lai cũng lại như vậy. - Này Đại Vương nên biết! Người quy y sám hối là người biết sửa tâm ác thành tâm thiện đây gọi là Tổng-Trì Đà Ra Ni Chú. Người không biết quy-y sám hối sửa tâm chân chính đánh mất căn lành đây gọi là tính phàm phu. Người biết ăn năn sám hối sửa tâm chân chính, được một thời gian ngắn tự nhiên buông bỏ Pháp sám hối thi hành tội ác, đây là người thiếu nghị lực không đủ sức mạnh kiềm chế hành động của mình. Người biết ăn năn sám rửa lỗi lầm hay có tâm tỉnh ngộ cho kẻ khác bằng hoàn cảnh ác khiến kẻ đó phát tâm Bồ-Đề vun trồng cội phúc, tín căn tinh tấn, người này rất hiếm quý trong chốn nhân gian là vị Bồ-Tát nghịch cảnh ưa hành đạo khó hành. - Đại Vương nên biết! Ngươi biết sửa lỗi lầm quay về nẻo chính cải ác thành thiện tinh tấn lướt lên, dùng sức mạnh lương tâm vượt qua tất cả chướng ngại khổ đau và hoàn cảnh nghịch trong hiện tại, cố gắng khắc phục để tu hành hóa độ chúng sinh không mỏi mệt trong hiện tại. Những hạng người này rất hiếm quí trong chốn nhân gian có một công hạnh cực kỳ quý báu, đó là nhờ tu tập Mật-Giáo Môn Tam-Muội Đà Ra Ni vậy. - Này Đại Vương! Bản lai con người sinh ra không có tính ác. Bản Lai Thánh-Hiền sinh ra không có tính thiện. Đó là do tập nhiễm tính khí của con người có sai khác nhau về hoàn cảnh thiện ác, luân lý và đạo đức mà hàng Thanh Văn, Duyên Giác cần phải tu cần phải học. Ngài Thiện Long Tôn Giả lại bạch Phật rằng : - Bạch Đức Đại Thánh Thế Tôn! Ngưỡng mong Phật từ bi chỉ dạy cho chúng con được biết ác ở đâu mà có, thiện ở đâu mà sinh? Tập nhiễm là cần hay không cần? Tánh khí chúng sinh hay thay đổi, làm sao quyết định được là người giác ngộ hay còn mê mờ ? Phật-Mẫu-Chuẩn-Đề nghe xong lời tác bạch, ngài khen ngợi đức Tôn Giả Thiện Long rồi dạy rằng : - Này Thiện Long Tỳ Kheo! Cái tâm ác mà có chẳng phải tự sinh, cái tâm ác tự sinh chẳng phải là tự có. Do lẽ này hai nghĩa trái nhau, người làm ác biết mình không cố ý nên mới có chổ sám hối. - Này Thiện Long Tỳ Kheo! Cái tâm thiện mà có cũng chẳng phải tự sinh, cái tâm thiện tự sinh cũng chẳng phải là thật có. Bởi vì hai nghĩa này trái nhau, nên người tu thiện khi vận công phu tu tập có thể mất tâm Bồ-Đề nếu gặp nghịch cảnh, mà hàng Thanh Văn, Duyên Giác cần phải chú ý điểm này. - Này Thiện Long Tỳ Kheo! Tập nhiễm thói quen tức là có hại, dù thiện hay ác cũng thế. Ví như người đánh xe ngựa đi trên con đường rộng và bằng thẳng. Nếu người ấy có thói quen cho ngựa hướng về bên phải mà chạy, tức thời cả người lẫm ngựa đều rơi xuống lề đường, nếu lái cho ngựa chạy về bên trái cũng lại như thế. Nhưng người có trí biết đánh ngựa đi theo con đường rộng và thẳng không có thói quen hướng về bên trái hay bên phải nên người ấy đi suốt cả chặng đường dài theo ý muốn của mình. Do đó mà biết rằng tập nhiểm dù tốt hay xấu cũng đều lọt vào thói quen tai hại, chỉ có duy nhất để tâm thanh tịnh là quí báu hơn hết. Này Thiện Long Tỳ Kheo! Tính khí con người không có gì quyết định được, trừ khi bản thân tự quyết định cho mình một hướng đi trung đạo đến vô thượng chánh-Đẳng Chánh Giác mà thôi. Bấy giờ đức Phật trùng tuyên lại nghĩa kệ rằng :
1. Chư Phật cả ba đời Y theo Pháp Mật Giáo Đà Ra Ni Tối-Thắng Mà viễn ly ác nghiệp Lìa bỏ các tập khí Chủng tử dễ ô nhiễm Đánh đấm đâm giết chết Thuốc độc và cạm bẫy Bài bạc, rượu chè chén Dối gạt thích dua nịnh Mỵ bày việc hung hiểm Thích dục lòng ưu vui Sống ác chẳng biết ác Gần tội chẳng biết tội Chẳng biết được chân lý Nhận kẻ dữ làm thân Chẳng phân biệt phải trái Mà tạo tội vô lượng Do vô minh che đậy Kẻ phàm tục đê mê Danh lợi mồi cám dỗ Làm hại nhiều thế nhân Bạc ác và phi nghĩa Như thú dữ rình mồi Chẳng thiết gì mạng sống Thế gian nhiều đau khổ Chất chứa nhóm phiền não Như dao cắt vào thân Mình mẩy đều thương tổn Máu chảy tuôn xối xã Kẻ ngu ham nương gá Tội khổ tự chuốt lấy Bởi vô minh làm hại 2. Chẳng thấy được đạo nghĩa Gốc tham vua lớn nhất Giục giã kẻ trần mê Chạy vào đường ác đạo Thi đua rất hăng hái Dù chết cũng cam lòng Như thiêu thân vào lửa Chẳng biết gì khổ chết Thế gian ưa vật dục Kẻ mê mẩn đáng thương Loay hoay không định hướng Bởi vô minh làm hại 3. Tội nghiệp tuy chưa có Mà nay đã sẵn chờ Chúng sinh nhiều si mê Theo đường ác ghê sợ Lấp ló những tà kiến Vọng chấp theo điên đảo Tự cho là đúng đắn Chẳng biết các quả báo Chiêu cảm từ nơi thân Tham dục theo bóng sắc Ảo vọng và cuồng nhiệt! Bởi vô minh làm hại 4. Các Tỳ-Kheo nên biết! Dầu làm ác rất lớn Mà nó chẳng đến đâu Mục đích không định hướng Nên lọt vào nhân quả Tội báo không cùng tận Kẻ trí biết tội lỗi Chỉ một lần quay đầu Bến giác sẽ gồm thâu Các ác nghiệp lắng động Lần hồi mau tan biến Như mây che ánh trăng Mây tan gió thổi đến Trăng sáng chiếu mênh mông Trí Phật cũng như thế Từ bi vô chướng ngại Diệu dụng dạy chúng sanh Cứu thoát tam đồ khổ Tuy làm việc khó làm Chư Phật đủ bi nguyện Cảnh tỉnh lòng nhân thế Không thêm cũng không bớt Xoa dịu vết thương đau Tắm rửa căn nhơ đục Siêng năng thường tu tập Hàng phục các phiền não Trở thành ý Thánh Pháp Dụ dẫn các tà kiến Ác kiến và biên kiến Xảo kiến cùng dục kiến Chấp kiến, nghịch kiến thảy Đều trở thành đạo bạn Việc khó làm như thế Trời người không làm được Nên khiến người tu tập Được công đức xuất thế Gọi đó là chư Phật Nhổ được gốc sinh tử Nguyên nhân tạo các khổ Bứng được cội phiền nảo Tập chủng các nghiệp ác Mà viễn ly thế gian Viên thành vô thượng đạo. Nam mô Chuẩn-Đề Hội Thượng Phật Bồ-Tát (3 lần)
Hết Phẩm Thứ Năm |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
phannt55 |
Đã gửi: Thứ 4 14/09/11 15:02
|
|
|
TRỊ ĐAU NHỨC SỐ 1
( Không phương pháp nào qua khỏi cách này )
Trước hết, quý vị hãy gia trì Chú Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn: OM RAM ( " RAM " ( Thượng Đế ) đối với người Hindu ( Ấn Độ giáo ) thì đó lại là 1 tên gọi thiêng liêng, và họ sẽ rung lên vì xúc động khi nghe tụng " RAM " ( Án Lam ) 1 cách sùng kính. Thế nhưng, tất cả những cái đó đều chỉ là quy ước. Câu Kinh này mời quý vị quay về. Hãy trở lại với âm thanh. Quý vị sẽ khám phá ra điều chính yếu ẩn đằng sau những rung động này: một cách cảnh giác! Hãy cố hiểu ), kế đến là Chú Tịnh Tam Nghiệp Chơn Ngôn: OM TRI-RIM ( Văn Thù Hộ Thân Chơn Ngôn ). Đây là 2 Bộ Chú trong Ngũ Bộ Chú của Mật Tông Phật Giáo Bắc Tông ( Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn là Bộ Chú dùng để tẩy trừ những " UẾ TRƯỢC "; còn Tịnh Tam Nghiệp Chơn Ngôn là Bộ Chú dùng để Hộ Thân và trị Đau Nhức. Xin quý vị hãy xem thêm Bộ Mật Tông của Cố Thượng Tọa Thích Viên Đức để hiểu rõ thêm về Công Dụng của 2 Bộ Chú này ).
*Phương Pháp Gia Trì Dùng Để Chữa Trị:
1.Cách 1 ( Dùng 1 tay ): quý vị dùng bàn tay Trái ( hoặc bàn tay Phải ) che ( bụm ) lên " Miệng " của mình, còn Miệng thì lâm râm đọc Chú " OM RAM - OM TRI RIM " ( 7-21-27-48-54-81-108 lần ) để gia trì vào lòng bàn tay, sau đó hãy lấy bàn tay mình ra và " HÀ HƠI " ( 3-7 hơi ) vào trong lòng bàn tay, rồi hãy xoa-bóp vào vùng đau - chỗ đau nhức ( Hà Hơi là thổi Hơi Ấm ( Dương ) khi thổi mạnh thì Hơi thổi ấm kích thích mọi vùng trên cơ thể. Hơi ấm được thổi Sát Da độ 1-2cm, thì cảm giác nghe " Nóng ", thổi bằng cách Miệng hé mở, thở ra dài hơi 3-7 hơi ( tức là mình mở to Miệng, thóp bụng mạnh hà hơi ra, giống như khè-hàn vậy ).
2.Cách 2 ( Dùng 2 tay ): quý vị dùng Mắt của mình nhìn vào lòng đôi bàn tay của chính mình và đọc 2 Bộ Chú " OM RAM - OM TRI RIM " ( 7-21-27-48-54-81-108 lần ), rồi sau đó hãy xoa-bóp vào vùng đau - chỗ đau nhức và kèm với phương pháp " THỔI NGẠT " vào vùng đau - chỗ đau nhức ( Thổi Ngạt là thổi Hơi Lạnh ( Âm ) nhằm xoa dịu, giải tỏa mọi khó chịu và đau nhức. Hơi lạnh thì luôn luôn được thổi cách khoảng ( cách Da 10cm ), thì cảm giác nghe " Mát Lạnh ", thổi bằng cách chúm Miệng hình chữ " O " mà thổi 3-7 hơi giống như mình thổi Lửa nấu Cơm vậy ).
3.Cách 3 ( Cách khoảng - ngoài tầm ): Mắt nhìn thẳng trực tiếp vào vùng đau - chỗ đau nhức, Miệng thì lâm râm niệm Chú " OM RAM - OM TRI RIM " ( 7-21-27-48-54-81-108 lần ), sau đó dùng phương pháp " HÀ HƠI + THỔI NGẠT " vào vùng đau - chỗ đau nhức. Nhằm xoa dịu, giải tỏa mọi nỗi đau nhức.
4.Cách 4 ( Dùng Nước thay cho Kem-dầu xoa-bóp ): đọc 2 Bộ Chú " OM RAM - OM TRI RIM " ( 7-21-27-48-54-81-108 lần ) vào trong ly Nước Lọc, rồi dùng Nước này thoa vào vùng đau - chỗ đau nhức, gia trì thêm Chú " OM RAM - OM TRI RIM " ( 7-21-27-48-54-81-108 lần ) kèm với phương pháp " HÀ HƠI + THỔI NGẠT " vào vùng đau - chỗ đau nhức, thì cơn đau nhức sẽ tự động chạy mất tiêu.
Trong 4 phương pháp gia trì Chú Ngữ để chữa vùng đau - chỗ đau nhức, thì cách 3 đạt hiệu quả ít nhất, nó chỉ có kết quả đối với những vị có Đạo Lực ( Mật Lực ) do đã tu trì lâu mà có; cách 4 đạt kết quả cao nhất trong cách phương pháp gia trì để chữa trị; còn cách 1 và cách 2 vẫn có kết quả tốt, kể cả những người chưa bao giờ tu trì hoặc có tu trì chút ít, tùy thuộc vào Tâm-Hạnh, Nghiệp Quả và Phước Duyên của từng người mà thôi. Chống chỉ định trong trường hợp " Đau Ruột Thừa Cấp Tính ", khi có dấu hiệu đau Vùng bụng phía bên tay Phải, thì phải được theo dõi, chuẩn đoán và điều trị theo sự trị liệu của Bác Sĩ ( Đừng chết vì thiếu hiểu biết. Xin hãy cẩn trọng cho! ).
Hãy nhớ là xoa-bóp nhẹ nhàng theo kiểu Massage thư giản và không được bao giờ dùng Kem-dầu nóng để xoa-bóp vào vùng đau - chỗ đau nhức( Nhất là không được dùng sức của mình mà đánh đập công phá vỗ đập vào vùng đau - chỗ đau nhức, vì nó đang " bị đau " không nên làm nó " đau " thêm nữa. Nếu dùng sức mà vỗ đập vào vùng đau - chỗ đau nhức, thì ta sẽ có cảm giác " cơn đau nhức " sẽ hết ( tạm thời lắng đi ), nhưng về sau nó càng trở nên nặng hơn và phải tốn mất khá nhiều thời gian để chữa trị kéo dài. Điều này được minh chứng qua bản thân tôi ).
" Cơn đau nhức " sẽ hết dứt trong vòng 5 phút đồng hồ ( theo kinh nghiệm của chính bản thân tôi và 1 bậc Thầy Mật Tông ). Nếu cơn đau nhức dai dẳng kéo dài, thì quý vị hãy dùng cách 4 mà chữa trị, nhớ gia trì 2 Bộ Chú " OM RAM - OM TRI RIM " cho thật nhiều vào vùng đau - chỗ đau nhức, thì nội trong 3-4 Ngày, thì tất cả mọi bệnh tật và cơn đau sẽ dứt tuyệt.
Bây giờ, tôi mới hiểu được câu nói: " Đôi bàn tay kỳ dịu " - " Lắng nghe đôi bàn tay mình " - " Bàn tay ánh sáng " của các tác giả về bộ môn Nhân Điện ( Năng Lượng Sinh Học ), là " XOA DỊU MỌI NỖI ĐAU ). Vượt trên bình diện cao hơn cả, đó chính là câu nói " PHẬT PHÁP NHIỆM MẦU " là như thế đó |
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
lunchu_m |
Đã gửi: Thứ 5 24/11/11 21:53
|
|
|
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 3 27/12/11 0:43
|
|
|
KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN – QUYỂN VI, PHẨM TẾ ĐỘ NHÀ BIỆN BÁC TA-MA-SA THỨ MƯỜI BA KINH CHUẨN ĐỀ BẢN TÔN QUYỂN THỨ VI MẬT SƯ: THÍCH GIÁC TIẾN - THIỀN NHÂN
TẾ ĐỘ NHÀ BIỆN BÁC TA-MA-SA PHẨM THỨ MƯỜI BA
Lúc bấy giờ lão Tôn Sư Duyệt Bát muốn tranh chấp việc cúng dường và phá hoại công hạnh của Phật, nên lão Tôn Sư cùng với Thất Đạo Tinh Quân gồm có: một là Hồng Đạo Tinh Quân, hai là Hoàng Đạo Tinh Quân, ba là Bạch Đạo Tinh Quân, bốn là Xích Đạo Tinh Quân, năm là Thanh Đạo Tinh Quân, sáu là Hắc Đạo Tinh Quân, bảy là Trợ Đạo Tinh Quân cùng nhau kéo đến rừng Ô Ta chủ ý muốn phân cao thấp với Phật Mẫu Chuẩn Đề. Thế lực của lão Tôn Sư rất hùng mạnh, trong bảy đạo Tinh Quân có Trợ Đạo Tinh Quân Ta Ma Sa là biện bác lỗi lạc bậc nhất. Ngài Ta Ma Sa được mọi người tôn vinh là bực đại hiền, lão Tôn Sư suy cử ngài đứng đầu trong chúng đến đàm luận đạo pháp với Phật. Khi ấy chư Thiên trên cung Trời Đâu Xuất Đà tên là Đại minh cùng với quyến thuộc bước vào pháp hội của Phật Mẫu Chuẩn Đề, quỳ gối đầu mặt lạy sát đất, hửu nhiểu ba vòng, ngồi qua một phía chắp tay bạch Phật rằng: - Thế Tôn! Chúng con là hàng trời ở cung Đâu Xuất Đà, do sự thù oán chiếm đoạt cung nữ của thần A-Tu-La, nên chiến tranh giữa hai bên không có ngày chấm dứt. Hôm nay chúng con đến nơi đây, thấy Phật dạy cho tứ chúng những lời thiện pháp vô cùng quí báu. Ngưỡng mong đức Thế Tôn từ bi chỉ dạy cho chúng con có dịp hướng về đường chân lý lâu dài mà thân và tâm không hề thóai chuyển vọng chấp. Khi ấy đức Phật Mẫu Chuẩn Đề phóng ánh quang minh nơi con mắt ở giữa sáng chói nhỏ như cây kim soi khắp trong đại chúng để quan sát căn cơ của chúng sinh, rồi vân tập các vị hóa Phật trên đỉnh Tỳ Lô ứng hiện phân thân bay lên hư không đồng tiếng ca ngợi công hạnh của Chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai rằng: 1. Phật quốc trang nghiêm ánh đạo vàng Chuẩn-Đề Phật Mẫu xuống trần gian Khai pháp chân truyền chưa từng có Mật Giáo Bí Môn Đại Oai Thần Đức từ rộng lớn ngàn muôn kiếp Ẩn nhẩn tịnh tâm vạn muôn nơi Chiết tính giả thân vô lượng số Phật đấng pháp vương trí huệ mầu Dù cho quá khứ, hiện tại thảy Vị lai cộng lại số là bao? Tu hành công hạnh không nhàm chán Sống chết thay nhau nguyện tiến tu Sự đời giả tạm chôn chân mãi Phật đã tìm ra đạo chân như Thức tỉnh vô minh và vọng tưởng Gom bầu võ trụ nhẹ không sai Ngài đã trọn xong lời phát nguyện Chư Phật phân thân đến nơi đây Tán tụng pháp môn thành chân lý Mở đường giải thoát hướng tương lai Pháp mầu Bí Mật không lường được Cứu độ nhân sanh cả muôn loài Thiện tâm gieo cấy không nao núng Diệt ác độ mê chúng sinh chung Bồ-Tát tịnh tu không lay chuyển Gương sáng cho đời mãi noi theo An trụ chơn ngôn thành vô gián Vui cùng tam muội chẳng đắn đo Tự tại bước chân vào thế giới Phân thân độ chúng vạn muôn nơi Trời người trông thấy đều tin tưởng Lễ lạy cúng dường đấng Hùng-Bi Việc làm đã mãn Phật thọ ký Danh hiệu có tên Phật Chuẩn Đề Tiếng đồn vang dội mười phương cõi Quốc độ trang nghiêm tỏa mây hương Oai thần dõng mãnh chân ngôn chú Pháp hội nương theo Bí Mật Môn Vun trồng cội phước hằng sa kiếp Tứ chúng vui mừng thảy tán dương Tôn kính cúng dường nơi Phật Tổ Xuất sinh Mật Tạng đấng Tỳ Lô Xoa dịu vết thương nhiều trọng trược Vô minh tăm tối khó bước ra Tình thương rộng lớn dìu sinh chúng Tiếng pháp ngân vang phá mây mờ Kính trọng bậc Thầy của ba cõi Trí huệ sáng soi cả nhân gian Con đường chân lý nay rộng mở Thuyền giác đưa sang đến Niết Bàn Chư Phật chứng minh lời thệ nguyện Phân thân thành Phật thiệt chẳng sai.
Bấy giờ các hóa Phật nhiếp về đỉnh Tỳ Lô của Phật Mẫu Chuẩn Đề rồi biến mất. Đức Phật vì đại chúng, chư Thiên cõi Đâu Xuất Đà mà dạy rằng: - Này Thiên Đế! Ở trong thế gian hay ở ngoài thế gian, hoặc là Dục Giới, Sắc Giới, vô Sắc Giới, tất cả đều bị hệ phược bởi vô minh, phiền não. Nhưng trong nhóm người trí chẳng ai tìm ra, chẳng ai biết rõ. Ví như vị Hải Đạo Sư cùng với chúng nhân năm mươi người ra biển khơi tìm ngọc. Tất cả mọi người không ai biết ai có chủ ý đen tối hại nhau khi thấy vàng bạc, ngọc ngà, châu báu. Ví như vua có các quần thần ba quan văn, võ. Mọi người không ai biết ai có chủ ý đen tối chiếm đoạt ngôi báu. - Này Thiên Đế! Tất cả chúng sinh bị sanh tử khổ đau là bởi hệ phược phiền não vô minh mà trong nhóm người trí chẳng ai tìm ra. Do đó mà có cảnh con bất hiếu, cha bất nghĩa, vợ lăng loàn hiểm ác, anh giết em v.v… làm cho thế gian thêm nhiều điều điên đảo khốn cùng, hại nhau chẳng cần đắn đo suy nghĩ. Ví như nơi thế giới của Phật Tỳ Lô Giá Na, tuy lấy Bồ-Tát làm thất bảo mà trong cõi nhân gian cũng lắm kẻ tạo tội thất nghịch chẳng đồng. Bọn Đổng La Tiên hợp với tập đoàn lõa thể hơn một trăm người mong ám hại Phật để giành phần lợi dưỡng và nắm ngôi vị độc tôn thiên hạ, nhưng cuối cùng họ đều thất bại. - Này Thiên Đế! Phiền não vô minh thật là ác nghiệt thay. Đã bao phen Như Lai cân nhắc cho đại chúng những lời pháp màu cẩn mật vi diệu như thế để tu hành. Nhưng cũng có các thầy Tỳ Kheo vì vô minh phiền não không tự kềm chế được, phải bỏ pháp hội đi theo Tỳ Kheo Sim Sum Pa làm điều tội lỗi tai hại. Thời gian và vô thường nhanh như một cơn lốc, không tha thứ cho bất kỳ một ai. Như Lai đã cảnh tỉnh mọi người tu hành thiện nghiệp để đến Niết Bàn. Trong trận chiến đấu cuối cùng với bọn Ma-Vương Đin-Sa-Da, Như Lai tuy đã chiến thắng nội tâm và ngoại cảnh. Nhưng Như Lai đã phát tâm đại độ nhường quyền cai quản nơi ba cõi cho Ma Vương, Như Lai ở trong đại định chẳng cần xuất định, Như Lai là Định Tâm Vương Sư Tử Tam Muội Đà Ra Ni, im lặng thư thới không bị hệ phược bởi trần lao vọng lự. Ma Vương Đin-Sa-Da biết mình không kham nội vô lượng tạng báu Bí-Mật Tổng Trì nên đã thét kên một tiếng lớn kinh cuồng rồi biến mất. - Này Thiên-Đế! Như Lai đã trãi qua vô lượng ức kiếp tăng kỳ tu tập không tranh lấn gian tham, không hơn thua tỵ hiềm, không thương ghét vô ích, không giành giựt địa vị đê hèn, không mua danh bán tước, không ích kỷ keo bẩn, không dùng lời nhảm nhí, không cố ý làm hại chúng sanh, không ham mê dâm dục, không mưu gian xảo trá, không bè đảng hại người, không nạt nộ kẻ yếu thế cô, không lừa đảo mua chuộc, không thư phù yếm đối, không ham mê tiền của, không trục lợi cầu danh, không khinh người ra mặt, không chê khen quá đáng, Không nghĩ quấy cho người, không gần gủi bạn ác, không nghe lời xúi giục, không đến chỗ đông người, không rượu chè bài bạc, không ác hại chúng sanh, không trừng phạt tôi tớ, không buông lung vô độ, không ham thích sung sướng, không quyền uy thế lực, không thù oán với người, không lừa thầy phản bạn v.v… Trong khi Như Lai thực hành những pháp “không” này mà Trời, Người, Thế gian không ai hành nỗi, thời những nghịch cảnh luôn luôn xuất hiện. Như Lai kham nhẫn an trú vào Mật pháp Tối Thượng Đà Ra Ni chú: “Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề ta bà ha” vào định Tổng Trì an nhiên tự tại. Do điểm này các vị Thiên Đế muốn hướng về con đường chơn lý lâu dài thời cần phải tu cần phải học và thực hành những công hạnh chơn thật mà Như Lai vừa nói đến. Ngài Kim Cang Mật Tích Bồ Tát nghe xong lời dạy của Phật, lòng hoan hỷ ở giữa đại chúng nói kệ khen rằng: 1. Đấng Đạo Sư Thiện Mật Trí huệ không ai bằng Hay cân nhắc dạy bảo Pháp thiện pháp phi thiện Giảng dạy nghĩa nhiệm mầu Căn cơ cao cùng thấp Đều có thể hiểu biết Ngài mở lòng đại bi Xoa dịu vết thương si Cho tất cả chúng sanh Bồi dưỡng pháp ẩm thực Khiến yếu đuối tan biến Mạnh khỏe lần bước đi Sáng suốt thấy sự thật Hư dối cùng chơn như Rõ ràng không lệch lạc 2. Đấng Mật Chủ Đạo Sư Thành tựu đạo chơn như Im lặng không diêu động Mà giảng nói nghĩa lý Pháp giải thoát không hai Thâm sâu trí mẫn đạt Chơn pháp tự biến hiện Thực hành không hư dối Bỏ ác được thiện căn Bỏ mê được trí huệ Bỏ dữ được hiền lành Bỏ danh, tiếng đồn khắp Bỏ vật dục kính yêu Bỏ rượu được tươi tỉnh Những món pháp như thế Chẳng vin động qua lại Phải trái kiền tan biến Thương ghét là u mê Vui buồn mất trí huệ Pháp đối đãi làm hại Thế nhân chẳng ai biết Bậc thánh chẳng ai ngờ Giấc mơ của muôn kiếp Quay đi rồi diễn lại Chỉ có phật rõ biết Cội nguồn của khổ đau Món Diệu Pháp Bí-Mật Như Lai không chán mỏi Tỉnh tu thân trầm lặng An ổn phục phiền nảo Điều nhu tánh tham sân Thắng phục sự biếng nhác Độ lượng khi uống ăn Bồ-Tát cần nên học Thanh Văn phát tâm tu Duyên Giác hằng quan sát Các pháp tánh tướng này Ấy là chơn tịnh đạo Lúc ấy ở bên ngoài rừng Ô-Ta, lão Tôn Sư Duyệt Bát cùng với Thất Đạo Tinh Quân trên đường đến chỗ Phật ngự. Ông hiền giả Ta-Ma-Sa bị lạc trong rừng, lòng bỗng nhiên rung động sợ sệt, ông cố gắng tìm mọi người khắp nơi nhưng không gặp, bèn ngồi lại nghĩ chân dưới tàn cây lớn. Bỗng ông trông thấy có một người đang ngồi tịnh tu cách đó không xa, ông đến gần bên cạnh mà người đó vẫn không hay biết. Vừa trông thấy diện mạo của ngài Chiết Độc Hành Giả trong lớp thân người Đầu Mãng Xà, ông giựt mình kinh sợ định bỏ chạy. Bấy giờ ngài Chiết Độc Hành Giả lên tiếng nói kệ rằng: Hiền Giả Ta-Ma-Sa! Mặt ác lòng thiện niệm Lòng ác mặt thanh bai Trong cả hai điều này Trí nhơn thường hiểu rõ Lòng ác mặt hung ác Thiện niệm mặt xinh thay Trong cả hai điều đó Hiền nhơn thường thấu hiểu Chớ nên sợ mặt ác Mà nên sợ lòng ác Đạo chánh thường hoằng khai Thân tâm ưa Mật Tích Đạo đức thiệt là hay!!! Hiền giả Ta-Ma-Sa nghe bài pháp kệ vừa xong thời thân tâm trở lại an định, bèn đến gần thưa hỏi ngài Chiết Độc Hành Giả rằng : - Thưa Tôn Giả! Ngài nói kệ rất hay, tôi nghe lòng rất cảm phục. Nay xin hỏi Đại Tôn Giả, nếu người có tâm ác mặt ác thời làm sao biết được ? Người có tâm ác mặt thiện làm sao rõ được ? Người có tâm thiện mặt ác làm sao nhận được ? Rất mong Đại Tôn Giả vì tôi mà chỉ dạy cho điểm khó khăn này ? Bấy giờ Chiết Độc Hành Giả vì ông Hiền Già Ta-Ma-Sa mà dẫn giải yếu lý Phật Đà rằng: - Này Ta Ma Sa Hiền Giả! Lúc ngài đến gần tôi thâm tâm ngài không sợ, vì lúc ấy tôi đang ngồi tu, cả tôi và ngài đều có một thứ tâm thiện giống nhau. Nhưng khi ngài nhận thấy khuôn mặt Mãng Xà độc ác của tôi thì ngài bỗng nhiên kinh sợ bỏ chạy, đó là do mặt ác của tôi và tâm ác của ngài gặp nhau, nên ngài mới có hành động hoảng hốt lên như thế. Trong cơn đại định Mật Pháp Diệu Trạm Tổng Trì, tôi liền xuất định vì ngài mà nói bài kệ chân lý khuyến hóa khiến cho tâm ngài bỗng nhiên hết sợ, đó là do tâm lành tốt của cả hai người gặp nhau nên rất mừng rỡ, dứt bỏ các phiền phược ngoại cảnh, ấy cũng là tâm đạt cảnh đạt. - Này Ta Ma Sa Hiền Giả! Nếu ngài đem những câu hỏi về đạo đức cật vấn tôi thời thiệt là không đúng. Bởi vì khuôn mặt tôi rất đáng ghê sợ, nhưng rất may mắn và lẹ làng ngài đã hiểu được tôi trong phút giây, nên ngài đã không còn ngần ngại lo sợ nữa. Này Ta Ma Sa Hiền Giả! Tất cả những câu hỏi của ngài đều lọt vào hành động tâm và cảnh, nếu ngài khéo quan sát thời sẽ hiểu được chơn lý rõ ràng. - Này Ta Ma Sa Hiền Giả! Tôi đã bị vô thường và ác tâm cướp mất một phần tướng tốt của cơ thể. Nhưng nó không cướp mất của tôi một trí huệ tuyệt vời mà Phật đã hằng chỉ dạy những phương pháp tấn tu giải thoát. Ngài Chiết Độc Hành Giả muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Hãy lắng nghe pháp lý Đà Ra Ni Tổng Trì Hộ đạo trong Mật Định Cạo sạch các phiền nảo Như cắt bỏ râu tóc Nhiễm tịnh được an vui Tất cả biển ô trọc Dường như cơn ảo ảnh Thoáng qua mất rồi sanh Người trí không nao núng Khắc phục tiến vượt lên Quên mình tâm nhẩn nhục Bỏ giả được chơn như Lúc hành lúc không hành Biếng nhác cùng tinh tấn Thấy nghe như gió thoảng Được mất đều hườn không Chỉ chuyên tâm cần cầu Pháp Phật món giải thoát Ai làm được việc này Là gần đạo vô thượng. Ông Ta Ma Sa Hiền Giả nghe bài kệ xong rồi, tâm hồn chợt tỉnh quỳ xuống lễ bái ngài Chiết Độc Hành Giả. Vị La Hán này hướng dẫn cho Ta Ma Sa Hiền Giả đến gặp Phật Mẫu Chuẩn Đề. Ông đi nhiễu ba vòng nơi Phật ngự, rồi quỳ xuống chắp tay bạch rằng: - Thế Tôn! Ngài là đấng trí huệ bậc nhất trong ba cõi sáu đường, xin Đấng Từ Bi rộng mở con đường chơn chánh tu hành cho tôi và tất cả chúng sanh thấy được lý tánh giác ngộ dễ tu dễ tập và dễ thành tựu đạo mầu. Rất mong đức Thế Tôn hứa khã chỉ dạy cho được lợi ích an lạc. Phật Mẫu Chuẩn Đề mĩm cười khoan thay, rồi vì Hiền Giả Ta Ma Sa mà dạy rằng: - Này Ta-Ma-Sa! Nếu có người ở trong cảnh thuận và nghịch mà tu hành không chướng ngại, đó gọi là người có trí. Nếu ở trong cõi nhơn gian này không luận là kẻ ác người thiện, kẻ ngu người trí đều phát tâm vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đây gọi là người có lòng đại bi lớn đối với tất cả chúng sanh, người đó không có lòng sợ sệt là ông Thầy lớn hay giúp đỡ chúng sanh đủ mọi phương tiện tiến tu giải thoát. Người đó không có tâm phân biệt là khó hay dễ, cao hay thấp, trọng hay khinh, nghèo hay giàu. Bởi vì người đó hiểu biết ở trong chốn nhân gian đã sẳn có những pháp phân biệt ấy rồi. Điều cần thiết cho sự tu hành là nên giải thoát xa lìa những ý niệm phức tạp điên đảo, thời tất cả các pháp chẳng có pháp nào khó chẳng có pháp nào dễ. Từ nơi đó người tu sẽ đạt được chơn lý Tối Thượng Bình Đẳng Mật Ý Đà Ra Ni một cách dễ dàng, mà hàng Thanh Văn, Duyên Giác cần phải tu phải học. - Này Ta Ma Sa! Pháp có hai thứ: một là dễ hai là khó. Pháp dễ tu mà gặp hoàn cảnh dễ tu, thực hiện được pháp tu thời mau chóng thành tựu đại định Tam-Muội. Nếu biếng nhác là bỏ lỡ cơ hội tu hành thời ở trong hoàn cảnh khác không thể thực hiện được. Nếu pháp tu dễ mà gặp hoàn cảnh nghịch thời người tu thực hiện pháp tu khó thành tựu, nhưng có tâm kiên trì thời hoàn cảnh nghịch vượt qua dễ dàng. Nếu biếng nhác tức là đánh mất cơ hội tốt cho mình và cả thảy chúng sanh. - Này Ta Ma Sa! Pháp khó tu cũng lại như thế. Nghĩa là pháp tuy khó mà gặp hoàn cảnh dễ tu, thời đó là cơ hội quý báu cấn nên phát huy tu tập cho đến khi thành tựu. Nếu biếng nhác tức là mất tất cả sa đọa vào chốn ác đạo. Ngược lại pháp khó tu lại gặp phải hoàn cảnh nghịch, cần phải phát huy ý chí mạnh mẽ thời thành công đắc quả dễ dàng. Nếu biếng nhác pháp tu không được phát huy, hoàn cảnh nghịch sẽ dìm người ấy xuống bùn lầy tội lỗi sanh tử nhanh chóng. - Này Ta Ma Sa! Trong đời quá khứ Như Lai đã không quản ngại sự khó khổ tu hành đắc độ ở vô lượng thế giới, gần gủi theo các đức Phật không chán mỏi trãi qua số kiếp như vi trần xem chừng như giấc mộng hôm qua. Như Lai không bị bốn thứ độc hại: tình, tiền, danh, lợi làm hại, nên các phiền nảo bị suy bại không có chỗ đứng vững. Như Lai an trụ vào đại Pháp Định Mật Quang Minh Tam Muội Đà Ra Ni, nên các kiết sử, lâu hoặc bị tan biến, nghiệp ác không có chỗ nương cậy. Như Lai đã hàng phục được thất tình: mừng, giận, buồn, vui, thương, ghét, muốn và những món pháp vi tế tưởng còn sót lại trong thân tâm. Như Lai đã trãi qua số kiếp tu hành lâu xa, xóa bỏ tánh linh và sự nhạy cảm, xóa bỏ trí phàm phu và sự ham muốn, xóa bỏ sự rung cảm của nội tâm và ngoại cảnh. Như Lai im lặng an nhiên không nhiễm ô các pháp và không có ý xuất định, an trụ rỗng không nhẹ nhàng giải thoát. Bấy giờ đức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 1. Pháp Tối Diệu Tối Tôn Chứa vô lượng chơn ngôn Của hằng sa chư Phật Muốn chóng mau thành tựu Không nhàm chán khó dễ Chỉ chuyên tâm tu hành Thuận nghịch ở ngoài tâm Như chớp nhoáng rồi tan Khó dễ từ nơi đó Tinh tấn thắng phục được Huân tập món Mật Giáo Đà Ra Ni đại nhạo Khó lường chẳng suy gẫm Hay trợ đạo cứu người Thu phục các tâm ác Oai lực đại dõng mãnh Vượt qua hàng trí nhơn Trải ức số muôn kiếp Độ vô lượng chúng sanh Khiến vào nơi Phật đạo 2.Ta-Ma-Sa Hiền Giả! Tâm ác khó chế ngự Việc ác lại dễ làm Hoàn cảnh hay đưa đẩy Xúi giục bực hiền nhân Làm những điều bất thiện Thuở quá khứ đã qua Như số kiếp vi trần Nơi thế giới Cực-Ác Do sức thệ nguyện độ Ta hành đạo Bồ-Tát Sanh vào thế giới đó Nghiệp ác rất nặng nề Hành động và cử chỉ Nói năng và ăn uống Ngủ nghĩ sáng lại tối Nam, Nữ tánh hung dữ Sống chết lấy làm vui Gươm đao sáng lấp lánh Để phục vụ chém giết Sự sống không nhơn nghĩa Cha mẹ, anh chị em Bất nghịch liền giết bỏ Man rợ không cùng tận Vua quan đều như thế Mạnh sống yếu chết đi Thù oán rất xem nhẹ Đời sống như dã thú Quốc độ đáng kinh sợ 3. Ta sanh vào nơi ấy Kết huyết thống cha mẹ Anh chị em bạn bè Rồi từ giả quyến thuộc Vào rừng sâu tu hành Phương tiện lành như thế Khiến mọi người cảm xúc Mà lo lắng cho ta Nơi hoang dã rừng cấm Chỗ Quỉ dữ Mãng Xà Rắn độc, Bò Cạp thảy Hung thần hù dọa nạt Chuyển động lòng Bồ-Tát 4. Vua Diệu Ác hay tin Trong nước có người tu Sai quân thần tìm đến Để ám hại thân ta Do bổn nguyện sâu nặng Tu tập Pháp Bí-Mật Chuẩn-Đề chơn ngôn chú Oai-Thần đại mật nhiệm Cảm hóa tịnh màu mầu Vô vi vô biến hiện Ứng nghiệm đại chú võ Phá ác xô bạt ác Ác nhơn chẳng đến được Họ liền dùng hỏa công Đốt rừng để hại ta Gió lửa vô cùng tận Cháy mạnh cả bốn hướng Bấy giờ trong Mật Định 5. Ta tụng chú Chuẩn-Đề Khiến hai vị hộ pháp Chuyển Thế Đại Long Vương Phun nước trừ lửa dữ Dập tắt trong phút giây Để che chở thân ta Lòng bi độ tất cả Nguyện xã thí tấm thân Nên ta dạy Hộ Pháp Lui về nơi bổn quốc Quân thần, vua Diệu Ác Không bỏ lỡ cơ hội Bao vây chỗ ta ngồi Dùng dao gậy đánh đập Cung tên tẩm thuốc độc Bắn thẳng vào thân ta Việc làm rất hung ác Mà tâm ta chẳng sợ Thản nhiên sức chịu đựng Máu chảy đầy y áo Thân tâm vẫn bình tỉnh Như chẳng có việc gì Khiến bọn chúng ngơ ngác Nhìn nhau mà bàn luận Thuốc độc thấm vào máu Chạy rần vào tim mạch Khống chế các huyết quản Bóp chết cả thân thể Nhịp tim như ngừng đập Mà ta vẫn trụ vững Niệm thần chú Chuẩn Đề An nhiên vào đại định Sống chết ở thế gian Vượt ra khỏi tầm mắt Suy ngẫm chẳng hiểu được Dường như diển ảo thuật Để hàng phục chúng nhơn Thân ta liền hóa lớn Thu nhiếp các khí giới Chuyển thành đài sen báu Oai nghi đại dõng mãnh Ý chí vô cùng tận Sức mạnh như Thái-Sơn Trang nghiêm Phật quốc độ Ánh sáng chiếu diệu khắp Xô bạc các ác nhơn Thần thông đại tự tại Hiển lộ cam lồ vị Từ bi vô chướng ngại Thắng phục chư chúng sanh Vượt qua khỏi ba cõi Khiến Trời, Người ngơ ngác Không lấy gì so sánh Sợ hải chẳng dám khinh Gươm giáo đều hạ xuống Mà quy-y Tam-Bảo Vua Diệu-Ác hồi tâm Quay về đường chơn lý Nghe pháp không chán mỏi Tu tập hạnh chơn như Tối Mật Ý thần chú Chúng nhơn theo đức vua Cũng tu tập Thánh Thiện 6. Ta Ma Sa Hiền Giả! Sự ganh tỵ mạnh mẽ Dù cố gắng thực hiện Để thắng kẻ chơn tu Việc ấy là mộng ảo Không ai ham chí thú Thích ác làm việc ác Mà cũng chẳng được gì Suốt đời sống đau khổ Như một kẻ bị giam Thân tâm bị bóp nghẹt Không có chỗ nương nhờ Và chịu mọi hình phạt Khí cụ rất cay độc Hoàn cảnh là như thế Kẻ trí khéo xét soi Sẽ hiểu được việc này 7. Ta Ma Sa Hiền Giả! Thân này là vô thường Cái chết rất dễ đến Không ai ngăn cản được Bỏ mạng trong phút giây Thắng bại có ích gì Tranh nhau giành thế lực Khi chết nó về đâu? Thế nhân ai hiểu được? Giả sử đều hiểu được Nhưng không cải sữa được Bởi lòng tham sân si Quá thạnh và cường bạo Khiến ác tâm vẩy đầy Không ai cưỡng lại được 8. Ta Ma Sa Hiền Giả! Nếu người chưa chứng quả Ở nơi huệ giải thoát Thân tâm chưa thanh tịnh Cũng không thể cưỡng được Nếu có người chơn thật Cầu quả vị giải thoát Ngày đêm không mệt mỏi Tinh tấn quên ăn uống Quyết chí đến chơn như Oai nghi đều giữ vững Thời gian bào mòn xoáy Tinh thần bị nao núng Cũng không thể cưỡng được Do chất độc mê hồn Tình, tiền, danh, lợi thảy Giết chết bao thế nhân Quyến rũ kẻ tu hành Phàm phu chẳng hiểu được Lâm vấp khổ một đời Cho nên phải đảnh lễ 9. Mười Phương Phật, Pháp, Tăng Chúng Thánh Hiền Bồ-Tát Thuận nghịch không phân biệt Mà chí thành đảnh lễ Thành tựu pháp hồi hướng Tu tập kinh điển này Nếu có kẻ in chép Hoặc cúng dường hương hoa Chí thành không xao lảng Dùng tiếng khen tán thán Kinh tạng đại Chuẩn-Đề Mật-Pháp Tổng Trì Môn Khó nói khó nghĩ bàn Công đức rất vô lượng Khiến đó đặng thoát khỏi Oan trái của ba cõi Sức Mật-Nhiệm ba cõi Uy dũng hàng Ma chúng Phá hoại các ác tâm Bảy mươi đức ức Phật Vân tập nơi đảnh môn Vì để nghe kinh này Chuẩn Đề đại minh chú Hộ trì kẻ tu hành Mà bảo hộ cho đó Lần đến đạo Bồ Đề Bấy giờ trên hư không bảy mươi ức cu chi đức Phật đồng cất tiếng khen ngợi Phật Mẫu Chuẩn Đề, các vị Bồ Tát thượng thủ của các đức Phật đồng hóa thân đến cúng dường ngàn cánh sen quí báu phát ra ánh sáng lớn, trong ánh sáng có vô lượng âm thanh nhập Mật của đại thần chú soi thẳng vào tâm chúng sanh tiếng vang vừa đủ nghe, mà bên ngoài cảnh vật đều như chỗ vắng lặng rỗng không. Chư Thiên cõi Trời Đâu Xuất Đà tên là Đại Minh Cùng với quyến thuộc và bát bộ Kim Cang thần được việc chưa từng có. Hiền Giả Ta-Ma-Sa phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác xuất gia tu hành thành bực La Hán. Sáu nghìn Bồ-Tát Được Pháp Luân Thường chuyển Đà Ra Ni. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác được môn Tam Muội Bất Thối Chuyển. Khi ấy trên hư không có tiếng ca ngâm đờn sáo và rãi hoa cúng dường Phật Mẫu Chuẩn Đề. Đại hội tán thán công hạnh của chư Phật vừa xong đều y giáo phụng hành mà lui ra. Nam mô Chuẩn Đề Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần) KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN QUYỂN THỨ SÁU Bỏ đường tà Diêm Đê Ra về với Phật, cứu thế gian không quản sự khó khăn. Pháp u-huyền phản phất nghĩa kinh văn. Giáo Hội Phật thắm nhuần trong đại chúng. Bản án nghiêm trị, Phật tự răn mình nơi số kiếp. Nay chúng sanh chẳng phải kẻ tội đồ. Phiền nảo như ánh chớp, tử sanh như giấc mộng Phật diễn dụ bày chơn lý. Bồ Tát nghe xong đến cúng dường. Ta Ma Sa hỏi đạo Phật từ bi giảng nói. Nam mô Thường Trụ Thập phương Phật Nam mô Thường Trụ Thập phương Pháp Nam mô Thường Trụ Thập phương Tăng Nam mô Chuẩn Đề Vương Phật (3 lần) (Hết phẩm thứ mười ba) KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN – QUYỂN VII, PHẨM SƯ TỬ HẨU KIM CƯƠNG BỒ-TÁT THỨ MƯỜI BỐN
KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN QUYỂN THỨ VII MẬT SƯ: THÍCH GIÁC TIẾN - THIỀN NHÂN PHẨM SƯ TỬ HẨU KIM CƯƠNG BỒ-TÁT THỨ MƯỜI BỐN Lúc bấy giờ ngài Sư Tử Kim Cương Bồ-Tát trịch áo bày vai hửu ở giữa chúng hội bước ra đãnh Lễ Phật, đi nhiễu ba vòng, quỳ xuống chấp tay mà bạch rằng: Thế Tôn! Chúng con nghe Phật nói về những Mật-Nghĩa Đà Ra Ni phương tiện giúp cho chúng sanh được nhiều điều lợi ích. Nay xin Thế Tôn dẫn giải cho chúng con được hiểu biết Thủy Tổ loài người là ai? Thủy Tổ phiền nảo là ai? Ngưỡng mong Thế Tôn từ bi chỉ dạy cho chúng con và chúng sanh đời sau được dứt sự nghi lầm. Lúc ấy đức Phật Mẫu Chuẩn Đề ở nơi Mật Định Kim Cang Tỳ Lô Quán Đảnh tâm chú, xuất nhập các môn tam muội Đà Ra Ni dậy an lành mà dạy cho ngài Kim Cang Sư Tử Hẩu Bồ Tát rằng : - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Hãy lắng nghe những điều thâm-mật khó hiểu khó nghĩ bàn. Như Lai sẽ vì các ông mà diễn nói Mật Giáo Môn Đệ Nhất Đà Ra Ni,không có một và hai. Đó là nghĩa Bí-Áo Huyền Diệu Bất Động Môn làu làu một thế chơn như nơi thân và tâm, hay xuất sanh vô lượng công đức được chư Phật tôn trọng ngợi khen, các hàng Tỳ Kheo Bồ-Tát vâng chỉ y giáo phụng hành. Trời, Người qui thuận cúng dường, tán thán, ngợi khen là việc chưa từng có, Như Lai đã xa lìa chấp có chấp không cũng như chấp pháp thuận nghịch hai bên. Như Lai không bị gò ép bởi pháp Thế gian và Xuất Thế gian. Các pháp có danh tự, cú nghĩa cũng lại như thế. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Các ông chớ cho rằng Thủy tổ loài người chính là con người và người ấy là ai? ở đâu? Các ông chớ nhầm lẫn rằng Thủy tổ loài người chẳng phải là con người. Vì sao? Vì bản tánh ác và thiện ở trong vạn vật đều thể hiện rất rõ nét, bản tánh ấy đã có từ vô thỉ vô chung không ai dạy mà tự nhiên sẵn có, bản tánh này đủ sức chế ngự xác thân, tâm ý và hoàn cảnh bên ngoài lẩn bên trong, nhưng không được xem là Thủy Tổ của loài người. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Thủy Tổ của loài người chính là Phật-Tánh bất di bất dịch do chư Phật tu tập thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phật tánh này đã sẵn có trong lòng chúng sanh từ vô thỉ đến nay, phiền nảo cũng lại như vậy. Các ngươi dù biết trong chúng sanh có Phật tánh, nhưng lại không biết Thủy Tổ loài người là ai ở đâu? Ví như hai anh em ruột là chủ của hai căn nhà cạnh nhau. Họ có thói quen không giao tiếp và chú ý về hành động việc làm tên tuổi danh tánh của nhau. Nếu có người hỏi đến họ đều trả lời không biết. Cũng vậy Phật Tánh và Thủy Tổ loài người vốn không có khác nhau, phiền nảo cũng lại như thế, vì một niệm sai lầm nên các ông chẳng biết Thủy Tổ loài người là ai? và Phật tánh là ai? Dù rằng cả hai đều ở rất gần nhau trong tâm não và ý thức. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Phật Tánh và chúng sanh vốn không hai không khác, chúng sanh và phiền nảo cũng lại như vậy. Phật tánh là bình đẳng gọi là Tổng Trì Đà Ra Ni. Chúng sanh cũng bình đẳng gọi là đại Trì Đà Ra Ni. Phiền nảo cũng bình dẳng gọi là Nhiếp Trì Đà Ra Ni. Các món pháp như thế chẳng ai hiểu được, chẳng ai biết được. Do sự phân biệt chấp trước nơi ý nghĩ mà chúng sanh chẳng đến được pháp Tối Thắng Tự Tại của giáo môn Bí Mật thành tựu nghĩa, thành tựu pháp, thành tựu Tô Tất Địa đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Pháp Mật-Tạng của chư Phật không thể đến được. Tổng Trì Đà Ra Ni chú của chư Phật Ba đời không thể đến được. Nếu pháp Bí-Tạng của chư Phật có thể đến được, thời chúng sanh không cần phải tu tập khổ hạnh nơi vô lượng ức kiếp để tìm thấy bổn tánh thanh tịnh của chính mình. Phật tánh vốn xưa nay là Hư Vô Tịch Tỉnh, Đại Nhiệm Mật, Bất Động, không tà không chánh. Bổn tánh này gọi là Pháp Tánh Đà Ra Ni, không bị ngăn trệ bởi dục vọng, không kinh sợ bởi hoàn cảnh, không tham mê vật chất cám dỗ, không nghi ngại về mọi phương diện, chẳng tham ác, chẳng mê thiện, không dị biệt, không theo định bỏ loạn, không mê tâm chẳng bỏ tâm, không tình cũng chẳng vô tình, không đối đãi cũng chẳng phải bỏ mặc, không tu cũng chẳng phải bỏ tu, không hành cũng chẳng phải bỏ hành,không giải thoát cũng chẳng phải lìa giải thoát, không gàn buộc cũng chẳng phải lìa gàn buộc, không luân hồi cũng chẳng phải lìa luân hồi v.v…. Các pháp Bí-Mật-Môn Đà Ra Ni Tổng Trì tánh không như thế chẳng phải là pháp vô-vô cũng chẳng phải là pháp hửu-hửu. Pháp tuy có đối đãi mà tâm vốn không đối đãi. Pháp tuy không đối đãi mà tâm lại có đối đãi. Pháp tuy có lúc đối đãi có lúc không đối đãi. Tâm có lúc không đối đãi có lúc đối đãi. Cho nên tâm và pháp cả hai đều phản quang giúp cho người tu đang tối dược sáng, bỏ sáng được tối. Tùy chỗ sử dụng tâm đắc, pháp đắc, cũng có lúc không cần tâm đắc và pháp đắc. Đây là pháp môn Bí-Yếu Mật Tạng Diệu Ngữ Ngôn Đà Ra Ni hay khiến cho chúng sanh đời nay và đời Mạt Pháp sau này tu tập kinh đại thừa Chuẩn-Đề Bổn Tôn mau thành tựu quả Tối Sơ Đại Mật Chánh Đẳng Chánh Giác. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Pháp môn Bí mật Đà Ra Ni này hay xuất sanh các môn tam muội Đại Định an trụ Bất Động chuyển như vậy, như nhiên dường như hư không chẳng có dấu vết. Nơi Thế gian có pháp cấu pháp tịnh, muốn cắt đứt rời bỏ không thể được, muốn bắt lấy bảo thủ không dễ dàng. Cho nên ở nơi pháp môn Bí Mật Vi Diệu Đà Ra Ni này còn gọi đó là: Phật phi Phật, Pháp phi Pháp, Tăng phi Tăng, định phi định, loạn phi loạn, giác phi giác, chơn phi chơn, đạo phi đạo, dâm phi dâm, tà phi tà, ác phi ác, thiện phi thiện v.v… Vì các pháp xưa nay tánh tướng vốn không thì làm gì có Thủy Tổ loài người. Nếu Thủy Tổ loài người mang bản tánh độc ác thời chẳng được gọi là đúng. Nếu bản tánh ấy hoàn toàn thuần thiện thời mới được gọi là Thủy Tổ của loài người, đây gọi là chánh danh. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Tánh ác và tánh thiện là pháp đối đãi cùa phiền nảo. Như Lai đã bao phen an trụ trong Mật Định xuất nhập nơi hằng hà sa ức như vô số vi trần thế giới làm pháp chiêm nghiệm tư duy để thoát ra vòng sanh tử, phiền nảo, khổ đau mà chúng sanh hằng ôm ấp đeo đuổi nó không hề có niệm chán mỏi và có ý buông bỏ. Như Lai đã im lặng vào chỗ Hư Vô Mật-Pháp Đà Ra Ni, ví như đang uống Cam Lồ dược vị, như đang cùng các vị đại Bồ-Tát dạo chơi các cõi Phật quốc, như đang ngồi trên xe thất bảo tự tại nơi các cõi Trời Đao Lợi, Đâu Xuất Đà, Tứ Thiên Vương, Tu Diệm Ma Đại Phạm, Phạm Phụ, Phạm Chúng, Long Cung, Quỷ Thần A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn phi Nhơn cùng với đia ngục A Tỳ không có chỗ chướng ngại. Như Lai là chúng sanh mà khác với chúng sanh. Như Lai là Thánh mà khác với Thánh. Như Lai là Bồ-Tát mà khác với Bồ-Tát. Như Lai là Phật Thế Tôn là ngôi vị Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc Thiện Thệ, Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn: Khể thủ quy-y Tô-Tất-Đế Đầu Diện Đãnh Lễ Thất Cu Chi Ngã Kim Xưng Tán Đại Chuẩn-Đề Duy nguyện từ bi thùy gia hộ Nam mô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đề cu chi nẫm đát điệt tha. Án Chiết lệ chủ lệ Chuẩn-Đề ta bà ha. Bấy giờ đức Phật Mẫu Chuẩn Đề muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 1. Đấng Vô Thượng Mật Ngôn Chuyển mạnh bánh xe Pháp Như Đại Sư Tử Vương Phước đức vô cùng tận Đầy đủ nghĩa pháp yếu Khéo léo đều phục chúng Diệu dụng nơi thế giới Số tính như vi trần Trí tịch huệ vô tịch Suốt thấu trong tam giới Đại độ khắp quần sanh Im lặng dường như ngủ Tiếng rống như Sư tử Lẫy lừng như Rồng Thiên Pháp nghĩa mầu rộng lớn Ứng hợp các căn cơ Chậm nhanh tuy có khác Mà liệu định pháp mầu Chọn đến chỗ vô định An lạc tâm rỗng lặng Diệu phước đại công đức Thành trì chẳng có tướng Danh lợi không chỗ nương Ngu khôn chẳng điểm tựa Thiện ác không nghe thấy Cõi Phật đại quang minh Trang nghiêm tịnh quốc độ Công đức vô cùng tận Khó nói khó nghĩ bàn 2. Hởi Nam Tử! Nữ Nhơn! Muốn học đạo toàn chơn Phải ân cần cầu Pháp Các dục nhiểm xa lìa Xả bỏ các việc ác Cùng tội lỗi gian tham Các vật chất mến yêu Vợ con, vàng bạc thảy Bạn bè đang thân thiết Bỏ đi không nuối tiếc Người trí nhẫn như vậy Chẳng mỏi mệt tìm cầu Nơi Thiện Hửu Tri Thức Mà phục dịch ăn uống Chấp tác, công quả thảy Nghe lời dạy thâm sâu Ghi nhớ tìm hiểu đó Siêng tu tập oai nghi Theo hạnh lành cao thượng Thành tựu được như vậy Gọi là Chơn-Mật đế 3. Phật Pháp chẳng biến hiện Hư không chẳng chỗ sanh Ly, lìa tuy có khác Mà ý nghĩa lại đồng Vô Vi, Tối-Mật-Ý Bí yếu vô sai biệt Suy gẫm lâu mới hiểu Mỹ âm, Bí-mật âm Tịnh âm, Thắng Nghĩa ậm Quảng âm, Đại Oai âm Nhuyển âm, Diệu pháp âm Phật tánh rộng lớn khắp Xuất sanh từ vô thỉ Trụ chổ Hư Không Tạng Đến đi khó lường được Ra vào như ánh chớp Xuất nhập pháp phương tiện Thoáng hiện rồi biến mất Không thể suy diễn được 4. Như Bồ-Tát Mật-Chiếu Do bổn đại thệ nguyện Cứu độ các chúng sanh Như nhà Đại Ảo Sư Vừa thấy Ngài biến mất Chúng sanh dù thương tưởng Một bậc thầy khả kính Mà chẳng biết là ai? Tổ loài người cũng thế Dù biết mà chẳng biết Dường như sống mộng ảo 5. Hởi Nam Tử! Nữ Nhơn Thế gian là vô thường Vua đất chết chế ngự Không ai ngăn cản nổi Thuốc trường sanh bất tử Dù uống trăm ngàn ly Cũng không thoát sanh tử Trong mãnh bụi hằng sa Ức vi trần thế giới Chẳng tính đếm thí dụ Phiền nảo là đất chết Không có ngày yên lặng Chúng sanh ở nơi đó Mà thọ các đại khổ Mê mệt lòng không chán 6. Đấng Đạo Sư Vạn Mật Chuẩn-Đề Vương Thế Tôn Sanh nơi đời ngu khôn Tu hành Tập Chủng Trí Huệ Đà La Tối thượng Chế phục các phiền nảo Ly lìa pháp thiện, ác Thiện báo cùng ác báo Tiền báo hoặc hậu báo Nghiệp lành cùng nghiệp dữ Pháp đối đãi sanh tử Chẳng đắm nhiễm phút giây Mà siêng tu đại pháp Chuẩn-Đề Bí-Mật chú Quảng đại chư chúng sanh Thành tựu Bồ-Đề thọ Quy-y đấng Chánh Giác Mười phương ba đời Phật Số Phật như vi trần Không tính đếm thí dụ Trời người chung tin tưởng Thanh Văn, Duyên Giác thảy Thấy Phật đấng xuất thế Rãi hoa cúng dường Phật Bao nhiêu các đức Phật Thành tựu môn Mật-Giáo Nhờ tu tập kinh này 7. Mười phương chúng Bồ-Tát Xuất sanh trong đời ác Thành tự đại phương tiện Như tiếng chuông cảnh tỉnh Khơi dậy lòng chúng sanh Hàng phục chúng quân Ma Thu phục các tà pháp Nhiếp trừ chư phong thủy Hóa giải nạn binh đao Tất cả đều lui tán Chúng sanh vướn tai nàn Vương mang bao nghiệp khổ Mà tưởng nhớ đến Phật Tu tập kinh điển này An ổn lòng tịnh định Nhẹ nhàng như hư không Chí thành tu tinh tấn Quy-y và lễ bái Tán thán cúng dường Phật Hương bột hoặc hương xoa Hương đốt, trầm, gỗ quý Chiên đàn, Bạch giới tử Huân lục hoặc phong đàn Pha chế bơ cùng sữa Cúng dường nơi thân Phật Chí thành lòng cung kính Mà tu tập kinh này Trì tụng vô số kiếp Công đức vô cùng tận 8. Như Bồ-Tát Mật Hạnh Quân trì bình đẳng nguyện Suy xét các nhân duyên Dùng đại huệ tán thán Nơi cõi Phật hằng sa Quảng huệ soi thấu khắp Cung kính cúng dường Phật Tấn huệ hàng phục Ma Lễ bái chư Bồ-Tát Huệ chiếu nơi ba cõi Quan sát nghĩa Phật pháp Tịnh Huệ, địa Ngục môn Cứu độ vô lượng chúng Thiện huệ trừ ác đạo Phổ hóa chư chúng sanh Minh Huệ phá chư ám Khai mở pháp phương tiện Tán huệ ly phiền nảo Giải thoát các trói buộc Pháp huệ độ chúng sanh An nhiên thanh tịnh địa Như huệ khuyến đại chúng Thầy lớn của Trời, Người Đẳng huệ nhiếp tất cả Thị hiện vô biên thân Mật huệ khai đạo pháp Mở môn đại cam lộ Hải huệ nhập pháp giới Im lặng dường như không Đạo huệ độ quần Ma Chuyển sức thần thông lực Nghĩa huệ chơn lược thuyết Thí dụ các nhơn duyên Thí huệ cúng dường Phật Hồi hướng khắp pháp giới Thắng huệ mau thành tựu Nghĩa pháp không cùng tận Oai huệ đức hộ pháp Giữ gìn tạng Bí-Yếu Viên huệ pháp đầy đủ Xoay dần trong chúng sanh Nguyện huệ lòng bình đẳng An lạc thành Tịnh-Độ Các trí huệ như thế Tập nhứt thiết chủng trí Trời người không đến được 9. Như Lai trọn nơi pháp Thành tựu vô biên thân Trí huệ cũng như thế Dạo đi trong Tam-Giới Bằng cỗ xe Mật-Pháp Nơi hằng sa thế giới Tự tại không chướng ngại Bằng các món tam muội Tịnh Ý đà ra ni Thâm tâm hằng trong sạch Quang-Minh đà ra ni Soi sáng trong ba cõi Viên Tịch đà ra ni Thẩm sâu nơi đại định Mật ngữ đà ra ni Diễn nói nghĩa đại pháp Đẳng giác đà ra ni Khai ngộ cho tất cả Viễn ly đà ra ni Quán sát sự xa lìa Tuệ Mạng đà ra ni Thân tâm đủ giới đức Mật Tạng đà ra ni Gồm thâu các phương tiện Bát Nhã đà ra ni Trí huệ thường tự tại Thật tướng đà ra ni Thi hành pháp chơn thật Hồi hướng đà ra ni Nghĩ nhớ chư chúng sanh Đức Tạng đà ra ni Chỗ chúa nhóm công đức Bảo sanh đà ra ni Các vật báu hiện đến Cụ túc đà ra ni Đầy đủ các tướng tốt Pháp cự đà ra ni Ngọn lửa soi đêm tối Chánh pháp đà ra ni Năng trừ nguy hiểm nạn Tán thán đà ra ni Ca ngợi hạnh thanh tịnh Bất động đà ra ni Im lặng không ngủ nghĩ Vô niệm đà ra ni Xa lìa các trược uế Vô gián đà ra ni Cứu khổ nơi địa-ngục Quảng Hỏa đà ra ni Dập tắt lửa Ma giới Tịnh giới đà ra ni Trang nghiêm cõi Phật độ Thiện Mật đà ra ni An ủi chư chúng sanh Tự tại vô chướng ngại Trên suốt Trời Cứu Cánh Dưới thấu ngục A-Tỳ Phương tiện vì đại chúng Mà chẳng ai hay biết 10. Như Lai hằng buông bỏ Chẳng chút lòng tham tiếc Ra đi vào Niết Bàn Chơn thị tịch là vui Chẳng bận rộn quấy nhiễu Tánh không nhập pháp giới Pháp giới tự rỗng không Viễn ly, ly tất cả Nhất niệm, niệm hườn không Vô vi đại mầu mầu Nhiệm-Mật vô cùng tận Vướng vít chút bản ngã Chẳng được gọi là chơn Không Mật-Pháp, Thiền Na Chẳng gọi đó là định Không oai nghi vững chắc Chẳng gọi đó là Luật Không xuất gia giải thoát Chẳng gọi đó là lìa Nếu lìa mà chẳng lìa Gọi đây là phàm tục Chẳng được dự chánh pháp Chánh pháp chẳng có tướng Dụng tướng từ nơi tâm Chánh pháp chuyển động mạnh Chấn động cả ba cõi Tiếng nổ lớn chớp nhoáng 11. Như Lai đấng Hùng Mãnh Chế ngự Trời, Người thảy Hàng Ma độ muôn chúng Chư Phật hằng khen ngợi Tán thán đại công đức Hư không trỗi nhạc âm Cúng dường đấng vô thượng Chuẩn-Đề Vương đức Phật Hoa rãi như mưa lớn Tiếng linh báu hòa reo Tỳ Bà trỗi nhịp khúc Chập chả, trống chiêng khua Các âm thanh thượng diệu Ca ngâm, vịnh, múa hát Vì để cúng dường Phật 12. Bậc Vô Thượng Đạo Sư Thành tựu pháp chơn như Siêu vượt trong Tam Giới Đà Ra Ni Tổng Trì Mật pháp hàng Ma pháp Sức mạnh Đại Tự Tại Đều ở nơi kinh này Mười phương ba đời Phật Xưng dương cùng tán thán Bổn nguyện tánh pháp màu Chuẩn-Đề Phật vi diệu Vì chúng hiện phân thân Bảy mươi câu chi Phật Thị hiện băm hai tướng Quốc độ đều riêng khác Chật đầy cả hư không Để ủng hộ kinh này Đại Oai đức rộng lớn Trí hùng dựng Phật môn Thành lớn cõi Niết Bàn Che chở các hiểm nạn Khiến chúng sanh vào đạo Mà tu tập kinh này Lần đến đạo vô thượng Nam mô Chuẩn-Đề Hội Thượng Phật Bồ-Tát (3 lần) (Hết phẩm thứ mười bốn) KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN QUYỂN THỨ VII MẬT SƯ: THÍCH GIÁC TIẾN – THIỀN NHÂN PHẨM Y BÁO VÀ CHÁNH BÁO THỨ MƯỜI LĂM Lúc bấy giờ ngài Sư Tử Hẩu Kim Cang đại Bồ-Tát Ma Ha Tát suy nghĩ rằng: – Nếu chúng sanh có thể nương nhờ vào sức mạnh của đại thần chú Chuẩn-Đề mà tu tập, tức là còn niệm tưởng và ghi nhớ phân biệt. Như vậy các chúng sanh do lẽ nào mà được chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác? Phật Mẫu Chuẩn Đề biết được tâm niệm của Bồ-Tát, ngài im lặng vào Mật Định Tổng Trì môn tam muội, phát ra ánh kim quang trên đảnh Tỳ Lô như một mũi kim màu vàng phóng thẳng vào hư không làm cho đại địa, phong địa, thủy địa, hỏa địa, kim địa, thành quách lâu đài trong Tam-Giới đều bị chấn động mạnh. Như một người lực sĩ đang chuyển động các cơ bắp phát ra những tiếng kêu cóc cách. Ánh hào quang ấy lưu thông các quốc độ nhanh như ánh chớp đến các cõi Phật rồi trở về trạng thái ban đầu. Ngài Sư Tử Hẩu Kim Cang Bồ-Tát thấy điềm lành bèn hiệp chưởng hướng Phật mà bạch rằng: Thế Tôn! Chúng con bị màn vô minh tăm tối che đậy không có lối thoát ra. Hôm nay nếu chúng con lọt vào màn vô minh tăm tối thứ hai thì chúng con lại càng lún sâu và không có chỗ giải thoát. Vậy xin Thế Tôn vì chúng sanh đời nay và đời sau dạy rõ pháp tu của giáo môn Mật Tông, mà chỗ niệm tưởng phân biệt có chứng đắc. Như vậy chúng con phải tu cách nào? hành cách nào? Dể đạt đến chỗ vô chứng vô đắc. Khi ấy phân thân của Phật Mẫu Chuẩn Đề từ nơi thế giới Diệu Bí Ấn của Phật Tỳ Lô Kim Cương Như Lai cách nhau hằng hà sa số vi trần thế giới, quốc độ tên Thông Quán, ngự ở trung tâm vũ trụ. Từ nơi Mật Định Đà Ra Ni Bổn Tôn đức Phật nhiếp các phân thân ở các quốc độ của chư Phật trở về trên đảnh Tỳ Lô, dậy an lành mà bảo với ngài Kim Cang Sư Tử Hẩu Bồ-Tát rằng: - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Ông có thể vì tất cả chúng sanh đời nay và đời sau khai mở tạng Bí Mật của giáo môn Mật Tông mà thưa hỏi Như Lai những lời thần bí vi diệu bực nhứt này. Vậy các ông hãy chú ý lắng nghe. Ta sẽ vì các ông mà giảng nói pháp mầu thanh tịnh Đà Ra Ni này. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Pháp có hữu tức có vô, niệm có hữu tức có vô. Nếu pháp không hữu tức không vô, niệm niệm cũng lại như thế. Các ông quan niệm rằng thần chú Chuẩn-Đề này là có niệm thời không đúng, mà nghĩ rằng nó là vô niệm thì sai lầm. Pháp của Phật chẳng phải là niệm, chẳng phải là vô niệm, chẳng phải chơn chẳng phải phi chơn, chẳng phải phân biệt cũng chẳng phải vô phân biệt, chẳng phải hư chẳng phải vọng, chẳng phải tà chẳng phải chánh, chẳng phải ác chẳng phải thiện, chẳng phải thế gian hay xuất thế gian, chẳng phải Niết Bàn hay phi Niết Bàn. Vì sao? Vì pháp của Phật vượt qua tầm hiểu biết của Trời, Người, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-Tát, La Hán, Pháp của Phật khó có thể đến được, vì pháp ấy là Y-Báo Chánh-Báo khó giữ gìn, khó tu hành, khó đạt thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Pháp của Phật là phi phàm phi thánh. Phàm phu không thể học được và Thánh Nhơn chẳng thể hiểu được. Pháp của Phật phi Thanh Văn, Duyên Giác và A La Hán, vì Thanh Văn không thể đến được, Duyên Giác không thể đạt được và A La Hán tuy dứt sanh tử nhưng chưa đầy đủ bổn nguyện độ sanh. Phật là vô độ mà độ tất cả, ở nơi chư Phật chẳng thấy có độ và không độ, hằng ở nơi Mật-Định an trụ vững chắc, chẳng theo sáu căn, sáu trần và sáu cảnh. Nội pháp đều xa lìa mà chẳng bị mất. Ở nơi pháp chẳng xa lìa mà xa lìa viên thành Mật Pháp Tâm Ấn Đà Ra Ni biến pháp giới thường trụ Tam-Bảo. - Này Thiện Nam Tử! Thiện Nữ Nhơn! Lúc Như Lai đang thọ bát tại rừng Ô-Ta, bấy giờ chư Thiên cõi Trời Đao Lợi tên là Đại Hạnh đến nhiễu quanh Như Lai ba vòng rồi hỏi ta rằng: - Thế Tôn! Hiện nay chúng con ở cõi Trời an hưởng khoái lạc chẳng nghĩ gì đến đạo đức tu hành, thân tâm lắm nỗi tham đắm ngu si. Chúng con có nhân duyên lành đến đây gặp lúc Phật thọ bát, chúng con có dịp cúng dường món ăn của cõi Trời và Phật đã thọ thí xong. Vậy chúng con xin hỏi Phật, ngài có thọ bát hay không thọ bát? Nếu có thọ bát là đồng với chúng sanh. Nếu không có thọ bát là đồng với gỗ đá. Chúng con là kẻ mê mờ trong Tam-Giới, xin Phật mở lòng từ bi thương xót chỉ dạy cho chúng con hiểu được chân lý mầu nhiệm của Phật. Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề mỉm cười nhìn ngài Đại Hạnh Chư Thiên rồi mở lời dạy rằng: - Này Thiên Đế! Các ngươi chớ nên nói rằng Như Lai đang thọ bát, có thọ bát và không thọ bát. Như Lai là bực ứng cúng Chánh Đẳng Chánh Giác an trụ và xuất nhập nơi Mật Định Đà Ra Ni không động không niệm. Như Lai đã xa lìa phiền nảo đến tận gốc rễ, không còn có dư nghiệp, biệt nghiệp, định nghiệp, ác nghiệp, cộng nghiệp, tiền nghiệp, trung nghiệp, hậu nghiệp, ngữ nghiệp, oán nghiệp, hiện tại nghiệp, quá khứ nghiệp, vị lai nghiệp, đẳng đẳng nghiệp v.v… các nghiệp như thế tính số lượng. Như Lai đã nhiều lần nhập diệt không muốn ở lại nhân gian. Các ngươi đã nhiều lần thỉnh cầu Như Lai, làm cho ta động mối từ tâm. Sao hôm nay các ông lại gạn hỏi Như Lai có thọ bát hay không thọ bát? Thân tướng của Như Lai mà các ông trông thấy đó chỉ là ảo ảnh. Ví như nhà đại Ảo-Sư làm ra pháp hội rộng lớn của chư Phật và xóa đi một cách dễ dàng không ai ngờ được thuật biến hóa thần bí ấy. Như Lai cũng lại như vậy, dù các ông có thấy thân tướng và hình bóng của Như Lai, nhưng trọn không thấy được chơn hạnh thật sự của Như Lai, trừ Phật với Phật mới hiểu biết nhau mà thôi. - Này Thiên Đế! Mười phương chư Phật chế ra pháp tam y nhứt bát tùy thân là khác hẳn với thế gian, và chế ra pháp tu hành giải thoát là thoát khỏi thế gian. Cách ăn uống, đi đứng nằm ngồi cũng không giống với phàm tục, các oai nghi khép kín gọn gàng. Khi ăn đều có tụng kinh chú nguyện, cầu nguyện và hồi hướng công đức cho khắp pháp giới chúng sanh hưởng sự lợi ích lớn, thì làm sao gọi là giống gỗ đá và giống chúng sanh được? - Này Thiên Đế! Như Lai là vô thọ, vì tất cả chúng sanh cầu khẩn pháp tu hành giải thoát khi ta sắp nhập Niết Bàn. Như Lai vì thương xót chúng sanh mà chẳng nhập diệt. Các ông thấy Như Lai đang thọ mà chẳng thấy chỗ vô thọ của Như Lai, nhưng các ông chẳng thấy chỗ vô thọ của Như Lai. Giả sử các ông thấy chỗ vô thọ của Như Lai, nhưng các ông chẳng thấy chỗ thọ của Như Lai. Ví như các ông dùng ngọn đèn đốt sáng lên trong đêm tăm tối, khi đèn còn cháy thời thấy cảnh vật rõ ràng, nhưng khi tắt đèn thời các ông không thấy cảnh vật nữa. Cũng vậy Pháp của Như Lai là tạng Bí Mật Đà Ra Ni thậm thâm vi diệu, là Y-Báo chánh báo không ai so bì được. Các ông không thể lấy vọng mà so với định, không thể lấy mê mà so với giác, không thể lấy ác mà so với thiện, không thể lấy cát mà so với vàng rồng, không thể lấy xích sắt mà so với trân châu, mã nảo v.v… Do lẽ này mà biết rằng chỗ thọ của Như Lai các ông còn chưa hiểu biết rõ ràng hà huống là chỗ vô thọ. - Này Thiên Đế! Như Lai chẳng phải vì vọng chấp mà nhiều lời giảng nói như thế. Như Lai thích im lặng nhẹ nhàng rãnh không giải thoát đại tự tại. Như Lai là đấng Thành Tựu Viên-Tịch là đấng Siêu Thiện Huệ, không tích chứa hữu hình và vô hình, chẳng tích chứa thiện ác, sanh tử thì làm gì có thọ và không thọ!? Như Lai thị tịch gọn gàng chẳng có chỗ chướng ngại. Như Lai đã từ lâu tu tập chơn hạnh Phật đà của giáo môn Mật-Tông không hề có niệm thối chuyển, chỗ tu tập ấy chẳng phải thiệt chẳng phải giả, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải đúng chẳng phải sai, chẳng phải nhất vị, chẳng phải hai tướng, chẳng phải tam thừa, chẳng phải tứ thiền cho đến cửu thứ đại định, chẳng phải tứ diệu đế hay bát thánh đạo phần, chẳng phải lục bộ Ba La Mật, chẳng phải thập nhị nhân duyên hay tứ hoằng thệ nguyện, chẳng phải lìa ba độc bỏ sáu căn ly Tam-Giới, chẳng phài theo chánh bỏ tà, chẳng phải mười tám cộng pháp hay sáu mươi hai pháp ngoại đạo v.v… Như Lai chẳng bị các món pháp này làm chướng ngại phân tâm. Như Lai chỉ phương tiện thực hành các pháp ấy cho đến khi thành tựu rồi xã bỏ nhẹ nhàng không luyến tiếc. Như Lai đã tu tập công hạnh Tối Chánh Giác như thế khó ai bì kịp chỗ vi mật nhiệm mầu lạ lùng như thế. Bấy giờ đức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 1. Nơi cõi Phật hằng sa Mười phương rộng bao la Chỗ Viễn-Tịnh bậc nhất Chư Phật vì thương xót Ở nơi nguyện Mật-Pháp Trí lực vạn năng thắng Mà thành tựu Phật quốc Vô lượng ức Câu chi Tán thán diệu công hạnh Đồng tiếng niệm thần chú Án sĩ lâm Bộ lâm Phật đảnh đại tâm ấn Xuyên suốt các Phật địa Âm thanh vượt hư không Các cõi trong Tam-Giới Đều rúng động êm dịu Chúng sanh cảm ứng được Khoan thay sức nhiệm mầu Cõi A-Tỳ, Địa Ngục Tự nhiên được siêu thoát Sức mạnh oai thần lực Nhập pháp giới thanh tịnh Ly cấu ly khổ hải Lìa thiện ác tham sân Thấy ly mà chẳng ly Thấy lìa mà chẳng lìa Vì đó là thật tướng Các tướng pháp như thế Chẳng ai phá hoại được Mười phương ba đời Phật Ở nơi Pháp tướng ấy Như lấy mắt nhìn ngang Mà chẳng cần nhìn lại Tự Tại thâm Mật-Pháp 2. Ta nay lược thuật nói Nghĩa giáo môn đệ nhất Các Bồ-Tát thượng thủ Giữ gìn bổn kinh này Y theo pháp tu tập Thuần thục đạo vô thượng Dùng gỗ hoặc chiên đàn Khắc tượng và trạm trỗ Khen ngợi cúng dường Phật Đèn, nến, hương hoa thảy Bông Mạn cùng Chiêm Bặt Đa La hoặc Khiết La Các loài hoa bực nhứt Mà cúng dường thân Phật Chiêm ngưỡng không chán mỏi Niệm niệm chí bền vững Vượt qua đường sanh tử Các ác Ma chận đánh Bồ-Tát chẳng nao núng Các cung tên giáo mác Xe ngựa cùng xe pháo Voi dữ rất hùng mạnh Lòng ác tánh tham ác Tâm giận lộ sân si Ganh ghét đạo Chánh Giác Quyết hại thân Bồ-Tát 3. Vì nghe lời Phật dạy Ta tu tập nhẫn nhục Mở rộng tâm từ lớn Nhiếp độ chúng cang cường Hàng phục đại hung dữ Mà tụng chú Chuẩn-Đề Thu phục tâm đại ác Các quân Ma hoảng sợ Tâm ác liền biến mất Sức mạnh Đại Pháp Vương Không lường muôn ức cõi Ta là cha muôn loại Biết được lòng đại chúng Kinh sợ tâm nhút nhát Nên diển nói kinh này Toái trừ đại ác nhơn Khiến đó được an ổn Tuy độ được chúng sanh Mà chẳng thấy thiệt độ Nếu độ tức hữu vi Trong cả hai điều đó Ta siêu vượt chánh định Mật-Tạng Đại Bí Pháp Vào các môn tam muội Vượt qua hàng đại thánh Thành bực Siêu-Thánh-Vương 4. Các Bồ-Tát chẳng biết Ta tu tập những gì? Thành tựu chỗ không thành Pháp không Nhất-Mật-Nghĩa Không thể luận không pháp Mà hiểu được chơn lý Hoặc dùng pháp không chấp Biểu lộ ý chơn như Cũng chưa hiểu được Phật 5. Chỗ chư Phật an trụ Thâm diệu và huyền bí Không thể suy diễn được Lúc ta làm Bồ-Tát Sức tinh tấn siêng tu Ngày đêm ít ngủ nghĩ An trụ nơi rừng vắng Tu hành pháp Mật Định Lặng lẽ cùng hư không Dạo chơi chỗ im lặng Ăn uống pháp hỉ thực Chẳng móng động theo trần Lướt mình vào vũ trụ Bỏ cuộc sống đáng yêu Tiêu diêu nơi thế giới Tự tại vào Niết Bàn Chơn thị tịch là vui 6. Chư Thiên Đại Tự Tại Thấy ta ngồi tu tập Sức mòn mỏi yếu đuối Y áo đều rách nát Thân thể như rũ liệt Ốm yếu xương lòi lên Hơi thở càng yếu dần Mà tưởng ta sẽ chết Dù thân thể yếu đuối Mạch máu như ngừng chảy Nhưng chẳng thể chết được Bởi sức mạnh Tổng-Trì Tối-Thắng đại thần chú Án ngữ Đà La Môn Bế quan các huyết mạch Dập tắt lửa địa ngục Thu phục đại tà tâm Dọn sạch các hình cụ Như vào chỗ không người Phiền nảo không chỗ trụ Lui tán ẩn núp hết Thân tâm vô động chuyển Bế huyệt, huyệt trống không Bế khí, khí chẳng tuyệt Bế thần, thần kinh phục Bế Quỉ, Quỉ lánh tà Bế Ma, Ma biến mất Các tam muội như thế Thuận nghịch khó lường được Trong mỗi một sát-na Trãi qua như số kiếp Hàng phục chư Ngoại-Đạo Nhẹ nhàng như mãi lông Chúng sanh quá nặng nghiệp Cang cường chẳng chịu tu Nên ta vào Niết Bàn Lòng chẳng chút do dự Bỏ lại thân củ mục Rời xa cuộc trần thế 7. Khổng Tước đến hại ta Mà cũng lại cầu ta Vì chúng sanh ngủ dục Độ tận không còn thừa Ta nhớ thuở quá khứ Chư Phật đại phương tiện Ngự trên đài Phật quốc Ẩn hiện đảnh Tỳ Lô Phát huy ánh sáng lớn Hiện vô số ức thân Sanh vào các thế giới Nhơ bẩn hoặc trang nghiêm Tùy theo lời bổn nguyện Hoặc già, trẻ, nam, nữ Hoặc chủ, tớ, quân, tôi Vua chúa cùng mỹ nữ Hoàng Hậu trong cung cấm Thị hiện các cõi Trời Đế Thiên cùng Đế Thích Đao Lợi, Tu Diệm Ma Tứ Thiên Vương, Phạm Chúng Phạm Phụ, Đại Phạm Phụ Mà trì tụng kinh này Tu tập đại Mật-Tạng Lưu bố giữa thế gian Tuyên thuyết nghĩa giải thoát Như tiếng rống Sư Tử Chúa tể của muôn loài Tất cả đều quy phục 8. Hỡi Nam Tử! Nữ Nhơn Như Lai Tịnh Vương Pháp Không ai so bì kịp Bực xuất thế Đạo sư Diệu tịch đại pháp mầu Chơn Tịch vô vi Pháp Huệ Tịch đại thánh thiện An định không nhàm mỏi Vững chắc như Tu Di Trong tất cả Mật-Định Thanh Văn cùng Duyên Giác Bồ-Tát, Đại Bồ-Tát Ngoại Đạo Thánh Chúng Tánh Thần Thánh chư Thiên Ma Dạ Xoa, Quỉ Bàn Trà Rắn độc cùng Bò Cạp Như Lai nơi chánh định An vui đại hỷ xã Rõ biết việc đời trước Như thấy cảnh hôm nay Y-Báo và Chánh Báo Đều ở nơi kinh này 9. Quang Minh bậc Tối-Phạm Soi rõ chốn trần nhơ Trí huệ đại Thiện Tịch Phá mờ chư ám chướng Cõi Phật tịnh vi diệu Soi sáng suốt đêm đen Sa số các Phật quốc Đồng danh hiệu Chuẩn-Đề Trong thế giới vi trần Siễng nhập hội thượng Phật Các tướng tốt chánh phụ Ẩn hiện ánh hào quang Bay thẳng vào hư không Hóa thành ngôi thất bảo Đài cao vững rộng lớn Đón mừng Phật Đại Nhựt Giáo chủ tạng Bí-mật Chủ trì nơi pháp hội Tuyên thuyết pháp Mật-Giáo Chuyển mạnh bánh xe pháp Mưa pháp vũ rộng lớn Đánh trống pháp cổ lớn Uy vũ rộng bốn phương Chúng sanh nghe vui mát Thân tâm được an ổn Xuất gia cầu giải thoát Bồ-Tát vâng pháp chỉ Mà lưu bố kinh nàygiới Khắp hằng sa thế giới 10. Bấy giờ nơi đảnh Phật Thu nhiếp các phân thân Rồi trở về bổn quốc Trong đại chúng Bồ-Tát Thanh Văn cùng Duyên Giác Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di Bát bộ Kim Cang Thần Thấy việc chưa từng có Tán thán Đại Chuẩn-Đề Thành tựu chơn Mật Pháp Diễn rộng nghĩa đại thừa Lật ngược tâm nghi kỵ Chủ động diệu pháp môn Phá hoại những tà kiến Kiến chấp hoặc mê chấp Nội chấp, ngoại chấp thảy Ngoại đạo đều kinh sợ Khiến tất cả đại chúng Ngưỡng mộ nơi kinh này Oai đức vô cùng cực Không lấy gì so sánh Sức trang nghiêm đại độ Duyên theo các căn tánh Hóa độ chư chúng sanh Thành Vô Thượng Bồ-Đề. Nam mô Chuẩn-Đề Hội thượng Phật Bồ-Tát (3 lần) KINH CHUẨN ĐỀ BỔN TÔN Quyển thứ VII Phật Chuẩn-Đề vì Bồ-Tát Kim Cang, chỉ nguồn gốc loài người ai Thủy Tổ? Nói Mật Nghĩa bày phô đường chơn lý, dạy đạo mầu phá hoại cả hai bên. Trong đại chúng nghi ngờ câu thần chú. Phật vì đó nói chỗ thọ cùng không thọ. Nam mô Thường Trú Thập Phương Phật Nam mô Thường Trú Thập Phương Pháp Nam mô Thường Trú Thập Phương Tăng Nam mô Chuẩn-Đề Vương Phật (3 lần) (Hết phẩm thứ mười lăm)
|
|
 |
Tới chuyên mục Tới chủ đề |
minhthien |
Đã gửi: Thứ 5 24/11/11 12:51
|
|
|
KINH CHUẨN ĐỀ BẢN TÔN QUYỂN THỨ VI MẬT SƯ: THÍCH GIÁC TIẾN - THIỀN NHÂN TẾ ĐỘ TỲ KHEO DIÊM ĐÊ RA PHẨM THỨ MƯỜI MỘT Lúc bấy giờ Phật Mẫu Chuẩn Đề cùng với bốn bộ chúng an trú trong Mật Định Tam Muội Tổng Trì vào lúc giữa đêm. Tỳ Kheo Diêm Đê Ra thân thể đầy máu, các vết thương trên người ông quá nặng té xuống ngất xỉu giữa pháp hội. Ngài Chiết Độc Hành Giả đỡ Tỳ Kheo Diêm Đê Ra, rồi dùng sức thần thông phương tiện thu hết máu độc và truyền vào người ông một luồng dương khí cực thịnh khiến cho ông lần hồi tỉnh lại. Tỳ Kheo Diêm Đê Ra thấy thân mình chẳng có một chút máu thì vô cùng kinh ngạc. Đức Phật Mẫu Chuẩn Đề dạy rằng: - Ông nên tạ ơn ngài Chiết Độc Hành Giả, vừa rồi người đã cứu ông thoát khỏi tai nạn hiểm nghèo ấy. Tỳ Kheo Diêm Đê Ra quỳ lạy Chiết Độc Hành Giả rồi bạch cùng đức Phật rằng: - Kính bạch đấng Thánh Huệ Thế Tôn! Con là người vô trí, vì nghe lời Tỳ Kheo Sim Sum Pa nên đã gây ra vô lượng tội ác. Hôm nay con quỳ trước Thế Tôn và đại chúng cầu xin sám hối, sau là cầu Phật dùng hình phạt để nghiêm trị kẻ tội đồ. Rất mong Phật vì đệ tử chúng con mà chỉ dạy cho phương pháp tu hành thoát khỏi sự trằn trọc khổ đau trong kiếp sống hiện tại. Phật Mẫu Chuẩn Đề ôn tồn dạy bảo: - Này Tỳ Kheo Diêm Đê Ra! Trước kia ông ở trong pháp hội của Như Lai, Như Lai đã vì ông chỉ dạy cho những thiện pháp. Sau khi ông rời khỏi pháp hội để làm những ác nghiệp, nhưng thân tâm ông không chịu làm. Hôm nay ông trở về đây chính là để cầu thiện pháp vi diệu của Như Lai. - Này Tỳ Kheo Diêm Đê Ra! Trước, sau và hôm nay ba thời này cũng không có gì thay đổi. Tại sao ông cầu Như Lai làm pháp nghiêm trị. Như Lai đã sẵn lòng đại bi thương xót chúng sanh như con một. Như Lai là chổ nương nhờ rộng lớn không có gì sánh kịp. Như Lai hay cứu hộ tất cả chúng sinh không chán mỏi. Như Lai ví như vị Đại Lương Y gỡ mũi tên độc tham, sân, si cho chúng sinh mà chẳng bao giờ nghĩ đến công lao. Như Lai hay ban pháp vô úy giải thoát Cam Lộ cho chúng sinh được giải thoát. Như Lai hay đánh thức cơn mê mờ của chúng sinh từ nay đến vô lượng ức kiếp. Như Lai là bậc đạo sư của cả thảy chúng sinh ứng cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Như Lai đã bỏ tất cả những món đồ chơi hung hiểm của Thế Gian. Như Lai đã dứt trừ tất cả những tư tưởng điên đảo, thù oán, ganh ghét, khôn ngu, tỵ hiềm, trách móc, đua đòi, thắng bại, phải trái v.v… Như Lai đã thành tựu những pháp khó tu khó học mà Trời Người không làm được. Thế gian hết sức ca ngợi, tôn trọng cúng dường, tán thán kinh Chuẩn Đề Đệ Nhất Bản-Tôn này. Kinh này là tạng báu trong các kinh, được chư Phật mười phương ủng hộ và phân thân đến nghe pháp. Nếu chỗ nào có ánh sáng của Viên Minh Bố Liệt Phạn Thư Đồ phải biết chổ đó có phân thân của chư phật mười phương. Chư Bồ-Tát thường bảo vệ đó, ủng hộ giúp sức cho người trì tụng kinh này được đầy đủ bản nguyện công đức. Nếu có pháp sư diễn nói kinh này có chỗ bị quên mất, chư Phật vì kinh này khiến cho vị pháp sư ấy được lưu thông giảng nghĩa đầy đủ, pháp âm thâm diệu. Chúng sinh nghe pháp vui ưa phát tâm tu tập theo con đường chân lý của Giáo Môn Mật Tông. Cõi hư không đại địa do sức thâm nhập thần chú đại Tổng Trì Chuẩn-Đề Tối Thắng Tôn Đà Ra Ni này, khiến cho vạn vật đều sinh mầm phước thiện hoan hỷ. Bông hoa cây trái xanh tươi, cỏ nước, vườn, rừng, ao tắm, đất đai, núi non, sông, biển tự nhiên phát sinh vật báu và các bậc Thượng Sĩ Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Các loài sinh vật trở nên hiền hậu thuần hóa dứt sự khủng bố của các loài mạnh mẽ hơn nó. Cõi đất muôn hoa đua nở, cung điện, lâu đài bỗng nhiên xuất hiện. Quốc độ tự trang nghiêm và thấy các Phật quốc cũng lại như thế. Trong gió hư không lại có tiếng vang vi diệu như ngàn nhạc âm, khiến cho thân tâm của chúng sinh tín ngưỡng tu hành, lễ bái, trì niệm đắc nhập các môn tam muội. Đó là do sức mạnh thuần hậu của Như Lai đã trải qua vô lượng thế giới thành tựu pháp môn Bí-Mật Bản Tôn Chuẩn Đề Đà Ra Ni chú: Khể thủ qui-y Tô Tất Đế Đầu diện đãnh lễ Thất Câu Chi Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn-Đề Duy nguyện từ bi thùy gia hộ Nammô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đề câu chi nẫm đát điệt tha. Án chiết lệ chủ Lệ Chuẩn-Đề Ta bà ha. Bấy giờ phật Mẫu Chuẩn-Đề muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 1. Đấng Siêu Thắng Tự Tại Bi, Nguyện vượt thế gian Trong nghìn muôn ức cõi Ta bỏ công khổ nhọc Quên cả sự chết chóc Mà tu tập kinh này Dùng mãnh lực thiện pháp Hóa giải các triền phược 2. Như Lai Chân Mật Giác Tính thể rất kinh lạ Xưa nay chưa từng có Mở nhẹ tạng Bí-Yếu Chuyển động bánh xe pháp Rung động đến mười phương Luân chuyển rất êm dịu Làm vui đẹp lòng chúng Dạo đi khắp cõi nước Sáu điệu đều vang động Danh đồn, tiếng khen thảy Bậc nhất của ba cõi Thầy dạy khắp Trời, Người Thành tựu chân Mật Pháp Món Bí-Pháp Tam Muội Ẩn sâu niệm Tổng Trì Đà la đại thần chú Tóm thâu Tối Mật Môn Pháp nghĩa rộng diễn nói Trước sau, thượng trung hạ Lời lẽ rất trong sáng Nhiếp phục lòng chúng sinh Đạo đức được hưng thịnh Phát huy đường chánh giác Tứ chúng đều hoan hỷ Nương theo Phật Pháp Tạng Thủ trì giới, định, huệ Xa lìa sự chơi cười Im lặng tâm bền bỉ Lúc động tâm, tịnh tâm Hoặc động hoặc thanh tịnh Oai nghi là cấm giới Tính lặng như hư không Ít nói lòng an ổn Nghiệp thức liền chấm dứt 3. Đấng Đạo Sư Đẳng Huệ Diễn nói bốn nghĩa đế Dạy chúng sinh vào đạo Đoạn lìa cả hai bên Thiện ác đã thuần thục Mà nhân quả chẳng sinh Ta nói pháp xuất thế Thành vô thượng Bồ Đề Bấy giờ Tỳ Kheo Diêm Đê Ra lại bạch Phật rằng: - Thế Tôn! Cớ sao ngài không tổ chức ra Giáo Hội để cho việc tu hành được mở mang rộng lớn hơn. Thế Tôn lại để cho Tỳ Kheo Sim Sum Pa thành lập Giáo Hội dùng nhiều thế lực nguy hiểm hãm hại đức Thế Tôn như thế. Cúi mong Phật từ bi rộng lớn chỉ dạy cho hàng hậu học chúng con những pháp chưa hiểu biết được sáng tỏ thuần thục. Phật Mẫu Chuẩn-Đề mĩm cười chỉ dạy cho ông Tỳ Kheo Diêm Đê Ra rằng: - Này các Tỳ Kheo! Các ông chớ nên nói rằng Như Lai đã sáng lập ra Giáo Hội Du Già để cho bực hiền thánh chê ta là người vô trí tham danh cầu thực. Cái danh ấy chỉ để cho người đời ca tụng. Còn việc tu hành của Như Lai không cần ai biết đến, có như vậy pháp tu của Như Lai mới được tồn tại nơi thế gian. Các ông chớ nên nói Như Lai dùng hình luật để nghiêm trị kẻ tội đồ như ông. Như Lai đã tự nghiêm trị nơi bản thân mình rất khắc nghiệt, và đã bỏ thân mạng để cầu chính pháp. Vào thời Hiền Kiếp, ta đã vì người cần ánh sáng mà hiến cho đôi mắt, đã vì người cần thịt mà cắt bỏ thân mình, đã vì hổ đói mà thí thân, đã vì cha mẹ mà lấy máu trị bệnh cho song đường, đã vì vua mà chết thế cho bực minh quân v.v… Đó là những việc làm hiếm có khó được mà trong thế gian Trời, Người, Rồng, A Tu La, Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh không ai làm được. - Này các Tỳ Kheo! Không phải ở trong hiền kiếp Như Lai mới làm việc bố thí thân mạng, mà thực sự Như Lai đã bỏ thân trải qua ba A Tăng Kỳ Kiếp trong vô số kiếp làm những việ khó làm, tu những pháp khó tu như thế. Vì vậy Như Lai tuyên bố giữa pháp hội rằng: Như Lai chẳng có tổ chức Giáo-Hội để nghiêm trị kẻ tội đồ. Như Lai là đấng Chánh Giác hay giác ngộ cho kẻ lỗi lầm biết con đường tu hành giải thoát. Như Lai không bị trói buộc bởi tính hiếu kỳ của Thế gian và Xuất Thế gian. Như Lai không bị sự phân biệt làm ô nhiễm và cũng chẳng bị pháp vô phân biệt làm nhiễu loạn. Như Lai là bậc Tịnh Trụ Đà Ra Ni thành tựu đầy đủ Mật Giáo môn tam muội ở nơi pháp nhất nghĩa, nhất cú, nhất môn, nhất pháp, nhất âm, nhất trụ, nhất tướng, nhất vị v.v… tiến thẳng đến quả vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ông Tỳ Kheo Diêm Đê Ra nghe lời Phật dạy, sinh lòng Hoan Hỷ Đà Ra Ni, tâm lành nẩy nở, sức cung kính và tinh tấn vượt lên làm cho ngài phát tâm đại Bồ-Đề thọ trì thần chú Chuẩn Đề theo đúng con đường tu tập của giáo môn Mật Tông. Ông Tỳ Kheo Diêm Đê Ra lại bạch Phật rằng: - Thế Tôn! Chúng con đã bị mũi tên sinh tử ghim chặt vào người rất là sâu nặng, vết thương bị nhiễm độc trải qua vô lượng kiếp khó bề chữa trị. Rất may mắn thay có đấng Đại Pháp Vương sáng chế thuốc lành chữa tâm bệnh cho chúng con. Hôm nay con nghe lời Phật chỉ dạy khiến cho tội lỗi biến mất, thân tâm an ổn dường như nhổ được mũi tên sinh tử của nhiều đời nhiều kiếp đã qua. - Thế Tôn! Rất mong người từ bi chỉ dạy cho chúng con biết cái lỗi của sinh tử, và nguyên nhân nào sinh ra vô minh. Ngưỡng mong Thế Tôn chỉ dạy cho chúng con phương pháp nào sống trong vô minh mà chẳng bị vô minh lôi cuốn, và phương pháp nào sống trong sinh tử khổ đau mà thân tâm chẳng bị trói buộc? Phật Mẫu Chuẩn Đề mĩm cười ôn tồn chỉ dạy: - Này các Tỳ Kheo! Cái lỗi của sinh tử từ xưa đến nay chẳng bao giờ có. Sở dĩ mà có là bởi tập nhiễm theo tính xấu của Thế gian. Các Tỳ Kheo hãy quan sát quá trình sống của con người từ khi còn tấm bé sinh ra lớn dần đến mười ba tuổi, trong tuổi ấu thơ nó chẳng biết tạo tội là gì và thiện ác là gì? Này các Tỳ Kheo? Khi nó ở tuổi mười bảy cho đến già, do tập nhiễm thói quen xấu của thế gian nên cái lỗi sinh tử từ đó mà sinh ra. Nếu có người trí thiện căn đầy đủ thấy rõ ác tâm ưa phát sinh nơi bản tính thanh tịnh của mình, lòng muốn xa lìa tìm Thiện Trí Thức xuất gia tu theo đại đạo. - Này các Tỳ Kheo! Tội lỗi có hai thứ: một là nặng hai là nhẹ. Những kẻ làm ác biết sợ quả báo hay lo tu hành đoạn trừ nghiệp lậu gọi là tội nhẹ. Những kẻ làm ác, chuyên chủ phá hoại Tam Bảo, ăn cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, giết người lòng chẳng sợ sệt gọi là tội nặng. - Này các Tỳ Kheo! Những người làm lành có hai hạng: một là làm lành mà tâm chẳng lành, làm tốt mà tâm chẳng tốt, cử chỉ nghiêm trang mà tâm bất hiếu bất kính. Giới luật tinh thông mà tâm hay tạo tội lỗi gọi là tội nặng. Hai là những người làm lành thấy rõ tội lỗi của phiền não lòng muốn xa lìa, theo đường thiện đạo, phát khởi phương tiện tầm tu giải thoát, gần gũi bạn lành, theo chân Thiện Tri Thức rèn luyện ý chí phá hoại ác Ma thu phục phiền não gọi là tội nhẹ. Người này học hỏi biết được các món Ma: Phiền não Ma, Ám Ma, Độn Ma, Trừng Ma, Khảo Ma, Cảnh Ma, Dục Ma, Si Ma, Bạo Ma, Tham Ma, Ảo Ma, Cảm Xúc Ma, Thọ Ma, Tưởng Ma, Ngũ ấm Ma, Nghịch Ý Ma, Thuận Ma, Thiên Ma, Chướng Ma, Nhu Nhược Ma, Dụ Dỗ Ma, Âm Thanh Ma, Ru Ngủ Ma, Hắc Ám Ma, Vương Giả Ma, Vật Báu Ma, Thúc Dục Ma, Chiêu Cảm Ma, và vô lượng các món Ma khác nhau rất khó phân biệt. Các thứ Ma như thế rất đa dạng hay làm mất công hạnh của những hàng Thanh Văn, Duyên Giác mới tu mới học rất dễ dàng. Các Tỳ Kheo nên quan sát cho thấu đáo phiền não ác tâm cho thật chín chắn để khỏi lầm lẫn với bọn Ma Quân trong một đường tơ kẻ tóc, mà mỗi người tu hành đều phải hiểu rõ điểm này. Đây gọi là sống trong sinh tử mà chằng bị sinh tử làm hại, sống trong vô minh mà chẳng bị vô minh lôi cuốn. Bấy giờ Đức Phật muốn tóm lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 1. Đức Phật thuở quá khứ Cùng vị lai hiện tại Đều nương theo Mật Pháp Thành tựu Đại Tổng Trì Mật chủ Án Ma Pháp Nhập vào Vô Gián Môn Khởi sức đại dũng mãnh Tu hành nơi số kiếp Không chuyển chẳng thay đổi Lòng kiên cố bền vững Như ngọn Tu Di Sơn Các phiền não nhiễu loạn Như số bụi vi trần Đến đi trong chốc lát Không hại và vô hại Nhờ tu tập kinh này Thẩm sâu nơi Mật Định Xác xuất các Tam Muội Chuyển vời Ác Ma Pháp Xóa đêm tối vô minh Mà chẳng ai hay biết Bằng hành động thực tế Đắp y và mang bát Cử chỉ nhẹ êm dịu Im lặng ít nói năng Dường như vào đại định 2. Hạnh Bồ Tát bất thóai Trải qua vô số kiếp Trồng các cội công đức Như số bụi vi trần Thời gian thoáng qua mau Xem như đang dừng lại Tịch tĩnh lòng thanh thoát Chẳng động cũng chẳng chuyển Chẳng được cũng chẳng mất Chẳng có cũng chẳng không Phải trái chẳng vin động Chiều hướng chẳng có tên Bí quyết khó lường được Tạo thành chân Mật-Pháp Phiền não tuy thịnh hành Thoáng chốc hóa thành không Tuy không mà lại có Bổn phận của phiền não Gieo chủng tử ác khổ Trải qua sa số kiếp Ở từ đời vô thủy Không có chỗ ngừng nghỉ 3. Do đó Phật phương tiện Dùng sức Siêu Mật Pháp Trãi qua ức tăng kỳ Nơi vô lượng số kiếp Hàng phục chúng Ma quân Thành ra là đạo bạn Pháp nghịch chuyển thành thuận Niệm ác quy niệm thiện Đảo lộn pháp Thế gian Phật chế Y Ca Sa Viên thành pháp xuất thế Từ bi vô chướng ngại Ăn uống khác phàm phu Đi đứng rất chậm rãi Chẳng ngó liếc phi thời Mà ngó vào tâm tính Xa lìa các sắc dục Ngồi thiền hoặc kinh hành Không có chỗ gián đoạn Đời sống rất giản dị Tam y và nhất bát Tùy thân đi bốn phương Gieo duyên cùng khai đạo Tịnh tu các phạm hạnh Thanh tịnh phát trí huệ 4. Bồ Tát hành như thế Mà chẳng thấy đạo hành Bồ Tát tu như thế Mà chẳng thấy pháp tu Dường như trụ hư không Chẳng mến tiếc vật, pháp Chẳng vin động tưởng niệm Xa lìa nội ngoại pháp Gọn nhẹ chẳng chấp chặt Tâm rỗng lặng hồn nhiên Bỏ mục đích Tối-Thượng Thành chính đẳng chánh giác Nên gọi đó là Phật Trang nghiêm cả quốc độ Khiến Trời, Người thức tỉnh Đến cúng dường nghe pháp Rải hoa hoặc xông hương Dùng các cách trang điểm Ngợi khen cùng tán thán Những công hạnh khó làm Qui-y giữ tịnh giới Vâng hành các phạm hạnh Đèn nến đốt cúng dường Trái cây cùng hoa quả Cúng Phật Hiền Thánh Tăng 5. Kinh Phật Mẫu Chuẩn-Đề Đứng đầu trong các kinh Sức mạnh đại tự tại Oai đức vô cùng cực Khó nói khó nghĩ bàn Diệu linh ứng tùy chỗ Lúc ta thành Phật đạo Quán sát các chúng sinh Căn cơ quá thấp kém Chẳng phải chỗ truyền thừa Nên đem pháp giáo hóa Mật truyền cho Bồ-Tát Giữ gìn bản kinh này Lưu bố khắp mười phương Chỗ của Phật Vô-Động Hoặc nơi cõi Ta Bà Thích Ca Mâu Ni Phật Trợ pháp rất mạnh mẽ Được chúng sinh ưa chuộng Tu tập càng tinh tấn Đắc nhập các tam-muội Thành vô thượng Bồ-Đề. Khi Phật Mẫu Chuẩn Đề thuyết xong bài kệ pháp, ngài im lặng vào bản tính Chân Như Đà Ra Ni của Tối Đại Minh chú, an trụ mạnh mẽ như Tu Di Sơn. Bồ-Tát Kim Cang Mật Tích cùng các chúng Bồ-Tát, A La Hán trong pháp hội sinh lòng cung kính, nhiễu Phật ba vòng cúng dường tán thán đủ mọi cách. Sáu ngàn Thánh Chúng Bồ-Tát được Pháp Luân thường chuyển Đà Ra Ni. Các bậc đại A-La-Hán được pháp Vô Sinh Nhẫn Đà Ra Ni. Năm vạn thính giả phát Bồ-Đề tâm ủng hộ chính pháp. Pháp Hội Chư Phật, Bồ-Tát, Hiền Thánh Tăng được chư thiên, Nhân rải hoa cúng dường, tất cả đều hoan hỷ tín thọ phụng hành. Nam mô Chuẩn-Đề Hội Thượng Phật Bồ-Tát (3 lần)
(Hết phẩm thứ mười một)
|
|
 |
|